Tưởng niệm Giáo-sư Thu-Tâm Võ Thu Tịnh
02/7/1920 -- 01/2/2010
Đạo giáo du nhập vào Việt Nam
Võ Thu Tịnh
I.- Quá trình du nhập và hình thành
Đạo giáo từ một học thuyết trở thành một tôn giáo, thờ và tôn Lão-tử làm giáo chủ, gọi là Thái thượng Lão quân, coi như là hóa thân của Đạo giáng thế. Đạo giáo truyền sang Việt Nam, chia thành hai phái: Đạo giáo Phù thủy dùng pháp thuật trừ tà, trị bệnh giúp người dân quê khỏe mạnh, và Đạo giáo Thần tiên dạy tu tiên, luyện thuốc trường sinh bất tử cho giới quí tộc.
1.- Đạo giáo Phù Thủy
2.- Đạo giáo Thần tiên
Đạo giáo Thần tiên tại Việt Nam chia thành hai phái: phái nội tu và phái ngoại dưỡng.
a)-Phái Nội Tu
b)- Phái Ngoại dưỡng cho rằng con người có thể thành tiên sống lâu bất tử nhờ uống thuốc trường sinh (kim đan).
Giới sĩ phu ta ngày xưa thường tổ chức 'cầu tiên' (hay phụ tiên) ở tư gia hay ở các đền như Ngọc Sơn (Hà Nội), Tản Viên Sơn Tây), Đào xá Hưng Yên ở miền Bắc. Ở miền Nam sau nầy, do các cuộc cầu tiên, mà Đạo Cao Đài ở miền Nam phát sinh, thờ cả ba giáo chủ Thích ca, Lão tử, Khổng-tử.
II. Ảnh hưởng của Đạo giáo tại Việt Nam
1.- Phạm vi chính trị
Vào cuối thế kỷ 19, khi quân Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta, có Mạc Đỉnh Phúc (cháu 18 đời nhà Mạc) dùng thuật phép thuật để phát động cuộc khởi nghĩa năm 1895 ở các tỉnh miền biển Bắc phần, tuyên truyền mình có phép thần thông làm cho đạn Pháp bắn ra quay trở lại bắn quân Pháp. Năm 1916, Võ Trứ ở Bình Định và Trần Cao Vân ở Quảng Nam phò vua Duy Tân chống Pháp, nghĩa quân đeo bùa cho đạn Pháp bắn không chết. Nguyễn Hữu Trí ở Tà Lơn (sau núi Cấm, Nam phần) tôn Phan Xích Long làm Hoàng đế, đồn rằng ông là con vua Hàm Nghi, có nhiều phép lạ làm cho súng Pháp không nổ và lập nhiều hội kín ở Nam phần lôi cuốn hàng vạn người hoạt động chống Pháp.
2.- Phạm vi tư tưởng văn học
Về nếp sống và văn thơ, mặc dầu không mấy ai thật sự là tín đồ một phái nào của Đạo Giáo, nhưng hầu hết các nhà Nho Việt Nam, qua Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, hay thi văn cổ Trung Hoa, đều chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp những tư tưởng của Lão-tử, Trang-tử.
Trong những nhà Nho đã thoát ra khỏi cuộc đời, đi ở ẩn để tiêu diêu tự tại giữa thiên nhiên, trước hết có Nguyễn Trãi (1380-1442) một công thần giúp Lê Lợi đuổi quân Minh, giành lại độc lập cho nước ta. Sau khi vua Lê Thái Tông mất, bị gian thần gièm pha, ông cáo quan về ẩn tại Côn Sơn (Hải Dương). Ông cũng có nhiều câu thơ ca tụng thú thanh nhàn (một bầu phong nguyệt) tiêu dao tự tại giữa thiên nhiên, đúng với lời dạy bảo trong Đạo thường mà không còn nghĩ đến sự đua tranh:
Một bầu phong nguyệt nhàn tự tại,
Hai chữ công danh biếng vả về. (Quốc Âm Thi Tập bài số 155) (1)
...Chữ nhàn xưa chép lời truyền bảo,
Khiến chớ cho qua một Đạo thường. (Quốc Âm Thi Tập bài số 128)
... Ở thế an nhàn chẳng có sự,
Nghìn muôn tấn nhượng, chớ đua tranh! (Quốc Âm Thi Tập bài số 136)
