Sunday, March 8, 2009

TRẦN NHU * HỒ CHÍ MINH




LỜI GIỚI THIỆU CỦA VẠN MỘC CƯ SĨ:


Tài liệu này không có gì mới lạ. Có lẽ Vũ Thu Hiên đã đề cập sớm nhất trong "Đêm Giữa Ban Ngày"về Nông Thị Xuân. Toàn bộ cộng sản là gian manh xảo quyệt. Càng ngày dân Việt Nam đã thấy mặt thật của cộng sản bán nước hại dân.



Nhà Sàn Hồ Chí Minh
• Trần Nhu


Tòa nhà đồ sộ, kiến trúc theo kiểu mẫu Tây Phương, tuy hơi xưa nhưng đẹp và uy nghi nhất Thủ đô Hà Nội. Nó đã trải qua bao nhiêu năm binh biến... mà vẫn còn giữ được nguyên vẹn. Ðó là dinh Bắc bộ phủ cũ, sau là dinh Thủ Hiến Bắc phần, đến biến cố Hiệp Ðịnh Genève năm 1954 nó trở thành phủ Chủ tịch. Thời Pháp thuộc ngôi nhà này mang biển số 12 phố Ngô Quyền, nội thành Hà Nội.

Trong khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch có một ngôi nhà sàn mới của ông vua vô sản.

Nghe chữ “nhà sàn”, người ta thường liên tưởng đến những ngôi nhà sàn của các dân tộc thiểu số ở miền núi, làm bằng gỗ, cách mặt đất khoảng trên 1m, phía dưới dùng để cất giữ dụng cụ hay nhốt gia súc. Những ngôi nhà sàn này rất đơn sơ, mộc mạc, giản dị. Ấn tượng giản dị khiến người ta lầm tưởng rằng ngôi nhà sàn của Hồ chí Minh có lẽ cũng thế.

Thật là một sự giản dị “mẫu mực” tuyệt đẹp, rất đáng triển lãm để dân chúng ngưỡng mộ. Thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Những du khách đã từng viếng thăm ngôi nhà sàn của Hồ chí Minh, sẽ có cảm nghĩ khác hẳn... Và tôi cũng muốn mời các bạn đọc cùng tôi làm một cuộc du ngoạn. Từ phòng lớn khánh tiết dinh Chủ tịch, theo hành lang ra phía sân sau. Có một con đường đẹp rải sỏi trắng phau, hai bên trồng xoài, dẫn tới một ngôi nhà sàn, giữa những vòm cây. Hàng rào dâm bụt bao quanh nhà.


Cổng vào kết bằng cành cây đan xen nhau mang phong vị dân giã. Hai cây dừa giống quí mua từ Thái Lan đem về trồng tỏa bóng mát xanh rờn. Cảnh những khóm nhài, tầm xuân từ mảnh vườn trước cửa thoang thoảng hương thơm. Sau nhà sàn là vườn quả. Cây vú sữa đem từ miền Nam ra cành lá sum xuê đứng giữa những hàng cam Hải Hưng trĩu quả vàng tươi và hàng trăm loại cây quí thuộc trên bốn mươi họ thực vật do các Bộ Nông Nghiệp, Bộ Lâm Nghiệp và các địa phương trong nước đưa về trồng. Có nhiều cây đặc sản nổi tiếng như Bưởi Phúc Trạch, Thanh Hóa, Biên Hòa, Mê Linh. Cam Xuân Mai, Vân Du, Xã Ðoài, Sông Con; Quít Hương Cầm, Lý Nhân; Táo Thiện Phiến, Ngọc Hồ; Sông Mai, Ðông Mỹ; Hồng Tiên Ðiều chiết từ cây hồng của quê hương thi hào Nguyễn Du...

Ngoài ra còn có cả những loại cây hiếm quí mua từ nước ngoài như 11 cây ngâu hoa trồng cạnh nhà sàn, 5 cây bụt mọc quanh ao, 36 loài cau khác nhau, cây tre bụng phật v.v...

Tầng dưới nhà sàn được lát bằng loại gỗ quí đánh bóng sáng như gương, trong phòng lớn 12 chiếc ghế tựa xếp quanh chiếc bàn rộng, góc nhà có 4 máy điện thoại đặt trên bàn nhỏ. Cạnh đó còn úp chiếc mũ sắt bộ đội thời kỳ Mỹ bắn phá miền Bắc, dưới lòng đất có một hầm xây kiên cố (cũng tại phòng này năm 1958, Hồ chí Minh triệu các ủy viên Bộ Chính trị đến họp để quyết định dâng hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Cộng, thời kỳ này họ Hồ kiêm luôn 3 chức vụ quan trọng: Chủ tịch Ðảng, Tổng bí thư, Chủ tịch nhà nước. Trường Chinh phải từ chức TBT sau CCRÐ đến ngày 10/9/1960 đại hội Ðảng Lao động Việt Nam (tức Ðảng CS) mới bầu Lê Duẩn làm TBT thứ nhất).

Trở lại câu chuyện nhà sàn từ tầng dưới có cầu thang lên gác có chiếc chuông nhỏ để báo cho HCM biết có khách đến thăm tầng trên lầu có hai phòng chính làm bằng gỗ trắc, ướp xạ hương, đánh bóng nhẵn như ngà. Nơi ông thường hành lạc với các cô gái miền núi, và các con cháu liệt sĩ Miền Nam tập kết ra Bắc. Chọn những cháu xinh đẹp vào múa hát. Thật vinh dự cho các linh hồn tử sĩ...

Từ nhà sàn nhìn ra ao cá, nghe tiếng vỗ tay là cá kéo lên đớp mồi; xôn xao cả một góc ao. Hàng mấy chục loài hoa phong lan đẹp như quế lan hương, phi diệp, da báo, tai trâu, vây rồng được ghép lên những cây bàng nở hoa quanh năm bên bờ ao.

Nhà sàn nơi hành lạc của ông vua vô sản là một sáng kiến lạ lùng, không giống ai nhưng nếu được kinh doanh trong thời kỳ kinh tế đổi mới thì lợi nhuận rất cao nên làm thí điểm ở Hà Nội và Sài Gòn.

Về chuyện làm nhà sàn cũng có nguyên nhân sâu xa tiềm ẩn. Ðó là những kỷ niệm hành lạc của Hồ chí Minh với các cô gái miền núi. Hồi ấy Trần Ðăng Ninh một công thần trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở vùng rừng núi Bắc Bộ đã có công săn tìm được nhiều cô gái Thái xinh đẹp mê hồn bên dòng suối Nạn Cỏ, hay bên con thác Cà Nàng ở Quỳnh Nhai (Sơn La) để cho Hồ Chí Minh hành lạc ở nhà sàn. Ðến khi về tiếp quản Hà Nội. Ông có sáng kiến làm ngôi nhà sàn và lệnh cho các cận thần tìm gái miền núi để ông hành lạc cho đúng hương vị.

Năm 1952, Trần Ðăng Ninh lúc bấy giờ làm Tổng cục Hậu cần cho nhân viên đi khắp các tỉnh miền núi để tuyển chọn các cô gái xinh đẹp. Họ đã phát hiện ra nàng Xuân, một cô gái Mường tuyệt đẹp, “mấy lần Ninh đích thân đến gặp cô, cuối năm 1954, thì đem xe đến đón cô Xuân về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ.” (dẫn trong thơ tuyệt mệnh của vợ chồng Nguyễn thị Vàng.)

Nhân đây tác giả cũng muốn nói qua về nhân vật Trần đăng Ninh, kẻ được coi là cận thần của họ Hồ từ buổi ban đầu. Chính y đã theo lệnh của Hồ Chí Minh rước các đoàn cố vấn Trung Quốc vào dày xéo đất nước ta từ năm 1950. Trong cuốn “Ðại tướng Võ Nguyên Giáp-Tổng tập hồi ký” do nhà xuất bản Quân Ðội Nhân Dân ấn hành đầu năm 2004. Nơi trang 629 tướng Giáp viết: “Anh Trần Ðăng Ninh chuẩn bị sang Quảng Tây đón Ðoàn cố vấn quân sự Trung Quốc.

Tôi yêu cầu anh Hoàng văn Thái tổ chức gấp cho mình đi trinh sát vị trí Cao Bằng...

Trang 636 viết: “Ngày 12 tháng 8, anh Trần Ðăng Ninh sang Quảng Tây đã trở về cùng với Ðoàn cố vấn quân sự Trung Quốc. Ðoàn gồm có các đồng chí Vi Quốc Thanh, Mai Gia Sinh, Ðặng Viết Phàm... đã có mặt ở Tả Phày Tử. Ðồng chí Vi Quốc Thanh trưởng đoàn, bắt đầu cuộc gặp các chuyên gia Trung Quốc đã sang trước cùng với cán bộ Ðại đoàn 308 để nắm tình hình...”

Nơi trang 640 Giáp viết:

“Buổi tối, Bác và tôi đi đến gặp đồng chí Trần Canh.
Ðồng chí Trần từ Vân Nam đi thẳng sang đây đã tới Tả Phày Tử, trong khi chờ gặp, Bác đã tranh thủ thời gian làm việc với Ðoàn cố vấn, về danh nghĩa đồng chí Trần là khách mời của Bác”.

Ðọc đoạn hồi ký của tướng Võ Nguyên Giáp. Chúng ta thấy rõ Hồ Chí Minh và những kẻ lãnh đạo ÐCSVN tất cả chỉ là một lũ tay sai thấp hèn, không có một chút tư cách, phẩm chất tối thiểu của một người lãnh đạo quốc gia. Ðường đường là một vị nguyên thủ quốc gia, Chủ tịch nhà nước và nhân vật đứng hàng đầu quân đội là một vị Đại tướng Tổng Chỉ Huy quân đội của cả một nước mà khi biết tin đoàn cố vấn Trung Quốc vừa mới sang, thế mà ngay buổi tối hôm đó cả Chủ Tịch Nhà Nước lẫn Tổng Chỉ Huy quân đội Việt Nam đã dẫn nhau đến chầu chực để được gặp viên tướng Trần Canh. Thấy có nhục nhã không?! Nhẽ ra, họ phải đến xin gặp mình, đằng này ngược lại đi chầu chực để xin gặp họ!

Ðọc sử nước nhà, ta thấy bọn Lê Chiêu Thống chỉ trông chờ vào quân đội nhà Thanh sang cứu viện. Bọn Lê Quýnh đưa Thái Hậu và Hoàng Gia sang Quảng Tây xin gặp Tuần Phủ Tôn Vĩnh Thanh. Thái Hậu xin với quân nhà Thanh giúp đỡ. Tâu xin vua Thanh cử binh sang đánh quân Tây Sơn. Tổng Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị bàn với liêu thuộc, nước Nam xưa thuộc Hán, Ðường... Nay thời thế đổi thay người nước họ không giữ nổi. Ðây là cơ hội tốt cho ta chiếm lấy làm quận huyện...

Ngay khi quân Tầu vừa đột nhập nước ta. Chiêu Thống đã sai người lên biên giới đón. Tôn Sĩ Nghị đến Kinh Bắc, Chiêu Thống đến chào mừng, rồi đi theo quân Thanh. Ngày 20 tháng 11 Âm lịch năm 1788, Tôn Sĩ Nghị đem Chiêu Thống vào thành Thăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn ở giữa mé Nam sông Hồng, bắc cầu phao giữa sông để tiện đi lại và chia quân ra đóng giữ các nơi.

Chiêu Thống mời Nghị vào đóng ở điện Kinh Thiên. Sĩ Nghị cho rằng nơi đó bất tiện cho việc hành binh... Chiêu Thống hàng ngày đến dinh Nghị chầu chực tâu việc cơ mật quân quốc.

Lịch sử Việt Nam và lịch sử nước Tầu cứ diễn đi diễn lại cái trò cầu viện, mà lần cầu viện nào cũng bị lợi dụng. Từ năm 1950 đến năm 1954 Hồ Chí Minh mang danh Chủ tịch Nhà Nước VNDCCH bốn lần sang Bắc Kinh xin cầu viện, lần thứ nhất đến Bắc Kinh vào ngày 31 tháng 1 năm 1950, rồi qua Moscow, lần thứ hai Hồ chí Minh đến Nam Ninh ngày mồng 5 tháng 2 năm 1951, lần thứ ba đến Bắc Kinh năm 1952, lần thứ tư đến Liễu Châu gặp Chu Ân Lai, nói là để họp, nhưng thực chất là Chu Ân Lai ra lệnh cho họ Hồ ký hiệp định Genève.

Trong Tổng tập hồi ký của Võ Nguyên Giáp mô tả: “Đầu năm 1950, Bác ra nước ngoài. Từ lâu Bác đã là một cán bộ của quốc tế Cộng Sản. Trong quá trình hoạt động, Bác luôn luôn gắn bó với phong trào và cơ quan lãnh đạo. Đây là chuyến đi bí mật... về danh nghĩa, đây là phái đoàn của Trung Ương đảng ta qua gặp đảng Cộng Sản Trung Quốc. Dọc đường đi khi quan hệ với địa phương, anh Trần Đăng Ninh đóng vai trưởng đoàn. “Bác tới Bắc Kinh chỉ gặp và làm việc với các đồng chí Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Chu Ðức, Mao Trạch Ðông đã qua Liên Xô trước đó một thời gian. Các đồng chí Trung Quốc nói Bác sẽ gặp Mao Chủ tịch ở Liên Xô. Bác lưu lại Bắc Kinh ít ngày, rồi đi tiếp sang Liên Xô.

