ĐỌC “DẠ KÝ”
CỦA PHÙNG CUNG
CỦA PHÙNG CUNG
Nguyễn Minh Cần
Tôi đọc
đi đọc lại nhiều lần truyện “Dạ Ký” với một
hứng thú đặc biệt, vì cảm nhận
được tầm nhìn sâu sắc cũng như tài
nghệ viết văn trào phúng của Phùng Cung.
Có
lẽ, những ai đã từng sống dưới
chế độ độc tài toàn trị ở miền
Bắc, nhất là ở Hà Nội, hồi những năm
1954-1960 đều dễ dàng cảm nhận chất trào
lộng, thậm chí châm biếm cay độc, của
truyện này và càng thấy rõ sự can trường
hiếm có của nhà văn khi dám động đến
những “chuyện chết người”.
Hẳn
bạn đọc còn
nhớ mấy câu thơ trong bài “Lời
Mẹ Dặn” của Phùng Quán nói về thân phận
nhà
văn dưới chế độ độc tài của
Đảng cộng sản (ĐCS):
“Người
làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng
chưa khó bằng làm nhà văn
Đi
trọn đời trên con đường chân thật”.
Thế
nhưng, làm nhà văn trào
phúng, nhà văn châm biếm muốn “đi trọn
đời trên con đường chân
thật” dưới cái chế độ chuyên chế
tuyệt đối “thời đại Hồ Chí Minh” thì
chẳng những khó mà còn cực kỳ nguy hiểm! Nhà văn trào phúng đó chẳng
khác gì
người nghệ sĩ múa chân trần trên những
lưỡi gươm trần sắc bén, chỉ sẩy
chân một tí là... máu chảy đầu rơi.
Dĩ
nhiên, đây không nói đến đám nhà
văn trào phúng
viết theo “đơn đặt hàng”
của Đảng – họ tha hồ múa may quay cuồng trên
bục gỗ trải thảm rất êm.
Thực
ra, Phùng Cung không hề
ghi rõ “Dạ Ký” là truyện
trào phúng – chắc anh có lý do riêng
– và trong truyện anh
cứ... tự để cho cái “vô thức” (hay “tiềm
thức”) của mình dẫn dắt anh theo mê lộ của
cơn mộng mị giữa đêm hè oi bức. Nhưng
dẫu sao chăng nữa, chất trào lộng vẫn
đầy rẫy trong truyện, tuy rằng nó không gây cho
người đọc những chuỗi cười giòn
giã, mà chỉ gợi lên những nụ cười khẩy
chua chát đầy khinh bỉ, lắm khi cười ra
nước mắt.
Phùng
Cung viết truyện này (1959) vào lúc anh đang bị
đình chỉ công tác, sau trận đấu đá tơi
bời vì truyện “Con Ngựa
Già Của Chúa Trịnh” đăng trên báo Nhân Văn. Anh viết đúng
vào lúc kẻ cầm quyền đang chuẩn bị bắt
anh vào tù (1960) mà có lẽ anh cũng
không ngờ. Phải nói
rằng, viết truyện trong những điều
kiện như vậy, anh phải đem hết cái tài
nghệ khéo léo của mình, từ việc bố trí
câu
chuyện đến cách hành văn, phải cân nhắc
từng câu, từng chữ, từng chi tiết nhỏ,
phải khéo “tung hoả mù”, trộn lẫn những “pha”
dường như phù phiếm, lan man, với những “pha”
“trọng điểm” để – may ra – lọt qua
được cặp mắt cú vọ của lũ “cai tù
văn nghệ” của Đảng đang cố sức
tâng công. Vả lại, cũng rất có thể là anh
viết “Dạ Ký” vào
chính lúc
này chỉ cốt để thoả mãn một nhu cầu
nội tâm gay gắt của người nghệ sĩ la
“phải viết”, còn việc đăng tác phẩm hay không
thì... “hạ hồi phân giải”.
Bây
giờ, tôi xin phép lướt
sơ qua vài nét về tình hình Miền Bắc, nhất
là Hà
Nội, sau năm 1954 để các bạn trẻ mới
lớn lên sau này và những ai sống trong Nam hoặc ở
nước ngoài chưa từng biết tình hình Miền
Bắc thời đó có thể hình dung được
để dễ dàng cảm nhận tính chất trào
lộng trong “Dạ Ký”.
Khi quân đội
ông Hồ vào tiếp quản thành phố Hà Nội
(10.10.1954), nhiều người thật sự phấn
khởi đón mừng. Nhưng chỉ vài ngày sau,
người dân bắt đầu cảm thấy một
sự hụt hẫng, cảm thấy dường như
chính họ ... bị coi là một hạng dân không
đáng tin
cậy! Ngay cả những người vốn là cơ
sở của “cách mạng” cũng hơi e ngại vì
thấy những cán bộ trước đây thường
ăn dầm ở dề trong nhà mình
thì
nay hình như cũng ngần ngại, không dám đến
nhà. Còn những người thường dân chân
tình mời
cán bộ, bộ đội đến nhà chơi
đều nhất loạt bị từ chối. Lý do không
được nói cho bất kỳ ai: theo nghiêm lệnh
Uỷ ban quân quản thành phố, tất cả cán bộ,
đảng viên, bộ đội tuyệt đối không
được tự ý đến nhà dân, vì phải
đề cao cảnh giác, phải “đề phòng những
viên đạn bọc đường (1) của
dân vùng địch”! Cái lệnh
đó cho thấy ngay từ đầu
tinh thần kỳ thị với “dân vùng địch” trong
giới cầm quyền nặng nề đến mức
nào. Bầu không khí chính trị trong
thành phố càng ngày
càng căng thẳng, một phần do những quy
định ngặt nghèo về đăng ký hộ
khẩu, về thuế vụ, những vụ bắt
bớ ngấm ngầm, những hoạt động dò xét
lộ liễu của công an, phần khác cũng do ảnh
hưởng của cuộc di tản rầm rập
của hàng chục vạn người bỏ nhà cửa,
ruộng vườn chạy vào Miền Nam, và nhất là do
tiếng vang dội đến của những bạo hành
trong cuộc cải cách ruộng đất ở nông thôn.
Khi
vào thành phố, cán bộ,
đảng viên và bộ đội du nhập theo một
loạt từ ngữ hết sức xa lạ và khó hiểu
với người dân địa phương, nào là
tiến bộ, lạc hậu, phản động,
khắc phục khó khăn, thành khẩn bộc lộ,
thực sự cầu thị, đãi ngộ, hưởng
thụ, tiêu chuẩn, đốt cháy giai đoạn, v.v...
Người dân cũng rất kinh ngạc về những
“tập tục” lạ lùng, như trai gái tìm hiểu nhau hay
muốn cưới nhau thì trước hết phải báo
cáo và xin phép “tổ chức”, họ chẳng hiểu
nổi “tổ chức” là cái “ông” gì mà lớn
hơn cả
bố mẹ!
Sau
ngày tiếp quản Hà
Nội, một chế độ phân biệt đối
xử ngay trong hàng ngũ “cách mạng” đã
được ban xuống – “chế độ đãi
ngộ”, rập theo khuôn mẫu Trung Quốc. Chẳng
hạn, trong sự ăn uống thì chia ra “đại táo”
(bếp lớn, dành cho đội viên, cán bộ nhân
viên
loại thường với mức ăn kém cỏi), “trung
táo” (bếp vừa, dành cho sĩ quan chỉ huy, cán bộ
loại trung bình với mức ăn khá hơn chút
ít),
“tiểu táo” (bếp nhỏ, chỉ để phục
vụ cho một hoặc vài gia đình, dành cho cán
bộ,
sĩ quan cao cấp với mức ăn sang trọng).
Đó là chưa kể nhiều “chế độ” rất
chi li về cung cấp vải vóc, ăn
mặc, nhà ở, chữa bệnh, v.v... với
những “tiêu chuẩn rất cụ thể” mà Phùng Cung
nói
mỉa là “rất khoa học”. Đây là bước
đầu của hệ thống đặc quyền
đặc lợi
của một giai cấp mới thống
trị trong chế độ mới.
Thế
nhưng, một thời gian sau khi tiếp quản Hà
Nội, những hàng hoá, nguyên liệu do chế độ
cũ để lại đã
cạn kiệt dần, thành phố gặp khó khăn ghê
gớm trong việc cung cấp cho nhu cầu sinh hoạt
của cán bộ, nhân viên và dân
chúng, cũng như nhu
cầu sản xuất. Đời sống dân chúng sa
sút rõ rệt. Kẻ cầm quyền không có
cách gì hơn là một mặt cố duy trì mức cung
cấp cho cán bộ cao cấp, mặt khác kêu gọi cán
bộ và dân chúng “thắt lưng buộc bụng”, cố
gắng khắc phục khó khăn hoặc hứa hẹn
“cứ yên trí, mọi việc rồi sẽ tốt
đẹp”, hy vọng hàng viện trợ của Liên Xô,
Trung Quốc sẽ đến kịp thời.
