Chuyện Kể Hành Trình Biển Đông : Mắt Thuyền
Nguyễn Xuân Tường Vy, Cập Nhựt 2009/11
Nguyễn Xuân Tường Vy, Cập Nhựt 2009/11
LTS : Sau các
truyện ngắn gây nhiều chú ý, Nguyễn Xuân Tường Vy trở lại với thể ký mà bút ký đầu tay
Puerto Princesa City đã kể về trại tỵ nạn Palawan. Trong bút ký tiếp theo, vẫn
bằng giọng văn tự nhiên và truyền cảm, tác giả ghi lại rõ hơn kinh nghiệm chung
của trên một triệu thuyền nhân đã vượt thoát qua đại dương, trong giông tố,
trong nỗi lo âu thường trực trước một lòng biển sâu. Nếu ký là thể loại của chân
thật và của hiện thực quá khứ, Nguyễn Xuân Tường Vy thành công khi gửi trao đôi
mắt ván thuyền của quê hương mình. Tạp Chí Hợp Lưu.
Biển lặng
những ngày sau. Tôi vẫn không đủ can đảm nhìn xuống lòng đại dương sâu hút. Đôi
mắt thuyền vẫn ở đó. Trong thâm tâm tôi biết đôi mắt ấy vẫn dõi theo tôi từ khi
rời khỏi mặt nước. Biển trong lòng tôi đã lặng. Cả những lượn sóng sôi. Nhưng
đôi mắt vẫn ở đó trong sâu tận đáy lòng. Đôi mắt làm bằng ván của quê tôi, của
Tam Kỳ tuổi thơ, của những gốc phi lao rì rào. Những gốc cây trơ gầy vậy mà
chúng cũng ghép lại được để chở mang tôi ra xa, vượt những ngọn sóng, vượt những
lượn triều, vượt trời nước mênh mông để khi tôi quay nhìn lại thì Tam Kỳ đã biến
mất. Quê tôi không biến mất, Tam Kỳ chưa biến mất. Tam Kỳ gửi theo tôi đôi mắt
ván thuyền.
Đó là năm 1983, khi tôi
bước chân xuống chiếc thuyền chòng chành ở mấp mé bờ nước.
Thuyền đi đã bao lâu,
tôi không thể nhớ. Tôi thức giấc giữa lòng ghe. Chung quanh im phắc. Ánh sáng lờ
mờ từ nắp ghe hắt xuống những thân người nằm ngồi ngả nghiêng.
Các chị tôi ngồi dựa
lưng vào thành thuyền, lờ đờ. Mùi nôn mửa xú uế trùm kín vùng không gian hẹp.
Ngộp thở, tôi lại muốn nôn. Nhưng bao tử thắt chặt co bóp. Không còn gì để nôn
ra. Tôi bò về phía có ánh sáng. Không ai la mắng khi tôi bò lên thân họ, dẫm lên
mặt họ. Tôi đưa đầu lên khoảng sáng. Mùi gió mặn thốc vào mặt làm tôi tỉnh táo.
Biển nhám hiện ra lờ mờ trong vũng sương. Trời và nước cùng xám đục. Hình dáng
vài chiếc ghe hiện lên xa tít, lung linh mờ ảo như buổi sáng ban mai đang êm
dịu.
Đêm qua,
chúng tôi rời bến Bình Triệu. Thuyền xoáy đuôi tôm từ bên này bờ sang bên kia
thì mắc cạn. Những giây phút chờ nước lên trở thành vô tận. Lúc đó tôi còn hồi
hộp, tim đập thình thịch vì cách nhổ bãi chớp nhoáng. Hầm tàu tối om. Mọi người
co rút lặng lẽ. Người theo đạo Công Giáo lẩm nhẩm đọc kinh. Người theo đạo Phật
lầm thầm tụng niệm. Lúc chiều tôi để ý nhiều người xách theo tượng Phật và cả
nhang đèn. Con người cầu cạnh Thượng Đế những khi yếu đuối nhất. Sao không yếu
đuối khi tất cả diễn ra mong manh vừa thúc đẩy mỗi chúng tôi dấn bước vào định
mệnh.
Từ buổi chiều nhập
nhoạng, chúng tôi theo người dẫn đường đến tụ tập tại điểm hẹn tại một ngôi nhà
thờ trong khu cư xá Tam Đa. Gia đình tôi và các anh chị họ được đưa đến đầy đủ.
Thánh lễ chiều vừa xong, giáo dân lục tục ra về. Chúng tôi vào nhà thờ cầu
nguyện. Đức Mẹ giang tay an ủi. Chúa Giêsu cúi nhìn từ thánh giá. Trời tối mau.
Cơn mưa rả rích từ chiều vẫn chưa dứt. Ở bên ngoài, tôi thấy thêm nhiều tốp
người đứng lố nhố. Họ không phải giáo dân ở đây. Như chúng tôi, họ chờ giờ khởi
hành. Tôi thấy Má bắt đầu bồn chồn. Đứa em nhỏ tám tháng của tôi khóc leo nheo.
Đám đông đứng lớ ngớ, tay xách nách mang. Trong chiếc giỏ bàng ở chân cột có
hình Quán Thế Âm và bát nhang.
« Không biết họ đi đâu
? Hôm nay làm gì có chầu ».