Trước ngày lên đường, Bác bảo tôi làm một tờ tường trình về tình hình quân sự, Bác nói: “Chú viết ngắn cần nêu được những vấn đề lớn người nghe thông báo sẽ là đồng chí Stalin.” Tôi viết tờ trình 8 trang đọc xong Bác nói “được”.

Các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong lịch sử Việt Nam trước đây rất cam go, nhưng ông cha ta luôn luôn tự lực bảo vệ nền độc lập dân tộc, không cần cầu viện ngoại bang. Vì các ngài biết rõ sẽ bị lợi dụng và rất nguy hiểm... chỉ có những kẻ manh tâm, không tin nơi chính bản thân mình, không dựa vào dân mới đi cầu viện ngoại bang gây họa cho dân tộc! Cả ngàn năm qua các triều đại Trung Hoa đã nhiều lần đem binh hùng tướng mạnh để chinh phục nước Việt Nam, nhưng đều bị thất bại. Nước Tầu tuy to lớn đông dân, nhưng không bao giờ mạnh những lần chúng xâm chiếm được Việt Nam chỉ dựa vào bọn tay sai phản quốc theo xin cầu viện. Từ năm 1950, khi cầu viện Trung Quốc để chống Pháp, Hồ Chí Minh và đảng CSVN đã tự nguyện làm phiên thuộc, thần phục Trung Quốc, hoàn toàn vâng lệnh Bắc Kinh, từ những phong trào chính trị như rèn cán chỉnh quân, CCRĐ, các chiến dịch hành quân Bắc Kinh đã đưa cố vấn chính trị và quân sự sang chỉ huy điều khiển các chiến dịch Đông Khê, Cao Bằng, Thấp Khê, Lạng Sơn, kể cả chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Trong lịch sử Việt Nam kể cả thời kỳ Bắc thuộc 1000 năm, chưa bao giờ nhà cầm quyền Trung Quốc kiểm soát Việt Nam chặt chẽ như vậy. Điều này không phải do tài ba của ĐCSTQ mà do Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN rước voi về dày mả tổ!

Với mưu đồ bành trướng về phương Nam và mục tiêu đầu tiên là nước ta, bọn cầm quyền Bắc Kinh đã hóa trang bộ mặt như trên sân khấu kinh kịch. Kẻ thù của chúng ta thay đổi mầu sắc trên cùng một khuôn mặt “Hán Tộc”. Hát bài “Quốc tế ca”, một thứ chủ nghĩa bành trướng kiểu mới dán nhãn hiệu Mác-Xít bọn này khoác áo mầu đỏ diễn vai bạn bè đồng chí để cố vấn và cổ súy cho đảng CSVN chống đế quốc theo ý chí của Bắc Kinh, biến VN thành một tỉnh tiền đồn gìn giữ phên dậu phía Nam cho chúng, gọi là: “theo sự phân công quốc tế”. Tướng Giáp thuật lại trong “Tổng Tập Hồi Ký”, tr. 624, việc phân công quốc tế này như sau:

“Trong một buổi làm việc ở MátxCơVa cùng với Stalin, có cả Mao Trạch Ðông, Bác đề nghị Liên Xô giúp trang bị cho mười đại đoàn bộ binh và một trung đoàn pháo cao xạ. Stalin nói: “Yêu cầu của Việt Nam không lớn nên có sự phân công giữa Trung Quốc và Liên Xô...

Khi trở về Bắc Kinh, Bác đề nghị Trung Quốc cử cố vấn sang giúp Việt Nam nay mai sẽ đánh lớn.

Ngay sau khi Bác trở về nước cuối tháng 3 năm 1950, các bạn Trung Quốc đã nhanh chóng thực hiện những cam kết... Tháng 4 năm 1950, hai trung đoàn của 308 đi theo đường Hà Giang qua Mông Tự (Vân Nam) nhận vũ khí. Tiếp đón một trung đoàn của 312 đi theo đường Cao Bằng qua Hoa Ðông (Quảng Tây). Bạn cũng chở gấp vũ khí sang Cao Bằng để trang bị tiếp tế cho hai trung đoàn khác phải ở lại chiến trường đối phó với quân địch.”

Để bạn đọc có cái nhìn đúng đắn và chân thật hơn về họ Hồ. Tôi lại trích dẫn một số đoạn hồi ký của ông Hoàng Tùng, nguyên là Bí Thư Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, nguyên Tổng Biên Tập Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của đảng. Trong cuốn sách “Những kỷ niệm về bác Hồ” có đoạn ông viết: “Bác sang Trung Quốc, Mao đưa Bác vào quỹ đạo của Mao. Sang Liên Xô Stalin lại đưa Bác vào quỹ đạo của Stalin. Chuyến đi Trung Quốc và Liên Xô năm 1950 của Bác là chuyến đi gian khổ”.

Đoạn hồi ký ngắn của Hoàng Tùng đã là một minh họa chính xác về thái độ lông bông. Không có một định hướng nào, ông luôn luôn bị người khác lèo lái. Đấy, con người chính trị cao cả của đảng Cộng Sản Việt Nam là như thế, tư tưởng Hồ Chí Minh là như thế.

Ở một đoạn khác ông Hoàng Tùng viết: “Mùa Thu 1950 Trung Quốc phái hai đoàn cố vấn sang Việt Nam, một đoàn chính trị do La Quý Ban làm cố vấn. La Quý Ban trước là bí thư của Mao, Bí thư Sơn Tây. Ông này là người nghiêm chỉnh, phục Mao Trạch Đông như một ông Thánh. Ông ta là người tin cẩn của Mao. Còn Tổng cố vấn về quân sự là Vi Quốc Thanh. Đoàn cố vấn quân sự đông hơn. Vì nó có đủ cả bộ máy quân sự. Ta không hiểu thâm ý của Trung Quốc, họ muốn sửa ta. Họ sang để giới thiệu kinh nghiệm Trung Quốc. Lý luận Mao Trạch Đông, lý luận quân sự, tổ chức quân đội. Việc đầu tiên của họ là sửa quân đội của ta đã. Họ sửa cả đảng trong quân đội cho nên mới lập ra chức chính ủy, trước ta chỉ có chính trị viên! (...) Năm 1951 đoàn cố vấn thực hiện chỉnh đốn quân đội ta. Các chỗ khác họ chưa đụng tới. Đại Hội Đảng năm 1951 đại biểu nước ngoài tới dự chỉ có La Quý Ba, bên Kampuchia có Xiên Hiêng (sau phản bội). Phía Lào có một đại biểu. Tại Đại hội, La Quý Ba phát biểu chủ yếu về thuế nông nghiệp. Sau đó ta bắt đầu đánh thuế. Họ đem các nề nếp từ Trung Quốc sang, đem kinh nghiệm chỉnh phong từ Diên An sang. Sau khi Đại Hội ta không nói gì đến Cải Cách Ruộng Đất năm 1952. Mao Trạch Đông và Stalin gọi Bác sang, nhất định bắt Bác phải thực hiện Cải Cách Ruộng Đất. Sau thấy không thể từ chối được nữa, Bác mới quyết định phải thực hiện Cải Cách Ruộng Đất.

Năm 1952, sau khi đi Trung Quốc và Liên Xô về, Bác chuẩn bị cho hội nghị cán bộ đầu năm 1953, quyết định Cải Cách Ruộng Đất. Trung Quốc cử đoàn cố vấn sang, bao gồm cố vấn công an, cố vấn tổ chức, cố vấn tuyên truyền, Đoàn cố vấn CCRÐ do Kiều Hiểu Quang làm trưởng đoàn, Kiều là Phó bí thư tỉnh ủy Quảng Tây. Họ muốn qua Cải Cách Ruộng Ðất để chỉnh đốn lại Đảng ta. Thời gian từ lúc tiến hành CCRÐ đến lúc dừng lại là 3 năm. Khi đó tôi thường được dự họp Bộ chính trị do đó cũng biết một số việc. Đó là việc làm thí điểm ở đồng bằng và chọn đồn điền Nguyễn Thị Năm. Nguyễn Thị Năm tức là Cát Thành Long có một người con làm Trung đoàn trưởng ở cục chính trị của Văn Tiến Dũng, gia đình bà trong dịp tuần lễ vàng có hiến 100 lạng vàng. Bà còn tham gia công tác của Hội Phụ Nữ từ năm 1945 đến năm 1953. Tôi chưa đến đó lần nào. Các anh Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ thường hay ăn cơm ở nhà bà. Gia đình Nguyễn thị Năm cũng giống như các gia đình Đỗ đình Thiện, Trịnh văn Bố giúp đỡ rất nhiều cho cách mạng, chọn địa chủ Nguyễn thị Năm để làm trước là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính Trị, Bác nói: “Tôi đồng ý có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy lại cũng giúp cách mạng. Sau cố vấn Trung Quốc La Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: “Thôi tôi theo đa số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải” và họ cứ thế làm...”

Đọc đoạn hồi ký trên của Hoàng Tùng Ủy Viên BCT, trước hết ta thấy những kẻ lãnh đạo Đảng Cộng Sản là bọn người vong ơn bội nghĩa đối với những người đã nuôi dưỡng họ, vì tấm lòng yêu tổ quốc. Họ lầm tưởng người Cộng Sản tranh đấu cho độc lập dân tộc. Và ta có thể hỏi ai lãnh đạo cách mạng Việt Nam? Ai làm chủ tịch đảng Cộng Sản Việt Nam? Ai làm chủ tịch nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa? Hồ Chí Minh hay cố vấn Trung Cộng La Quý Ba? Và như thế là bản tuyên ngôn độc lập mà Hồ Chí Minh long trọng đọc trước quốc dân ngày 2/9/45, với ba mục tiêu: Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc chỉ là một trò bịp bợm, lừa dối, cổ kim đông tây chưa hề thấy. Nhưng đứng về mặt lịch sử đây là một vết nhơ lớn. Vì ông Hồ là Chủ Tịch Đảng Cộng Sản Việt Nam, kiêm Chủ Tịch nhà nước Việt Nam, mà hoàn toàn không có quyền quyết định việc gì của nước mình; đối nội cũng như đối ngoại đều do viên cố vấn Tầu quyết định.

Đọc các hồi ký của cán bộ đảng trong thời kỳ này, đâu đâu chúng ta cũng thấy sự có mặt của cố vấn chuyên gia Trung Quốc, từ chiến dịch biên giới, chiến dịch Ðiện Biên Phủ, rồi CCRÐ cố vấn Trung Quốc hoàn toàn chỉ đạo cán bộ Việt Nam họ biến ÐCSVN và quân đội Việt Nam thành công cụ để thực hiện ý đồ của họ.

Bởi người lãnh đạo chóp bu của Việt Nam tình nguyện chọn họ làm chỗ dựa, thì đây là cơ hội ngàn vàng, Mao trạch Đông không thể bỏ qua. Thế là thật nhanh, thật gọn, thật êm, họ lợi dụng mê hoặc bằng tình đồng chí anh em. Bắc Kinh nắm chắc ban lãnh đạo Ðảng CSVN để tranh giành thuộc địa với người Pháp. Họ âm mưu dùng quân đội Việt Nam đánh Pháp đoạt được nước Việt mà không cần quân đội Trung Quốc đánh chiếm như ở nước Tây Tạng... Thâm độc hơn nữa họ dùng người Việt giết người Việt, và dùng chính người Việt tự hủy diệt văn hóa truyền thống của dân tộc mình, phá các di tích lịch sử trong các chiến dịch CCRÐ, bài trừ phong kiến hoàn toàn do cố vấn Trung Quốc chỉ đạo, việc này cũng được áp dụng ở Campuchia. Mao Trạch Ðông dùng Pol pot (diệt chủng), ở Việt Nam – Mao Trạch Ðông dùng Hồ chí Minh. Họ Mao còn thâm độc hơn cả Minh Thái Tổ với ảo tưởng có thể xóa sạch hiện tại và quá khứ của một dân tộc từng có mấy ngàn năm lịch sử. Minh Thái Tổ phải dùng quân đội nước Tầu. Nhưng Mao Trạch Ðông chỉ cần nuôi dưỡng cán bộ Việt Nam như Hồ chí Minh ngay từ ban đầu họ đã “trù mưu tính kế” cướp nước ta và cũng chủ trương triệt phá văn hóa, bằng cách mượn tay Ðảng CSVN. Ðây là mục tiêu chính trị hàng đầu của Bắc Kinh.