Trong
lúc đó, theo lệnh
của Trung ương Đảng, Hà Nội phát
động phong trào xây dựng thành phố trong
sáng, báo
Đảng địa phương lại huênh hoang viết
trong sáng như pha lê! Về sau phong trào này
đổi tên là
“xây dựng thủ đô Hà Nội thành pháo
đài xã hội
chủ nghĩa”, nghe rất kêu! Nội dung chủ yếu
của phong trào là phải quét sạch những tàn
dư
của chế độ cũ, quét sạch bọn gián
điệp, biệt kích địch cài lại, bắt sạch
những nguỵ quân, nguỵ quyền “nguy hiểm” dù
họ tự nguyện ở lại, đã ra thú và có
người đã được “lưu dụng”, bắt
sạch những thành viên của các đảng phái gọi
là “phản động”, dù họ chưa thể hiện gì
hành động chống đối, siết chặt
việc đăng ký và kiểm tra hộ khẩu, tổ
chức những “đội thanh niên cờ đỏ”
đi tuần tra cùng công an, đồng thời đi thu
ở các nhà dân và đốt hết những sách
báo, văn
hoá phẩm... dưới thời địch chiếm
đóng, bắt giới trẻ xoá bỏ “di sản thời
địch”, cấm lối ăn mặc bị coi là
“lố lăng”, như quần “ống tuýp”, tóc để
dài... – đồng thời tích cực chống mê tín dị
đoan, chống các hoạt động của các tổ
chức tôn giáo, v.v...
Ở
đây, thiết
tưởng không cần nhắc lại những chuyện
động trời trên Miền Bắc và ở Hà Nội
hồi đó, như cải cách ruộng đất,
đăng ký hộ khẩu, Nhân Văn – Giai Phẩm,
thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp,
cải tạo công thương nghiệp... Tất cả
những điều đó đều là đề tài
cấm kỵ (tabou), trước hết đối với
các nhà văn, nhà báo, nên nói chung
không một ai hé răng!
Cười
ra nước
mắt
Thế mà, trừ những tabou không
được đụng đến, còn những nét tình
hình chung nói trên, Phùng Cung đều
đã đề cập
đến một cách khéo léo trong phần đầu
của “Dạ Ký”: anh
viết dường như theo đúng đường
lối và luận điệu của Đảng, nhưng
người đọc vẫn thấy được
vẻ mỉa mai của anh và cái lố bịch của
những việc “người ta” làm.
Thoạt
đầu, anh kêu ca
thời tiết oi bức, như nung, như thiêu, thậm
chí cố dùng sai từ ngữ, chửi thời tiết là
lạc hậu, đêm lạc hậu, nhưng rồi anh
lại tự hỏi hay đây là điềm thiên thời
ra tay ủng hộ (cách mạng) để cái nóng nấn
ná
ở lại đòi đốt cháy giai đoạn (2) và anh
tỏ ra rất “giác ngộ”, tự động viên mình
mở mắt to hơn, phóng tầm nhìn xa hơn để
thấy cái lợi lớn (của cách mạng), nóng thế
này, chứ nóng gắt hơn nữa thì cũng khắc
phục được hết (vì cách mạng). Khác với
nhiều người, anh tự nhận mình là một công
dân ngoan ngoãn, giác ngộ: nóng bức dữ dội,
cả
nhà ốm đau, nhưng anh cũng không hương khói
cầu khẩn, không kêu ca, không văng bậy, chửi
bậy mà chỉ biết cắn răng chịu
đựng! “Khó khăn phải khắc
phục mà! Khắc phục
được hết. Nó là khẩu hiệu tiên
quyết thắng lợi mọi mặt! Có thể khẳng
định một thủ đô pha lê,
một thành phố pha lê đã nằm trong hoạch
định của trên. Ai cũng nức lòng
lạc quan – không phải lạc quan tếu, mà lạc quan
cách mạng!”... Cái lối
nói “rất
lập trường” của anh hàm chứa một sự
mỉa mai chua chát. “Ai cũng nức lòng lạc quan”...
“lạc quan cách mạng”... trong
lúc dân
chúng thì méo mặt vì đời sống khó
khăn!
Rồi anh lại kể
chuyện
đến thăm vợ ốm, anh vẫn phải nói
với vợ bằng “cái lối động viên quen tai
rất thời thượng”: “Yên trí! Tất
cả đều tốt!” Anh tự hỏi: cái
lối nói đó xuất xứ từ đâu nhỉ? Mà
“cửa miệng quái nào cũng có thể
thốt ra được, ở bất luận
trường hợp nào xét thấy cần thiết!”
Tác giả biết rõ là nó xuất xứ từ đâu,
nên
anh chỉ tự mắng mỏ mình nói thế với
vợ là láo toét, là nói điêu,
là dối trá! Và chính tác
giả cũng viết là trong cái cõi hệ luỵ thiên
định, nhân định này, chỉ có những phù
thuỷ giấu mặt, cao tay mới làm được cái
trò “úm ba la” đổi đen thành trắng, đổi
đen ra đỏ nhưng “văn hoá mới” và “văn
minh” chưa lùng chụp được mà thôi. Còn mình là dân thường
thì làm gì mà biết
được. Là người dân, là
công
dân thì mình chỉ dám nói chuyên
công dân thôi.
Được vinh dự cầm chặt thẻ cử tri,
phiếu bầu là đủ tự hào quyền làm chủ,
mà đã có quyền thì phải có nghĩa vụ
vinh quang! Còn
chế độ đãi ngộ, hưởng thụ
của Đảng ngày nay rất khoa học, có tiêu
chuẩn rõ ràng không có lộn xộn như xa xưa,
cái gì
cũng “... giai do tiền định” (đều do số
phận định trước). Đừng hòng như
thế! Trong thời mới thì “Nhất ẩm, nhất trác
giai do tiêu chuẩn” (mỗi miếng uống, mỗi
miếng ăn đều do tiêu chuẩn
cả). Cấp trên không cấm ai – mà trái lại
còn
khuyến khích mọi người – vượt
lên tiêu chuẩn cao hơn.
Chỉ có điều bản thân anh phải đánh vật
với miếng ăn, miếng uống, đánh vật
với bệnh tật của vợ con, đánh vật
với đủ thứ rủi ro: nhòm ngó, nghe ngóng,
đánh
vật với chính mình... thì còn hơi sức
đâu
để phớt cẳng vượt lên tiêu chuẩn cao
hơn được!
Chỉ trong cái
đoạn mở đầu đó, khi tác giả còn
đang tỉnh ngủ, người đọc đã
thấy ngay biết bao nhiêu mũi nhọn châm biếm anh
chĩa vào những vấn đề thời sự gây
cấn hồi đó. Còn
khi tác giả chìm dần vào giấc ngủ, thì
cái giai
điệu và lời ca chìm nổi, nhỏ to theo gió –
“Thề phanh thây, uống máu... cùng tiến lên!...”
– cứ dìu hồn anh vào cơn mộng mị. Cũng
cần nói thêm, cái giai điệu và lời ca
này còn ám
ảnh tâm trí anh, giày vò tâm hồn anh
nhiều lần khi anh
bị giam cầm trong tù ngục: đôi lần anh đã
nhắc đến chúng trong thơ ca! Rơi vào cõi mộng,
anh mất cả phương hướng, mất cả
“lập trường”, thấy vết xe tăng mà không
thể nhìn nhận được đây là dấu tích
của chiến tranh vệ quốc hay xâm lược, mà
chỉ nghĩ một cách “thô thiển”: “Tất cả
chỉ là sự bày đặt, buôn bán máu xương
của ma vương quỷ dữ!”... Sau này,
khi đọc lại những vần thơ chống
chiến tranh anh viết trong ngục, độc giả
thấy rõ những ý nghĩ “thô thiển” này
không phải
chỉ nảy ra trong cơn mộng mị.
Chỗ
dựa của kẻ
cầm quyền
Giấc
mộng lại dẫn
anh trở về với môi trường nghề nghiệp
của anh: ngành văn nghệ. Anh gặp
một người quen thường ngày vẫn chạm
mặt, nhưng không sao nhớ tên được.
Người ấy nói với anh cái gì đó –
“đường vinh quang” hay “đài vinh quang”... anh cũng
không rõ, rồi y vụt biến đi... Anh cố rà
soát
lại trong “kho nhớ” của mình, thì đầu tiên anh nhớ
đến dáng đi lon ton, lon ton của y mà anh gọi là
“lối vận hành của quan hoạn”, tức là kẻ
phục dịch trong cung đình. Anh dần dần nhớ
lại tiểu sử của y. Y “được trên
sủng ái”, “từ miệng y khuôn ra toàn đạo
đức” ngọt xớt nhưng mà giả dối.