Một con bé đang nhảy
dây nơi sân đứng lại hỏi han. Không ai trả lời cho nó. Mắt tôi nhìn sững vào vòng dây quay đều trên
sân. Tôi cũng hay cột hai tà áo dài để nhảy dây ở sân nhà thờ sau buổi lễ. Đám
bạn tôi, Bích, Yến, Mai, Tươi. Chúng nó có thắc mắc tìm tôi sau buổi lễ chiều
nay ? Chúng nó có biết tôi đang ở đây, chờ một chuyến đi để phải xa chúng nó mãi
mãi ?
Bóng tối lan nhanh. Mưa
vẫn phớt mặt Chúa qua lớp tôn chắn kêu rào rào. Chúng tôi đứng ép vào hiên nhà
thờ. Ông Từ nhà thờ bảo chúng tôi vào xin phép cha xứ. Nhà thờ đã đến giờ đóng
cửa. Tôi thấy hai cánh tay Chúa chịu nạn vươn dài khỏi lỗ đinh rướm máu. Hai
cánh cửa nhà thờ đóng lại. Không thể chờ ở đây, chúng tôi phải đi đâu đó khỏi
khuôn viên nhà thờ. Đám người lục tục xách giỏ lên tay. Ai cũng nhìn nhau lo
lắng. Ba và bác Niếp tới kịp ngay lúc ấy. Không cần hiệu lệnh, chúng tôi vội
theo sát chân hai ông. Đám người bước hỗn loạn, tất tả trong con hẻm nhỏ ra bến
đò. Mỗi người thúc nhau đi mau. Tôi xách đôi dép da chạy theo Ba. “Họ đi đâu mà
đông dữ vậy ?". “Chắc đi ăn đám giỗ”. Cánh đàn ông trong hãng cưa đứng bên kia
đường láo xáo hỏi. Không ai trả lời. Chúng tôi cắm đầu chạy. Mưa rơi lất phất
lên tóc tôi, lạnh tanh trên trán, rồi lạnh buốt da mặt. Mặc, tôi cứ chạy. Thuyền
neo tại bến đò. Một mảnh ván xiêu bắc ngang làm cầu. Ba tôi đứng bên kia đầu
ván, kéo tay chị em chúng tôi và đẩy từng đứa xuống hầm. Tôi rớt xuống vùng
không gian tối mù, đôi dép văng khỏi tay lúc nào không rõ. Chung quanh tôi,
tiếng người và dép guốc rơi lộp bộp. Trong bóng tối, chị em chúng tôi tìm nhau.
Má và mấy đứa em nhỏ không ở chung khoang thuyền. Tôi chỉ tìm thấy tay của các
chị. Không có cảm giác nào an toàn hơn được nắm tay người thân của mình trong
bóng tối lo âu, mịt mùng đầy bất trắc. Thuyền nổ máy. Tiếng vang rền, dòn tan.
Mùi dầu, khói. Thuyền rú ga phóng ra khỏi bến, nhưng chỉ được ít phút, bỗng
khựng lại. Máy thuyền tạch tạch một lúc rồi tắt lịm. Không khí đông cứng. Ngột
ngạt. Mọi tiếng thì thầm bặt câm. Chúng tôi nín thở. Tôi nghe tiếng nước vỗ róc
rách vào mạn thuyền ; tiếng mưa rơi long tong lên mặt ván gỗ trên đầu. Thỉnh
thoảng, có tiếng ghe máy sè sè vọng lại. Tim tôi vồng lên hồi hộp. Thời gian
trôi chậm nặng nề. Nắp hầm đột nhiên mở rộng. Bác Niếp nói vọng xuống, thuyền
mắc cạn, phải chờ nước lên. Mọi người tuyệt đối giữ im lặng. Hầm thuyền vẫn tối
om. Mồ hôi tôi đổ đẫm lưng áo. Lưng con gái sớm biết sợ. Tôi khua tay tìm bàn
tay chị. Chị đang lần hạt bằng những đốt ngón tay ẩm. Ngón tay chị lạnh ngắt.
Một lát, có tiếng ì oạp của mái chèo, tiếng lục cục của gỗ va vào nhau. Chúng
tôi hồi hộp chờ đợi. Nhất định là công an đến kiểm tra.
“Anh Uyển ơi, về đi.
Trên bờ họ biết cả rồi. Họ còn biết thuyền đang mắc cạn nữa”. Tôi nhận ra giọng
nói của chú Tôn. Chắc chú lọt lại trên bờ khi thuyền vội vã rời bến khi nãy. Tim
tôi lại dội lên thình thịch. Trên bờ họ biết cả rồi. Chẳng mấy chốc, công an sẽ
đến. Trời ơi ! Nhóm tổ chức toàn là những người bạn tù của ba. Cái tội “Nguỵ"
chưa ráo, tội vượt biên sẽ mang họ về đâu. Tôi tưởng tượng đến lúc ba bị bắt đưa
vào trại cải tạo lần nữa. Hiện ra trước mắt tôi đồi núi Nghệ Tĩnh khô cằn. Cả
vùng chỉ trồng toàn sắn là sắn. Ba ốm nhom trong bộ quần áo lao động. Lưng áo ba
đóng triện đỏ. Ba chữ Tù Cải Tạo đỏ lòm như cổng chào. Tiếng mái chèo ì
oạp xa dần. Tôi thầm mong ba nghe lời chú Tôn lên ghe vào bờ. Nhưng hai cha con
chú quyết định ở lại. Ba cũng ở lại. Tôi lại tìm tay chị. Chị vẫn lần hạt bằng
những đốt ngón tay ẩm. Tôi lầm thầm đọc kinh, nghĩ đến cánh tay Chúa Giêsu chịu
nạn. Tay Chúa có lạnh giá ? Lưng Chúa có đổ mồ hôi ? Dù Chúa ở trong nhà thờ
đóng cửa, chị em tôi vẫn cầu nguyện. Tôi lần hạt hết Năm Sự Thương, Năm Sự Mừng,
Năm Sự Vui mà nước vẫn chưa lên. Tôi chưa bao giờ lần hạt nhiều đến như
vậy.