Từ trước tới nay có nhiều người vẫn cho Hồ chí Minh là một nhà lãnh đạo thông minh, có uy tín quốc tế. Về vấn đề này, tôi lại trích dẫn một đoạn hồi ký của tướng Giáp để bạn đọc đánh giá, nơi trang 603 ông viết: “Buổi tối, khi chung quanh đã yên tĩnh, Bác ngồi ngập ngừng rồi nói với chúng tôi: “Liên Xô phê bình ta chậm làm cách mạng thổ địa. Ðồng chí Stalin trỏ hai chiếc ghế hỏi mình: “Ghế này là ghế của nông dân, ghế này là của địa chủ, người cách mạng Việt Nam ngồi ghế nào?” tới đây, chúng ta phải làm cách mạng ruộng đất, Trung Quốc hứa sẽ giúp ta kinh nghiệm và phát động quần chúng tiến hành cải cách ruộng đất...

Bác kể thêm, trong một buổi làm việc thấy có cuốn họa báo Liên Xô đặt trên bàn. Bác cầm đưa Stalin, xin đề nghị ký một chữ làm kỷ niệm. Stalin vui vẻ ký rồi chuyển cho đồng chí Môlotốp, Kaznlôvích ngồi bên ký tiếp.

Bác mang tờ báo về nhà khách. Nhưng hôm sau không còn thấy tờ báo! Bác không bình luận gì về việc này. Liên Xô đã công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhưng có thể còn đang cân nhắc mức độ công khai hóa quan hệ mật thiết với ta.”

Thông thường nhân cách con người có thể đánh giá qua cung cách ứng xử. Trường hợp Hồ Chí Minh, một cá nhân gắn liền với danh nghĩa một quốc gia. Chủ tịch Đảng CS cũng vừa là Chủ tịch nhà nước VNDCCH, gồm cả hai tư thế, danh dự mà y hành xử theo kiểu (bồi bàn) thì thật là bất hạnh cho dân tộc!

“Trong một buổi làm việc thấy có một cuốn họa báo Liên Xô đặt trên bàn, Bác cầm đưa Stalin, xin đề nghị ký một chữ làm kỷ niệm”.

Qua lăng kính chính trị, đây có phải là cung cách hành xử kiểu chủ tớ hay nô bộc, chư hầu hay không?

Cung cách ngoại giao của một vị chủ tịch nhà nước, trước các nguyên thủ quốc gia khác mà như thế ư?

(Chộp một tờ họa báo Liên Xô trên bàn, rồi xin chữ ký làm kỷ niệm!)

Các bạn xem sách sử Ðông Tây có thấy vị vua, vị Tổng Thống nhà nước nào mà cung cách hành xử ngoại giao quốc tế như Hồ chí Minh không?

Chưa hết cái gen “nô bộc – chư hầu” còn truyền sang nhiều thế hệ lãnh đạo ĐCSVN. Từ dòng máu Việt Gian Hồ Chí Minh lại được bọn Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng... những đứa con thừa tự chánh dòng Việt Gian cấy ghép phôi thai do Bắc Kinh đẻ ra dị dạng đủ kiểu... Nay là mô hình “Việt Trung hợp tác toàn diện”. Qua mô hình này chúng đã bán đứng đất nước cho giặc. Bọn chúng sang chầu Bắc Kinh cung cách không khác Hồ Chí Minh.

Làm nhục quốc thể và làm tay sai cho ngoại bang hại dân hại nước thì khá hơn Lê Chiêu Thống rất nhiều! Nhưng hưởng dục lạc thì không kém vua chúa phong kiến Trung Hoa!

Thời phong kiến Ðế Vương là chúa tể thiên hạ, có tất cả mọi quyền hành đế vương thích hưởng thụ cái gì tất nhiên được thoải mái hết mức mà dục vọng của con người là vô bờ vô bến, lòng ham muốn vô cùng vô tận. Vui đến cùng tận, tất nhiên là sẽ dẫn đến ăn chơi xa xỉ cực độ. Mỹ nhân nhiều vô kể. Thời cách mạng vô sản cũng vậy; Ðiều khác nhau là ông vua dép lốp xứ Nghệ lại mang trên mình đầy những huyền thoại: “huyền thoại về gia đình cách mạng”, (mặc dù hoàn toàn không phải vậy), “huyền thoại về lên đường cứu nước”, (mặc dù hoàn toàn không phải vậy), “huyền thoại về giải phóng nô lệ”, (mặc dù hoàn toàn không phải vậy “huyền thoại về người cha già dân tộc”, (sic).

Chẳng lẽ lại làm những chuyện đồi bại độc ác thế ư? Xét về mặt tâm lý thì ở một phương diện nào đó, với Hồ Chí Minh 9 năm trên rừng chịu nhiều gian khổ. Nay chiếm đoạt được cả thiên hạ. Ðó là cả một pho sử đầm đìa máu và nước mắt của lê dân. Trong đó có nhiều cô gái bất hạnh!

Các triều đại phong kiến, mỹ tửu là những thứ không thể thiếu được trong cung đình. Thời đại cách mạng cũng giống như các Hoàng Ðế phong kiến Trung Hoa đều rất thích ca múa yến tiệc và gái...

Nhưng nó hóa trang rất khéo, bên ngoài là những màn kịch cần, kiệm... bên trong là một cuộc sống cực kỳ xa xỉ, xung quanh nhân vật Hồ chí Minh, có nhiều chuyện về đức khiêm nhường cần kiệm của ông. Trong đó có chuyện đôi dép cao su mà dân Bắc ai cũng được nghe, sau này được một trí thức miền Nam theo Việt cộng vào bưng là Lữ Phương thuật lại trong bài “Huyền thoại Hồ chí Minh” như sau: “Chuyện đôi dép râu, Bác Hồ đi dép râu thì ai cũng biết. Bác đi một đôi dép đến mòn lẳn. Cậu bảo vệ đề nghị Bác thay nhiều lần nhưng Bác nhất định không chịu. Cuối cùng nài nỉ mãi không được, cậu đã phải lén mấy đôi dép lấy đi đổi, khi phát hiện, Bác không vừa lòng và nhất quyết bắt cậu bảo vệ đi lấy lại đôi dép cũ.”

Cung cách ứng xử của Hồ Chí Minh mặc dù chỉ được cán bộ kể lại nhưng nó thường được coi như tấm gương để toàn đảng, toàn dân học tập. Trong đó tác phong giản dị, cần, kiệm được coi như phương châm sống. “Bác là một tấm gương sáng, tôi nguyện suốt đời noi theo.” TBT Lê Khả Phiêu. Xin xem hình ảnh trên internet về tư gia hoành tráng kiêu sa của cựu TBT Lê Khả Phiêu. (Scandal) vàng “Người đầy tớ của dân”. Người nguyện theo Bác Hồ... Tuy nhiên, ngay từ đầu triều đình vô sản mọi chế độ vẫn noi theo thời phong kiến, hình như nó có duyên nợ gắn bó... ngay cả về ẩm thực.

Việc ẩm thực nơi cung đình vua vô sản thật nhiều dạng, nhiều vẻ. Món ăn của vua rất phong phú. Người dân chưa hề nhìn thấy hay ngửi thấy. Bởi các đầu bếp các nhân viên trong cung đình tuyệt đối không được lộ ra bên ngoài. Không một lý do gì đó bị lọt ra ngoài. Là một trọng tội tiết lộ bí mật quốc gia sẽ bị nghiêm trị. Chỉ có Ủy viên Bộ chính trị mới biết.

Lo việc ăn uống trong cung đình. Có hai bộ phận do một Ủy viên trung ương Ðảng cầm đầu: Một đoàn chuyên gia bác sĩ ẩm thực phái các chuyên viên sang Bắc Kinh nghiên cứu học tập những tài liệu cổ của vua chúa Trung Hoa về thực hành. Xây dựng các nông trường chăn nuôi gia súc riêng: Gấu, Hươu, Dê, các loại chim, lấy giống vịt từ Bắc Kinh lúa gạo thơm thượng hảo hạng có nơi trồng và cung cấp. Cán bộ cao cấp có cửa hàng riêng ở phố Tôn Ðản Hà Nội, không lẫn lộn với dân. Còn về chủng loại thực phẩm phong phú, lại thêm nhiều đặc sản từ bốn phương cống tiến. Hoàng đế vô sản có thể nói là được tận hưởng khẩu phúc, thưởng thức hết mọi sơn hào hải vị trong thiên hạ. Rượu cũng có rất nhiều loại quý mua từ nước ngoài...

Hàng mấy chục người nấu nướng với đầu bếp chính, thức ăn đồ uống trong triều đình vua vô sản rất phong phú đa dạng, hương vị luôn luôn thay đổi. Tập trung tất cả những đầu bếp giỏi trong nước, nghệ thuật không đâu sánh kịp, gấu béo, hươu non, thịt dê nướng hết sức cầu kỳ. Tổng thống các nước đế quốc phải thèm “nhỏ dãi” trước những món cao lương mỹ vị của các ông vua vô sản như Hồ chí Minh. Các vị đó chưa biết tận hưởng.

Yến tiệc tối 30 tết, trước thềm năm mới năm 1955, như tưới thêm máu, bơm thêm sinh khí cho Hồ chí Minh. Các cháu thiếu nhi ca hát vừa xuống khỏi sân khấu thì viên Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn mang nàng Xuân đến dinh Chủ tịch.

Vừa mới thấy Xuân, họ Hồ không thể tự kiềm chế được, đã bảo nàng vào phòng tắm gội trong suối nước nóng, để được ngắm nhìn thân thể kiều diễm của nàng. Da thịt Xuân nõn nà như tuyết, mịn màng mềm mại, sau khi bước ra khỏi suối trông mong manh yểu điệu như tiên, lại thêm khí chất miền núi ngây thơ.

Ở trên dinh Chủ tịch, hay nhà sàn ở đâu cũng lộng lẫy đáng yêu. Nàng mang một ma lực quyến rũ riêng hết sức tự nhiên thanh khiết của cô gái miền núi. Tưởng chừng không một người đàn ông nào kháng cự được. Thời gian ấy không một mỹ nhân nào có thể cạnh tranh được với nàng, ngay cả đến các cháu miền Nam còn non mơn mởn cũng không có được. Khi mùa hạ nóng nực họ Hồ và Xuân ở nhà sàn hoan lạc thâu đêm. Ở cái tuổi ngoài 60, sức khỏe của ông còn tốt. Da hung hung đỏ mái đầu hoa râm, chòm râu bạc, đôi mắt linh hoạt, sắc bén, hiếu sát.

Ông đã từng ngủ với gái Pháp, gái Nga, gái Tầu, gái Thái, các cháu miền Nam... đủ mùi vị như các loài hoa ông trồng. Nhưng không một nàng nào được lâu, chỉ có Xuân là gần được 2 năm. Ông đã ban cho nàng ân sủng, nàng có thai thằng Trung khi cùng chung chăn gối với ông ở ngôi nhà sàn này, khoái lạc đến tột đỉnh để lại kỷ niệm thằng Nguyễn tất Trung không có giấy khai sinh, không có nhân khẩu, hiện còn bị Bộ Nội Vụ quản lý ở Hà Nội!

Sau khi được đắc sủng, dung nhan nàng Xuân càng rạng rỡ yêu kiều không ai bằng. Nhưng ai đoán được lòng người. Có lẽ lúc đó chỉ có tên Bộ trưởng Công an Trần quốc Hoàn là đoán được ý họ Hồ... nên y được hưởng sái nhì.

Cuộc đời hồng nhan bạc phận! Những cảnh hoan lạc trôi theo gió. Chỉ còn lại những giọt nước mắt cho người thân của nàng! Cùng với bao nhiêu tấm thảm kịch đã xảy ra cho các cô gái bất hạnh khác! Trong khi đó những vầng hào quang phủ kín tội ác, che lấp tất cả sự thối tha rữa nát, mà bộ máy tuyên truyền của ÐCS hết lớp này đến lớp khác chúng biến kẻ sát nhân thành thánh nhân.


Các nhân chứng
Vì nhân chứng quan trọng chúng tôi để nguyên văn lá thư dưới đây:
Bức Thư Mật liên quan đến cuộc đời của Hồ Chí Minh.
Vợ chồng Nguyễn thị Vàng, và ông Hòang Dũng Ủy Viên Trung Ương Đảng Bí Thư của ông Nguyễn văn Linh, Huỳnh Thị Thanh Xuân, cùng với thư của GS Sử Học Nguyễn Ngọc Lan gửi cho TBT Nông Đức Mạnh.
8/20/2006


Bức Thư Mật liên quan đến cuộc đời của Hồ Chí Minh
(Lưu giữ tại văn phòng Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam)

Cao Bằng ngày 29 tháng 7 năm 1983.

Kính gởi Ông Nguyễn hữu Thọ Chủ tịch quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi sắp được từ giã cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ tịch, hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác, mà người vợ chưa cưới của tôi là một nạn nhân. Nay tôi hy vọng những tên hung thủ được lột mặt nạ trước công chúng, không để cho chúng ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.

Nguyên từ năm 1954 tôi có người yêu tên Nguyễn thị Vàng, 22 tuổi quê làng Hà Mạ, Xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn thị Xuân, tên gọi trong gia đình là cô Sang tức Minh Xuân. Tôi nhập ngũ đi bộ đội cuối năm 1952. Cô Vàng và cô Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhụ. Ðược mấy tháng sau ông Trần Ðăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần mấy lần đến gặp cô Xuân. Ðầu năm 1955 thì đem xe tới đón về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ. Ðược mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hà Nội, ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm với cô Xuân và cô Nguyệt con gái ông Hoàng văn Ðệ cậu ruột cô Xuân.