Bản tính y thì “hẹp hòi, ích kỷ, thù
vặt đầy
người”, nhưng y “cũng được việc
lắm”, văn thơ, kịch cọt, nhạc nhiếc,
triết trủng cái gì cũng có thể “phục vụ”
được, nên đời y “thông bén luồng lạch”
cả về mặt công tác cũng như riêng tư. Y
được anh em trong ngành văn nghệ phong tặng
danh hiệu “Con chó dái đầu bảng!”,
còn nhiều chị em bị y lừa đảo làm cho
khốn khổ, nhưng vì họ kiêng nể cách mạng nên
không dám lên án y là tên “Sở
Khanh cách mạng” mà chỉ
nhổ hơi nặng bãi nước bọt! Tác giả
tự hỏi một con người như thế mà không
biết cấp trên trực tiếp và cả gián tiếp
nữa có biết không? Rồi anh tự trả lời:
Cấp trên sáng suốt nhường ấy thì chắc
phải biết! Nhưng vì văn thơ, kịch cọt
của y lại hợp khẩu vị cấp trên nên
người ta đã làm ngơ, cho là “những nhược
điểm nhỏ” của y chẳng ảnh hưởng
gì đến nền đạo đức cách mạng, chỉ
là cá tính vô hại mà thôi. Cho
nên y “vẫn lông nhông leo
thang, công tác vẫn ngon lành”. Đây là
một mẫu người rất phổ biến trong hàng ngũ
“cách mạng”: kẻ nịnh thần,
bồi bút-văn nô, chỗ dựa của kẻ cầm
quyền.
Trong
cơn mộng mị, tác
giả thắc mắc về sự ẩn hiện của
y. Anh nghĩ, theo truyền ngôn, ở
nước ta chỉ có “Tứ bất tử”, các vị này
dày công tu luyện đạo gì đó? Vậy chẳng
lẽ y đã sung vào hàng ngũ
các vị
đó rồi sao? Và chẳng lẽ học
thuyết Mác-Lê-nin cũng là đạo sao? Vô
thần
cơ mà! Ừ thì cứ cho là đạo
vô
thần đi. Đạo vô thần mà lại lắm
phép lạ đến thế thì khiếp thật! Và
dường như y phải là bực chân tu chính
đạo! Cái ý nghĩ của Phùng Cung cứ vòng vo, vòng vo một cách... cực kỳ nguy
hiểm, đến khi anh tự thấy mình sắp đi
quá trớn rồi, nên vội trụt ý nghĩ lại.
Phải
nói rằng đoạn
này tác giả đã đẩy tính trào lộng
lên
đến cao độ, dám vạch rõ thói tệ của
đám cầm quyền là chỉ dựa vào lũ nịnh
thần, bồi bút-văn nô, mà không biết
quý người
ngay, người nói thẳng, lại còn dám đem những
cái “thiêng liêng” nhất, như các vị “Tứ bất
tử”, học thuyết Mác-Lê-nin, “đạo vô thần” ra
mà bàn luận, giễu cợt, lại dám nghĩ tên nịnh
thần, bồi bút-văn nô kia dường như là
bực chân tu chính đạo và dám thắc mắc chẳng
lẽ y đã sung vào hàng ngũ“Tứ bất tử”
rồi sao?... Theo lời đồn trong cán bộ thời
đó, cho đến đầu thập niên 50 các vị
“Tứ bất tử” có ông Hồ, ông Năm/Trường
Chinh, ông Văn/Giáp và ông Tô/Đồng,
còn từ năm 1956
thì có ông Hồ, ông Ba/Duẩn, ông
Sáu/Thọ và ông
Tô/Đồng; ông Năm bị thi hành kỷ luật sau
cuộc cải cách ruộng đất, ông Văn thì bị
ông Ba cho ra rìa do ghét bỏ, kèn cựa. Đó là
những lời đồn đãi, còn thật hư thế
nào thì chỉ có trời mới biết được.
Như đã nói
trên, Phùng Cung viết truyện ngắn này sau khi phải
trải qua một trận đấu tố căng
thẳng. Những ám ảnh của
cuộc đấu tố đó rất nặng nề và bi
đát đối với tâm hồn anh. Trong trí anh,
lởn vởn hình ảnh các vị “quan toà văn nghệ
mặt sắt đen sì”, như Hoài Thanh, Chế Lan Viên,
Nguyễn Đình Thi, Võ Hồng Cương... chễm
chệ ngồi trên bàn chủ tịch đoàn để
cật vấn, truy hỏi anh: “Chưa được thành
khẩn, phải đào sâu suy nghĩ, còn phải bộc
lộ!...” Và một đòn hoàn toàn bất ngờ
mà hết
sức đau đớn đối với anh là ngay hôm
đó “người ta” đã “bố trí” để chính
những người bạn của anh lên “đấu
tố” anh: Trần Dần “tố” trước, còn Lê
Đạt và Hoàng Cầm phụ hoạ theo.
Mà lời “tố” lại rất độc: vì mang lòng
hận thù cách mạng sau khi bố chết (cụ thân sinh
của anh bị quy trong cải cách ruộng đất là
địa chủ cường hào) nên anh đã viết
truyện để “viser” lãnh tụ và Đảng (3)! Tất cả những ám ảnh nặng nề
đó không thể không phản ảnh trong giấc mộng
của anh. Nhưng anh là một cây
bút có
trách nhiệm, anh không đưa nỗi đau của riêng
mình vào truyện, mà dùng ngòi
bút khéo léo vạch trần cái
tồi tệ của chế độ đương
thời.
Những
ám ảnh nặng
nề
Trời
đã ngả chiều,
anh khát nước quá, tìm đến một nơi chẳng
hiểu là đền hay chùa, chợt nghe tiếng chó
sủa vang, anh cố tìm chủ của chúng – nhà sư hay
ông từ – để xin ngụm nước, nhưng
chẳng thấy ai. Nghe tiếng lịch kịch bên trong,
anh bước hẳn vào trong thềm đại bái, nhìn
lên
tam bảo uy nghi, bên trên có ba vị tam thế,
còn hai bên hành lang
thì hàng loạt tượng phật,
tượng thánh sơn son thếp vàng lộng lẫy.
Bỗng anh bủn rủn cả người, anh rẽ sang
tả hay sang hữu, các vị
ấy đều
đồng loạt đưa mắt theo lườm anh. Anh cảm thấy lạnh
toát người, cố
trấn tĩnh làm nhanh bản tự thuật trong
đầu, anh cũng đã biết tự thuật thì
phải thành khẩn tự nhận tội lỗi là
cốt lõi của vấn đề. Anh tự nhủ
có lẽ chỉ con mắt thần phật mới nhìn
thấu hết. Chắc kiếp trước mình đã có ác
nghiệp!... Và anh khép
nép lùi ra...
Mới ở chùa
ra, thình lình một mũi giày đá mạnh
vào mông anh. Giật mình
quay lại, thì ra «chẳng ai xa lạ,
ông bạn cao tuổi, nhà thơ giả thiểu số».
Chắc độc giả đoán biết
người đó là ai? Nhà thơ đã từng
đổi họ từ Phan sang Chế, giả làm dân Chiêm
Thành, tác giả tập «Điêu
Tàn» (1938). Còn ở thời điểm cuối thập
niên 50 này, nhà thơ họ Chế đang là một
trong
số những «chiến sĩ» hăng hái nhất, xông
xáo
nhất đấu tranh với «bè lũ Nhân Văn-Giai
Phẩm» để cố vươn lên chiếc ghế
quyền lực cao hơn, cố chiếm chỗ ngồi
trọng vọng hơn trong «bàn tiệc lớn» (4).
Phùng
Cung bất bằng cái lối mở đầu cuộc
gặp mặt theo kiểu trịch
thượng này, nhưng anh ngại nói ra. Còn
«nhà thơ
giả thiểu số» thì lại hất hàm ngạo
mạn hỏi anh : «Đã thật
thành khẩn chưa?» làm anh càng thêm
khó chịu. Anh nghĩ là
có lẽ tiếng lịch kịch bên trong chùa hồi nãy
khi
anh còn đứng ngoài thềm đại bái là do
nhà thơ
tạo nên. Và anh phục sát đất cái khoa
«Phật
vận» của nhà thơ: đến cả phật mà anh ta
cũng vận động được để theo dõi xem
mình đã thành khẩn chưa!
Rồi Phùng Cung lại nghĩ «cũng có thể do
nhà
thơ quen lấy tiếng chó làm chuẩn để cân
đong, đánh giá sự gian ngay chăng?» Anh
nghĩ lan man: «nhiều con chó khôn đáo để
còn
biết sủa lập công phò chủ», «anh cũng
ít
nhiều bị chúng hiểu lầm» nhưng chẳng
đáng để ý. Người đọc hiểu ngay
đây là «lũ chó hai chân» đang lợi
dụng cơ
hội Đảng «đánh» Nhân Văn – Giai Phẩm
để «đánh hôi», «cắn trộm», ra sức
lập
công phò chủ, cố leo được lên địa
vị và tiêu chuẩn hưởng thụ cao hơn. «Nhà
thơ giả thiểu số» lại lên mặt giáo dục
Phùng Cung: «Chưa được
thành khẩn! Phải đào
sâu suy nghĩ! Còn phải bộc lộ!...»
Anh bực mình nghĩ, đây đâu
có phải
là đang cuộc chỉnh huấn. Giá mà chỉnh
huấn thì anh chẳng thèm tiếc gì vài
cái gãi đầu,
đấm ngực, rồi hăng hái tự lên án mình –
dù
thật hay vờ, miễn là học uỷ gật đầu
chấp nhận... Vừa giục anh «phải bộc
lộ» xong, nhà thơ lại hạ giọng ra vẻ
thượng cấp: «Cũng tạm được,
cũng đã có ít nhiều chuyển biến!...»
Nói xong, anh ta quay đi, rảo bước cho
kịp người bạn đồng hành của anh ta.
Ở đây, ta thấy rõ tất cả những ám ảnh
nặng nề, khủng khiếp của cuộc
«đấu tố» đọng lại trong giấc mộng
đêm hè của anh, cũng như những lố bịch
của «cái trò» chỉnh huấn.
Người cùng
đi với «nhà thơ giả thiểu số», không
nhìn thì
Phùng Cung cũng đã biết ngay là ai, và anh
mô tả
người đó rất «hiện thực». Ai
từng gặp ông ta đều nhận ra ngay: vóc dáng cao
lớn, gầy, đen, tứ thời đầu húi móng
lừa, tứ thời bận đồ nâu – kể cả
khi bận com-plê cũng nâu, na
ná một
ông sư Cao-miên. Đó là
«nhà lý luận –
lối lập luận thời thượng nhất –
vừa mũi nhất». Chữ «vừa mũi
nhất» ở đây thật là tuyệt! Phùng Cung
cho
biết rằng anh em trong ngành văn học nghệ
thuật nói vụng với nhau về ông ta là «Tên
đầu bếp vụng,
nhưng được kẻ ăn khen ngon!»...
Còn nhà thơ Xuân Sách thì mô tả
chân dung của ông: Vị nghệ thuật nửa
cuộc đời / Nửa đời sau lại vị
người cấp trên... (5) “Nhà lý luận” cùng
«nhà
thơ giả thiểu số», mỗi người cầm
một cái côn khác nhau – chắc là tượng trưng
cho
quyền lực gì đấy (?!), “nhà lý luận” bá cổ
nhà thơ cùng đi. Đi đâu
Phùng Cung
cũng chẳng thèm để ý, chỉ thở phào cảm
thấy mình được giải thoát.
Anh
đi đến một ngã
ba, thấy lối rẽ bên phải đường
nhẵn cát pha, liền rẽ theo
ngã này.
Bỗng anh hoảng sợ, thốt lên: Ôi! Vô phúc thế
nào
lại dấn thân vào nơi cấm địa: lầu son,
gác tía dựng ngay trước mặt! Anh dừng chân
nhìn,
một ngôi hoá hai, hai hoá ba, ba hoá bốn,
hoá năm, liên khu
lâu đài biệt thự – như trời hoá phép vậy! Anh tưởng đây chỉ là ảo giác.
Anh xoa mắt, định thần, đứng bên
ngoài hàng rào cấm nhìn lên một tấm
biển đỏ
chữ vàng treo ngay ngắn trước biệt thự.
Vì ở xa nom chữ loà nhoà
không đọc
được. Anh thấy
hai hàng người quần áo
đồng màu, cắp côn đỏ, xếp thứ tự
nghiêm chỉnh từ dưới chín cấp lên tận
cửa son. Đứng đầu hàng bên hữu anh
nhận ra “ông anh đẹp giai tôi gặp lần
đầu”, tức là tên nịnh thần, bồi bút-văn
nô, rất chững chạc, rất điệu, có vẻ
điêu luyện nhất. Phùng Cung đoán: chắc y đang
giữ chức chỉ huy bên cửa son. Cặp mắt y hau
háu, trai lơ, sung mãn! Lúc bấy giờ anh mới chợt
nghĩ lại mấy tiếng “vinh quang” mà y đã nói:
hẳn là chốn này đây. Chả có công việc
gì mà
cứ luẫn quẫn nhìn ngó nơi đây dễ bị
xơi đòn, nên anh liền lảng nhanh, trong óc cứ
nghĩ ngợi, cái “vinh quang” mà mình thấy mới chỉ
là cái vỏ “vinh quang” mà thôi, còn
cái nội dung của nó thì
cái ngữ mình làm sao mà biết được! Đoạn
này, tác giả hé cho người đọc thấy giai cấp
thống trị mới ngày một “phong kiến hoá” rõ rệt.
“Viện
múa lưỡi”
...Chạy
khỏi
được Quang Dũng (6), anh ngồi nghỉ lấy
lại sức, thì thấy trên đường toàn những
khách văn chương, đúng là thời thịnh văn
chương. Hồi đó, ở Hà Nội
lại vừa tổ chức Đại hội anh hùng và
chiến sĩ thi đua toàn quốc. Báo chí của
Đảng hết lời ca ngợi nhân dân ta rất anh
hùng, anh hùng có nhiều ở khắp mọi nơi,
đến nỗi ra ngõ là gặp anh hùng! Lúc ngồi
nghỉ, Phùng Cung suy luận: người ta nói “Ra ngõ
gặp anh hùng” là rất có cơ sở, rất có
lý. Ngay
nơi gia đình anh đang ở cũng đã có hàng
chục anh Hùng rồi – nào Hùng Sơn, Hùng
Việt, nào Hùng
Anh, Anh Hùng, thậm chí cả Hùng nhèm,
Hùng giẻ rách, v.v...
Cái thời thịnh anh Hùng nên ai cũng ngưỡng mộ
cái danh hiệu cao sang đó mà đặt tên để
khuyến
khích cái sự “hướng hùng”. Đang
nghĩ ngợi thì anh gặp Hoàng Cầm, một “sĩ quan
văn học trong đoàn quân bách chiến bách
thắng”.
Hoàng Cầm nắm vai anh bảo: “Mình đang nghĩ
giải lao, đang bận tập, không thì mời cậu
về nhà chơi”. Phùng Cung
hỏi “Tập tành gì?” thì Hoàng Cầm quay lưng,
lấy tay chỉ chỏ. Anh
nhìn
thấy một bãi tập rộng, cỏ mọc xanh
rờn, bốn bề xung quanh đều có hàng rào dây
thép
gai cao chừng hai tầm đầu người lớn.
Phía hai bên bãi tập là
mấy ngôi biệt
thự mới. Bỗng một hồi chuông vang lên,
Hoàng Cầm định bắt tay
bạn để vào, nhưng lại dừng ngay và nói:
“Chưa đến đợt bọn mình”. Phùng Cung thắc
mắc hỏi: “Tập tành gì vậy, và nơi đây
là gì?”. Hoàng Cầm bảo:
“Cứ đứng
đây nhìn sẽ biết”.
Nhìn vào trong, anh
thấy sáu bảy hàng người, mỗi hàng chừng vài
chục. Hai người đứng trước
những hàng người là người cao đen mà anh em
văn nghệ mệnh danh là «nhà bếp vụng»
còn
người kia là «nhà thơ giả thiểu số», hai
người nói điều gì đó ở xa không nghe
rõ. Hoàng
Cầm cho biết người cao đen là giáo sư
viện trưởng, còn «nhà thơ giả thiểu số»
là giáo sư viện phó, cả hai đều
được đào luyện theo các
hệ ngước ngoài, người theo hệ Nam hải, người theo hệ Đông
phương. Sau mấy tiếng hò hét của
cả hai vị giáo sư, giáo sư viện trưởng
vươn ra một cái lưỡi đỏ, dài hàng
trượng và hơn thế nữa. Cái
lưỡi ngoằn ngoèo lượn giống hệt
như giải lụa của đoàn xiếc Trung Hoa
biểu diễn múa lụa vậy. Hàng chục học
viên do giáo sư này chỉ huy cũng phóng ra
lưỡi
đỏ, cũng ngoằn ngoèo, nhưng còn ngắn hơn
giáo sư nhiều. Còn vị giáo sư kia
thì phóng một loại lưỡi khác, thẳng đơ
như dùi cao su, bề dài cũng hàng trượng,
lưỡi không múa liệng mà cứ đập lên
đập xuống trông thật dẻo mà cứng. Phùng
Cung chưa từng được nghe ai nói
về việc này, nay đột nhiên được trông
thấy tận mắt mới tự biết là mình còn
ngờ nghệch nhiều trong cuộc sống. Trông
cảnh ngoạn mục nhưng anh lại
cảm thấy sờ sợ. Đột nhiên, anh
thấy một người nhỏ thó, mắt hơi lé, nói
giọng kim từ đâu vừa
đến. Cái lối «tả chân» xác thực
làm sao! Bạn
đọc hiểu ngay đó là người mà dân gian
vẫn truyền tụng bài vè chẳng lấy gì làm dễ
chịu lắm: «Tên Lành,
nhưng dạ chẳng Lành...» (7), trùm văn nghệ
của Đảng. Viện trưởng và viện phó
đều cung kính cúi gập nửa người làm Phùng
Cung nghĩ bụng chắc hẳn trong lưng họ có
lắp bản lề mới cúi sâu được thế.
Rồi họ lại thẳng người lên, vươn
lưỡi lăn qua, lăn lại. Anh
nghĩ rằng đó là nghi thức lễ tân
để chào thượng cấp. Anh hỏi Hoàng
Cầm xem ai đó, thì anh này nói khẽ:
«Thi hào, viện
trưởng danh dự của Viện!»