Tôi giật mình bởi những
tiếng súng nổ. Thuyền tăng tốc độ. Máy rú gầm, phóng lao. Chị em tôi nắm chặt
tay nhau kinh sợ. Thuyền bốc thêm người ở 2 nơi. Địa điểm thứ nhất lên được cả.
Địa điểm thứ 2 bị công an gác bến đuổi bắn. Chúng tôi phóng chạy, bỏ lại một số
người. Sau này tôi được biết vì thuyền mắc cạn 2 giờ đồng hồ, công an gác bến
đổi phiên. Toán công an sau không được ăn chia nên ra lệnh bắn. Hầm thuyền vẫn
tối mù. Khoang tàu như thu nhỏ lại với số người mới lên. Chúng tôi ngồi dèn lên
nhau, lưng khòm theo mạn thuyền. Hơi người hầm hập. Thuyền sóc mạnh. Vài người
bắt đầu nôn oẹ. Tôi muốn ngộp thở. Mùi nôn mửa bốc lên chóng mặt. Chị đã thôi
lần hạt bằng những ngón tay ẩm. Chị cũng gập người nôn thốc tháo. Tôi dựa vào
vai chị, người mệt bã. Tôi nhắm mắt. Khoang thuyền tối. Tôi mở mắt. Khoang
thuyền vẫn tối bưng. Khi mở mắt tôi không thấy gì ngoài bóng tối. Nhưng nhắm mắt
tôi có thể hình dung đến tương lai. Tôi hình dung đến bờ bên kia của biển cả.
Vượt biên đối với tôi lúc ấy giống như đi đò từ bên này sông sang bên kia sông.
Chỉ một lát thôi, tôi sẽ đến bến. Ý nghĩ ấy làm tôi nhắm nghiền mắt lại. Tôi
thiếp dần vào giấc ngủ mê mệt. Trong giấc ngủ, hình ảnh Ba còm cõi cuốc đất
trồng sắn không ngừng ám ảnh.
Cũng ngay tại đây, ngay
tại ga xe lửa Bình Triệu, lần đầu tiên tôi biết đến sân ga. Chúng tôi mua vé tàu
suốt đi từ ga Bình Triệu đến ga Vinh. Ba bị tù “cải tạo” ở đó. Chúng tôi mới
được giấy phép thăm nuôi. Ba ra đi biệt tăm từ tháng 05/1975. Bây giờ đã là
tháng 06/1979. Tôi được 10 tuổi, bằng tuổi của Má ngày di cư vào Nam.
Gia đình tôi gốc Bắc.
Hai bên Nội Ngoại di cư vào Nam năm 1954. Chị em chúng tôi hầu hết sinh ra ở
miền Trung, theo bước chân hành quân của Ba. Tôi sinh ở Quảng Ngãi. Em M sinh ở
Quảng Tín. Em K sinh ở Tam Kỳ. Gia đình tôi ở Tam Kỳ cho đến ngày phải di tản về
Sài Gòn. Tam Kỳ mưa phùn lạnh lẽo trong trí nhớ tôi non nớt. Tôi đứng bên song
cửa thèm thuồng nhìn những đứa trẻ hàng xóm long nhong tắm mưa. Má cấm chị em
tôi dầm mưa. Mùa Đông Tam Kỳ chúng tôi mặc áo măng tô bên trong, áo mưa bên
ngoài chờ chú Mới đưa đi học bằng xe Jeep. Thỉnh thoảng chú chở chúng tôi vào
căn cứ Chu Lai thăm Ba bận việc không về nhà. Căn cứ Chu Lai có lá Quốc Kỳ Vàng
bay phất ở cổng vào. Cuối tuần chú chở chúng tôi ra Đại Chủng Viện Đà Nẵng thăm
Bác dạy học tại đó. Chúng tôi chạy nhảy tha hồ dưới những cây dừa rụng bông
trắng xoá. Ba hay vắng nhà, chúng tôi ở nhà với Má và bà vú. Chị em tôi hay cười
khi bà bảo, en cem meo meo rồi đi ngủ hỉ. Mỗi chiều, tôi chờ tiếng xe
Vespa của Ba reo vui ở đầu ngõ. Chị em tôi chạy ùa ra đường, đứa trèo đứng đằng
trước, đứa leo đằng sau để Ba lái xe vào sân nhà. Đêm trăng sáng, trẻ con hàng
xóm tụ tập ở sân nhà tôi múa hát. Chiến
tranh đang xảy ra ở căn cứ Chu Lai hoặc nơi nào đó trên quê hương. Nhưng chiến
tranh trong tuổi thơ tôi đầy êm đềm vì đã có những người lính như Ba chết để bảo
vệ chúng tôi. Cảnh nhà tôi vẫn ấm cúng. Những người lính đem đến ấm cúng, đem đến hoà
bình giữa chiến tranh. Chúng tôi yên ấm giữa bom đạn mù loà.