Ðã luôn 2 năm tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957 tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện Huyện Hoà An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lể cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghe. Tôi xin ghi lại tỉ mỉ những lời cô Vàng tâm sự với tôi, mà không bao giờ tôi có thể lãng quên đi được. Vàng kể:

Ðầu năm 1955 cô Xuân được về gặp Bác Hồ. Bác Hồ định lấy cô Xuân làm vợ chính thức. Mấy tháng sau chị Xuân xin cho em cùng về ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, Hà Nội. Còn tầng dưới thì cho ông Nguyễn Quý Kiên, Chánh văn phòng Thủ tướng phủ ở. Vì các lãnh đạo không cho chị Xuân cùng ở với Bác trên nhà chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn,

Bộ trưởng bộ Công an trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về ở 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của Công an.

Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một cậu con traị Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em có nhiệm vụ bế cháu. Ông Bộ trưởng Công an có nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên thường đến luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, ông Hoàn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rồi nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ, định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, lão Hoàn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to: “Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết” rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.

Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói: Ðau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở một buồn dưới nhà, vợ một cán bộ Công an đã chết, lên thân mật nói chuyện với chị rằng: Sao cô ở đây một mình? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lão đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Lương Khánh Thiện, một Uỷ viên Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Ðường, vợ anh Thiện đem con gái gởi bác Hoàn nhờ bác tác thành cho. Lão Hoàn đã hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm Công an để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ Công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu.

Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, còn đối với mình thì nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra thì thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xõ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm ghì lấy chị vào lòng rồi hôn chị.

Chị xô nó ra nói:

“Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước”.

Nó cười một cách nhạo báng:

“Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi”.

Rồi nó lại nói: “Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi”.

Rồi nó rút khẩu súng lục dí vào ngực chị.

Chị ngồi xụp xuống ghế nói:

“Anh cứ bắn đi”.

Nó cười khì khì :

"Tôi chưa dại gì bắn. Tôi tặng bà vật khác".

Nó dắt súng vào túi quần rồi rút ra một sợi dây dù to bằng chiếc đũa, đã thắt sẳn một cái thòng lọng. Nó quàng cái tròng vào cổ chị rồi kéo chị đi lại cái giường kia, đẩy chị nằm xuống, rồi đầu sợi giây nó buộc vào chân giường. Chị khiếp sợ run như cầy sấy.

Nó nói “Bây giờ bà muốn chết tôi cho bà chết“. Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống nó ngắm nghía ngâm nga:

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Phẩm tiên đã đến tay phàm,
thì vin cành quýt cho cam sự đời.

Rồi nó nằm đè lên hiếp chị. Chị xấu hổ lấy tay che mặt.

Nó kéo tay chị nói: “Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già mà còn vờ làm gái “.

Xong nó cởi thòng lọng cho chị, rồi nó ngồi bên chị tán tỉnh hàng giờ:

"Anh thương em lắm. Người ta gặp hạnh phúc phải biết hưởng hạnh phúc. Nếu em thuận tình thì muốn gì cũng có.

Nó đeo vào tay chị một chiếc nhẫn vàng, chị đã ném vào nhà xí.

Nó lại dặn: “Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu hở ra thì mất mạng cả lũ và tôi nói cho cô biết ông cụ tin tôi hơn cô" .

Rồi từ đó chị biến thành một thứ trò chơi của nó. Thấy bóng dáng nó chị như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mâỵ Nó muốn làm gì thì tuỳ ý nó. Trong mấy tháng trời chị tính quẩn lo quanh, không biết tâm sự với ai mà không làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nó. Nhớ lại lời nói của bà già, chị liền xin bác cho hai em về đây, mong tránh được mặt nó. Nhưng những hôm Công an gọi các em đi làm hộ khẩu, đi làm chứng minh thư lâu hàng buổi là nó tới hành hạ chị. Nó bảo chị phải nói cho hai em biết. Phải biết câm cái miệng nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Hôm nay nó lại đây trắng trợn như vậy vì nó tưởng chị đã dặn hai em rồi. Bây giờ việc đã xẫy ra chị thấy rất nguy hiểm.

Em nói: “Hay là chị em ta trốn đi”.

Chị Xuân nói: “Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai”.

Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa”.

Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không?”.

Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu”.

Bác nói: Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công an nói dối.

Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vu gì đó để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta.

Chị Xuân lại nói: “chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị”.

Em thấy nguy hiểm vì tên Hoàn đã nổi tiếng ở Bộ Công an là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác. Ðến độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đị Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho Chị Nguyệt, ra lên xe Công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người: Công an, Tòa án, Kiểm sát viên.

Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi thân thể không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Da dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nức. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Ðây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng.

Em vô cùng đau khổ chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít hôm họ tuyên bố em bị thần kinh được chuyển về điều trị tại Hoà An.

Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng văn Ðệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xác xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồị Nghe dư luận xôn xao bị đánh vở sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hà Nội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Toà án Hà Nội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một bản Công Văn Viện Kiểm sát hỏi toà án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều trạ Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Minh, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.

Mấy chục năm nay tôi tim gan thắt ruột, nghĩ cách trả thù cho em tôi nhưng sức yếu thế cơ đành ngậm hờn chờ chết. Theo Vàng dặn lại, tôi liên hệ với một số cán bộ về hưu Công an, kiểm sát họ cho tôi biết cậu Trung ngày đó đã được đưa về cụ Bằng nuôi. Ðộ 4, 5 tuổi thì gửi cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969 ngày Bác Hồ mất thì giao cho ông Vũ Kỳ, nguyên Thư Ký của Bác, nay là Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ chí Minh làm con nuôi. Vũ Kỳ có 2 con đẻ là Vũ Vinh và Vũ Quang, còn Vũ Trung là con nuôi; là con chị Xuân với Bác Hồ. Tôi một thương binh sắp đi qua thế giới khác, máu hoà nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gởi tới trình ông. Mong ông lưu ý xét cho mấy việc:

1- Các ông sẵn lòng bảo vệ chân lý điều tra cho ra những đứa thủ mưu, thủ ác, chứ không truy xét những người có lương tâm phát hiện lũ tàn ác.

2- Ở xã Hồng Việt bà con bạn hữu chị Xuân vào trạc tuổi 45 trở lên còn khá nhiều đều biết rõ ràng cô Vàng, cô Xuân, cô Nguyệt và chắc gia đình của cô Xuân còn khá nhiều di vật của cô Xuân. Nhưng tất cả mọi người đều khiếp sợ, không dám hé răng. Mong ông cho điều tra thận trọng, bí mật, vì việc điều tra này bị lộ thì cả lô bà con này bị thủ tiêu.

3- Cậu Nguyễn Tất Trung còn sống khoẻ mạnh nhưng việc điều tra lộ ra thì cậu cũng dễ dàng bị thủ tiêụ Tên hung thủ lái xe đón bà Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến hiên nay là Tổng cục Phó Tổng cục Thể dục Thể thaọ Còn tên Ninh xồm thì chúng tôi không hiểu đã leo lên chức vụ nào rồi.

Từ thế giới khác kính chúc Ngài nhiều hạnh phúc.

Vợ chồng Nguyễn thị Vàng



Bằng chứng đã rõ ràng, cái tên sát nhân, đã từng lừa dối hết cả dân chúng trong cũng như ngoài nước, lại muốn nổi tiếng “cả cuộc đời vì nước vì non”. Bằng cách giết vợ, không nhận con để người đời “kính nể” thì quả là cổ kim không thể có.

Cuộc đời Hồ Chí Minh “chuyên công nghệ diễn kịch” vĩ đại… Sản phẩm của sự dối trá. Dối trá là một đặc trưng không thể thiếu, làm nền móng cần thiết để xây dựng sự nghiệp chính trị. Có vợ chơi gái mà làm ra vẻ thanh khiết, đạo đức. Ông đã lấy vợ sinh con, nhưng giấu giếm không muốn cho bất cứ ai biết. Nên thằng Nguyễn tất Trung có cha, mà không được phép gọi một tiếng. Chỉ vì bố nó làm chủ tịch nhà nước, nổi tiếng đạo đức. Thằng Trung đâm ra mồ côi cả cha lẫn mẹ! Biết có cha mà không được gần. Biết cha cao cả vĩ đại mà phải ngậm miệng. Giọt máu của mình không thương yêu nó làm sao có thể thương yêu những đứa trẻ khác? Nói chi đến thương yêu đồng bào? “Xạo”. Con là tình yêu, là hạnh phúc, là niềm hy vọng lớn lao nhất của đời người tại sao Hồ Chí Minh bỏ qua không thương yêu? Điều này mâu thuẫn gắt gao với lương tri và lý trí sáng suốt. Bỏ tình cha con máu mủ để được tiếng hão… thằng Trung với cái tang của mẹ là một thảm kịch đen tối trong tuổi thơ đã vĩnh viễn chôn vùi cùng với cái chết của mẹ, người không bao giờ lên tiếng được nữa. Rồi cả thằng Trung cũng bị bịt miệng.

Hiện thực này tàn nhẫn là để dành cho cả số phận nhỏ nhoi và tội nghiệp của một thằng bé ra đời có cha mà lại không cha! và sớm bị rút khỏi cánh tay âu yếm của người mẹ, thằng Trung cũng ngây thơ không khác gì những đứa trẻ khác để rồi chẳng bao lâu bị tách rời vĩnh viễn bởi cái chết ghê rợn của mẹ, do chính cha nó là thủ phạm! Kẻ chỉ lấy việc hành hạ phụ nữ như những món đồ chơi trong khi mồm nói nào là giải phóng phụ nữ, nào là chống tư tưởng phong kiến tôn trọng phụ nữ v.v… Nhưng không có gì có thể che đậy được mãi dưới ánh sáng mặt trời. Sự dấu diếm, giả dối cuối cùng cũng bị phát hiện để người đời chiếu các sự kiện mà đánh giá con người thật của ông.

Hồ Chí Minh là hiện thân của qui tắc sống vị kỷ của bọn thống trị cầm quyền lãnh đạo đất nước. Những kẻ đã làm những điều bạo ngược trái đạo lý con người, chính nó là nguyên nhân của những tấn bi kịch của đất nước.

Còn mẹ nó! Nông Thị Xuân, một cô gái sinh đẹp, ngây thơ ở miền núi, ăn nằm với “vĩ nhân”. Khi đã có thằng Trung rồi, lại lầm tưởng Hồ Chí Minh lấy mình làm vợ thật “Cô” xin cho hai mẹ con được ra công khai “mà nhà kịch sĩ vĩ đại thì lại muốn giữ “tuyệt đối bí mật” để tạo hào quang “cả cuộc đời vì nước vì non” nên không lập gia đình”. Thế là cô Xuân bị kịch sĩ ngầm ra lệnh giết chết tức tưởi. Chứ thủ phạm không phải là Bộ Trưởng CA Trần Quốc Hoàn. Hắn thấy Xuân quá đẹp, bỏ thì phí của trời… nên chơi ghẹ thôi! Đây là vụ án tàn bạo, ghê tởm nhất. Cảnh ngộ cô Xuân thật đau thương khủng khiếp quá! Bi kịch này cho chúng ta thấy rằng Hồ Chí Minh đã làm tất cả những gì có thể làm, kể cả việc giết cả vợ con, với một ý đồ mà ai cũng biết đó là muốn trở thành lãnh tụ nổi tiếng thanh khiết. Chúng ta thử nghe đoạn đối thoại giữa Hồ Chí Minh và cô Xuân dưới đây:

“ Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin Bác cho mẹ con ra công khai.” Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý nhất là ông Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa.” (1)

Khi họ Hồ trả lời Xuân vòng vo như vậy, số phận cô gái đã được quyết định rồi. Mà trong số những kẻ được giao nhiệm vụ không ai khác hơn là viên Bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn, kẻ hằng ngày quản lý Xuân…hắn chỉ làm theo đơn đặt hàng, làm theo ám hiệu của chủ. Ðây không phải là vụ giết người duy nhất mà Hoàn thực hiện theo lệnh của Hồ Chí Minh, nhưng vụ giết Xuân không bình thường cũng gây ra nhiều rắc rối về sau.