Qua thế kỷ 15-16, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), đỗ trạng nguyên năm 1535, thời nhà Mạc, làm quan 8 năm, xin về hưu (1544), đưọc vua Mạc phong tước Trình Tuyền Hầu (ngụ ý khen tài đức như Trình Y Xuyên, Trình Minh Đạo bên Trung Hoa) nên được gọi là Trạng Trình. Thật ra, ông đã theo phép xuất xử của Nho giáo (Gặp thời có chính nghĩa thì ra giúp đời, không thì đi ở ẩn: nhà Mạc vốn bị coi như là ngụy, tiếm ngôi vua Lê, có lẽ vì thế nên ông rút lui), mà cáo quan về ở ẩn, nhưng tư tưởng của ông lại thấm nhuần thuyết 'tính-tự-nhiên' của Trang-tử, như trong Bạch Vân Am thi tập có câu:
Làm người thìn (giữ gìn) được tính-tự--nhiên,
Dại dột nhìn ra có phận yên (BVATT bài số 53)
Tiêu diêu hưởng nhàn giữa cảnh hữu tình (thiên nhiên), không tranh đua, không cần ai khen chê:
Ngày ngày tiêu sái (thong thả) nhàn vô sự,
Tuy chửa là tiên, ấy ắt tiên. (BVATT bài số 22)
... Rồi nhàn thì nhẫn (đạt đến) tiên vô sự,
Ngẫm ngợi cho nên cảnh hữu tình. (BVATT bài số 15)
...Nhàn được thú quê dầu bao nả (bao nhiêu)
Nghĩ xem thế sự biếng đua tranh. (BVATT bài số 17)
...Dữ lành, miệng thế mặc chê khen. (BVATT bài só 39)
Phụ chú (1)
Các bài của Trạng Trình và của Nguyễn Trãi đánh số theo Xuân Phúc (Nguyễn Bỉnh Khiêm Le Bạch Vân am quốc ngữ thi tập, Nguyễn Trãi Quốc Âm thi tập. Các bài thơ của các cụ ngày xưa thường không có đề)
Nhưng quan trọng nhất là Nguyễn Công Trứ (1778-1858), ra làm quan, bận rộn với việc khẩn hoang lập làng nuôi sống cho dân nghèo, cầm quân đánh giặc chống loạn Cao Miên, mà vẫn tìm cách sống theo các thuyết Đạo giáo, như 'tri túc, tiêu diêu xoay xở để hưởng nhàn' (ngao du sơn thủy):
'Tri túc, tiện túc, đãi túc hà thời túc? tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn, hà thời nhàn? (biết đủ thì có đủ, còn đợi cho đủ, biết bao giò mới đủ? biết nhàn thì có nhàn, còn đợi cho nhàn, biết bao giờ mới nhàn?) theo thuyết 'tri túc bắt nhục' của Lão tử: nghĩa là biết đủ, khỏi bị nhục (Đạo Đức K inh, chương 44),
'Cầm kỳ thi tửu với giang san...' và 'Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn',
theo thuyết Tiêu Diêu hưởng lạc thỏa thích giữa thiên nhiên của Trang-tử (Tiêu Diêu Du),
'Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phới phới ngọn đông phong'
...'Người có biết ta hay thì chớ, chẳng viết, ta vẫn là ta.
Linh khâm bảo hợp thái hòa,
Sạch không trần tục ấy là thần tiên,
Ngang tàng lạc ngã tính thiên'
(Dù được, dù mất, ông vẫn bình thản như người thượng cổ, thiên hạ khen chê thế nào, ông vẫn là ông, trong tâm hồn có sự hòa đồng với vũ trụ, thoát tục thần tiên, vui thuận theo tính-tự-nhiên trời phú cho)
Phải chăng, Nguyễn Công Trứ là một nhà Nho đã dung hòa được cái hữu vi của Khổng giáo với cái vô của Lão Trang, trong tinh thần Việt hóa cố hữu của dân tộc ta.
Đến thế kỷ 19, Cao Bá Quát (1809-1854), bất mãn với Tự Đức mà ông cho là hôn quân, nên đang làm giáo thọ ở phủ Quốc Oai, ông bỏ theo làm quân sư cho Lê Duy Cự (1854), chống lại triều đình, thất bại bị xử tử. Nhiều bài hát nói, hay Đường thi của ông, cũng chịu ảnh hưởng Lão Trang:
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu,
Đem mộng sự đọ với chân thân thì cũng hệt.
Đời sống cũng giống như chiêm bao, cuối cùng chỉ còn có rượu và hưỏng nhàn mà thôi:
Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu,
Trầm tư bách kế bất như nhàn!