Phùng Cung không kìm được nỗi tò mò,
cố hỏi
Hoàng Cầm: «Học viện gì thế và làm
sao anh lại
được vào theo học?»
Hoàng
Cầm khẽ trả lời :
«Học viện múa lưỡi đấy!» và còn thổ
lộ thêm là trong viện có hai ngành
múa khác nhau. Thỉnh thoảng hai
ngành có thi đấu nhau,
nhưng chưa phân thắng bại. Về
lý thuyết thì hai bên đều đầy sức
thuyết phục, nhưng hình như lưỡi lụa
đang có đà thắng thế. Hoàng
Cầm cũng thè lưỡi cho Phùng Cung xem, lưỡi anh
cũng mới dài gấp đôi lưỡi người
thường. Hoàng Cầm tâm sự: có lẽ mình
phải bỏ dở, vì vốn không có sở trường.
Nhưng bỏ cũng tiếc. Nếu theo
hết khoá, ra viện thì cũng có
chỗ đứng vững vàng. Phùng Cung ngỏ ý muốn được xem
trận đấu lưỡi, nhưng Hoàng Cầm huơ
tay ra hiệu: «Không được! Không được!
Đây là việc cơ mật của quốc gia!»
Nghe thế, Phùng Cung không dám
vật nài nữa. Hoàng Cầm còn vỗ vai
khuyên anh:
«Chớ có bép xép mà oan gia đấy!».
Đây
là một trong những
đoạn đặc sắc nhất của “Dạ Ký”, vạch trần
cả một thủ đoạn cực kỳ thâm
độc của bọn độc tài toàn trị
đối với giới trí thức, văn nghệ
sĩ, cũng như cán bộ, đảng viên, nhằm
biến họ trở thành những
kẻ đầu sai ngoan ngoãn cho chúng. Sau khi đánh gục
những trí thức, văn nghệ sĩ ưu tú, khao khát
tự do đã tham gia trào lưu Nhân Văn – Giai Phẩm,
bằng những trận đấu tố quyết
liệt mà Tố Hữu gọi là «cuộc giao phong tư
tưởng», bằng vu khống là «gián điệp»,
«phản động», «tơ-rốt-kit», bằng công an,
toà
án, nhà tù, bằng bao vây kinh tế cả gia
đình, bằng
sự đày đoạ cả về thể xác lẫn tinh
thần, Đảng đã dìm giới trí thức, văn
nghệ sĩ của miền Bắc trong nỗi sợ
triền miên. Tiếp đó, là một trận đánh
lớn khác diễn ra sau ngày tác giả viết «Dạ
Ký» và
khi anh đang bị tù, mà mũi chủ công nhằm vào
những trí thức, cán bộ, đảng viên trong
Đảng có tư duy độc lập, có tư
tưởng riêng hoặc ý kiến bất đồng
với đường lối theo Mao của lãnh
đạo, dù họ vẫn tuân thủ nguyên tắc tổ
chức của Đảng. «Người ta» đặt tên
chiến dịch này là đánh Xét lại – Chống
Đảng. Đánh bằng vu khống trắng trợn là
gián điệp nước ngoài, là âm mưu đảo
chính, đánh bằng đấu tố, truy bức, bằng
bắt bớ, giam cầm tại tù, câu lưu tại gia,
bằng đày ải hàng loạt cán bộ, đảng viên
trong nhiều năm, bằng kỳ thị, hành hạ gia
đình, vợ con, thân nhân những người bị coi là
«Xét lại – Chống Đảng» ...
Chưa bao giờ trong ĐCS
từng có một trận đánh nội bộ khủng
khiếp và kéo dài như thế! Nhiều
người chết, nhiều người bị tù tội
lâu năm rồi cũng suy sụp. Đòn đau
lần này đã giáng xuống một uỷ viên Bộ
chính
trị, ba uỷ viên Trung ương ĐCS, một
đại tướng, một trung tướng, hai
thiếu tướng, bốn đại tá, một thượng
tá, bốn trung tá, năm thiếu tá, nhiều cán
bộ cao
cấp, như bộ trưởng, thứ trưởng,
viện trưởng, phó bí thư thành uỷ, thường
vụ thành uỷ, phó chủ tịch thành phố, nhiều
giáo sư, nhà báo, nhà văn, bác sĩ...
và hàng ngàn
người vô tội. Toàn Đảng bị
dìm trong nỗi kinh hoàng.
Đồng
thời với
những trận đánh này, bọn độc tài toàn
trị ra sức đào tạo lớp trí thức, văn
nghệ sĩ mới, cũng như cán bộ, đảng
viên chuyên nghề ton hót, nịnh bợ, mà
Phùng Cung gọi là
«múa lưỡi», «nói xuôi cũng được,
nói
ngược cũng xong» để ngợi ca lãnh tụ
và Đảng «anh minh», tung hô đường lối
«sáng
suốt» của Đảng, mặt khác a dua, vu khống,
lăng mạ, mạt sát những sĩ phu bất
khuất, không chịu «ăn lời» của Đảng.
Trong «viện múa lưỡi» có cả cái
ngành lưỡi
cứng mà dẻo chỉ
đập lên đập xuống mà không uốn
lượn, chắc hàm ý ngành chuyên đàn
áp, đấu
tố, hành hạ những người có tư
tưởng khác hay những kẻ «bất tuân thượng
lệnh», có thể coi đây là một loại hình
«nghệ
thuật» (!) gắn liền với «công an văn
hoá» và «an
ninh chính trị». Trong truyện,
tác giả
không nói rõ «học viện múa lưỡi»
này thuộc
về viện gì. Điều đó dễ hiểu
thôi, vì dưới quyền độc tôn của
Đảng thì bất cứ viện gì, dù là viện văn
học, viện sử học, viện triết học,
viện kinh tế, hay các viện khoa học chính xác,
thậm chí cả viện công tố, toà án, Đảng
cũng đều có thể biến thành «viện múa
lưỡi» được cả và cán bộ của các
viện đó cũng như mọi đảng viên
đều phải thạo nghề «múa lưỡi». Ngày
nay, chúng ta than khóc về sự thiếu vắng và sa
đoạ nhân cách của trí thức, cán bộ,
đảng viên, nói riêng, và của người dân,
nói chung,
thì cũng cần thấy rõ nguyên nhân của
tình trạng
đó chính là do thủ đoạn thâm độc này
của
Đảng độc tài mà ra. Chẳng phải ngẫu
nhiên mà Hoàng Cầm đã dặn Phùng Cung:
«Đây là việc
cơ mật của quốc gia! Bép xép thì oan gia đấy!»
Phùng
Cung vì tình bạn đã khuyên
Hoàng Cầm: nếu thấy không hợp sở
trường thì xin thôi, nằm nhà làm thơ,
ngâm thơ cho
thú, tội gì mà lao
vào cho mệt! Hoàng
Cầm suỵt một tiếng khẽ, vừa đủ
anh nghe: «Lúc vào viện, viện thấy không đủ
khả năng thì viện sẽ loại, chứ tự mình
xin ra thì mất hết lưỡi! Lưỡi
mất thì còn ngâm ngợi cái gì được nữa.
Đến kẻ ăn mày cũng
nhờ cái lưỡi mới sống nổi. Cậu xui dại dột
thế». Phùng Cung câm
miệng hãi hùng! Anh lại tò mò hỏi: với điều
kiện nào mà được tuyển vào viện? Hoàng
Cầm nói: «Trải qua một quá trình thử
thách, trời
phú cho mình cái bản chất co giãn, khi cần
cũng
xương đồng da sắt được, hoặc
cũng nhũn nhùn nhùn như bánh đa nhúng nước
được». Dứt lời, Hoàng
Cầm liền biểu diễn sức co giãn. Khi anh ta
gồng lên, Phùng Cung sờ vào quả là cứng
thật, còn
khi anh ta làm mềm, sờ vào người anh ta chẳng
thấy xương cốt đâu cả, chỉ
toàn thịt và gân
nhẽo nhèo. Hoàng Cầm còn cho
biết đây
mới chỉ là hình thể thấy được
bằng mắt, còn cái phần vô hình là
tâm hồn, tư
tưởng thì sức co giãn còn gấp ba gấp bốn
lần. Phùng Cung phục lăn:
«Chịu ông anh thôi». Hoàng Cầm đầy vẻ tự
phụ hắt nhanh lời nói vào mặt bạn: «Chứ sao!». Đoạn này, người đọc có
thể suy đoán là nhà văn trút nỗi hận
lòng mình vì
sự bội phản của bạn khi kể chuyện
Hoàng Cầm được chọn vào học ở
«viện múa lưỡi» và nhắc đến sức co
giãn
còn gấp ba gấp bốn lần của tâm hồn và
tư tưởng anh ta.
Phùng
Cung sợ Hoàng Cầm ham
chuyện trò lỡ quên giờ tập, bèn nhắc bạn,
thì Hoàng Cầm cho biết anh chỉ là học viên
dự
bị thôi, giờ tập chỉ bằng một phần
tư chính khoá. Rồi anh phàn
nàn, lẽ ra anh
không phải qua thời gian dự bị lâu thế, tất
cả chỉ tại thằng em kết nghĩa làm hại.
Hỏi thằng nào, Hoàng Cầm tỏ vẻ bực mình nói : «Cái thằng
cùng họ với
cậu chứ thằng nào!» Phùng Cung hiểu ngay là
Phùng
Quán...
...Rời
khỏi Hoàng Cầm,
Phùng Cung lại đến chợ Bưởi, nơi
nổi tiếng «món bò thui đặc chủng». Nhưng
vì
hy sinh cho một nền công nghiệp phát triển, bò
bê cũng
đã được đổi mới từ thui sang
lột! Ý nhà văn muốn nói đến cái lệnh
của chính phủ cấm thui trâu bò, bê, để lấy
bì của chúng làm nguyên liệu cho nhà
máy da Thuỵ Khê
mới phục hồi. Và cũng ở chợ Bưởi,
anh đã gặp nhà văn Tô Hoài, sau đó
anh lại gặp
Lê Đạt và cụ Tiên (6). Với cụ Tiên (8)
thì Phùng
Cung thú nhận là anh «vốn ngại, sợ thì
đúng
hơn» vì «cụ có kèm một công
tác đặc nhiệm», ý
nói về lời đồn cụ đã từng có chân trong
ban ám sát của Việt Minh hồi nào.
Những
cái chết móc hàm
Ba
người đang chưa
quyết định đi ăn ở
đâu thì bỗng một loạt đại bác ầm
ầm rung chuyển cả không gian. Dưới
chợ, trên đường đều huyên náo,
người người đổ xô, la hét, gà lợn, chó
má cũng kêu thất thanh. Kẻ
chạy
xuôi, người chạy ngược, xéo lên nhau mà chạy,
bỏ của chạy lấy người. Cụ Tiên
và Lê Đạt đã biến đâu
mất. Phùng Cung bơ vơ một
mình không biết chạy đi đâu. Tiếng
nổ mỗi lúc một dữ dội, tưởng như
vỡ trái đất, như phụt núi lửa, như
trời sập, như trận Trân Châu cảng hay bom nổ
ở Hi-rô-si-ma. Cuồng phong bão
tố
nổi lên. Trên không trung, mây ngũ
sắc vun vút như cờ thiên lôi, vừa bay vừa
đổi màu biến sắc, rồi tụm lại,
tạo một vòm trời đỏ như máu. Phùng
Cung hết hồn, tự hỏi thế này là
thế nào? hay đây
là chuyện
đổi đời mà anh đã được nghe ông lão
hàng xóm kể lại khi anh còn thơ ấu? Rồi anh
tự nhủ: «chuyện đổi đời» chính là lúc
này đây! Giờ thì tiếng nổ không còn
nữa, mà
chỉ còn tiếng gầm rú của bão tố như ngàn
vạn tiếng hổ gầm, voi rống, càng nghe càng hãi
hùng! Dưới vòm trời tất cả
đều nhuộm nhanh một màu đỏ. Anh bỗng
choáng váng, đầu nhức, mắt
hoa lên. Hai tay ôm mặt.
Anh sợ
ngã!
Khi
anh vừa mở hai bàn tay ra
thì không biết từ lúc nào và từ
trên trời lao
xuống, hay từ dưới đất trồi lên,
một trái núi hình nón, mà cũng
có thể là ngọn tháp, anh
chưa kịp phân biệt được. Thì cứ
gọi là một ngọn tháp khổng lồ, rung rinh lay động. Trên đỉnh
tháp là một tàn vàng chói
lóe, cạnh đó là một lá
cờ đại, xung quanh lá cờ đại là hàng ngàn
cờ nhỏ – tất cả đều màu đỏ
rực. Từ cờ đại
đến cờ nhỏ đều quay tròn. Diềm
cờ không đính tua kim tuyến
mà là
lưỡi câu thép ngoại. Cờ tạo gió, gió
nhân thành
bão, thì ra do cờ bay mà tiếng gầm rú
hãi hùng như
vậy. Anh lạnh cả người, cầm chắc trong
tay một cái chết móc
hàm!
Ngọn
tháp mỗi lúc một to ra, cao lên, cờ cũng tăng
thêm
gấp bội. Tất cả đều
diềm lưỡi câu, đều quay tít. Nhìn kỹ
ngọn tháp thì từ chân tới đỉnh toàn
người là người, lớp nọ cưỡi lên
cổ lớp kia ngất ngút.
Thoắt một
cái, chẳng biết từ đâu, người
người lớp lớp đang chạy vòng quanh tháp.
Chạy theo hướng cờ bay,
chạy dưới bóng cờ. Từ trong tháp
đổ ra, số vòng trong, vòng ngoài nhiều vô kể.
Phùng Cung là người chạy vòng
ngoài cùng.
Vòng nào cũng đủ hạng người, già, trẻ,
đàn ông, đàn bà, bách tính, tứ
dân, nhiều nhất là
dân áo vải, chân lấm tay
bùn. Người nào cũng cầm vũ
khí từ thô
sơ đến tối tân. Tối tân thì có
súng
Rơ-manh-tông, Mút-cơ-tông, Anh-đô-si-noa, cả
súng
hoả mai nữa. Còn thô sơ thì đủ loại, nào
là
cuốc, xẻng, mai, thuổng, đòn càn, đòn gánh,
nào là tay thước, dao quắm,
mã tấu. Có cả mấy vị
chư-bát-giới vác cào
lệch ệch hoặc xích trượng, cả mấy
vị áo chùng thâm vác thánh giá
chạy gần chân tháp.
Trong đế của đại tháp, chắc là chỗ an
toàn hơn cả, thì thấy đủ mặt: kẻ
nịnh thần bồi bút-văn nô mà Phùng Cung gọi
là
« ông anh đẹp giai » cầm một côn
đỏ, Viện trưởng, Viện phó múa
lưỡi, cụ Tiên hai tay hai súng lục, ông anh Tô
Hoài,
cả Hoàng Cầm, Lê Đạt cùng bao nhiêu người
khác, anh đã từng gặp mặt ở chiến khu
Việt Bắc. Tất cả đều kết thành một
khối. Tất cả đều nhất loạt
hướng tai lên đỉnh tháp nghe
lệnh sang sảng: «Kẻ thù phía trước! Kẻ thù
phía trước!» Giữa người
nọ với người kia nhất
tề phải giữ đúng khoảng cách một tầm
lê đâm trộm.
Đêm xuống lúc
nào không biết. Đỏ pha
đen, không gian là một màu huyết dụ. Một
thứ mùi rờn rợn, tanh tanh vây quanh. Chẳng
biết lúc nào ai đã trao một cái dùi
gỗ vào tay Phùng Cung
và anh đã nhận làm vũ khí. Dùi gỗ dài chừng nửa thước tây –
bết máu. Chắc là chiến lợi phẩm thu được của kẻ thù tử
trận. Phùng Cung rùng mình nhìn gáy
người phía
trước anh. Chẳng phải ai khác, mà
chính là ông thầy học của anh. Trông
vóc dáng thầy, và nhất là sau gáy
có hai nốt ruồi
đen to liền nhau là anh nhận ra ngay. Anh khẽ lên
tiếng: «Phải thầy Đoàn đấy không?»
Thầy Đoàn giật mình,
không dám ngoái đầu, không dám
lên tiếng.
Nước mắt trào ra, cổ nghẹn lại, anh
lại hỏi tiếp: «Cung đây! Thầy còn nhận ra
con không?» Thầy
Đoàn
giật mình, co cổ lại. Thầy biết mình
đang ở vị trí kẻ thù của anh!!! Anh bàng
hoàng!
Tự hỏi : vậy tôi đang là
kẻ thù của ai phía sau tôi?
Anh
rùng mình kinh hãi, hai chân lảo
đảo, loạng choạng, xéo phứa lên một bãi
cứt, do đó bị trượt chân văng ra khỏi
vùng hiểm hoạ! Ngã sấp mặt, nhờ
một «bãi cứt cứu sinh». Tuy đau ê ẩm,
nhưng anh thấy vô cùng sung sướng. Anh
định thần để ghi nhớ công cứu
sống mình. Anh nghĩ bụng sau
này
phải làm một bài «Cứt tụng». Dù
có ai chê bai cũng đành chịu vậy thôi.
Và trong
đầu liền nảy ra một tứ
thơ: «Cứt không thèm với tay vịn gió đổi
mùi; nguyện hôi thối hết mình để người
đời khỏi ngộ nhận!...»
Nằm nghỉ
một lúc mới nhận ra là mình đang nằm trên
đống máu – máu chiến thắng kẻ thù đồng
loại. Gió mặt đất đưa đến tai
anh tiếng khóc thê thảm, tập thể
từ đâu vọng lại. Anh nghĩ: tội nghiệp
bây giờ thầy Đoàn ở đâu? Thầy
đang là kẻ thù của ai? Anh cầu khẩn
đất trời ra tay cứu vớt
để những đau thương tràn ngập
được giải thoát. Và tự hỏi: không biết
lòng tha thiết bằng an của anh
có
lừa dối mình không?
Chợt
có tiếng từ
đỉnh tháp sang sảng chói tai:
«Bắt lấy nó! Băm nát thằng đào ngũ!» Anh sợ quá,
cứt máu
đầy người, anh vùng dậy chạy trốn.
Tiếng súng bắn theo, cùng
tiếng chân
huỳnh huỵch đuổi phía sau, nghe mỗi lúc một
gần, anh không dám quay đầu nhìn lại, cứ cắm
cổ chạy. Hờm đá cheo leo, vực thẳm ngay
trước mặt, đạn lại bắn sít vành tai bên
trái, anh nghiêng đầu tránh đạn, sẩy chân
đâm
vút xuống vực, chỉ kịp rú lên một tiếng
«Trời!». Anh giật mình
choàng tỉnh!
Một cơn ác mộng khủng khiếp!
Trong «chuyện
đổi đời», ngòi bút sắc bén của nhà
văn
đã đụng đến cái gọi là «chiến
thuật vận động cách mạng» của các lãnh
tụ cộng sản. Nói chung,
«người ta» chia ra hai thời kỳ để có
«chiến thuật» khác nhau: khi Đảng chưa
cướp được chính quyền hay khi chính
quyền của Đảng còn non yếu và khi chính
quyền của Đảng đã vững mạnh.
Trong thời kỳ
đầu, «chiến thuật» của các lãnh tụ
cộng sản là phải hết sức che giấu cái
thực chất cộng sản của mình và cả cái tên
cộng
sản của Đảng, mà chỉ nói toàn chuyện yêu
nước, giải phóng dân tộc. Họ
biết rõ nếu nói công khai là cộng sản
thì khó
được lòng dân. Phải giấu
kín mới hy vọng được sự ủng hộ
của dân chúng trong và ngoài nước, đồng thời
tránh được những phản ứng bất lợi
trên thế giới. Nhờ «chiến
thuật» này, lúc đầu những người cộng
sản tiếp cận được những tầng
lớp trên trong xã hội, những sĩ phu, phú hộ,
thậm chí cả hào lý yêu nước. Cố
nhiên,
những tầng lớp nghèo cũng yêu nước,
nhưng khả năng của họ ít ỏi hơn, không
như tầng lớp trên sẵn có nhà cửa, tiền nong,
lương thực, phương tiện đi lại,
thậm chí cả cái thế vững vàng trong xã hội
để có thể nuôi nấng, chứa chấp, che
chở cho họ một cách an toàn.
Để che
giấu thực chất cộng sản của mình, ĐCS
nấp dưới cái tên Việt Minh trong suốt thời
kỳ vận động cách mạng hồi những
năm 40. Đến cuối năm 1945, ĐCS
lạiï tuyên bố tự giải tán (đây là
trò bịp
để đánh lừa thiên hạ, chứ thật ra
ĐCS vẫn tồn tại), rồi đến năm
1951, ĐCS lại đổi tên thành Đảng lao
động Việt Nam, lại cũng là
một trò ảo thuật dối trá. Hồi sang Pháp, ở
Fontainebleau, cả ông Hồ lẫn ông Đồng
đều chối đây đẩy là họ không hề có
ý định «làm cộng sản», họ chỉ muốn
giải phóng đất nước mà thôi. Với cái «chiến thuật» dối trá
đó, biết bao người Việt Nam, giàu cũng
như nghèo, trong nước cũng như ngoài nước,
đã bị mắc lỡm, chịu bao nhiêu thiệt thòi, hy
sinh tiền của, thân mạng để rồi
đến ... thời kỳ thứ hai...
Đoạn
kể về
«chuyện đổi đời» của Phùng Cung chính
là nói
đến thời kỳ thứ hai: khi Đảng đã
đủ lông đủ cánh, chính quyền cướp
được đã vững vàng rồi thì Đảng «làm
chuyện đổi đời», mà cha ông ta đã từng
nói: «Trời làm một trận
lăng nhăng,/ Ông hoá ra thằng, thằng hoá ra
ông» (9).
Vì không thể đề cập đến những tabou
cụ thể, Phùng Cung phải nói chung
chung về «chuyện đổi đời». «Làm chuyện
đổi đời» – nói
toạc móng heo – là «làm
cộng sản». Còn các lãnh tụ cộng sản
thì lại
gọi khéo là «làm cách mạng vô
sản», dù trong số
họ chẳng thấy có ai là vô sản cả! «Làm
cộng
sản» tức là làm một loạt cải cách hay cải
tạo «long trời lở đất» (thành ngữ ưa
thích của những người cộng sản)
để, nói nôm na là «cướp tài sản của
những người hữu sản», còn Karl Marx và các
đồ đệ của ông thì nói văn vẻ là:
«tước đoạt của kẻ đi tước
đoạt», để tiến
lên chủ nghĩa xã
hội, bước đầu của chủ nghĩa
cộng sản «xán lạn». «Chuyện
đổi đời» ở nước ta bắt
đầu từ cải cách ruộng đất. Chính
những nhà phú hộ, sĩ phu, hào lý và
nói chung những
người hữu sản đã từng hào hiệp giúp
đỡ Đảng trong bước đầu khó
khăn nhất
để Đảng bám víu được mà gây
cơ sở trong dân chúng, thì bây giờ lại
là những
nạn nhân đầu tiên của Đảng trong cuộc
«đổi đời». Lúc bấy giờ, nhiều
người trong số họ tự nguyền rủa mình
đã chóng quên cái thời «trí
phú địa hào, đào
tận gốc, trốc tận ngọn» những năm 30!
Nhưng, than ôi! đã quá
muộn rồi!
Bà Nguyễn Thị Năm, tức Cát Thành Long, trước
cách mạng đã từng che giấu, nuôi ăn, giúp
đỡ các ông Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê
Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Lê Thanh
Nghị, Lê Giản... đã từng hiến 100 lạng vàng
cho chính phủ Hồ Chí Minh trong Tuần lễ Vàng, lại
có con trai đi bộ độïi làm trung đoàn
trưởng, thế mà trong cải cách ruộng
đất, cả cái Bộ chính trị của ĐCS,
gồm đủ mặt vua quan Hồ Chí Minh, Trường
Chinh, Hoàng Quốc Việt, Lê Đức Thọ, Phạm
Văn Đồng, Lê Thanh Nghị, đã vong ân bội
nghĩa, muối mặt
đồng ý quy bà là địa chủ cường
hào ác bá và chuẩn y án tử
hình đối với bà! Mà
đâu có phải chỉ một mình bà Nguyễn Thị
Năm đã phải ngã gục trước mũi súng
của cộng sản, mà còn hàng ngàn, hàng
vạn
người khác đã từng giúp đỡ cho những
người cộng sản hoặc chính bản thân mình
đã theo ĐCS, tham gia cách mạng, liều mình, hoạt
động gian nan trong vùng địch... cũng đều
bị những cái chết vô cùng thảm khốc. Cụ
thân sinh Phùng Cung cũng vậy! Cụ tiến sĩ
Nguyễn Mai, cháu ruột thi hào Nguyễn Du, cũng vậy!... Cái hình ảnh «ngọn
tháp mỗi lúc
một to ra, cao lên, cờ cũng tăng thêm gấp
bội. Tất cả các cờ đều
đính diềm lưỡi câu thép ngoại, đều quay
tít để chuẩn bị cho mỗi người một
cái chết móc hàm» là ẩn dụ vô
cùng khủng khiếp và
rùng rợn.
Tiếp
sau cải cách ruộng
đất là nhiều cuộc cải cách và cải tạo
khác, – nào là hợp tác hoá
nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp, nào là cải tạo công
thương nghiệp, nào là cải tạo giai cấp
tư sản, nào là cải tạo trí thức, văn
nghệ sĩ, nào là đánh giai cấp tư sản mại
bản, nào là chống người Hoa, nào là
xây dựng vùng
kinh tế mới, v.v... – mà tất
cả các cuộc đó đều phải kinh qua
«đấu tranh cách mạng», qua cướp đoạt tài
sản, qua đàn áp, chết chóc, qua bạo lực. Đó
là chưa kể những lệnh tập trung cải
tạo ngày 20.06.1961 (ở miền Bắc) và sau ngày
30.04.1975
(ở miền Nam) bắt nhiều trăm ngàn người
vào các trại tù khủng khiếp, đày ải họ khốn khổ hàng chục
năm trời, làm hàng chục vạn người phải
chết thảm trong tù, bỏ xác nơi rừng hoang. Các
lãnh tụ ĐCSVN bảo là họ tuân theo
lời dạy của ông tổ cộng sản Karl Marx:
«bạo lực là bà đỡ của cách mạng».