Nhận được lệnh thủ tiêu nữ thần sắc đẹp, người mà Hoàn thèm dỏ dãi từ khi Xuân mới đến, việc Hồ Chí Minh giao Xuân cho Hoàn với hắn là yến tiệc đã dọn sẵn. Nhưng khi vào bàn tiệc rồi Hoàn vẫn còn thẫn thờ, đầu óc như người trong mơ gã giơ súng lên, nhắm vào tim nàng nhưng vờ lưỡng lự…trong khi máu dê dâng cao tột đỉnh…

Xuân thuật lại: “Nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống ngắm ngía ngâm nga:

Rõ ràng trắng ngọc trắng ngà
Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?
Phẩm tiên đã đến tay phàm
Thì viêm cành quýt cho cao sự đời” (2)

Trời ơi! Cưỡng lại thế nào được? Hoàn biết rõ Hồ Chí Minh không bao giờ xen vào việc này, nên cứ thả dàn…

Nó lột truồng Xuân ra và vội nhảy lên ngựa, nàng hốt hoảng đẩy hắn ra:
“Không được hỗn tôi là vợ ông Chủ Tịch nước.”
Nó cười một cách nhạo báng:
“Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh của bà nằm trong tay tôi”.
“Rồi từ đó chị biến thành trò chơi của nó”(3)

Mối liên hệ tình dục giữa Hoàn và Xuân được đẩy lên cao, nàng Xuân, sức cám dỗ quá mãnh liệt. Nhưng không thể kéo dài hạn định mà Hồ Chí Minh đã giao cho hắn, nên hắn buộc lòng phải giết Xuân. Chúng ta lại nghe một đoạn đối thoại nữa giữa Hồ Chí Minh và Xuân để sự việc được sáng tỏ hơn.

“Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không?”

Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội, còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu.”

Bác nói: “Không nhẽ ông Bộ trưởng công an nói dối.”

Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó để định kế thoát thân nếu việc ấy bị bại lộ. Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta.”(4)

Trời! Giữa miệng hùm hang sói, ai mà cả gan dám bén mảng đến? Nàng Xuân, không hiểu (ba chị em cô ở đây) là món hàng bí mật quốc gia số 1, nó quan trọng đến mức đích thân viên Bộ trưởng CA đứng ra quản lý, trực tiếp đưa Xuân đến Dinh chủ tịch khi Hồ Chí Minh cần giải quyết sinh lý, rồi lại trực tiếp đưa nàng về, trên gác nhà 66 Hàng Bông, tuyệt đối bí mật đến như thế! Món đồ chơi quốc bảo được giữ gìn đến như thế! Mà lại có khách lạ đến thăm thì Kịch sĩ hơi dở và vụng về ở màn trình diễn này rồi. Hơn nữa (người cha đẻ của cái lực lượng vũ trang) lời Tổng Bí Thư Lê khả Phiêu mà ngây thơ vậy sao?

Ở đây nó biểu lộ trực tiếp cách suy nghĩ và hành động: Loanh quanh vòng vo với những câu hỏi và trả lời giữa chừng qua đó để lộ sự nguy hại cho đến khi nó bộc lộ tính cách tàn nhẫn.

Tội nghiệp cho những cô gái xinh đẹp dễ thương như Xuân! Ngay cả trong sự phù phiếm và vô trách nhiệm với đứa con trai Nguyễn Tất Trung hoàn toàn là sự thật, nó là Sản phẩm, đồng thời là nạn nhân của Hồ Chí Minh sinh ra. Ông là người ích kỷ và tàn nhẫn, bởi thế, ngay khi cô gái tưởng rằng có thể sống hết mình vì ông, với tất cả sự trong trắng ngây thơ!

Ôi bao nhiêu cô gái xinh đẹp bị cầm tù rồi biệt tăm! Chỉ để giữ danh tiếng cho Chủ Tịch, họ chỉ cần giải quyết sinh lý tiêu diệt tình cảm của các cô đối với người thân ngay cả cha mẹ của các cô cũng chẳng mang lại ơn phước gì, nếu không phải là tai họa như Nông Thị Xuân. Cô gái tưởng như trời phú cho sắc đẹp chỗ mạnh nhất của người phụ nữ. Đã bạc mệnh và còn là nguyên nhân gây thảm kịch cho nhiều người thân. Theo lá thơ tuyệt mệnh của vợ chồng Nguyễn Thị Vàng gửi cho ông Nguyễn Hữu Thọ - chủ tịch Quốc Hội Việt Nam thì cô Nguyệt, cô Vàng và nhiều người ở trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại tất cả những người nghe đều bị giết.

Câu chuyện thương tâm và ghê tởm này được vợ chồng Nguyễn Thị Vàng, một thương binh thân nhân của Xuân kể lại, ông bi quan vì ông nhận thấy thời đại mình thật “điên đảo, dã man”. Nguyên nhân của những tình trạng “điên đảo, dã man” đó ở đâu? Ai đã giết những đứa em gái của ông, ông chỉ nhắc ra Trần Quốc Hoàn, còn kẻ giấu kín tâm địa của chúng, khoác áo đạo đức ngụy trang, ông khó có thể nhận ra chân tướng của nó, trong thư gửi cho Chủ Tịch Quốc Hội Cộng Sản - Nguyễn Hữu Thọ. Ông Viết: “Tôi một thương binh sắp đi qua một thế giới khác, máu hòa nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gửi tới ông. Mong ông lưu ý xét cho.”(5) Ai mà xét Bác - Ðảng?...

Những điều trình bầy trong thư của người thương binh hôn phu của cô Vàng, em ruột cô Xuân khá cụ thể và đầy đủ. Ðây là một câu chuyện có thật trăm phần trăm, chứ không phải giai thoại, do nhiều nhân chứng thuật lại.

Còn nhiều cảnh ngộ của các cô gái khác, tôi chỉ nhắc lại chuyện cô Xuân vì nó có ý nghĩa điển hình mà nhiều người đã biết còn thời gian gần đây người ta đã phát hiện được những đứa con hoang ở vụ án khác thuộc loại (rậm rạp) thời gian và tội ác! Sự thối rữa trong những hoang tưởng thì còn nhiều…Tôi tạm trích dẫn bài viết của ông Hoàng Dũng cán bộ Văn Phòng Trung Ương Đảng trong bài “Những bí ẩn về tân thủ tướng Việt Nam” nhưng chỉ nói riêng về những sự kiện liên quan đến Hồ Chí Minh. Ông Dũng viết:

Trong quá trình công tác tôi có may mắn được làm việc một khoảng thời gian ngắn với cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh. Khoảng thời gian này không dài nhưng lại là khoảng thời gian rất quý báu đối với tôi bởi vì đã học được nhiều điều và hiểu được nhiều điều từ cơ quan quyền lực cao nhất, từ người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Việt Nam. Trong đó có những câu chuyện mà qua hàng chục năm giữ kín, “đào sâu chôn chặt”, suy xét, kiểm nghiệm đến ngày hôm nay mới dám nói ra, bởi vì nó có liên quan đến những con người và hoàn cảnh lịch sử của đất nước ta trước đây, ngày hôm nay, và có thể nó sẽ ảnh hưởng đến tương lai dân tộc ngày mai.(…) …

Sau này khi cụ Nguyễn Văn Linh thôi giữ chức Tổng Bí Thư Ðảng, tôi không còn được làm việc với cụ nữa, nhưng thỉnh thoảng có dịp ra vào công tác tôi vẫn ghé thăm cụ, hoặc là ghé thăm Bình, vài tháng một lần. Mỗi lần gặp cụ lại hỏi thăm tình hình công việc, tình hình tổ chức nội bộ, tình hình các địa phương. Cụ tỏ thái độ than phiền với những người kế nhiệm và đặc biệt kêu ca về khâu tổ chức cán bộ và quy hoạch lãnh đạo cao cấp.

Vài năm sau đó nữa, lúc này sức khỏe của cụ tỏ ra đã yếu hơn trước rất nhiều, cụ ít đi lại hơn. Một buổi tối tôi đến thăm cụ, thấy cụ có vẻ không được khỏe, tôi không dám nói chuyện nhiều, sau khi hỏi thăm cụ vài câu tôi định đứng dậy ra về, nhưng cụ bỗng khoát tay ra hiệu bảo tôi hãy ở lại chơi và sau đó lại kéo tôi vào buồng trong. Tôi hiểu là cụ muốn trao đổi một chuyện gì đó, chắc là quan trọng hơn.

Vừa ngồi xuống là cụ hỏi ngay: mấy hôm nay cậu có theo dõi vụ Tổng công ty Tracodi mà báo chí vừa đưa tin không? Tôi đáp: Dạ, có biết chứ ạ! Nhưng cũng chưa rõ lắm đúng sai thế nào? Cụ lại quay sang hỏi: Thế cậu có biết cái tay Tổng Giám đốc Phan Thanh Nam là người như thế nào không?

Tôi chợt hiểu ra có điều gì đó quanh vấn đề này, thời gian trước đó đã có dư luận xôn xao quanh chuyện Phan Thanh Nam là con rơi của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, cánh cán bộ văn phòng chúng tôi đều có nghe nhưng vẫn không biết thực hư thế nào, nên cũng chỉ coi như một tin đồn nhảm.

Bỗng cụ ghé sát gần tôi và nói: Những chuyện này mà tao không nói cho các cậu thì sau này sẽ chẳng có ai được biết đến nữa.

Thế là bỗng nhiên tôi trở thành một nhân chứng để ghi nhận những sự kiện ghê gớm thế này, những sự kiện đã gắn liền với lịch sử Cách mạng Việt Nam nhưng không bao giờ được chép trong sử sách và nó là một bộ mặt thật hoàn toàn khác với những gì mà nhân dân được biết về lãnh đạo Việt Nam,

Theo cụ Nguyễn Văn Linh kể thì Bộ chính trị lúc bấy giờ, (tất nhiên đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ chỉ đạo, điều này thì sau này không ai là không biết), biết rằng cụ Hồ gặp những thiếu thốn và khó khăn về tình cảm cá nhân, như chuyện muốn nối lại mối tình duyên với người vợ cũ ở Trung quốc nhưng đã bị phản đối (đây là một câu chuyện có thật đã được phía Trung quốc công bố từ những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước. Về việc này tôi lại nhớ về sự kiện bài báo “Bác Hồ có vợ?” được đăng trên báo Tuổi Trẻ của tác giả Kiến Phước - Trưởng đại diện báo Nhân dân tại TP. Hồ Chí Minh, chính vì bài báo này mà sau đó Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ là Nguyễn Kim Hạnh, cũng chính là vợ ông Kiến Phước, bị mất chức. Sau này có lần đến chơi với hai vợ chồng Kiến Phước - Kim Hạnh ở trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, cũng gần khu T78, nhắc lại chuyện này họ lại buồn và phản ứng ghê lắm). Do vậy sau đó Bộ chính trị có bí mật sắp xếp nhiều người phụ nữ khác để chăm sóc và phục vụ cụ Hồ về mặt sinh hoạt tính dục. Ðặc biệt, từ thuở còn thanh niên cụ Hồ đã có một mối tình đầu rất đẹp với một người con gái miền Nam (sự thật này đã được nhà văn Sơn Tùng sưu tầm và công bố trong bài viết “đi tìm Út Huệ”), do vậy cụ Hồ có một ấn tượng và thiện cảm đặc biệt với những người phụ nữ Nam bộ. Biết thế nên Bộ chính trị đã chỉ đạo cho Trung ương cục miền Nam, mà lúc này Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung ương cục, phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ chính trị.

Thời điểm đó thì Võ Văn Kiệt đang là ủy viên Trung ương cục được cụ Nguyễn Văn Linh tin tưởng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt này. Trong số vài cô gái tuyển lựa được lúc đó đang chuẩn bị bố trí bí mật đưa ra miền Bắc, có một cô còn trẻ và rất sắc sảo họ Phan. Giữa lúc đó thì tình hình chiến sự đang diễn ra khá ác liệt nên không thể đưa các cô đi ngay được và rồi không hiểu thế nào mà ông Kiệt lại quan hệ dan díu với chính cô gái họ Phan kia. Ðến lúc sự việc vỡ lở thì cô gái đã có thai được mấy tháng rồi. Thế là cô ta phải ở lại và cái bào thai đó chính là vị tổng Giám đốc Tracodi: Phan Thanh Nam sau này.

Nghe đến đây tôi cảm thấy vô cùng sửng sốt và bỗng thấy rùng mình hết cả người. Rõ ràng người đang kể ra những sự việc đó là một người đã từng giữ trọng trách cao nhất trong Ðảng Cộng Sản Việt Nam, một người trong số vài ba người được biết rõ nhất, chính xác nhất về câu chuyện này, một người trong số vài ba người hiếm hoi biết được những chuyện thâm cung bí sử nhất trong Trung ương Ðảng Cộng Sản, một người mà cái tuổi đã vượt quá ngưỡng “cổ lai hy” rồi. Như vậy không thể là nói thiếu chính xác hoặc vô căn cứ được, càng không thể là nói xấu tổ chức Ðảng và lãnh tụ được. Như vậy những chuyện tày trời kia là có thật ư?...

“Sau buổi tối hôm ở nhà cụ Nguyễn Văn Linh ra về tôi bàng hoàng và băn khoăn nhiều lắm. Như vậy những thứ được gọi là tư cách, đạo đức, mẫu mực của các lãnh đạo cao cấp của Ðảng ta thật ra chỉ là những thông tin tuyên truyền thôi ư? Và những kẻ bày ra những trò này chắc cũng không ngoài mục đích nhằm thao túng cụ Hồ và thao túng cả Bộ chính trị? Vậy thì đã có biết bao cô gái trẻ đã bị đánh mất tuổi thanh xuân và sự trinh trắng ở đó, và để đảm bảo tuyệt đối bí mật những thông tin này, dứt khoát phải có nhiều người đã bị thủ tiêu hoặc làm cho mất trí nhớ hoàn toàn. Như vậy những câu chuyện đồn thổi về những bóng ma trong quảng trường Ba đình phải chăng cũng là có thật? Thật bi thảm và khủng khiếp quá!