Đề tài đời và mộng lẫn lộn nhau, ảnh hưởng của chuyện Trang Chu chiêm bao làm bướm, đã được bao nhiêu văn thi sĩ lặp đi lặp lại, nhưng đặc biệt nhất có Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1888-1939) đã dông dài và sâu sắc hơn hết. Văn xuôi, ông có truyện dài 'Giấc mộng con' thuật lại một giấc chiêm bao thấy mình là một thanh niên, trốn sang Pháp để học hỏi thêm, làm quen với một thiếu nữ tên Chu Kiều Oanh 17 tuổi, cùng nhau ngao du khắp hoàn cầu, rồi lên đến thiên đình, bàn luận với các nhân vật Đông Tây. Tỉnh dậy, mới biết mình vừa chiêm bao, muốn viết thư cho Chu Kiểu Oanh, nhưng không biết gửi đi cách thế nào, đang mong được chiêm bao tiếp theo. Về thi ca, hiện nay bài 'Nhớ mộng' của ông còn được nhiều người truyền tụng:
Tỉnh rồi lại muốn mộng mà chơi.
Nghĩ đời ngán nỗi không bằng mộng,
Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán đời.
Những lúc canh gà ba cốc rượu
Với khi cánh điệp (bướm) bốn phương trời.
Tìm đâu cho thấy người trong mộng
Mộng cũ mê đường biết hỏi ai ?
3.- Phạm vi ứng xử với thời cuộc
Các nhà Nho ngày xưa thường theo chủ trương 'Công toại, thân thoái' (Đạo Đức Kinh, chương 9). Từ thời dựng nước, vị anh hùng cứu quốc Phù Đổng, sau khi ngăn chận xâm lăng thành công, liền phi thần mã rút lui không chịu hưởng công danh. Trong cuộc phò Lê Lợi kháng chiến chống quân Minh, lúc đầu Nguyễn Trãi cùng Trần Nguyên Hãn đến gặp Lê Lợi, Nguyên Hãn xem tướng Lê Lợi, cho đó là một nhân vật chỉ có thể cọng tác lúc khốn cùng, chớ không thể chung sống lúc thành công được, nhưng vì đại nghĩa kháng chiến cho độc lập quốc gia, nên cả hai đều theo phù giúp. Khi toàn thắng quân Minh, Trần Nguyên Hãn xin về vườn, nhưng một năm sau, bị vua buộc tội đồng lõa với phản loạn, ông nhảy xuống sông tự tử để khỏi bị chém đầu. Sau đó, Nguyễn Trãi xin về hưu ở Côn Sơn, nhưng cuối cùng vì vụ Thị Lộ mà cả gia đình bị tru di tam tộc (1442).
4.-Phạm vi tín ngưỡng
Ngày nay các phái Phù thủy, Thần tiên của Đạo giáo chắc là không còn tồn tại nữa. Các thành phần trẻ và có học nước ta cũng không ai tin tưởng những chủ trương vô vi nhi trị, trở về đời sống thái thượng dân số ít, dân trí kém do Lão tử đề xướng, nhưng rất có thể bị lôi cuốn theo lập trường không phân biệt thiện ác, sai đúng, khiến cho cuộc sống sinh ra bừa bãi, vô trách nhiệm, hoặc lẫn lộn hưởng nhàn với hành lạc sa đọa, hoặc theo gương Trang-tử, phản đối tất cả những luật lệ, thể chế chính trị, học thuyét, tín ngưỡng do người đời bày ra, đến mức có thể bị mất hết tin tưởng, sống ngoài lề xã hội, không biết quí trọng giá trị thiêng liêng của đời sống mà Trời đã phú cho.
Vì vậy các bậc đàn anh, có bổn phận giúp lớp hậu sinh tìm hiểu và đánh giá cho đúng mức những chủ trương, tư tưởng, học thuyết Trang-tử trong Đạo giáo để gạt bỏ những gì lỗi thời và tìm mọi cách Việt hóa những gì có thể giúp cho sự tiến bộ về tư tưởng cũng về khoa học cho dân tộc Việt Nam chúng ta.
Về bản năng Việt hóa của dân Việt, Paul Mus, một văn hào Pháp, đã nhận xét, "Ngay từ khi khai quốc, tất cả then chốt trong lịch sử Việt Nam biểu lộ ngay trong tinh thần chống đối luôn luôn hòa hợp, một cách trái ngược, với khả năng đồng hóa đáng ngạc nhiên những gì từ nước ngoài du nhập vào, tạo thành một tiềm năng quật khởi quốc gia, nhất định không chịu khất phục mặc dù phải bị thua trận, bị phân chia, và bị chinh phục. "
(Paul Mus, Viêtnam Sociologie d'une guerre: "Dès que commence le Viêtnam, le maître-mot de ses problèmes historiques paraît justement se trouver dans cet esprit de résistance qui associe, de façon paradoxale, à d'étonnantes facultés d'assimilation, une irréductibililé nationale à l'épreuve des défaites, des démembrements et des conquêtes").
No comments:
Post a Comment