Năm 1974 tôi chỉ mới
vài tuổi. Tôi không biết đấy là lúc quân “cách mạng” ồ ạt vượt dãy Trường Sơn để
vào “giải phóng” chúng tôi. Anh Lê Văn Tám hy sinh làm bó đuốc sống phá
tan kho đạn Thị Nghè. Anh giao liên Kim Đồng thông minh lanh lợi lập nhiều chiến
công. Em bé quê dùng dầu gió bắt sống lính Mỹ. Chị Út Tịch mang bầu 7 tháng giả
kế mỹ nhân quyến rũ sĩ quan Nguỵ chiếm bót Tám Thế. Sau này tôi được trường học
dạy như thế. Tôi học những bài học lịch sử đứt đoạn, từ thời Ngô Quyền nhảy vọt
đến cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Tháng Ba năm 1975.
Chiến tranh lan như vết rắn bò trườn. Ba đi hành quân liên miên. Má lo âu võ
vàng. Bom đạn phủ xuống đời sống. Đạn pháo cách mạng rình rập. Lưỡi lê giải
phóng canh chừng. Chúng tôi lo lắng. Chú Mới đón chị em tôi ở trường học. Con
đường yên tĩnh từ trường về nhà giờ mang đầy thương tích. Dãy phố cháy, khói bốc
cao thành cột. Bụi tre ở đầu ngõ bị bom đánh gẫy. Cờ phủ vàng những chiếc quan
tài trong xóm. Chiến tranh phơi bày bộ mặt tàn khốc. Tam Kỳ chìm vào lửa. Chúng
tôi phải chạy về Sài Gòn bằng máy bay quân sự, không có ghế phải ngồi trên sàn.
Ba ở lại với các đồng đội. Khi miền Trung mất, chúng tôi mất liên lạc với Ba
nhiều ngày. Ở Sài Gòn ông nội lo lắng từng giây. Hai người con trai của ông còn
kẹt lại ở miền Trung không có tin tức. Cả ngày ông ôm khư khư cái radio theo dõi
từng biến chuyển của cuộc tháo chạy, sừng sộ với bất cứ một tiếng động nào.
Không khí trong nhà nghẹt thở. Cuối cùng, Ba và Chú cũng trở về được vài ngày
sau đó. Ông Bà nội rơi nước mắt khi thấy 2 con trai của mình tơi tả bước vào
cổng.
Chúng tôi về bên Ngoại
tá túc. Bà Ngoại ở gần bến Bạch Đằng. Mỗi chiều, Ba dắt một hai đứa chúng tôi ra
bến xem người ta di tản. Họ rủ Ba đi, nhưng Ba lắc đầu. Ba dẫn chúng tôi xuống
tàu chơi, rồi lên bờ khi tàu nhổ neo. Sau này, trong những năm Ba ở tù, tôi
thường tự hỏi tại sao Ba không theo tàu di tản vào thời gian đó ? Ba có bao giờ
ân hận vì cái lắc đầu ngày ấy ? Ba nghĩ gì ? Ba tin vào điều gì ?
Tháng 05/1975, Ba ra
trình diện nhà cầm quyền mới. Tôi nhớ ngày đi Ba mặc chiếc áo in hình bánh qui.
Bánh rơi đầy vai Ba như có ai vừa mở tung nắp hộp thiếc. Những chiếc bánh qui
hình vuông, viền răng cưa thơm thơm ngọt tan trong miệng. Chúng tôi không cho Ba
đi. Chúng tôi đeo theo, đứa đu tay, đứa ôm chân. Ba đeo túi lên vai, hẹn mười
ngày sẽ về. Em trai út vừa sinh chưa tròn tháng, Ba bảo chờ Ba về hãy rửa tội
cho em. Ba thanh thản đến nơi tập trung. Ba nghĩ đến tình anh em Nam Bắc một
nhà. Ba tin vào lòng khoan hồng của kẻ chiến thắng. Ba tin vào lời hứa "10
ngày". Nhưng Ba đã thất vọng. Gia đình tôi đã tuyệt vọng. Niềm tin không cứu
được Ba. Hoà bình bắt đầu bằng sự khát khao thanh trừng của kẻ chiến thắng. Ba
đột nhiên biến mất khỏi cuộc đời chúng tôi lúc đó. Tôi không thể hiểu. Đất nước
thanh bình mà gia đình tôi tan nát.
Chị em chúng tôi lớn
lên với Má và bà Ngoại trong một căn nhà ở ngoại ô Sàigòn. Hai người đàn bà chật
vật nuôi năm đứa trẻ. Chị cả mới lên 8 và em út chưa đầy tháng. Ngoài giờ dạy
học, Má đạp xe chạy lùng khắp nơi, đến từng nhà giam trong thành phố tìm tin tức
của Ba. Bà Ngoại ở nhà nuôi đứa bé sơ sinh bằng nước cháo pha muối. Đứa bé Ba
đặt tên Hoà Bình. Vừa ra đời đã thiếu cha. Ba còn sống hay đã chết ? Đối với mọi
người chung quanh, Ba đã không còn hiện hữu. Tấm hình Ba oai phong trong bộ quân
phục bị nhét sâu dưới đáy rương, nằm lẫn lộn giữa quần áo cũ và những viên băng
phiến hắc. Ba có khác gì một người đã khuất. Chỉ còn thiếu tấm hình của Ba trên
bàn thờ là bà Ngoại sẽ xin lễ giỗ cho Ba hàng năm.