Những sự việc cụ Nguyễn Văn Linh đã kể lại cho tôi chắc chắn cũng phải còn ít nhất là một vài người khác được biết, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai dám công khai nêu lên. Trước thực trạng đầy bất ổn của tình hình chính trị đất nước cùng với tấm lòng cảm mến và kính trọng cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, tôi nhận thấy chính mình phải có trách nhiệm nói ra những điều này, tôi xin hoàn toàn đảm bảo về tính trung thực và chính xác của sự việc này. Tôi cũng mong rằng sau khi sự thật này được đưa ra ánh sáng thì sẽ có thêm nhiều bằng chứng khác của các vị lão thành Cách mạng, của những ai có may mắn được biết đến những sự việc trên sẽ bổ sung đầy đủ hơn để bạch hóa hoàn toàn những bí ẩn này.

Thứ nữa, tôi muốn thông báo đến giới trẻ, những người chủ tương lai của đất nước được biết rằng: có rất nhiều những sự thật mà các bạn không có cơ hội được biết đến, mà lẽ ra trong xã hội hiện đại truyền thông đa phương tiện ngày nay các bạn cần phải biết tất cả những sự thật, những điều trắng đen rõ ràng để tự xây dựng cho mình những tư duy sống, những quan điểm tự nhiên chứ không phải những ý thức hệ bị cưỡng bức, những tư tưởng bị chỉ đạo.

Cuối cùng, tôi muốn gửi thông tin này đến tất cả mọi người dân với mong muốn rằng nhân dân chúng ta đều càng ngày càng được cởi mở hơn trong tiếp nhận thông tin, tiếp nhận sự thật. Những sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và dần dần cần được giải mã trước công chúng. Những sự việc gây ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước cần phải được minh bạch và công khai. Từ đó mỗi người dân cần có thái độ và đóng góp trách nhiệm của mình một cách rõ ràng trước những điều hệ trọng của đất nước. Nhân dân cần phải thay đổi thói quen chấp nhận để đời sống chính trị bị lệ thuộc bởi một cá nhân nào, một đảng phái nào, hay một thể chế nào, một chính phủ nào, mỗi người phải có quyền và nghĩa vụ tự quyết định cho riêng mình trong một xã hội văn minh, dân chủ.”

Hà Nội ngày 9 tháng 10 năm 2006.

Ông Hoàng Dũng cán bộ văn phòng Trung Ương Đảng xác nhận:

“cụ Hồ có một ấn tượng và thiện cảm đặc biệt với những người phụ nữ Nam bộ. Biết thế nên Bộ chính trị đã chỉ đạo cho Trung ương cục miền Nam, mà lúc này Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung ương cục, phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ chính trị.”

Chú thích: (Dẫn từ tài liệu trên)

Để soi sáng sự thật về việc Trung ương Cục miền Nam tuyển chọn các cô gái trẻ đẹp đưa ra Bắc để phục vụ Hồ Chí Minh và Bộ chính trị.

Chúng tôi đưa ra đây một nhân chứng sống trong nước, thuật lại trường hợp của Bà. Các bạn hãy đọc một tài liệu do chính nạn nhân viết:



“Lần Gặp Bác Hồ Tôi Bị Mất Trinh”

Huỳnh Thị Thanh Xuân

Năm 1964, tôi được cơ quan và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam cho ra miền Bắc học văn hóa, đi bộ trên 3 tháng vượt Trường Sơn ra Hà Nội. Trường hành chính gần cầu Giấy, Hà Nội là nơi đón tiếp chúng tôi đầu tiên. Năm đó tôi mới 15 tuổi. Bởi vì sống trong vùng tạm chiếm của Mỹ - Diệm nên hiểu biết của tôi về Bác Hồ rất chi là ít ỏi.

Tôi đã sớm giác ngộ cách mạng, đã tham gia làm giao liên hợp pháp cho Thành ủy, Biệt động thành Đà Nẵng và Huyện ủy Điện Bàn, Đại Lộc. Cho đến khi lên chiến khu, tôi được ba tôi và các chú trong cơ quan dạy bảo thêm về tiểu sử của "Bác Hồ" - nhà ái quốc vĩ đại của dân tộc ta. Phải lúc bấy giờ " Bác " như là thần thánh trong đầu tôi .Trước khi tôi ra miền Bắc, ba mẹ tôi ôm tôi ngồi trên chõng tre căn dặn: “Con ơi, ra đến miền Bắc nếu được gặp Bác Hồ, con nói ba mẹ và gia đình mình cũng như các cô chú trong cơ quan gởi lời thăm sức khỏe của Bác. Con phải cố gắng học thật tốt để sau này về phụng sự quê hương nghe con”. Lúc đó tôi chỉ biết im lặng.

Thật là vinh dự biết bao cho bản thân, gia đình và quê hương chúng tôi, tôi có tên trong danh sách gặp Bác Hồ. Đó là lúc 17 giờ ngày 30-8-1964. Sau khi ăn cơm chiều về có lệnh tập trung, bác Tố- Hữu - người phụ trách chung - nói: “Các cháu có danh sách sau đây ở lại cùng với anh Hanh phụ trách đội thiếu niên tiền phong”. Bác Hữu đọc: “... Lập, Lộc, Dung (con bác Nguyễn Hữu Thọ), Đệ, Hòa (Khánh Hòa), Độ, Đâu và Thanh, Kiến (QNĐN)”. Bác Hữu nói: “Các cháu chuẩn bị tư trang, sau 20 phút tập trung lên xe và được đi gặp Bác Hồ”. Nghe vậy, tất cả chúng tôi có tên trong danh sách reo ầm cả lên làm vang dội cả phòng. Trong lòng ai nấy đều phấn khởi chạy về phòng thay áo quần, quàng khăn đỏ, chải đầu tóc gọn gàng rồi chạy xuống cầu thang (lúc đó chúng tôi ở tầng 3 nhà A1 của Trường hành chính Hà Nội). Xuống khỏi cầu thang chúng tôi thấy có 4 xe đậu trước cửa, 2 xe Vônga - 1 xe màu đen, 1 xe màu cà phê sữa - và 2 xe com măng ca màu rêu. Tôi nhanh chân nhảy lên chiếc xe Vônga ở gần cùng với Ba Đen và anh Hanh phụ trách. Đoàn chúng tôi gồm 16 người lên xe đầy đủ. Chiếc xe từ từ lăn bánh rẽ tay trái đến cầu Giấy đi thẳng đường đê Bưởi rồi rẽ phải vào đường Hoàng Hoa Thám, đến đường Hùng Vương chạy từ từ và dừng lại. Một chú công an mở cổng và đoàn chúng tôi đi bộ vào dọc theo con đường rải đá sỏi nhỏ, hai bên trồng nhiều cây cảnh đều và gọn đẹp.

Gần đến nhà khách, chúng tôi thấy xuất hiện ông già mặc bộ đồ kaki màu xám với đôi dép cao su đen đang từ từ đi ra nở nụ cười phúc hậu. Bỗng anh Hanh và tất cả chúng tôi reo lên: “Bác Hồ!” rồi thi nhau chạy đến ôm chầm lấy Bác. Chúng tôi tranh nhau ôm chặt lấy Bác, còn Bác thì xoa đầu và vỗ lưng chúng tôi rồi Bác dẫn chúng tôi cùng đi vào nhà và bước lên cầu thang tầng 2. Chúng tôi ríu rít như đàn chim được tụ về tổ ấm. Lên khỏi cầu thang rẽ tay phải đi vào phòng họp mặt, lúc đó chúng tôi và các chú, các bác đi cùng với Bác ngồi vào từng ghế quây quần xung quanh chiếc bàn lớn. Câu đầu tiên Bác nói: “Dân chố gộ có mặt đây không?” (ý nói vui người dân QNĐN). Bạn Dung ngồi gần chọc nách và nói “có ạ”. Bác nói tiếp: “Dân dưa cải mắm cái có không?” (ý nói chỉ người địa phương Quảng Ngãi), tất cả chỉ qua phía Ba Đen (người dân tộc Tây nguyên). Ba-Đen nói “có ạ”. Bác lại nói: “Dân đầu gấu (đầu gối chân) có không?” (ý nói người quê ở Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận). Tất cả chúng tôi rất khó chiụ với sự giả tiếng và hỏi một cách kỳ cục của Bác. Sau đó Bác chỉ qua phía bạn Hòa..., rồi Bác nói tiếp: “Các cháu ăn mích chính ích ích thôi nghen” (ý nói quê ở Nam bộ). Tất cả lại chúng tôi lại không biết Bác nói gì nữa, sao bác diễu dỡ quá vậy (HCM nói tiếng lóng), những gì tôi học được về Bác khi còn ở miền Nam hoàn toàn ngược lại khi tôi gặp con người bác thật sự .

Bác nói: “Hôm nay là ngày vui mà Bác cháu chúng ta gặp nhau, như vậy chúng ta lại hát bài Kết đoàn”. Bác vẫy tay bắt nhịp cùng chúng tôi, hội trường lúc này ngày càng tươi vui náo nhiệt. “Kết đoàn chúng ta là sức mạnh, kết đoàn chúng ta là sắt gang...”. Khi mà chúng tôi say sưa hát thì bác đi bóp vai những đứa con gái, tới chỗ tôi thì bác không những xoa lưng tôi mà bác còn để cho bàn tay đi xuống hai bờ mông của tôi xoa xoa bóp bóp làm cho tôi thâý rất là khó chịu, nhưng tôi không dám lên tiếng, đành đứng yên chiụ thôi . Trước mắt chúng tôi là bánh cức chó và kẹo bột cám ngào đường và nước chè xanh mà Bác cho dọn sẵn, Bác nói: “Mời các cháu cùng ăn với các bác cho vui”. Nói xong, Bác giới thiệu với chúng tôi: “Bác là Hồ Chí Minh, còn đây là bác Phạm Văn Đồng, người dưa cải đấy! Và đây là bác Trường Chinh, bác Võ Nguyên Giáp, bác Lê Thanh Nghị, các bác ở Bộ Chính trị hôm nay cũng có mặt với các cháu”. Bác đang nói thì thấy một ông già từ từ đi vào, miệng cười, vừa đi vừa vỗ tay, Bác Hồ giới thiệu luôn: “Đây là bác Tôn của các cháu”, cả phòng lại vỗ tay một lần nữa. Bác đi đến từng người trong chúng tôi và ôm hôn mỗi người một cái.

Đến lượt tôi được Bác hôn vào môi tôi một cách say đắm, lưỡi của bác còn thò vào miệng tôi ngoáy ngoáy , ngay lập tức tôi nhổm dậy và né khuôn mặt tôi qua một bên . Lúc này tôi muốn nói về tình cảm gia đình tôi, quê hương tôi với Bác nhưng bàn tay của bác không chiụ dừng lại sau bờ mông của tôi , còn tôi thì nghẹn ngào và mắc cỡ, rồi Bác lướt qua bạn bên cạnh. Tự dưng tôi chảy nước mắt, tôi thấy Bác Hồ này có gì kỳ cục qúa không giống như bác hồ mà chúng tôi học được trong miền Nam.

... Bác nói: “Bây giờ có cháu nào đứng lên hát cho các chú và các bác ở đây nghe một bài nào?”. Lúc này các bạn nhìn lẫn nhau vì đột ngột quá và thấy mắc cỡ không ai chuẩn bị kịp. Sau đó, anh Hanh chỉ Dung hát một bài. Bạn Dung hát: “Ngày con mới ra miền Bắc con còn bé xíu như là cái hạt tiêu...”, hát xong Dung nhận được một tràng vỗ tay khích lệ. Đến bạn Hòa mạnh dạn đứng lên hát bài: “Vui họp mặt. Từ ngàn phương về đây cùng nhau đoàn kết cùng đi tới tương lai...”, lại một tràng vỗ tay khích lệ nữa vang lên. Sau đó Bác nói: “Bác đại diện các chú ở đây căn dặn các cháu mấy điều. Bác biết các cháu ngồi đây là ở khắp các địa phương của miền Nam, Bác muốn gặp tất cả các cháu cũng như gia đình của các cháu và toàn thể đồng bào miền Nam song điều kiện chưa cho phép, đất nước đang bị chia cắt nhưng các cháu tin tưởng một ngày không xa Tổ quốc ta được thống nhất, gia đình chúng ta được sum họp, Bác sẽ có điều kiện đi thăm hỏi. Các cháu viết thư hoặc nhắn tin cho gia đình là Bác và các chú ở đây gửi lời thăm gia đình và bạn bè các cháu ở miền Nam”. Một tràng vỗ tay nữa lại vang lên trong không khí trang nghiêm và ấm cúng. Bác Hồ nói tiếp: “Các cháu đã ra đến miền Bắc xã hội chủ nghĩa rồi đấy. Bác mong các cháu ngoan, học giỏi để xứng đáng là cháu ngoan của Bác. Các cháu là những " hạt giống đỏ " của đồng bào miền Nam gửi ra đây học tập cho nên phải làm sao cho xứng đáng với lòng mong mỏi đó. Bác chúc các cháu ngoan, khỏe, vui và học tập thật giỏi”.