Nhưng
chữ «cách mạng» ở đây họ đã đánh
tráo
bằng chiếc ghế quyền lực của chính họ
đặt trong «tán vàng chói loé
trên đỉnh tháp», chiếc
ghế đó bảo đảm cho quyền lợi riêng
của họ và gia đình họ! Vì thế, trong giấc
mộng của Phùng Cung, anh chỉ thấy toàn bạo
lực, toàn những lá cờ đỏ quay vòng bay tít,
diềm đính toàn lưỡi câu thép ngoại để
chuẩn bị cho những người chạy theo
dưới những lá cờ đỏ đó một cái
chết móc hàm! anh chỉ thấy người người
lớp lớp chạy vòng quanh tháp, người nào
người nấy cầm vũ khí chạy cách nhau
«một tầm lê đâm trộm», mà người chạy
trước là kẻ thù mà người chạy sau phải
giết! Hình ảnh khủng khiếp đó phản ánh
rất đúng cái thủ đoạn độc địa
của Đảng trong cuộc «đổi đời»:
những ai không chịu «múa lưỡi» theo ý
Đảng,
đều bị nghi ngờ,
đều bị quy là «phản động», là
«gián
điệp», đều là kẻ thù, phải bị tiêu
diệt. Những cảnh mà Phùng Cung đã mô tả,
làm tôi
nhớ đến sự so sánh của một nhà văn Nga
viết hồi cuối thập niên 80: cuộc cách mạng
vô sản ở Liên Xô là cỗ-máy-nghiền-thịt
ngốn
sống hàng chục triệu sinh mạng người dân
xô-viết!
“...
để người đời
khỏi ngộ nhận!”
Đến
đoạn kể về «Cứt tụng» thì nghệ
thuật trào lộng của Phùng Cung đã lên tột
đỉnh. Chắc mọi người còn nhớ,
sau khi chiếm được chính quyền, tất cả
các lãnh tụ cộng sản ở châu Á – Mao, Hồ, Kim
–
đều bắt chước Lenin và Stalin cho bộ máy
tuyên truyền của Đảng mở hết tốc
lực để tôn vinh mình. Có vị lại còn giả danh
người khác, bí mật tự tay
viết tiểu sử mình, tự ca tụng mình, rồi
tự tôn vinh mình là Cha già Dân tộc!
Hồi đầu
những năm 50, bắt đầu xuất hiện bài
tụng ca Mao Trạch Đông, tiếp sau một thời
gian là bài tụng ca Hồ Chí Minh...
Đông
Phương hồng, Mặt Trời lên!
Chúng
ta có Mao Trạch Đông!
Với
muôn dân, Người là Cứu Tinh...
Hồi
đó, cán bộ,
đảng viên và người dân Việt Nam «hồn
nhiên»
hát bài ấy mà không biết ngượng, vì
chính các lãnh
tụ cộng sản Việt Nam cũng chẳng hề
biết nhục với tiền nhân, khi coi đất
nước mình như «phiên thuộc» hay «thuộc
quốc»
của Trung Hoa: mọi việc kinh tế, nội chính,
ngoại giao, quân sự, văn hoá, giáo dục, xã
hội...
của đất nước họ đều giao cho các
ngài cố vấn Trung Quốc «bảo ban» hết cả!
Lẽ
thường, các bài
tụng ca là để tôn vinh – nói theo
kiểu dân dã là «bốc thơm» – lãnh
tụ và Đảng.
Thế mà Phùng Cung lại định bụng viết
một bài tụng ca cứt để ghi ơn «bãi cứt
cứu sinh»! Mà cái tứ thơ tác giả định cho
vào
bài «Cứt tụng» mới thật là thâm
thuý – cứt không
thèm với tay vịn gió đổi
mùi và
nguyện hôi thối hết mình để người
đời khỏi ngộ nhận... Sự đời
nghĩ cũng nực cười: có những người
chẳng lấy gì làm «thơm tho» cho lắm, hay
nói trắng
ra là thối tha, bẩn thỉu, xấu xa (vì độc
tài, tàn ác, hiếu sát, tham lam, dối
trá, bịp bợm, dâm
đãng, tham nhũng, v.v...) mà lại muốn
được «bốc thơm», hoặc đã và đang
được kẻ nịnh «bốc thơm» hết
mực, còn cứt tự biết mình là thối, lại
nguyện hôi thối hết mình để người
đời khỏi ngộ nhận. Cái đức «chân
thật» đó của cứt thật đáng ngợi ca
thay!
Tôi đã giới
thiệu truyện «Dạ Ký»
của Phùng Cung. Có thể
là nhiều
điểm tôi còn chưa hiểu hết ý tứ sâu sắc
của nhà văn, hay thậm chí hiểu sai. Cũng có
thể tôi đã bỏ sót những ý tứ thật hay
của tác giả mà không nêu ra. Rất mong được
bạn đọc
góp ý, bổ sung và chỉ bảo. Dẫu sao
chăng nữa, đây là một truyện trào phúng
tuyệt
vời, hiếm thấy trong «thời đại Hồ Chí
Minh»! Truyện này, cũng như những
bài
thơ trong tập «Trăng Ngục», nói lên nhận thức
rất đúng đắn của tác giả về chế
độ độc tài toàn trị của ĐCS.
Thực ra, hiện nay, không phải tất cả những
người dân chủ trong và ngoài nước đều
đã có một nhận thức đúng đắn như
thế về bản chất chế độ độc
tài toàn trị, nhất là dưới thời ông Hồ.
Mà
thiếu một nhận thức đúng đắn như
thế thì trên con đường dân chủ hoá đất
nước, những người dân chủ khó tránh
được những khiếm khuyết về mặt
tư duy và những chủ trương, chính sách nửa
vời, thiếu triệt để trong việc dân chủ
hoá.
Nhân
đây, tôi xin thẳng
thắn nói điều này: lão tướng Trần
Độ là người tôi chân thành mến phục và
quý
trọng vì những bài viết sâu sắc và
đúng
đắn của ông từ năm 1996 và vì thái độ
thực tâm yêu nước, kiên định lập
trường dân chủ của ông. Nhưng tôi rất
tiếc là đến năm 1999, khi viết
hai bài “Tâm đắc Hồ Chí
Minh 1” và “Tâm đắc Hồ Chí Minh 2”,
lão tướng
vẫn chưa nhận rõ được bản chất
chế độ độc tài toàn trị dưới
thời của ông Hồ Chí Minh, và ông đã
hết lời
ca ngợi chế độ của ông Hồ là thực
sự dân chủ! Thế mà bốn thập niên
trước, trong văn thơ của mình, Phùng Cung đã
nhận chân được bản chất độc tài
toàn trị của chế độ đương
thời! Điều đó thật là hi
hữu và đáng quý.
Nguyễn
Minh Cần
Moskva
22.08.03
1.
Viên đạn bọc
đường – thành ngữ du nhập từ Trung
Quốc, ý nói sự mua chuộc của địch.
2.
Đốt cháy giai đoạn
– thành ngữ tiếng Pháp là bruler
une étape. Những người cộng
sản rất thích bắt chước từ ngữ này,
với ý nghĩa của họ là bỏ qua một giai
đoạn phát triển để cách mạng tiến
được nhanh hơn. Một ví dụ về
“đốt cháy giai đoạn” ở Việt Nam – cuối
thập niên 50, do ảnh hưởng «phấn khởi»
của «đại nhảy vọt» ở Trung Quốc, ông
Hồ đã “sáng suốt” tuyên bố «miền Bắc
bỏ qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư
bản mà tiến thẳng
lên chủ nghĩa xã hội», đến Đại hội
4 (1976) Đảng lại khẳng định
đường lối “sáng suốt” ấy cho toàn bộ
đất nước Việt Nam, kết quả là đã
đưa cả dân tộc, cả đất nước
vào cuộc sống lầm than, khốn khổ chưa
từng thấy. Cái bi hài của sự “đốt cháy giai
đoạn” này là đến Đại hội 6 (1986),
Đảng lại đưa ra đường lối:
“làm kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”, thực
chất là chủ trương phát triển chủ nghĩa
tư bản, cho dù đó là thứ chủ nghĩa tư
bản “rừng rú”. Còn Phùng Cung ngay từ cuối thập
niên 50, đã sớm mỉa mai cái tinh thần “đốt
cháy giai đoạn”
của Đảng! Đến bây giờ, càng
ngày dân ta càng thấy rõ: hoá ra,
cái tinh thần “đốt
cháy giai đoạn để tiến nhanh, tiến
mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã
hội, bước đầu của chủ nghĩa
cộng sản”... cuối cùng, đang đưa dân ta
tiến lên... chủ nghĩa tư bản!
3.
Xem bài “Cám Ơn” (1961) trong tập thơ “Trăng Ngục”.
4.
Một ý trong bài thơ «Bánh
Vẽ» của Chế Lan Viên.
5.
Trích chân dung Hoài Thanh của
Xuân Sách.
6.
Vì muốn tập trung vào
những điểm chính mà mũi nhọn châm biếm
của nhà văn định hướng vào, nên
người viết xin phép lướt qua hoặc bỏ bớt
những chuyệân kể về các cuộc gặp nhà
thơ Quang Dũng, nhà văn Tô Hoài, nhà thơ
Lê Đạt
và cụ Tiên, dù rằng ở những cuộc gặp
gỡ này đều có nhiều tình tiết rất thú
vị.
7.
Lành là bí danh của Tố
Hữu.
8.
Anh em vẫn hay gọi đùa
Văn Cao là «cụ tiên chỉ».
9. Xem Tục Ngữ Phong Dao
của
Nguyễn Văn Ngọc, tr.358.
No comments:
Post a Comment