Ba ra đi, mang theo
những chiếc bánh thơm lừng tuổi thơ của chúng tôi. Nắp hộp thiếc đóng chặt từ
ngày ấy. Sau này, lâu lắm, khi sang Mỹ tôi mới được nếm lại mùi bánh qui. Tôi
nhai bánh như nhai giấy. Mùi vị không còn ngọt ngào béo ngậy như trong trí nhớ.
Tôi không còn là con bé 6 tuổi đeo lên lưng ba vờ ăn bánh. Tôi không còn thèm
bánh qui nữa. Tôi thèm ly nước chanh mát lạnh trên đường vượt biển.
Từ lúc lên được boong,
tôi không muốn xuống hầm nữa. Boong thuyền không còn chỗ trống. Người nằm ngồi
la liệt. Tôi chỉ đủ chỗ dựa lưng vào thùng phi chứa nước. Nước trong thùng chỉ
còn lấp xấp. Chúng tôi chưa đi được bao xa. Nước uống phải để dành, phải dè sẻn.
Tôi khát khô cổ. Tôi tìm bóng dáng một chiếc tàu ngoại quốc. Tàu nào cũng được.
Tàu nào có thể cho tôi một ly nước đá chanh ngọt lịm. Buổi sáng nắng trong. Mặt
biển óng ánh như kính nhuyễn. Thuyền phóng băng băng mà cứ như đứng một chỗ,
giống xả hết tốc độ mà vẫn như neo lại trên vũng nước. Tôi nhìn đại dương bao la
không thấy bến bờ, không thấy tàu bè. Mênh mông bạt ngàn những trận gió. Con
thuyền như chiếc tàu giấy con con tôi xếp thả vào ao nước mưa. Những cơn mưa
ngập lụt đất Tam Kỳ. Tôi vẽ đôi mắt thuyền nguệch ngoạc. Đôi mắt ấy giờ theo tôi
ra đại dương. Cũng như thuyền, tôi chưa bao giờ ra biển. Tôi hoàn toàn không
hình dung hết được hiểm nguy chực chờ. Nếu chúng tôi bị giông bão ? Nếu chúng
tôi gặp hải tặc ? Nếu chúng tôi chết trên biển ? Dù sao chúng tôi cũng có nhau.
Ba nói : chết thì chết cả nhà.
Trời nóng. Gió biển rì
rì nhưng vẫn nóng. Mặt trời phả hơi xuống những thân người nằm phơi như cá. Tôi
say nắng. Người nóng rực như sốt. Biển trải rộng. Biển vô cùng. Màu xanh bất tận
chạy dài ngút ngàn. Tôi thấy bà Ngoại mấp máy, miệng móm mém. Bà pha cho tôi ly
nước chanh thật to. Chiếc ly sành vẽ hai con cò trắng lung linh. Uống đi con
! Vậy là chúng mày bỏ bà mà đi. Tôi muốn cầm ly nước bà đưa, nhưng tay mỏi
rã rời. Bà Ngoại không đi. Bà ở nhà giữ hộ khẩu, nhỡ bị bắt còn có bà thăm nuôi,
còn có nhà để về. Bà nuôi chị em chúng tôi từ ngày giải phóng. Em út tôi là con
trai của bà mới đúng. Bà chăm sóc nó từ ngày lọt lòng. Không có bà, tôi biết Má
không sao đứng vững được. Chạy về từ Tam Kỳ, chúng tôi không còn gì ngoài hai
bàn tay trắng. Chúng tôi mất tất cả. Ngôi nhà nhỏ xinh có mảnh vườn trồng rau.
Mỗi buổi sáng tôi theo Ba ra vườn bắt ốc sên. Đất Tam Kỳ đỏ quạch bám nhão gót
giầy. Sau nhà có con sông nước lênh láng mỗi chiều. Hoa lục bình trôi tím mặt
sông. Tôi dõi mắt cố tìm một cánh lục bình trên biển, chỉ thấy sóng bạc nhấp
nhô. Sóng bạc của Thái Bình Dương ngợp nắng. Người tôi vẫn nóng hực. Tôi nhắm
mắt lại cho đỡ loá. Lẽ ra chúng tôi đã ra biển trước đây mấy tuần. Lần ấy chủ
thuyền định đổ bến gần Bà Rịa. Gia đình tôi từ Sàigòn ra Hải Sơn chờ ngày đi.
Ông bà nội ở đó. Ngày đi, bà nội dậy lúc gà gáy, lục đục thổi xôi luộc gà. Chúng
tôi mặc quần áo ấm, khăn gói ngồi chờ đến khi trời sáng rõ. Ông nội nói bể rồi
không đi được nữa đâu. Giọng ông buồn mà mắt ông lại tựa như đang vui mừng. Ông
cười lấp lánh răng vàng. Ông bảo bà rỡ xôi gà ra cho chúng nó ăn. Con cháu ông
đã rủ nhau ra biển. Chúng tôi đi, ông chẳng còn ai. Ngày di cư vào Nam, chắc ông
chẳng bao giờ ngờ lịch sử lập lại. Con cháu phải bồng bế nhau xa rời quê hương
lần nữa.
Chiều đến.
Mặt trời biến nhanh lắm. Một thoáng thôi, đã mất hút. Nền trời xám xịt. Gió bắt
đầu thổi mạnh. Mây sà xuống boong, trĩu nước. Sóng không còn đập hiền hoà vào
mạn thuyền. Từng con sóng giận dữ quật xuống. Sóng nhồi suốt cho đến đêm. Trời
tối đen. Tôi không thấy gì ngoài bóng tối đặc sệt. Tôi hình dung đến đôi mắt
thuyền phăng phăng rẽ sóng. Thuyền đưa tôi đi qua biển dữ. Gió vẫn mạnh. Sóng
đập vào mạn thuyền tung nước lên boong. Thỉnh thoảng mưa đổ ào rồi ngưng. Người
tôi ướt đằm. Cái lạnh thấm vào da thịt, buốt giá. Thái Bình Dương đen. Đêm bao
la chỉ một ánh đèn le lói trên cabin. Gương mặt chú Thiện căng thẳng. Chú Thiện
sĩ quan hải quân bạn Ba. Chú vẫn nghiêm trang ít nói mỗi lần đến nhà. Lần nào
chú cũng trốn ngay lên lầu làm việc gì đó với chiếc la bàn. Ba dặn : có người lạ
tới phải báo ngay cho Ba. Tôi hồi hộp với vai trò gác cửa, mắt đau đáu nhìn ra
ngõ. Đột nhiên có tiếng la to : Tàu lớn kìa ! Tôi mở choàng mắt. Xa thật xa,
trong tối đen mịt mù, một ánh đèn bập bềnh ẩn hiện. Mắt tôi mở dán vào vùng
không gian phía trước. Ánh đèn chấp chới tựa bóng ma lúc ẩn lúc hiện. Tôi dụi
mắt ngỡ mình nằm mơ. Không phải tôi mơ. Ánh sáng có thật. Ánh sáng bừng lên chói
lọi như mặt trời vừa mọc. Nhưng lạ quá, ánh sáng cứ bừng lên rồi tắt lịm. Thuyền
chao qua. Ánh sáng tắt ngúm. Sóng bắn tung vào người tôi. Thuyền nhảy lên. Ánh
sáng bừng lấp lánh. Chúng tôi cứ tiến tới. Tôi tưởng tượng đến con tàu đằng xa.
Con tàu đèn điện sáng trưng. Những người đàn ông đàn bà tóc vàng mũi lõ tử tế.
Tôi cầm trong tay ly nước đá chanh. Màu xanh lá mạ dịu dàng sóng sánh. Những
viên đá nhỏ reo lanh canh. Chúng tôi đi về phía mặt trời ẩn hiện. Sau này tôi
biết chẳng phải mặt trời chơi trò ú tim. Chúng tôi đang vật lộn với sóng lớn.
Khi sóng đưa thuyền lên cao, tôi nhìn thấy ánh sáng. Khi con thuyền rớt xuống
chân sóng, ánh sáng biến mất vào biển đêm. Tôi vẫn rùng mình mỗi khi nghĩ
lại.
Chúng tôi vẫn đi về
phía mặt trời. Khối đen trước mặt hiện dần hình con tàu. Mặt trời chiếu ra từ
cột quan sát. Chúng tôi bật đèn cấp cứu. SOS. Đèn đỏ nhấp nháy. SOS. Chúng tôi
đến gần hơn. Boong tàu thấp thoáng bóng người. Tôi không nằm mơ. Thật sự là một
con tàu. Một con tàu to kềnh càng. Tôi cầm lấy ly nước đá chanh. Mặt trời vẫn
sáng rực trên cao.
"Tàu Liên Xô ! Chạy ra,
chạy ra”.
Tiếng người hét thất
thanh. Tôi sực nhìn lên. Mặt trời sáng rực loá mắt.
"Cờ búa liềm ! Cờ búa
liềm. Trời ơi !"
Tài công dùng dằng,
tiếc rẻ. Tôi cũng tiếc. Một con tàu to kềnh hẳn an toàn hơn chiếc thuyền mỏng
manh. Tôi thèm được cuộn mình trong chăn ấm. Tôi đang lạnh run. Và khát. Ly nước
đá chanh vẫn ám ảnh. Con thuyền quay đầu, phóng chạy. Sau giây phút xôn xao, rồi
sợ hãi, mọi người im lặng. Chỉ còn tiếng gió gầm gừ. Chỉ còn tiếng sóng đập tung
vùng biển động. Chúng tôi chạy trốn mặt trời.
Cơn bão thứ hai dội
xuống đại dương một ngày sau đó. Lúc ấy chúng tôi đã an toàn trú ẩn trong khoang
tàu Nhật Shonan Maru. Những con tàu mang ly nước đá chanh không thèm ngừng lại.
SOS. Tín hiệu báo lâm nguy chưa đủ thảm thương. Shonan Maru ngừng lại và chúng
tôi lập tức leo lên. Ba ghi tên điểm danh 105 người. Số thuyền nhân nhiều gấp 2
số thuỷ thủ trên tàu. Chiếc Shonan Maru chở sinh viên thực tập trên biển. Cả tàu
không có một nữ sinh viên. Vị thuyền trưởng cho kéo theo chiếc thuyền rách nát
vượt đại dương của chúng tôi. Mắt thuyền lập cập. Thuyền như con nhái bám vào
vách giếng. Thuỷ thủ đoàn đưa chúng tôi xuống hầm tàu. Họ không có đủ chăn đắp
nhưng sàn tàu sạch sẽ láng bóng. Quanh chỗ tôi nằm là nơi dự trữ gạo. Gạo Nhật
hạt to tròn trĩnh. Nấu lên ăn dẻo như cơm nếp. Ngày đầu nhà bếp mang ra một khay
cá sống. Từng lát cá tươi rói trong veo bắt mắt nhưng không ai dám ăn. Lúc đó
tôi chưa biết mê sushi. Tôi chỉ dám ăn món cháo cá nấu nhão với rong biển
suốt những ngày trên tàu.
Sau đêm bão
lớn, tôi lò dò lên boong. Biển êm. Gió đã nhẹ lắm tuy sàn tàu vẫn còn đẫm nước.
Bên cabin, vài người con trai đứng lố nhố chõ mắt vào 2 ô cửa kính. Tôi cũng tò
mò chen vào xem. Bên trong, đám sinh viên Nhật đang xem tivi. Màn ảnh màu rực rỡ
hiện ra đôi trai gái. Họ ăn mặc rách nát hơn chúng tôi hôm lên tàu Nhật. Đứa con
gái tóc dài đến lưng, quấn 2 mảnh vải tả tơi ôm chầm lấy đứa con trai đóng khố.
Những đôi mắt thuyền nhân mở to chiêm ngưỡng. Đó là phim The Blue Lagoon sau này
tôi xem khi đến Mỹ. Biển trong phim êm ả không dữ dằn những đợt sóng sôi. Từ chỗ
tôi đứng, biển bao la xanh ngắt. Tàu Nhật thênh thang, tôi hay đi thơ thẩn dưới
hầm và trên boong. Tôi ngỡ mình đang ngắm biển Cà Ná hùng vĩ từ trên xe lửa.
Chuyến xe lửa đưa tôi đi gặp Ba tại trại cải tạo Tân Kỳ. Từ ga Vinh, chúng tôi
đi một chuyến xe đò gập ghềnh, thêm một quãng đi bộ mới đến trại. Buổi trưa u
buồn vắng vẻ. Cả vùng núi lặng lẽ dưới nắng. Đâu đó vọng lại tiếng gà gáy kêu lơ
thơ ở một hốc bụi nào. Xa về phía núi là nơi giam giữ Ba. Chúng tôi chờ Ba cả
buổi chiều. Tôi thấy Ba từ ngoài cổng. Ba ốm nhom. Da đen sạm. Tôi chạy thật
nhanh ra cổng. Ba đón lấy, nhấc bổng tôi lên lòng. Tôi khóc. Khóc chan hoà vì
tưởng sẽ không bao giờ còn được gặp Ba. Khóc cho hết nỗi cô đơn không cha, cho
vơi những nhọc nhằn từ ngày giải phóng. Tôi khóc trên vai Ba như tôi đeo lên vai
Ba trong ngày Ba ra đi. Vai áo Ba không còn những chiếc bánh thơm. Tôi ngửi mùi
nắng cháy khét trong tóc Ba. Ba lấy trong túi ra một nhánh hoa tím.
"Đây là hoa mua, Ba hái
cho con. Giống như hoa sim ngoài Bắc mình”.
Lúc ấy tôi chưa biết
buồn vì màu tím, cũng chưa thuộc thơ Hữu Loan tím cả chiều hoang biền biệt. Tôi
chỉ thấy cảnh tù đày phi lý. Ba có tội gì ? Chúng tôi có tội gì ? Má xoay sở đầu
chợ cuối chợ mới mua được vé xe. Chúng tôi đứng nhìn con tàu Thống Nhất sang
trọng sáng choang chạy qua trước mắt. Tôi nhặt bao nhiêu lon sắt, giấy vụn ; tôi
dang bao nhiêu cơn nắng, nhưng tôi phải đi xe lửa chợ cũ rích ghế gỗ cứng ngắc
đau mông. Con tàu Thống Nhất không dành cho tôi một chỗ ngồi như đất nước đã từ
chối Ba làm một công dân. Chúng tôi lặn lội 3 ngày ngủ đứng ngủ ngồi trên xe
lửa. Chúng tôi bị mất cắp bị chen lấn bị chèn ép trong các toa xe. Qua ngần ấy
gian nan để chỉ được gặp Ba một giờ đồng hồ. Chú cán bộ ngồi đầu bàn theo dõi
từng cử động. Tôi có bao điều muốn kể với Ba. Nhưng tôi chỉ dám ngồi yên trong
lòng Ba. Một giờ đồng hồ qua nhanh như chớp mắt. Tôi và Má đứng ngẩn nhìn Ba
bước về trại giam. Lưng áo Ba in chữ đỏ. Tù Cải Tạo.
Tôi theo Ba lên cabin
gặp vị thuyền trưởng. Phòng ông có tivi màu và tủ đựng nước ngọt. Ông bấm vào
nút, một lon nước ướp lạnh chạy ra. Tôi tròn mắt nhìn ông làm ảo thuật. Ông đưa
cho tôi lon nước mở sẵn. Tôi ủ lon nước lạnh ngắt vào đôi tay. Ly nước đá chanh
tôi ao ước. Ngụm nước đọng trên đầu lưỡi, lạnh buốt suốt tuổi niên thiếu. Vị
thuyền trưởng nói chuyện với Ba bằng cuốn tự điển. Ba nói tiếng Anh. Ông tra tự
điển rồi trả lời. Tôi ngồi xem tivi, không hiểu gì cả. Mãi mãi ghi sâu trong trí
nhớ tôi vùng không gian nhỏ bé bình yên, màn hình tivi với ngôn ngữ lạ, nước cam
lạnh, chiếc tủ nước ngọt, và ông Nhật biết làm ảo thuật. Mỗi lúc tình cờ bấm
tivi sang một đài nước ngoài hoặc lạc vào đám đông với ngôn ngữ lạ, tôi thấy
mình nhỏ lại như năm 14, ngồi bên cạnh Ba và vị thuyền trưởng. Ba múa tay giải
thích với vốn liếng Anh ngữ từ thời đi dạy. Tôi nhìn Ba ung dung, tự tin, nhớ
lại những lần đứng thập thò nghe Ba nói chuyện e dè với công an khu
phố.
Ba trở về sau 6 năm 6
tháng 22 ngày "cải tạo", thể xác héo mòn, tinh thần kiệt quệ. Tôi không biết
thực sự Ba đã được "cải tạo" những gì trong những năm tháng đó, ngoài những cơn
đói triền miên và những ngày lao động cực khổ. Ba ra tù, về chịu sự quản thúc
của nhà cầm quyền địa phương. Công an dân phố ghé qua sáng chiều. Ở trường học,
mỗi tuần chúng tôi xếp hàng đi bộ đến nghĩa trang liệt sĩ làm cỏ. Trời đổ lửa.
Chúng tôi mặc áo trắng quần đen đi theo hàng. Nghĩa trang liệt sĩ nằm kề bên con
đường lớn. Ở giữa, một khung đài tưởng niệm nhang khói lâm thâm. Lần nào về tôi
cũng ấm đầu.
Ra đi là con đường duy
nhất để chúng tôi được sống đúng với ý nghĩa một con người. Đối với Ba Má, đó là
một sự chọn lựa đau đớn và liều lĩnh. Ra đi là đánh cuộc với mạng sống của 8
thành viên trong gia đình. Tôi không ngạc nhiên vì quyết định của Ba Má. Như thể
đó là định mệnh. Chúng tôi không còn con đường nào khác.
Biển lặng những ngày
sau đó. Tôi vẫn không đủ can đảm nhìn xuống biển từ lan can tàu. Màu xanh hun
hút làm tôi chóng mặt. Nếu không được tàu Nhật vớt, chúng tôi có thể chống nổi
với cơn bão chiều ấy ? Biển đẹp man rợ. Biển mênh mang không thấy bến bờ. Biển
lan như trên mặt đất chỉ toàn nước. Biển xanh lục như trên mặt đất toàn rêu.
Biển nhấp nhô như tinh thần chúng tôi hãy còn chông chênh chưa tin đang hít thở
khí quyển tự do.
Chúng tôi dần lại sức.
Cháo cá rong biển đậm đà không còn vô vị. Chúng tôi sẽ đáp bến Manila nay mai.
Vị thuyền trưởng ra lệnh chặt dây thừng bỏ con thuyền rách nát đã theo chúng tôi
dọc Thái Bình Dương. Tôi nhìn đôi mắt thuyền ướt nước ngỡ như đang nhìn chính
mình. Chiếc thuyền tang thương bẩn thỉu mang hình ảnh của chúng tôi ngày hôm
qua. Đêm nay thuyền sẽ về đâu ? Con mắt thuyền ướt đẫm. Mắt thuyền lặng câm.
Thuyền xa bến như tôi xa quê hương. Biết thuyền có tìm được đường về. Thuyền
lênh đênh tôi cũng lênh đênh. Thuyền trôi dạt, tôi cũng trôi dạt. Mười bốn năm,
tôi mất tuổi thơ 2 lần. Tôi mất Tam Kỳ tháng 04/1975. Năm 1983, tôi mất Sài Gòn.
Chiến tranh phá huỷ tuổi thơ. Hoà bình đẩy tôi dạt ra biển cả. Những giọt nước
mắt con gái khóc chia tay ; không phải tôi khóc mà mắt thuyền đang
khóc.
Nhiều năm sau tôi vẫn
nhớ đôi mắt thuyền ai oán. Mỗi khi soi gương tôi vẫn thấy mắt thuyền long lanh
trong mắt mình. Tôi mang đôi mắt ấy, đôi mắt Tam Kỳ và những mảnh vụn ký ức
không thể ráp nối. Tôi chưa vào đến đất liền. Chưa vào đến Bataan hay hải đảo
Palawan huyền hoặc. Tôi trôi mãi trên Biển Đông ở vùng hải phận quốc
tế.
Ngày mai mất Biển Đông,
tôi sẽ trôi về đâu ?
Nguyễn Xuân Tường Vy
2009/04/17
http://www.hopluu.net
http://www.hopluu.net
No comments:
Post a Comment