Nói xong, Bác Hồ quay qua bên cạnh hỏi: “Các chú có ý kiến chi không?” (ý hỏi ý kiến các bác trong Bộ Chính trị có mặt lúc đó). Các bác đều không nói thêm và tán thành ý kiến với Bác. Bác nói tiếp: “Bây giờ các cháu xuống dưới xem phim”. Chúng tôi đứng lên và đi xuống với Bác, bạn thì đi cạnh bác Tôn, bạn thì đi cạnh bác Đồng, bác Duẩn, bác Chinh, bác Giáp, bác Nghị...

Vào phòng chiếu phim ở tầng 1, Bác chiêu đãi bộ phim thiếu nhi miền Nam đánh Mỹ (phim hoạt hình). Lúc đó tự nhiên tôi thấy vinh dự đến lạ kỳ, một niềm vui khó tả, Bác Hồ ngồi cạnh tôi, bác ôm chặc tôi , một tay choàng qua vai tôi và xoa xoa lên ngực tôi, bộ ngực mớí lớn của một cô gái miền Nam .

Khi đèn phòng bật sáng Bác hỏi về gia đình tôi và cuộc hành trình của tôi đi bộ vượt Trường Sơn hơn 3 tháng như thế nào kể cho Bác nghe. Bác xoa đầu và hôn lên trán tôi hai cái rất lâu, tôi nhớ rất kỹ, tôi kể sơ về hoạt động giao liên của tôi cho Bác nghe và nhớ đến lời căn dặn của ba mẹ tôi cùng các chú trong cơ quan, ba tôi ở chiến khu Đại Lộc QNĐN thế nào. Ngồi một lúc, Bác đi qua bên con Hoa, Con Lan và tôi thấy bàn tay của bác cũng không bao giờ chịu làm biếng .

Đêm hôm đó tôi được một chị thư ký của bác nói nhỏ cho tôi biết là tôi hân hạnh được bác muốn cho gặp riêng bác, có những chuyện bác muốn hỏi tôi nhưng vì sáng nay đông quá bác không tiện. Khi tôi cùng Chị Nhàng đi tớí chổ Bác ở thì tôi được Chị Nhàng dẫn đi tắm rữa sạch sẽ và chị Nhàng nhìn tôi trong đôi mắt u buồn và tội nghiệp .Tôi được chị Nhàng dẫn đi qua một hàng lang, và tớí phòng ngủ của bác, chị Nhàng gõ cữa ba tiếng cánh cửa mở ra, Chị Nhàng bảo tôi đi vào và chị xoay lưng bỏ đi . Khi tôi vào lòng Bác ôm chầm lấy tôi, hôn môi tôi , hai tay bác xoa nắn khắp người tôi, Bác bóp hai bờ ngực nhỏ của tôi, bác bóp mông tôi, bác bồng tôi lên thều thào vào trong tai tôi :

- Để bác cấy hạt giống đỏ cho cháu, cháu mang về miền Nam cho bác nhé.

Bác bồng tôi lên giường, hai tay bác đè tôi ra và lột áo quần tôi. Bác như một con cọp đói mồi , sau một hồì kháng cự tôi biết mình không thể nào làm gì hơn nên đành nằm xuôi tay... Hai hàng lệ một cô gái miền Nam vừa tròn 15 tuổi đã bị bác cướp đi mất cái trong trắng.

Những đêm sau mấy đứa con gái khác cũng được dẫn đi như tôi, tôi biết là chuyện gì sẽ xảy ra với chúng, nhưng chúng tôi không ai dám nói với ai lời nào. Và qua cái chết của con Lành và con Hoa thì những ngày sau đó chúng tôi sống trong hoang mang và sợ sệt không biết là khi nào tới phiên của mình .

Cho đến khi thống nhất nước nhà, ba mẹ tôi không còn nữa, đã hy sinh cho độc lập dân tộc, song họ hàng tôi vẫn vui lòng, bởi vì tôi đã thay mặt gia đình và các cô chú trong cơ quan cũng như bạn bè tôi được vinh dự gặp Bác Hồ. Nhưng có ai biết được rằng sau cái gọi là vinh danh gặp bác hồ là chuyện gì xảy ra đâu . Kể cả chồng tôi khi hỏi tới trinh tiết của tôi, tôi cũng không dám nói, vì anh ấy là một đảng viên cao cấp, là một người lảnh đạo của tỉnh QNDN. Tôi chỉ nói là khi đi công tác tôi bị bọn ngụy quân bắt tôi và hãm hiếp tôi, chứ làm sao tôi dám nói tôi bị hãm hiếp lúc mới 15 tuổi và bị hãm hiếp ngay phủ chủ tịch và chính là " Bác hồ " hãm hiếp tôi, cho chồng tôi nghe .

Bây giờ ngồi đây tự điểm mặt lại trong số chúng tôi được vinh dự gặp Bác Hồ hơn 40 năm trước đây, chúng tôi đều trưởng thành, ngôì ngậm nguì nhớ laị những đứa bỏ xác lại trong phủ chủ tịch và không bao giờ về lại được miền Nam. Tự nghĩ lại, chúng tôi thấy rất thấm thía lời Bác Hồ đã dạy: “Bác sẽ cấy những hạt giống đỏ của bác cho đồng bào miền Nam”.(3)

Quảng Nam-Đà nẵng (QNĐN) Ngày mùng 2 tháng 9 năm 2005
Huỳnh Thị Thanh Xuân

Đây là một đại bi kịch vô tiền khoáng hậu. Không phải chỉ cho Huỳnh thị Thanh Xuân và cha mẹ cô, những ngừơi nhiệt tình cách mạng và khát khao lý tưởng độc lập tự do. Với Hồ chí Minh trong niềm tin của họ. Đó là một vị anh hùng “hoàn hảo” về lòng ái quốc lẫn nhân cách mà cha mẹ Xuân, cùng các đồng chí gởi gắm niềm tâm sự, tình cảm mến phục “Bác Hồ” với bao nhiêu khát vọng nung nấu cả trong tuổi thơ: “Năm 1964, tôi được cơ quan và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam cho ra miền Bắc học văn hóa, đi bộ trên 3 tháng vượt Trường Sơn ra Hà Nội. Trường hành chính gần cầu Giấy, Hà Nội là nơi đón tiếp chúng tôi đầu tiên. Năm đó tôi mới 15 tuổi. Bởi vì sống trong vùng tạm chiếm của Mỹ - Diệm nên hiểu biết của tôi về Bác Hồ rất chi là ít ỏi.

Tôi đã sớm giác ngộ cách mạng, đã tham gia làm giao liên hợp pháp cho Thành ủy, Biệt động thành Đà Nẵng và Huyện ủy Điện Bàn, Đại Lộc. Cho đến khi lên chiến khu, tôi được ba tôi và các chú trong cơ quan dạy bảo thêm về tiểu sử của "Bác Hồ" - nhà ái quốc vĩ đại của dân tộc ta. Phải lúc bấy giờ " Bác " như là thần thánh trong đầu tôi .Trước khi tôi ra miền Bắc, ba mẹ tôi ôm tôi ngồi trên chõng tre căn dặn: “Con ơi, ra đến miền Bắc nếu được gặp Bác Hồ, con nói ba mẹ và gia đình mình cũng như các cô chú trong cơ quan gởi lời thăm sức khỏe của Bác. Con phải cố gắng học thật tốt để sau này về phụng sự quê hương nghe con”. Lúc đó tôi chỉ biết im lặng.”

Bác Hồ vĩ đại trong mơ với đủ những phẩm chất cao quý nhất... thì đây là một bác Hồ bằng xương bằng thịt thật “Đêm hôm đó tôi được một chị thư ký của bác nói nhỏ cho tôi biết là tôi hân hạnh được bác muốn cho gặp riêng bác, có những chuyện bác muốn hỏi tôi nhưng vì sáng nay đông quá bác không tiện. Khi tôi cùng Chị Nhàng đi tớí chổ Bác ở thì tôi được Chị Nhàng dẫn đi tắm rữa sạch sẽ và chị Nhàng nhìn tôi trong đôi mắt u buồn và tội nghiệp .Tôi được chị Nhàng dẫn đi qua một hàng lang, và tớí phòng ngủ của bác, chị Nhàng gõ cữa ba tiếng cánh cửa mở ra, Chị Nhàng bảo tôi đi vào và chị xoay lưng bỏ đi . Khi tôi vào phòng Bác ôm chầm lấy tôi, hôn môi tôi , hai tay bác xoa nắn khắp người tôi, Bác bóp hai bờ ngực nhỏ của tôi, bác bóp mông tôi, bác bồng tôi lên thều thào vào trong tai tôi :

- Để bác cấy hạt giống đỏ cho cháu, cháu mang về miền Nam cho bác nhé.

Bác bồng tôi lên giường, hai tay bác đè tôi ra và lột áo quần tôi. Bác như một con cọp đói mồi , sau một hồì kháng cự tôi biết mình không thể nào làm gì hơn nên đành nằm xuôi tay... Hai hàng lệ một cô gái miền Nam vừa tròn 15 tuổi đã bị bác cướp đi mất cái trong trắng.

Những đêm sau mấy đứa con gái khác cũng được dẫn đi như tôi, tôi biết là chuyện gì sẽ xảy ra với chúng, nhưng chúng tôi không ai dám nói với ai lời nào. Và qua cái chết của con Lành và con Hoa thì những ngày sau đó chúng tôi sống trong hoang mang và sợ sệt không biết là khi nào tới phiên của mình.”

Cái giá phải trả cho niềm tin ngây thơ quá lớn lao với bao nhiêu sự hy sinh xương máu của nhiều triệu người, nhiều thế hệ mà chẳng được gì!!!

Trong tất cả sự oan uổng ấy! Thì các cô gái bị hãm hiếp và bị giết chết tức tưởi trong Dinh Chủ tịch là bất hạnh hơn cả!

Trong cái đau chung của dân tộc! Chúng tôi hy vọng các nhà ngoại cảm Việt Nam có lương tâm, hãy làm sáng tỏ vấn đề này bằng cách liên hệ với các oan hồn cô gái chết trong dinh chủ tịch.


Thêm một nhân chứng khác:

Gần đây GS. Lê Văn Lan, Chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử miền Bắc, kỳ Đại Hội Đảng Cộng Sản VN X 2006 đã đòi ông Nông đức Mạnh, Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản VN bạch hóa một số vấn đề bí ẩn về Hồ Chí Minh. GS. viết:

*

Đóng góp ý kiến của Giáo Sư Sử Học Lê Văn Lan, chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Miền Bắc

Ngày 10/9/2005 tôi đã nhận được giấy mời (kèm theo những dự thảo văn kiện) tham dự hội nghị đóng góp ý kiến cho những văn kiện lịch sử tại Đại Hội 10 của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Là người trực tiếp nghiên cứu đề tài Lịch Sử Cận Đại Việt Nam. Tôi xin phép được trình bày những ý kiến ngắn gọn và chủ chốt như sau:

1. Công bố toàn bộ bản di chúc gốc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh trên các phương tiện thông tin đại chúng.

2. Công nhận chính thức anh Nguyễn tất Trung hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội là con trai duy nhất của Chủ Tịch Hồ Chí Minh khi người là chủ tịch nước (nhân chứng là gia đình ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của Hồ Chủ Tịch trong những năm cuối đời).

3. Đề nghị đồng chí Nông Đức Mạnh trả lời rõ ràng trước báo chí thế giới và trong nước về vấn đề nghi vấn đồng chí Nông Đức Mạnh là con của Chủ Tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn không có cơ sở lịch sử cũng như sinh học (có thể kiểm chứng DNA).

4. Đề nghị làm rõ sự liên quan của Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Trần Quốc Hoàn trong vụ án hiếp dâm và tai nạn xe (còn rất nhiều bí ẩn) tại Hà Nội mà người bị nạn là bà Nông (Nguyễn) Thị Xuân người Nùng thân mẫu của anh Nguyễn Tất Trung. Nhân chứng là:

- Ông Nguyễn Minh Cần – cựu phó chủ tịch Ủy Ban Hành Chính Thành Phố hà Nội.

- Ông Lê Giản – bộ trưởng nội vụ đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

- Ông Lê Quốc Thân hồi đó là giám đốc Sở Công An Hà Nội, về sau là thứ trưởng Bộ Công An.

- Ông Trần Danh Tuyên – cựu bí thư thành ủy kiêm phó chủ tịch Uy Ban Hành Chánh Thành Phố.

Tôi biết rằng những ý kiến đóng góp của tôi có thể gây sốc cho nhân dân. Nhưng khi Đảng đã tin mà hỏi thì chẳng có lẽ gì mà không đặt vấn đề một cách thật tâm. Với một người mang nợ viết, nghiên cứu lịch sử thì khổ tâm nhất là không được nói thật và lừa dối nhân dân lao động, tôi mong rằng bức thư này sẽ đến tay nhân dân bằng mọi hình thức trước khi mọi việc được công bố để giảm sốc. Nếu có thể đề nghị anh Nguyễn Như Phong đăng lên báo An Ninh Thế Giới, tuy không phải là một tờ báo về chuyên ngành lịch sử nhưng có số độc giả là người Việt cao nhất trong nước cũng như người Việt sinh sống và làm ăn ở nước ngoài.

Hà Nội ngày 10 tháng 12 năm 2005

Lê Văn Lan

Chủ Tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Miền Bắc”

*
* *

Đầu năm 2007, ban lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN phát động phong trào Đạo Đức Hồ Chí Minh “Toàn Đảng toàn dân học tập đạo đức “Bác Hồ” ”. Khổ! Khi Hồ Chí Minh đã không có đạo đức rồi, thì lấy đâu ra đạo đức để dậy thiên hạ?

Đây quả là một quái chiêu quá đáng mà chỉ có Đảng Cộng Sản VN mới đủ ngu xuẩn và trâng tráo, mặt dầy hơn “cái L trâu” mới có thể tán dương, khen ngợi đạo đức Hồ Chí Minh. Ông ta là người như thế nào, thì tất cả mọi người Việt Nam đều rõ. Ông là cái giống gì?

Hồ Chí Minh tự tách mình ra khỏi gia đình, ra khỏi nhân dân. Khỏi cả giống nòi (ghét bỏ cả tiền nhân, xa lánh người gốc Việt Nam của ông, điều này còn được thể hiện rõ ngay cả khi sắp nhắm mắt lìa đời. Ông không màng đến tiền nhân chỉ mong được đi gặp cụ Các Mác, cụ Lenin. Ai còn hoài nghi xin xem di chúc… Và thái độ căm thù đồng bào mình cũng được thể hiện rõ ràng trong tư tưởng, hành động trong thời kỳ Cải Cách Ruộng Đất , làm chủ tịch nước theo hiến pháp, ông có thể ân xá cho một công dân nào đó. Nhưng điều này cũng tuyệt nhiên không xẩy ra. Khi ông còn sống, nhân dân đã nuôi ông và cả đảng của ông. Nay ông đã chết, nhưng vẫn còn là kẻ tiêu xài nhiều tiền của công sức của dân. Làm Chủ Tịch nhà nước nói là độc lập mà ông dâng Trường Sa, Hoàng Sa cho giặc, những kẻ kế tục sự nghiệp của ông cũng tiếp tục dâng đất dâng biển của Tổ Quốc cho giặc. Trong khi chúng lại thi nhau cướp đất của dân, chiếm cả ngân quỹ của quốc gia để tiêu xài riêng, còn riêng ông thì chiếm khu Ba Đình của dân.

Nói đúng hơn khu Ba Đình là cõi dành riêng cho một xác chết, và cũng là cõi nước riêng của một nhúm người sống bám theo xác chết, nấp dưới khẩu hiệu: “Cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư” của Hồ Chí Minh, là một bọn côn đồ lưu manh, từ trên xuống dưới, ăn hối lộ, buôn bán, làm ăn với bọn tư bản cá mập… Bên dưới chen chúc vài triệu đảng viên nghèo đói, thèm thuồng trước cảnh “phồn vinh giả tạo” của chủ nghĩa tư bản, và sức cám dỗ của đồng dollar. Họ bỏ cả lý tưởng cao đẹp của Bác lấy chút của cải phù du, bằng mọi thủ đoạn “móc nối”, “mánh mung”. Theo gương Trung ương đảng, bỏ cuộc đời vô sản, mà hồi này ở các quán trà Hà Nội, người ta bàn xuôi, tán ngược về cái lăng của Bác rất nhiều. Có người căm hận.. có người lại tỏ ra thương cảm cảnh ngộ của Bác. Họ bảo: “Bác ơi! Bác bị đảng nhốt quá lâu! Còn thằng con trai Nguyễn tất Trung bị Bộ Nội vụ quản lý khá kỹ. Nó sống cảnh cá chậu chim lồng. Trong khi bọn thằng Kiệt, Khải, Dũng, Triết đã đi máy bay phản lực siêu âm qua Mỹ Quốc, con cái chúng nó tất cả đều ăn học ở đó cả rồi. Bác có biết không? Phá hòm kính mau mau vượt biên bác ơi!”

Lấp theo xác chết, tiếp tục tự kỷ ám thị, hoặc lừa dối lẫn nhau, lừa dối nhân dân, lừa dối công luận quốc tế. Tiếp tục dùng cái lưỡi gỗ nói những điều cường điệu, hãnh tiến đến bao giờ…

Theo học thuyết Duy Vật, chết là chấm dứt một cách vĩnh viễn vứt lại tất cả những thành quả cách mạng phấn đấu gian khổ của đời người làm cách mạng, bỏ lại của cải, trái lại ông càng vơ vét nhiều hơn… và điều quái đản nhất là lúc hấp hối vẫn còn mê Các Mác Lenin.

Sự thực, ngay ở nơi quàn xác chết, hiển nhiên cũng đã trở thành chỗ kết bè, kéo cánh trong nội bộ đảng. Họ như những con động vật máu lạnh vẫn có ý định theo gót kẻ đã chết. Do đó lại đương nhiên thành chỗ xa cách người dân. Thì hãy ngó xem: Xung quanh lăng Hồ Chí Minh là các bộ… Hội trường Ba Đình, Quảng Trường Ba Đình… những đại lộ sạch sẽ tươm tất, những tàn cây xanh. Nhưng tuyệt nhiên người dân không ai dám qua lại, ngắm nghía… dù đó là nơi sạch đẹp nhất trong lòng thủ đô chen chúc “chật chội”. Tại sao lại như vậy? Trước hết là họ “sợ” Quảng trường Ba Đình, là cấm địa, là cửa tử, là cấm thành của các Triều Đại Cộng Sản. Thứ hai là, họ cảm thấy xa lạ với khu Ba Đình. Khu vực đó không hề thể hiện hay phản ảnh cuộc sống của người dân thủ đô. Đối với họ Ba Đình không thuộc về nhân dân nữa. Không thuộc về đất nước này nữa. Nó thuộc về một nhóm thiểu số cầm quyền, những kẻ bệnh hoạn, không bình thường đều giấu mình ở đây, bằng sự cuồng tín tàn bạo. Ba Đình rộng rãi, nhưng ích kỷ, đê tiện. Nó thoáng đãng nhưng lại lạnh lẽo, nó mát mẻ nhưng cái mát mẻ tử khí.

Còn cái khẩu hiệu “không gì quý hơn độc lập tự do” to tướng rất vàng ở trước lăng Hồ Chí Minh thì sao? “Điếm”. Tất nhiên là có cái thứ tự do cho phe nắm quyền: tự do cướp đoạt, tự do tham nhũng, tự do đàn áp… Còn đối với dân ở dưới thì chẳng có gì!

Khi bác còn sống, thông cảm với thứ dân ở dưới, nên mới “bố thí” cho sổ gạo, ban phát cho tem phiếu vải… để tỏ ra mình độ lượng như Hoàng Ðế đối với tiện dân, mà cái tôn nghiêm của Hoàng Ðế vô Sản tất phải đặt ở trên cao, còn thần dân thấp hèn tất phải ở dưới đất!

Trên thế giới này chưa hề có quốc gia nào lại phân loại người chết để an táng tùy theo cấp bậc, tùy theo loại dân một cách tỉ mỉ như chế độ Đảng Cộng Sản VN. Chỉ có cái học thuyết “đấu tranh giai cấp” làm cho nhân dân “sợ” để tự nó làm cho khoảng cách giữa dân và lãnh tụ, giữa quan và dân ngày càng xa lạ với chính quyền.

Qua biểu tượng lăng Hồ Chí Minh, tự nó đào hào xây thành kiên cố để cố thủ bằng tất cả mọi phương tiện dồi dào từ công sức của người dân!

Đảng Cộng Sản là một thực thể đối lập hoàn toàn với dân tộc. Ba Đình bây giờ chỉ thỉnh thoảng có quốc khách đến, mà ai đến Hà Nội họ cũng cố gạ gẫm đến thăm lăng Hồ Chí Minh. Ngay cả đối với sư ông Nhất Hạnh họ cũng cứ nài ép mãi. Sư có thuật lại chuyến đi về Việt Nam vào mùa xuân 2005, sư ông cho biết: “đã nhiều lần sư bị chính quyền Cộng Sản yêu cầu phải đi thăm lăng Hồ Chí Minh mới được về nước hoằng pháp, nhưng sư ông đã từ chối! Đó là một lý do chính khiến nhiều lần chuyến hồi hương của sư ông đã phải hoãn bỏ.

Trong bài Pháp thoại ngày cuối cùng sau khóa tu 5 ngày tại tu viện Lộc Uyển, thành phố Escondido ở miền Nam California Hòa Thượng cũng cho biết chính quyền Cộng Sản đã gây rất nhiều trở ngại trong cuộc hành hương ba tháng của ông. Ngay từ khi chính quyền Cộng Sản chịu thương thuyết để ông về nước, họ đã yêu cầu sư ông phải đến thăm lăng Hồ Chí Minh, thường gọi là “Lăng Bác” ở Hà Nội. Lời yêu cầu này đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần mỗi khi đại diện của Hà Nội gặp gỡ nhân viên chính quyền ở Tòa Đại Sứ Pháp cũng như ở trong nước. Mỗi cuộc thương thuyết gián đoạn, khi nối tiếp lại đến lần khác lại nhắc yêu cầu đó và lại bị từ chối. Ngay cả khi HT Thích Nhất Hạnh đi thăm chùa Một Cột ở Hà Nội, các cán bộ Cộng Sản cũng tìm cách dẫn đưa tăng đoàn Làng Mai qua khu mộ Hồ Chí Minh, nhưng HT đã bình tĩnh và cương quyết chọn đường khác khi phái đoàn rời khỏi chùa”.

Ban lãnh đạo ÐCộng Sản VN lầm to! Sư ông Nhất Hạnh vừa là một vị giáo chủ, vừa là một chính trị gia ngoại hạng. Lẽ nào ngài lại gánh vác lấy những phiền phức vào thân! Sư ông là nguồn thức trí tuệ… nên biết đây là “cạm bẫy” vào thăm lăng Hồ Chí Minh sẽ chôn vùi sự nghiệp thiên tài của sư, và sẽ bị đánh hội đồng, khó có đường ra!

Ở phương diện xã giao ép nài như thế thì còn gì là lịch sự, văn minh, văn hóa. Thật cổ quái, “bẩn”. Đã vậy ai họ cũng cứ mời gọi, mặc dù khách rất khiêm nhã thường bảo rất tiếc…, nhưng bọn lao chao vô liêm sỉ, không biết hổ thẹn, không biết nhục! Rút cục lại chỉ có những buổi Đại Hội Đảng, hay Quốc Hội họp, thì những tay lãnh đạo đảng sắp hàng theo cấp bậc thứ tự vào lăng trước khi khai mạc. Nó là nơi tụ tập của những tay bự trong đảng tranh ăn, tranh quyền lực quanh xác chết Hồ Chí Minh. Kẻ khi còn sống thèm khát hư danh và quyền lực, bỏ hết cả tình nghĩa vợ con đồng bào. Điều này dường như là “vết xe đổ” của các tay lãnh đạo Đảng Cộng Sản VN.

Ghi Chú:

* (1) Bức thư mật liên hệ đến Hồ Chí Minh của vợ chồng Nguyễn Thị Vàng gửi chủ tịch Quốc Hội Việt Nam.

* (2) Bức thư mật liên quan đến cuối đời Hồ Chí Minh (lưu giữ tại văn phòng chủ tịch quốc hội Việt Nam) của (vợ chồng Nguyễn Thị Vàng).

* Những con số 3, 4, 5 đều dẫn từ tài liệu trên.

* (3) “Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn Luận”, số 68, trang 27&28.


Lời giới thiệu: Bạn đọc thân mến, nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm Thăng Long 1000 năm Lịch sử. Một đề tài đặc biệt được mọi người chú ý. Chúng tôi sẽ đưa lên mạng để phục vụ các bạn trong và ngoài nước một số chương trong tác phẩm “Thăng Long Xưa Hà Nội Nay” của nhà văn Trần Nhu.

Dưới ngòi bút nghệ thuật và sự thấm thấu lịch sử của ông, văn hiến Thăng Long và văn hóa Việt đã đạt tới chỗ tinh yếu với những trang chữ lấp lánh như châu ngọc. Nhưng khi ông viết về “Hà Nội Nay” thì chữ nghĩa lại bốc lửa, tác phẩm này nếu được phổ biến rộng rãi trong nước, chế độ Cộng Sản sẽ sụp đổ hoàn toàn. Điều quan trọng là sự thật được phanh phui, lột trần, một nỗ lực tiếp cận khó ai đạt tới. Bạn cứ xem rồi bạn sẽ thấy những cái chưa từng thấy....

Sách sắp xuất bản.
Bùi Kiến An.

No comments: