Công
Chúa Đông Đô,
Hoàng Hậu Phú Xuân,
Nàng
Là Ai?
Minh Vũ
Hồ Văn Châm
Trên dưới hai trăm năm nay, trong dân gian thường
truyền tụng câu ca dao:
"Gái đâu có gái lạ đời,
"Con vua lại lấy hai đời chồng vua.
Con vua đây là con vua
Hiển
Tông triều Hậu Lê. Nhà Hậu Lê đóng
đô ở Hà Nội
ngày nay, thời bấy giờ gọi là Đông Đô.
Nàng
là Công Chúa Đông Đô. Hai đời chồng
vua, thì một
đời chồng là vua nhà Nguyễn Tây Sơn, còn đời
chồng kia là vua sáng nghiệp nhà Cựu Nguyễn. Cả
hai triều vua Nguyễn Tây Sơn và Cựu Nguyễn đều
đóng đô ở thành phố Huế ngày nay, thời bấy
giờ gọi là Phú Xuân. Nàng là
Hoàng Hậu Phú Xuân. Vậy
nàng là Công Chúa Đông Đô,
Hoàng Hậu Phú Xuân. Nàng quả
thật là một nhân vật phi thường. Nàng là ai
vậy?
Trong lịch sử cận đại Việt Nam, hễ nói
đến công chúa con vua mà lại lấy chồng vua,
làm
hoàng hậu, là người ta nghĩ ngay đến công
chúa
Lê Ngọc Hân con vua Lê Hiển Tông, gả làm
vợ vua Quang
Trung nhà Nguyễn Tây Sơn. Dựa vào câu
hát dân gian trên
đây, người ta lại cho rằng sau khi nhà Tây Sơn
mất ngôi, Công Chúa Lê Ngọc Hân đưọc vua
Gia Long lập
làm Đệ Tam Cung, cho nên bà là công
chúa con vua mà lại lấy
chồng hai lần, cả hai đời chồng đều
là chồng vua cả. Lại cũng có truyền thuyết
cho rằng sau khi nhà Tây Sơn mất ngôi, chung cục của
Công Chúa Lê Ngọc Hân vô cùng bi
thảm. Bà đã cùng hai con trốn
tránh được một thời gian rồi bị bắt
và bị xử cực hình.
Sự thực như thế nào? Nàng Công Chúa
Đông Đô,
Hoàng Hậu Phú Xuân đích thực là ai
vậy?
Công Chúa Lê Ngọc Hân sinh năm 1771,
niên hiệu Cảnh
Hưng thứ 32, là công chúa thứ 21 con vua Hiển
Tông nhà Hậu
Lê. Bà mẹ Công Chúa Lê Ngọc Hân
tên là Nguyễn Thị Huyền,
người làng Phù Ninh, huyện Đông Ngàn, tỉnh
Bắc
Ninh. Công Chúa Lê Ngọc Hân là em
Thái Tử Lê Duy Vỹ và là cô
Hoàng Tự Tôn Lê Duy Kỳ tức là người sau
này lên nối
ngôi vua Lê lấy niên hiệu là Chiêu
Thống. Khi Nguyễn Huệ
làm Tiết Chế, thống lĩnh quân đội Tây
Sơn ra đánh Bắc Hà với danh nghĩa "phù Lê
diệt
Trịnh" vào năm 1786 thì Công Chúa
Lê Ngọc Hân mới
16 tuổi. Vì Nguyễn Huệ một phần nào cũng có
bụng tôn phù nhà Lê, mặt khác do sự
mối mai thu xếp
của Nguyễn Hữu Chỉnh muốn bắt cầu
thân gia giữa Vua Lê Hiển Tông và Tiết Chế
Nguyễn
Huệ, nên Vua Lê Hiển Tông đã đem Công
Chúa Lê Ngọc
Hân gả cho Nguyễn Huệ và phong Huệ làm Nguyên
súy dực
chính phù vận Uy Quốc Công.
"Từ cờ thắm trỏ vời đất Bắc,
"Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương.
"Rút dây vâng mệnh phụ hoàng,
"Thuyền lan chèo quế thuận đường vu quy.
Hai vợ chồng Nguyễn Huệ
lưu lại Đông Đô một thời gian ngắn. Sau
khi vua Lê Hiển Tông băng hà, Công Chúa
Lê Ngọc Hân theo chồng
về Phú Xuân. Đến năm 1789, Nguyễn Huệ lên
ngôi Hoàng Đế, phong cho Công Chúa Lê
Ngọc Hân làm Bắc
Cung Hoàng Hậu. Thế là nàng Công Chúa
Đông Đô đã trở
thành Hoàng Hậu Phú Xuân.
Điều cần lưu ý là Vua Quang Trung có đến hai
bà Hoàng Hậu được tấn phong cùng một lúc.
Ngoài Bắc Cung Hoàng Hậu họ Lê, Vua Quang Trung
còn có Chính
Cung Hoàng Hậu họ Phạm. Theo Tây Sơn Tiềm Long Lục,
bà Hoàng Hậu họ Phạm này tên là Phạm
Thị Liên,
người Bình Định, là anh em ruột với Hộ
Giá Phạm Văn Ngạn, Giả Vương Phạm
Văn Trị, Thái Úy Phạm Văn Tham và Thái
úy Phạm
Văn Hưng. Bà Phạm Thị Liên lại còn là anh em
cùng mẹ
khác cha với Thái Sư Bùi Đắc Tuyên và
Hình Bộ
Thượng Thư Bùi Văn Nhật. Chính Cung Hoàng Hậu
họ Phạm sinh hạ được 5 người con,
3 trai 2 gái. Người con trai lớn là Quang Toản,
còn có
tên là Quang Bình, về sau nối ngôi nhà
Tây Sơn, tức là
Vua Cảnh Thịnh. Hai người con trai kia thì một
người tên là Quang Bàn, được phong Tuyên
Công lãnh
Đốc Trấn Thanh Hoa, một người tên là Quang
Thiệu được cử làm Thái Tể. Hai người
con gái thì một người lấy Phò mã Nguyễn Văn
Trị, còn một người thì gả cho Nguyễn
Phước Tư là Tôn Thất hệ nhất nhà Cựu
Nguyễn. Vua Quang Trung rất mực quý trọng bà Chính
Cung
Hoàng Hậu họ Phạm này. Theo các tài liệu
của Phái
bộ Truyền giáo Nam Hà, nhất là lá thư của
Giáo sĩ
Girard đề ngày 25-11-1792 gửi Giáo sĩ Boiret ở
Macao, thì khi Hoàng Hậu lâm bệnh, Vua Quang Trung
đã cho mời
thầy thuốc người Âu đến chửa bệnh
và đến khi Hoàng Hậu mất thì nhà vua đau
đớn
vật vã đến phát điên phát cuồng. Bà
mất ngày
29 tháng 3 năm 1791 mà mãi đến ngày 25
tháng 6 năm đó
mới đưa đi chôn cất. Bà được truy tặng
là Nhân Cung Đoan Tĩnh Trinh Thục Nhu Thuần Vũ
Hoàng
Chính Hậu.
Về phần Bắc Cung Hoàng Hậu họ Lê, bà là
lá ngọc
cành vàng, quê ngoại lại là xứ Kinh Bắc
tài hoa
văn vật, nên bà là một phụ nữ thông minh, đức
hạnh và nhan sắc, thật là vẹn toàn mọi vẻ.
Ngày mới thành hôn với Nguyễn Huệ, trên đường
đi bái yết các Tiên Đế ở Thái miếu trở
về, Nguyễn Huệ hỏi bà :"Các hoàng tử và
công
chúa, mấy ai được vinh hạnh như nàng,
được thành thân với Ta, nàng cảm thấy
như thế nào?" Tuy mới 16 tuổi đầu, Công
Chúa Lê Ngọc Hân đã tỏ rõ là
người giỏi ứng
đối :"Nhà vua quen sống đạm bạc, bổng
lộc ít ỏi, các hoàng tử và công
chúa đều thanh bạch,
nay thiếp được nâng khăn sửa túi cho Chúa
Công, cũng tỷ như giọt nước trên không trung
rơi vào nơi lầu son gác tía, thân phận thiếp
quả
là may mắn hơn cả". Nguyễn Huệ rất
đẹp lòng. Bà có nhiều ảnh hưởng trong các
quyết
định quan trọng của Nguyễn Huệ. Khi Vua Lê
Hiển Tông băng hà, Nguyễn Huệ đã nghe lời
Công Chúa Lê Ngọc Hân, có ý muốn
lập Sùng Nhượng
Công Duy Cận lên ngôi thiên tử. Đến khi
Hoàng tộc
nhà Lê vì việc đó mà đòi tước
bỏ sổ bộ
của Công Chúa, Nguyễn Huệ lại theo lời bà mà
chịu
lập Hoàng Tự Tôn Duy Kỳ lên ngôi vua. Vừa
thông minh, vừa
khôn khéo, trong thời gian làm Hoàng Hậu ở
Phú Xuân, Công
Chúa Lê Ngọc Hân chẳng những chỉ làm đẹp
lòng Đức chí tôn mà còn khuynh
loát cả Triều đình
như chúng ta sẽ thấy về sau này ảnh hưởng
của bà lớn lao như thế nào trong việc tuyển
chọn Hoàng Hậu cho Vua Cảnh Thịnh. Thật vậy,
bà đã quyết định đem em gái là Công
Chúa Lê Ngọc
Bình, cũng là công chúa con Vua Lê
Hiển Tông như bà, vào làm chính
cung cho Hoàng Đế nối nghiệp nhà Tây Sơn là
Vua Cảnh
Thịnh Nguyễn Quang Toản.
Công Chúa Lê Ngọc Hân lấy Nguyễn Huệ năm 1786,
thụ
phong Bắc Cung Hoàng Hậu năm 1789. Bà sinh hạ một
trai là Nguyễn Văn Đức và một gái là Nguyễn
Thị Ngọc. Công Chúa Lê Ngọc Hân mất năm 1799,
đương triều Vua Cảnh Thịnh nhà Nguyễn
Tây Sơn. Năm đó, bà mới 29 tuổi. Bà được
truy tặng là Nhu Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng
Hậu.
Bà là người vừa giỏi văn quốc âm, vừa
thông sách Hán tự. Lúc Vua Quang Trung
còn sống, bà thường
giảng giải kinh điển cho nhà vua nghe. Lúc Vua Quang
Trung cử hành lễ Tứ Tuần Vạn Thọ Khánh Tiết,
bà dâng bài biểu mừng như sau:
"Tư ngộ thiên thọ khánh tiết, thanh thiên ứng
luật, hôn chử tại thì. Ngọc thụ phiêu
hương, bích đào hiến trường sinh chi quả;
ngân thiềm thổ diễm, băng hồ khai phục
đán chi hoa. Tử ái nùng nhi khuê các
đằng
phương, thụy khí sảng nhi vu huy tăng sắc. Cẩn
phụng biểu xưng hạ giả. Phục dĩ thụy
khí trình tường, thông uất phụng lân chi
thái; quang
thiên xiển lãng, chiếu hồi Dực Chẩn chi hư.
Quế điện truyền hương; tiêu đình dật
khánh. Khâm duy Hoàng đế Bệ hạ, tài cao
thiên cổ,
đức phối lưỡng nghi. Cung thiên phi chấn vũ
công,Tây thổ bí hưng vương chi sự nghiệp; thì
hạ tứ trần ý đức, đông giao hoàn định
quốc chi qui mô. Xích nhật minh nhi ngung nhược hữu
phu; thọ tinh diệu nhi chiêm y cọng ngưỡng. Thần
Xu điện nhiễu quang phù Vạn thọ chi bôi;
xương hạp vân khai dinh triệt thiên thu chi kính. Tứ
tự thường điều ngọc chúc, ức niên vĩnh
điện kim âu. Thần đức thiểm Quan thư,
nhân tàm Cưu mộc. Trung khổn cận bồi chẩn tọa,
bái chiêm bát thiên xuân sơ kỷ chi
tiên trù; nội đình mật
nhĩ thiều âm, cẩn chúc thiên vạn tuế vô
cương chi đỉnh tộ."
(Nay
gặp khánh tiết mừng tuổi thọ của Hoàng
đế, khúc nhạc Thanh thương ứng luật hợp
tiết, cồn hoa đang độ. Cây ngọc đưa
hương, cây bích đào dâng quả trường sinh;
trăng bạc nhả ánh trong, hồ băng lại nở
hoa buổi sáng. Mây mù sắc tía nồng đượm
mà
khuê phòng hương nức; khí lành sáng
tỏ mà áo xiêm thêm
màu. Kính cẩn dâng bài biểu chúc
mừng. Cúi nghĩ lấy
khí lành trình điềm tốt, tưng bừng màu sắc
con phụng con lân; đầy khắp thiên hạ chiếu về
cõi hư không sao Dực saoChẩn. Điện quế truyền
hương; sân tiêu tràn điều mừng. Kính nghĩ
Hoàng
đế Bệ hạ, tài cao thiên cổ, đức hợp
với Trời và Đất. Cung kính thi hành sự trừng
phạt của Trời lớn lao chấn động vũ
công, đất Tây Sơn đẹp đẽ hưng sự
nghiệp đế vương; trần bày đức
đẹp vào bản nhạc ca vĩ đại, ở cõi
giao dã phía đông đã định xong qui mô
của nước
nhà. Mặt trời đỏ rạng mà nghiêm đáng tin
[quẻ
quan]; sao thọ tinh chiếu sáng mà thiên hạ đều
cùng ngưỡng lên trông mong nương tựa [thiên
Tiểu
biền, phần Tiểu nhã trong Kinh Thi]. Sao Xu của Bắc
đẩu điện vây, ánh sáng nổi lên chen mừng Vạn
thọ; cửa Trời mây mở, sắc trong thấu triệt
mặt kính ngàn thu. Bốn mùa thường điều hòa
khiến cái đức của Vua đẹp như ngọc
và sáng như đuốc; trong ức năm mãi vững chiếc
lọ vàng. Hạ thần đức thẹn với thơ
Quan thư, nhân ngượng với thơ Cưu mộc.
Trong nội thất theo hầu kề cùng ngồi mặc
đồ lộng lẫy, vái mong tính theo tuổi thiên
niên kỷ
khởi đầu của Bệ hạ một mùa xuân tám
ngàn năm; chốn nội đình kề sát nghe nhạc thiều,
ân cần chúc phước của quốc gia được
ngàn muôn năm vô hạn.)
[Nam Phong Tạp Chí, số 103, năm 1926, phần Hán văn.
Bản dịch của Tạ Quang Phát].
Lúc
Hoàng Đế Quang Trung băng hà vào ngày 15
tháng 9 năm 1792,
Công Chúa Lê Ngọc Hân mới có 22 tuổi.
Bà chỉ mới
chung sống với nhà vua vỏn vẹn có 6 năm trời,
có được hai mặt con. Làm sao có thể tưởng
tượng hết tâm trạng thống khổ của bà
lúc bấy giờ. Rất may cho hậu thế là bà có
soạn
một bài văn tế bằng quốc âm để tế
nhà vua. Trong nỗi bất hạnh lớn lao của Công Chúa
Lê Ngọc Hân là cái may mắn tột cùng
của nền
văn học nước nhà. Bà đã để lại cho
đời sau bài Ai Tư Vãn mà tất cả chúng ta
đều
đã biết. Tuy không thể so sánh ngang hàng
với Truyện
Kim Vân Kiều hay Khúc ngâm Chinh Phụ, nhưng
bài Ai Tư Vãn
cũng là một áng văn rất đáng trân trọng,
cũng
là một vật báu trong kho tàng văn học nước
nhà. Trong bài điếu văn có nhiều câu nhiều
chữ
đọc lên như oán như than, khiến người
thưởng lãm cũng thấy não lòng. Phải là
người
trong cuộc, và tâm hồn hết sức tinh tế, tình cảm
hết sức bén nhạy, mới có thể giải bày tâm
trạng bi thương thành những lời thơ não nùng
diễm tuyệt nhường ấy! Nổi buồn nào lê
thê bằng nổi buồn của người góa phụ
còn quá trẻ đau đớn than van về cái chết
đột ngột của người chồng
vương giả:
"Khi trận gió hoa bay thấp thoáng,
"Ngỡ hương trời bảng lảng còn
đâu.
"Vội vàng sửa áo lên chầu,
"Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện
chăng!
và niềm xót xa nào bi thiết
hơn niềm
xót xa của người mẹ trẻ vì thương con
còn trứng nước mà chưa thể liều thân cho vẹn
chữ tòng :
"Quyết liều mong vẹn chữ tòng,
"Trên rường nào ngại, giữa giòng nào e.
"Còn trứng nước thương vì đôi chút,
"Chữ thâm tình chưa thoát được đi.
Công Chúa Lê Ngọc Hân là người
tài sắc vẹn toàn.
Bà sinh trưởng nơi chốn điện ngọc đền
vàng, đã là công chúa con vua lại lấy
chồng làm vua. Sau
khi Hoàng Đế Quang Trung băng hà, Hoàng
Thái Tử Quang Toản
lên kế vị, lấy niên hiệu là Cảnh Thịnh. Tuy
Vua Cảnh Thịnh là con của bà Vũ Hoàng Chính
Hậu họ
Phạm, nhưng lúc bấy giờ bà này đã mất,
nên
Công Chúa Lê Ngọc Hân được tôn lên
ngôi vị Hoàng
Thái Hậu. Hơn nữa, bà lại còn là chị ruột
của
Công Chúa Lê Ngọc Bình lúc bấy giờ
là Hoàng Hậu vợ
Vua Cảnh Thịnh. Trong chốn nội đình, địa
vị của bà như vậy có thể nói là tột
cùng tôn
quí. Tuy nhiên, trong thời gian Vua Cảnh Thịnh mới
lên
ngôi, quyền lực trong triều bị thu tóm vào tay
Thái
Sư Bùi Đắc Tuyên và gia đình họ Bùi,
gây nên tình trạng
bè phái chia rẽ, và Công Chúa
Lê Ngọc Hân đã rất đổi
đau lòng. Thật vậy, nhóm quyền thần gốc Bình
Định của Thái Sư Bùi Đắc Tuyên và
Thái Phó Trần
Quang Diệu đã chèn ép các bề tôi
cũ của Vua
Quang Trung gốc Thuận Hóa và Bắc Hà, gây
nên việc Trần
Văn Kỷ bị đi đày, Ngô Thời Nhậm, Phan
Huy Ích bị thất sủng, khiến Ngô Văn Sở bỏ
chạy theo Nguyễn Vương, tất cả những
điều đó đã làm cho cuộc sống của Công
Chúa Lê Ngọc Hân phải trải qua một giai đoạn
giao động. Nhưng sau cuộc chỉnh lý của
Tư Đồ Võ Văn Dũng, cha con Bùi Đắc Tuyên,
Bùi Đắc Trụ bị trầm hà, phe phái lộng thần
bị dẹp tan, triều đình trở lại ổn
định, bên trong Tư Đồ với Thái Phó giảng
hoà, bên ngoài dân chúng liên
tiếp mấy năm được
mùa, thì nỗi lòng Công Chúa Lê
Ngọc Hân cũng vơi bớt
chút ưu tư về thế cuộc, chỉ còn chĩu nặng
niềm thương nhớ người chồng tài cao mà mệnh
đoản :
"Theo buổi trước ngự đèo Bồng đảo,
"Theo buổi sau ngự nẻo sông Ngân
"Theo xa thôi lại theo gần,
"Theo phen điện quế, theo lần nguồn hoa.
và nỗi xót xa hai đứa con còn
trứng
nước sớm lâm cảnh côi cút mà thôi :
"Gót lân chỉ mấy hàng lẩm chẩm,
"Đầu mũ mao mình tấm áo gai.
"U ơ ra trước hương đài,
"Tưởng quang cảnh ấy chua cay dường nào.
Năm kỷ mùi (1799), niên hiệu Cảnh Thịnh thứ
7, Công Chúa Lê Ngọc Hân mất, hưởng dương 29
tuổi. Lễ Bộ Thượng Thư Đoàn Nham Hầu
Phan Huy Ích phụng chỉ soạn bài văn tế cho Hoàng
Đế Cảnh Thịnh đích thân đọc trước
linh sàng Hoàng Thái Hậu họ Lê. Bà
được truy tặng
là Nhu Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu.
Bài
văn tế này đã được Hoa Bằng Hoàng Thúc
Trâm tìm thấy và công bố trên Tạp
Chí Tri Tân vào năm
1943 tại Hà Nội.
Vậy rõ ràng Công Chúa Lê Ngọc
Hân đã mất tại Phú
Xuân, đương triều Vua Cảnh Thịnh. Tuy vậy,
chung cục của Công Chúa Lê Ngọc Hân vẫn
là một
đề tài cho nhiều câu chuyện thành văn hoặc
truyền khẩu khác nhau, nhiều khi trái ngược nhau
là đằng khác. Nguyên do là sau khi
nhà Tây Sơn mất ngôi,
con cháu nhà Tây Sơn bị tuyệt diệt, các
tài liệu về
nhà Tây Sơn bị cấm tàng trữ, nên chẳng
còn ai có
cơ hội và phương tiện nghiên cứu thân thế
và sự nghiệp các nhân vật thời Tây sơn một
cách chính xác và rõ ràng.
Các tài liệu về nhà Tây Sơn
được lưu hành chỉ thuần một loại
là các sử liệu của Quốc Sử Quán triều Nguyễn
mà thôi. Hơn nữa, những người đặt chuyện
dã sử lại có thói quen dệt gấm thì thường
thêm hoa, để cho câu chuyện đượm phần ly
kỳ hấp dẫn. Bởi những lẽ đó mà chung cục
của Công Chúa Lê Ngọc Hân được kể lại
trong các câu chuyện thành văn hay truyền khẩu
đã
không đúng với sự thật. Không có câu
chuyện nào kể
rằng Công Chúa Lê Ngọc Hân đã chết khi
nhà Tây Sơn
đang còn trị vì ở Phú Xuân. Ngay cả việc
ông Hoa Bằng
đã công bố bài văn tế Vũ Hoàng Hậu do Phan
Huy
Ích soạn cũng chẳng thay đổi được
tình trạng ngộ nhận nói trên. Từ 1943 đến
nay, các huyền thoại về Công Chúa Lê Ngọc
Hân truyền
tụng trong dân gian cũng như các chuyện dã sử viết
về chung cục Công Chúa Lê Ngọc Hân xuất hiện
trên
sách báo vẫn cứ một chiều đi theo con đường
cũ sai lạc bấy lâu nay. Những truyền thuyết
và chuyện dã sử về Công Chúa Lê Ngọc
Hân từ
trước đến nay có thể xếp vào hai loại.
Loại thứ nhất nói rằng sau khi nhà Tây Sơn mất
ngôi, Công Chúa Lê Ngọc Hân đã
đưa hai con đi trốn,
sống trà trộn trong dân chúng được một thời
gian rồi rốt cục cũng bị phát hiện và bị
giải về Huế xử cực hình. Loại thứ hai
nói rằng sau khi diệt nhà Tây Sơn, Vua Gia Long
đã sách lập
Công Chúa Lê Ngọc Hân làm Đệ Tam Cung,
và bà đã có hai
con với nhà vua là các Hoàng Tử Quảng Oai
Công và Thường
Tín Quận Vương mà từ đường đến
nay vẫn còn ở ngoại ô thành phố Huế.
Những truyền thuyết và chuyện dã sử về
chung cục của Công Chúa Lê Ngọc Hân thuộc loại
thứ
nhất thì đại thể về nội dung đều
giống nhau, có khác biệt là chỉ khác biệt
về
địa điểm đi lánh nạn mà thôi. Sau khi nhà
Tây
Sơn mất, Công Chúa Lê Ngọc Hân đem hai con
chạy trốn
vào Quảng Nam, sống trà trộn trong dân chúng
được
một thời gian, cuối cùng bị phát hiện, bị bắt
đưa về Phú Xuân và bị xử án tam ban triều
điển. Nhiều truyền thuyết khác thì nói rằng
Công Chúa Lê Ngọc Hân đem các con chạy
trốn vào quê chồng
ở Bình Định, rồi cũng bị bắt và cũng
bị xử cực hình như đã nói trên. Trong những
thập niên 60, 70, lại có những câu chuyện ly kỳ
hơn về chung cục của Công Chúa Lê Ngọc Hân, cả
thành văn lẫn truyền khẩu, theo đó thì Công
Chúa Lê
Ngọc Hân đã mang các con chạy trốn vào tận
Đồng
Nai Gia Định, nhờ đó mà tránh được tai mắt
và nanh vuốt kẻ thù. Nhiều câu chuyện truyền miệng
lại còn đi xa hơn, kể rằng sau khi nuôi dạy
các con khôn lớn nên người, Công Chúa
đã thí phát, tu
hành đắc đạo và trở thành Giáo Chủ của
giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Nhiều người
trong Nam mang họ Hồ lại tự nhận là hậu duệ
của hoàng tử Nguyễn Văn Đức con Đại
Đế Quang Trung và Vũ Hoàng Hậu Lê Ngọc Hân.
Gần
đây, ở hải ngoại lại có một vài tác giả
viềt dã sử về chung cục của Công Chúa Lê Ngọc
Hân, viết rằng sau khi Đông đô thất thủ, nhà
Tây Sơn mất ngôi, Công Chúa đã đem hai
con chạy trốn
về một vùng quê hẻo lánh ở Hải Dương, sống
lén lút trà trộn trong dân chúng được
một thời
gian rồi rút cục cũng bị phát hiện, bị bắt
và bị giải về Phú Xuân lãnh án tử
hình.
Tất cả những câu chuyện về chung cục bi
thương huyền hoặc của Công Chúa Lê Ngọc Hân
là hoàn toàn không phù hợp với sự
thật lịch sử
bởi một lẽ giản đơn và rõ ràng là
Công Chúa
Lê Ngọc Hân đã chết khi nhà Tây Sơn
chưa mất
ngôi. Công Chúa Lê Ngọc Hân mất
vào năm 1799, dưới
triều Vua Cảnh Thịnh, nghĩa là trước khi kinh
thành Phú Xuân thất thủ. Công Chúa
Lê Ngọc Hân đã
được truy tặng là Nhu Ý Trang Thuận Trinh Nhất
Vũ Hoàng Hậu. Công Chúa Lê Ngọc Hân
đã được
ma chay tống táng tại kinh thành theo đúng nghi
thức
vương giả dành cho một bực mẩu nghi thiên hạ.
Bằng chứng hùng hồn là bài văn tế Vũ Hoàng
Hậu
tìm thấy trong Dụ Am Văn Tập của Phan Huy Ích mà
Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm đã công bố
trên Tạp Chí Tri Tân
vào năm 1943 tại Hà Nội. Công Chúa Lê
Ngọc Hân đã
chết đương thời Vua Cảnh Thịnh trị
vì thì làm gì còn có
câu chuyện Công Chúa Lê Ngọc Hân phải
lâm cảnh bôn ba lưu lạc sau khi nhà Tây Sơn
mất
ngôi. Về phần hai người con của Công Chúa Lê
Ngọc
Hân thì một nhà truyền giáo Tây phương
thời bấy
giờ tên là L. Barizy đã cho biết là cả hai
đều
bị Nguyễn Vương bắt lúc thành Phú Xuân thất
thủ năm 1801, không kịp chạy theo Vua Cảnh Thịnh
ra Bắc Hà. Giáo sĩ L. Barizy đã nhận diện
và không
tiếc lời ca ngợi khuôn mặt tuấn tú và thái
độ
cứng cỏi của hai đứa trẻ khi bị xử
tử hình vào năm sau, 1802, cùng một lần với Vua
Cảnh
Thịnh Nguyễn Quang Toản. Như vậy, hai người
con của Công Chúa Lê Ngọc Hân đều đã bị
yểu
vong thì làm gì có câu chuyện hậu duệ
của Công Chúa còn
nối dõi tới bây giờ.
Các truyền thuyết và truyện dã sử về chung cục
của Công Chúa Lê Ngọc Hân thuộc loại thứ hai
so với
những câu chuyện trên đây thì ly kỳ hơn
và chứa
đựng nhiều tình tiết hư cấu xoay quanh các sự
kiện lịch sử có thật. Thí dụ có chuyện kể
rằng đầu năm Tân Dậu 1801, Nguyễn
Vương theo kế sách "tượng kỳ khí xa"
của Nguyễn Văn Thành, đã bỏ rơi Võ Tánh bị
vây trong thành Bình Định để đem toàn lực ra
đánh úp Phú Xuân. Ngày mồng 1
tháng 5 năm Tân Dậu, Nguyễn
Vương vào cửa Tư Dung, đến tối vượt
phá Hà Trung tiến chiếm bến đò Trừng Hà,
ngày hôm
sau đánh tan quân của Vua Cảnh Thịnh ở cửa
Eo và sáng ngày mồng 3 tháng 5 đem đại binh
vào thành Phú
Xuân, dụng quân thần tốc đến độ Vua Cảnh
Thịnh thua chạy không kịp mang theo gia quyến. Tối
hôm mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu, Nguyễn Vương
đi tuần tra trong thành và đã gặp gỡ người
thiếu phụ vương giả để rồi nên
duyên vợ chồng. Lại có chuyện kể rằng khi
Vua Gia Long quyết định sách lập Công Chúa Lê
Ngọc
Hân làm Đệ Tam Cung, triều thần có người can
gián, cho rằng Công Chúa chỉ là vật dư thừa
của
Tây Sơn, và nhà vua đã trả lời rằng
chúng ta tiêu
diệt Ngụy Tây thì giang san này, thành
quách này, nhất nhất
há chẳng phải lấy lại từ tay Ngụy Tây hay
sao, như thế cũng là vật dư thừa của Tây
Sơn vậy. Lại có chuyện kể rằng sau khi Vua
Gia Long băng hà, Quảng Oai Công yểu tử, Thường
Tín Quận Vương đã lập phủ đệ riêng,
thì Đệ Tam Cung Lê Ngọc Hân lui về dưỡng già
tại quê mẹ ở Bắc Ninh cho đến lúc lâm chung.
Tình cảnh Công Chúa, "vinh diệu một đời
có
thể nói là cùng tột, thế mà trong những
ngày xế
bóng lưu lạc nơi quê ngoại, tưởng tới
chuyện xưa cảnh cũ, há chẳng nao lòng mà than thở
cho Tạo vật đã khéo trêu ngươi, không
có việc
gì lại không xảy ra được, khiến phát sinh nỗi
cảm khái vô cùng cho cuộc sống phù du!"
(Hậu hứa Bắc quy tùng mẫu thị hương
quán trú ư Bắc Ninh nhi chung yên. Khảo Chúa
thiểu tắc
vi hoàng nữ, trưởng tắc vi hoàng hậu, kế vị
hoàng thái hậu. Kỳ nhất sinh chi vinh diệu khả vị
cực hỉ. Cập kỳ vãn niên bất miễn ư
lưu lạc, tưởng Chúa ư thử thì phủ kim
tư tích, xúc cảnh hưng hoài, ninh bất trướng
nhiên thán Tạo vật chi lộng nhân, mỹ sở bất
chí, nhi sinh vô cùng chi cảm khái tai!)
[Ngọc Hân Công Chúa dật sự. Nam Phong Tạp
chí, số
103, 1926].
Nhưng độc đáo hơn hết phải kể
đến bản gia phả của họ Nguyễn hoàng tộc.
Đó là cuốn Hoàng Triều Ngọc Phả, bản quốc
ngữ, do Tôn Nhân Phủ biên soạn và ấn
hành dưới
triều Vua Thành Thái. Trong cuốn sách này,
ở các
chương nói về Quảng Oai Công và Thường Tín
Quận
Vương con Vua Gia Long, rõ ràng mẹ đẻ của các
ngài được ghi là Công Chúa Lê Ngọc
Hân, con Vua Hiển
Tông nhà Hậu Lê. Thật là rõ
ràng và chính xác như một cộng
một là hai, như hai cộng hai là bốn, không
còn bàn cãi
gì nữa cả. Người viết đã chính mắt
được đọc những giòng chữ đó vào
năm 1988 tại nhà nhạc phụ, sách do ông Tôn
Thất
Yên đưa cho mượn. Ông Tôn Thất Yên lúc
bấy giờ
là người được Hội Đồng Nguyễn
Phước Tộc ủy thác điều hành công việc
thường ngày của Hội Đồng Nguyễn
Phước Tộc ở Sài Gòn, và được Hội
Trung Việt Ái Hữu ủy thác trông nom quản lý
nghĩa
trang Gò Dưa, Thủ Đức. Quảng Oai Công và Thường
Tín Quận Vương là những nhân vật có thực,
tuy
rằng Quảng Oai Công yểu tử và Thường Tín Quận
Vương ngày nay không có con cháu nối
dòng, nhưng từ
đường các ngài hiện nay ở vùng ven đô Huế
vẫn còn hương khói, các bài phiên hệ
thi về phần
các ngài vẫn còn được truyền tụng, vì vậy
việc gia phả hoàng tộc do Tôn Nhân Phủ ấn
hành
ghi rằng mẹ đẻ các ngài đích thị là
Công Chúa
Lê Ngọc Hân là một sự kiện không thể
không lấy
làm trọng yếu hàng đầu trong việc nghiên cứu
chung cục của Công Chúa Lê Ngọc Hân.
Vậy thì vấn đề được đặt ra là
Công Chúa Lê Ngọc Hân có lấy Vua Gia
Long hay không. Nếu Công
Chúa Lê Ngọc Hân không lấy Vua Gia Long
thì không còn có vấn
đề Công Chúa Lê Ngọc Hân được sách lập
làm Đệ Tam Cung, cũng như không thể có sự kiện
Công Chúa Lê Ngọc Hân là mẹ đẻ
các hoàng tử Quảng
Oai Công và Thường Tín Quận Vương . Mà
chúng ta
đã biết đích xác là Công Chúa
Lê Ngọc Hân chết vào
năm 1799, dưới triều Vua Cảnh Thịnh, khi nhà
Tây Sơn chưa mất ngôi, vậy thì khi Vua Gia Long tiến
quân vào thành Phú Xuân tháng 5
năm Tân Dậu, dương lịch
1801, Công Chúa Lê Ngọc Hân đã mất
trước đó 2
năm, hình hài đã nằm sâu dưới lòng
đất lạnh,
thì làm sao sống lại để kết duyên vợ chồng
với vì vua chiến thắng. Bởi lẽ đó, những
câu chuyện thêu dệt chung quanh việc Công Chúa
Lê Ngọc
Hân lại một lần nữa lấy chồng vua là hoàn
toàn không có căn cứ, là hoàn
toàn sai sự thực.
Nhưng còn cuốn ngọc phả bản quốc ngữ của
Tôn Nhân Phủ đã khẳng định Công Chúa
Lê Ngọc
Hân là mẹ đẻ của Quảng Oai Công và Thường
Tín Quận Vương? Xin thưa ngay rằng cuốn gia phả
này là bản quốc ngữ, không phải bản Hán văn,
lại không phải do Quốc Sử Quán biên soạn mà
là
tác phẩm phiên dịch của Tôn Nhân Phủ từ bản
Hán văn cũng của Tôn Nhân Phủ mà ra.
Mà bản Hán
văn này thì trong các chương nói về Quảng
Oai Công
và Thường Tín Quận Vương đã viết rằng
mẹ các ngài là Công Chúa Lê
Ngọc con Vua Hiển Tông nhà Hậu
Lê. Cái lối hành văn cổ điển bằng Hán tự
thì có khi nào nêu rõ tục danh
đâu. Mà tác giả bản Hán
văn khi viết rằng mẹ các ngài là Công
Chúa Lê Ngọc
con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê đã chắc
đâu muốn
khẳng định rằng đó là Công Chúa Lê
Ngọc Hân.
Biết đâu tác giả bản Hán văn muốn nói đến
một nàng Công Chúa Lê Ngọc khác, cũng
con Vua Hiển Tông
nhà Hậu Lê? Mà điều này thì những
người phiên
dịch ra quốc ngữ đã không hề hay biết, lại
thêm nặng tinh thần tân học, viết lách trình
bày chuyện
gì cũng muốn tách bạch rõ ràng nên
đã phiên dịch cụm
từ "Công Chúa Lê Ngọc con Vua Hiển Tông"
thành "Công Chúa Lê Ngọc Hân con
Vua Hiển Tông"
theo sở kiến chủ quan của mình.
Như vậy rõ ràng hai hoàng tử Quảng Oai Công
và Thường
Tín Quận Vương con Vua Gia Long đích thực là
cháu
ngoại Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê. Chỉ vì bản
quốc
ngữ do sở kiến chủ quan của người
phiên dịch đã khẳng định mẹ đẻ hai
ngài là Công Chúa Lê Ngọc Hân
thay vì cứ để là Công Chúa
Lê Ngọc như nguyên bản Hán tự nên mới nảy
sinh ra điểm phi lý là người đã chết mấy
năm trước đó bây giờ còn đâu mà lại
lần
nữa đi lấy chồng để rồi sinh đặng
2 con trai. Lại nữa, cuốn Hoàng Triều Ngọc Phả
của Tôn Nhân Phủ là gia phả thành văn của
Nguyễn
Phước Tộc, là tài liệu chính thức về phả
hệ hoàng phái, không thể nào được trước
tác tùy tiện và thiếu chính xác
được. Bởi vậy,
Quảng Oai Công và Thường Tín Quận Vương
đích thực là cháu ngoại Vua Hiển Tông
nhà Hậu Lê,
mẹ là Công Chúa Lê Ngọc, nên trong ngọc
phả bản
Hán văn mới ghi chép rõ ràng như vậy. Cũng
không thể
có trường hợp thấy sang bắt quàng làm họ, thấy
công chúa con vua lá ngọc cành vàng
bèn nhận càng là bên ngoại
cho thêm phần vẻ vang, bởi một lẽ giản
đơn họ Nguyễn cũng là đại quí tộc,
đã ở ngôi chúa Nam Hà ba trăm năm nay rồi
và hiện
tại đang giữ ngôi vua thống nhất thiên hạ.
Cho nên một khi mà Hoàng Triều Ngọc Phả của
Tôn
Nhân Phủ đã ghi chép như vậy thì Quảng Oai
Công và
Thường Tín Quận Vương con Vua Gia Long đích thực
là cháu ngoại Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê.
Nhưng nếu đã khẳng định rằng mẹ
đẻ của Quảng Oai Công và Thường Tín Quận
Vương không phải là Công Chúa Lê Ngọc
Hân thì
đương nhiên phải nêu lên vấn đề mẹ
đẻ của các ngài là ai vậy? Xin thưa rằng mẹ
đẻ của các ngài cũng là công chúa con
vua, cũng
đã có một đời chồng trước là chồng
vua, bây giờ lấy đời chồng thứ hai là Vua
Gia Long sinh hạ được hai hoàng tử. Mẹ đẻ
của các ngài quả là một nhân vật dị thường
đúng như lời truyền tụng của nhân gian trong
gần hai trăm năm nay :
"Gái đâu có gái lạ đời,
"Con vua lại lấy hai đời chồng vua.
Bà là Công
Chúa Lê Ngọc Bình, công
chúa con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê, em ruột
Công Chúa Lê Ngọc
Hân, Chính Cung Hoàng Hậu Vua Cảnh Thịnh nhà
Nguyễn Tây
Sơn, Đệ Tam Cung Vua Gia Long nhà Cựu Nguyễn, mẹ
đẻ các Hoàng tử Quảng Oai Công (sinh năm 1809)
và
Thường Tín Quận Vương (sinh năm 1810).
Thân thế và sự nghiệp hai bà Lê Ngọc
Hân và Lê Ngọc
Bình có nhiều điểm tương đồng mà những
điểm tương đồng đó lại là những
điểm rất căn bản. Hai bà đều là công
chúa con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê, hai
bà đều sinh
trưởng ở ngoài Bắc, nghĩa là cả hai bà đều
là Công Chúa Đông Đô. Lớn lên hai
bà đều lấy
chồng trong Trung, chồng của hai bà đều là Hoàng
Đế nhà Nguyễn Tây Sơn, nghĩa là cả hai bà
đều là Hoàng Hậu Phú Xuân. Do những điểm
tương đồng căn bản đó mà những câu
chuyện truyền tụng về cuộc đời của
hai bà đan kết vào nhau, theo với không gian
và thời
gian mà dần dà thay đổi, để rồi lẫn lộn
với nhau, cuối cùng thì chuyện có thật về
người này trở thành chuyện huyền thoại của
người kia. Nói rõ hơn, Công Chúa Lê
Ngọc Hân chỉ lấy
chồng một lần, còn Công Chúa Lê Ngọc
Bình, sau khi nhà
Tây Sơn mất ngôi, mới là người được
Vua Gia Long sách lập làm Đệ Tam Cung, mới là
người
phụ nữ lạ thường, "con vua lại lấy
hai đời chồng vua".
Điều
đáng lưu ý là chính sử nhà Cựu
Nguyễn không nói gì
về Công Chúa Lê Ngọc Bình, còn
các sử liệu liên quan
đến nhà Nguyễn Tây Sơn thì tất nhiên dưới
triều nhà Cựu Nguyễn đã không được
lưu hành, tàng trử. Lại nữa, sự nghiệp của
hai Hoàng Đế Quang Trung và Cảnh Thịnh khác biệt
nhau một vực một trời, cho nên sử Tàu, sử
ta, trong Nam, ngoài Bắc, đâu đâu cũng nói
nhiều về
vua cha mà ít khi đề cập đến vua con, do đó
mà
có hệ luận tất yếu là những gì liên quan đến
vua cha thì người đời biết đến nhiều
hơn những gì liên quan đến vua con. Bản thân
Công
Chúa Lê Ngọc Hân cũng có nhiều điểm sắc sảo
lanh lợi hơn Công Chúa Lê Ngọc Bình. Bởi
các lẽ
đó mà từ trước tới nay chúng ta chỉ nghe
nói
đến Công Chúa Lê Ngọc Hân mà
không nghe ai đề cập
đến Công Chúa Lê Ngọc Bình. Chỉ từ sau năm
1975, Ty Thông Tin Văn Hóa Nghĩa Bình ấn
hành và phổ biến
một số tài liệu liên quan đến thân thế và sự
nghiệp các nhân vật đời Tây Sơn, chúng ta mới
bắt đầu chú ý đến nhân vật Lê Ngọc
Bình, là Công Chúa con Vua Hiển Tông
nhà Hậu Lê và là Chính Cung
Hoàng Hậu Vua Cảnh Thịnh Nguyễn Quang Toản. Theo
các sử liệu do Ty Thông Tin Văn Hóa Nghĩa
Bình công bố,
Vua Cảnh Thịnh và Công Chúa Lê Ngọc
Bình đồng
trang lứa với nhau. Vua Cảnh Thịnh sinh năm 1783,
đúng như Đại Nam Chính biên Liệt truyện và
các
phúc trình của các giáo sĩ Longer và
Le Labousse gửi cho Phái
bộ Truyền giáo Nam Hà đã ghi chép. Như vậy,
ngày
Công Chúa Lê Ngọc Hân vầy duyên
cá nước với Tiết
Chế Nguyễn Huệ (1786) thì Công Chúa Lê Ngọc
Bình mới
có 4 tuổi. Đến năm bính ngọ (1792), Vua Quang Trung
mất, Vua Cảnh Thịnh lên nối ngôi, cả nhà vua lẫn
Công Chúa Lê Ngọc Bình mới được 10 tuổi. Thời
gian này, cả hai đang ở tuổi trúc mã thanh mai.
Những
năm tiếp theo là những năm Thái sư Bùi Đắc
Tuyên chuyên quyền, nên chắc chắn là
Công Chúa Lê Ngọc
Hân cho dù đã có ý định vẫn chưa thể
thực
hiện việc kết hợp sắt cầm cho em gái với
con chồng. Phải đợi đến sau chính biến
năm ất mão (1795), phe cánh Thái sư Bùi Đắc
Tuyên bị
dẹp tan, Công Chúa Lê Ngọc Hân mới có
điều kiện
thu xếp đưa em gái lên ngôi chính cung
hoàng hậu. Lúc
này, các bề tôi thân tín lục tục trở
về triều,
Công Chúa Lê Ngọc Hân củng cố lại thế lực
trong chốn nội đình và có ảnh hưởng quyết
định đến công việc triều đình, thì cũng
là lúc Công Chúa Lê Ngọc Bình
vừa được 13 tuổi.
Như vậy, Công Chúa Lê Ngọc Hân đối với
Công
Chúa Lê Ngọc Bình thì vừa là chị
ruột, vừa là mẹ
chồng. Đến năm kỷ mùi (1799), niên hiệu Cảnh
Thịnh thứ 7, Công Chúa Lê Ngọc Hân mất,
Công Chúa Lê Ngọc
Bình vừa được 17 tuổi. Đến năm tân
dậu (1801), niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 9, kinh
thành Phú Xuân thất thủ, Vua Cảnh Thịnh chạy ra Bắc
Hà, không kịp mang theo gia quyến, thì Công
Chúa Lê Ngọc Bình
chỉ mới có 19 tuổi, nếu tính tuổi theo lối
ngày nay thì Công Chúa Lê Ngọc
Bình chỉ mới được
18 tuổi mà thôi. Chính vào thời điểm
này Đại
Nguyên Súy Tổng Quốc Chính Nguyễn Phúc
Ánh gặp Công
Chúa Lê Ngọc Bình và năm sau, tức là
năm nhâm tuất
(1802), Nguyễn Vương lên ngôi Hoàng Đế, lấy
niên hiệu là Gia Long, và sách phong
Công Chúa Lê Ngọc Bình làm
Đệ Tam Cung. Năm ấy, Công Chúa Lê Ngọc Bình
vừa
tròn 20 tuổi.
Tuy nhiên, vẫn còn một vấn đề cần nêu lên
là
một sự kiện trọng yếu, rõ ràng và chính
xác
nhường ấy mà tại sao chính sử nhà Nguyễn lại
không đề cập đến? Xin thưa ngay rằng các
sử thần nhà Nguyễn trước nay vẫn lược
qua không ghi chép những sự kiện lịch sử không
phù hợp với quan điểm chính thống của ý thức
hệ phong kiến phương Đông. Thí dụ rõ ràng
nhất
là trường hợp Công Nữ Ngọc Vạn con Chúa Hy
Tông, gả làm Hoàng Hậu cho vua Chân Lạp Chey
Chetta II vào
năm 1620, mở đầu việc chính quyền Chúa Nguyễn
kinh dinh đất Prey Kôr, tức là Sài Gòn Chợ
Lớn sau
này. Sự nghiệp của Công Nữ Ngọc Vạn ở
Cao Mên cũng như công trạng của Công Nữ Ngọc
Vạn đối với dân tộc Việt Nam đem so
sánh với sự nghiệp và công trạng của Công
Chúa
Huyền Trân đời Trần thì to lớn hơn nhiều
lần, thế mà chính sử nhà Nguyễn, vì tinh
thần tự
tôn dân tộc nghĩ rằng việc gả con cho người
nước ngoài là việc không đẹp, nên về
thân thế
thì ghi là "khuyết truyện", còn về sự
nghiệp thì đã không chép được một câu.
Trong
những trường hợp khác thì sử thần nhà Nguyễn
dấu nhẹm những sự kiện lịch sử mà
luân lý phong kiến phương đông cho là đi
ngược
đạo lý. Thí dụ như trường hợp Chúa
Định Vương Nguyễn Phúc Thuần là con Chúa Võ
Vương Nguyễn Phúc Khoát với một bà Công Nữ
em
con chú con bác với Chúa Võ Vương
(công nữ Ngọc Cầu,
con gái Dận quận công Nguyễn Phúc Điền). Việc
hợp hôn như vậy theo quan điểm đạo lý
Á Đông là loạn luân, bởi thế
chính sử nhà
Nguyễn không đả động đến chuyện
đó, mặc dù sự kiện này vô cùng trọng
đại
đối với tương lai vương nghiệp nhà Cựu
Nguyễn, vì đã mở đầu cho việc Chúa Võ
Vương bỏ trưởng lập thứ, đưa
đến việc Trương Phúc Loan chuyên quyền và anh
em nhà Tây Sơn khởi nghĩa, khiến cơ nghiệp họ
Nguyễn chút nữa thì tiêu vong, dòng
dõi họ Nguyễn chút
nữa thì tuyệt diệt.
Vậy thì đã lại tái diễn việc chính sử
nhà
Nguyễn lược qua không đả động đến
dữ kiện Hoàng Đế Gia Long sách lập Công Chúa
Lê Ngọc
Bình con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê,
nguyên Chính Cung Hoàng Hậu
Vua Cảnh Thịnh nhà Nguyễn Tây Sơn, làm Đệ Tam
Cung. Lý do cũng vẫn là ý thức hệ phong kiến nho
giáo ràng buộc người phụ nữ vào khuôn
phép tứ
đức tam tòng, chồng chết thì chết theo chồng
hoặc ở vậy chứ không được lấy chồng
khác. Lý do cũng vẫn là ý thức hệ phong
kiến nho
giáo ràng buộc người nam nhi khi xuất khi xử luôn
luôn phải tuân thủ đạo nghĩa tam cương ngũ
thường, phân biệt minh bạch chính thống và
tà
ngụy. Bởi vậy, sử thần nhà Nguyễn đã
cho rằng chuyện Công Chúa Lê Ngọc Bình vốn
là người
cũ của Ngụy Tây mà được sách lập làm
Đệ Tam Cung là chuyện không đẹp, nên lược
qua không đề cập đến. Thái độ này phản
ánh dư luận đa số trong giới phong kiến nho sĩ
đương thời mà rõ nét nhất là những
câu chuyện
truyền tụng về những lời lẽ của triều
thần can gián nhà vua. Tuy nhiên, những lý
lẽ phản bác
rất chính đáng của vua Gia Long cũng lại đã
cho thấy ý chí không thể lay chuyển của nhà
vua trong
quyết định sách lập Công Chúa Lê Ngọc
Bình làm
Đệ Tam Cung. Hành động của Vua Gia Long không phải
là hành động của con người bình thường
tiếc ngọc thương hoa, cho dù Công Chúa Lê
Ngọc Bình
có là công chúa con vua trẻ đẹp, tuổi
tác chưa
được hai mươi. Hành động của Vua Gia
Long là hành động đã suy tính kỹ lưỡng,
không
vì tình nhi nữ nhỏ mọn ở chốn phòng khuê
mà vì
quyền lợi tối thượng của phe nhóm, của
dòng họ, của triều đình, của chính nghĩa, của
quốc gia đại sự. Thật thế, Vua Gia Long tuy
đã thống nhất đất nước, thu Nam Bắc
về một mối, nhưng lòng người Bắc Hà vẫn
còn tưởng nhớ nhà Lê. Song song với việc thiết
lập cơ chế Bắc Thành Tổng Trấn, cho địa
phương được tự trị rộng rãi, cũng
như song song với việc lục dụng con cháu nhà Lê
vào các cơ quan nhà nước, tùy tài
khiển dụng không
phân biệt nam bắc, mới cũ, việc sách lập một
công chúa Bắc Hà con Vua Hiển Tông nhà
Hậu Lê vào một
địa vị tôn quí ở chốn nội đình là một
hành động tâm lý chiến sâu sắc của một
chính
trị gia bậc thầy, một hành động có tính
toán
kỹ lưỡng và khôn ngoan tuyệt cùng.
Tóm lại, việc Vua Gia Long sách lập Công
Chúa Lê Ngọc
Bình làm Đệ Tam Cung là một sự kiện lịch sử
có thật, rõ ràng và chính
xác, mặc dù chính sử nhà Nguyễn
đã không đề cập tới. Công Chúa Lê Ngọc
Bình
là em ruột Công Chúa Lê Ngọc Hân. Cả
hai đều là
Công Chúa Đông Đô, đều được sắc
phong Hoàng Hậu Phú Xuân. Nhiều câu chuyện
truyền tụng
trong dân gian được thêu dệt chung quanh cuộc
đời hai bà, đan kết vào nhau, lẫn lộn với
nhau, thay đổi dần dà với thời gian và không gian,
và đặc biệt là vì không mấy ai biết đến
Công Chúa Lê Ngọc Bình mà chỉ biết
có Công Chúa Lê Ngọc
Hân mà thôi, nên cuối cùng, có
nhiều chuyện là đời
thực của bà này lại trở thành huyền thoại về
bà kia.
Vậy từ nay, chúng ta hãy dứt khoát khẳng định
sự kiện Công Chúa Lê Ngọc Hân chỉ có
một đời
chồng, và chung cục của bà vẫn là giàu sang
tôn quí. Bà
là Bắc Cung Hoàng Hậu của Vua Quang Trung, và
bà đã chết
dưới triều Vua Cảnh Thịnh, khi nhà Tây Sơn
chưa mất ngôi. Còn người phụ nữ lạ
thường, đã là Công Chúa con vua lại lấy hai
đời
chồng vua là Công Chúa Lê Ngọc Bình,
em ruột Công Chúa Lê Ngọc
Hân. Công Chúa Lê Ngọc Bình là
con Vua Hiển Tông nhà Hậu Lê,
có đời chồng thứ nhất là Vua Cảnh Thịnh
nhà Nguyễn Tây Sơn, và đời chồng thứ hai là
Vua Gia Long nhà Cựu Nguyễn, đúng như câu ca dao
trong
dân gian vẫn còn tuyền tụng đến ngày nay :
"Gái đâu có gái lạ đời,
"Con vua lại lấy hai đời chồng
vua.
Minh vũ Hồ Văn
Châm
TÀI
LIÊU THAM KHẢO
1. Đại Nam
Chính Biên Liệt Truyện, Sơ Tập, Quyển 30, Ngụy
Tây Liệt Truyện. Quốc Sử Quán, Huế. Bản dịch
chép tay của Tạ Quang Phát.
2. Đại Nam Thực Lục Tiền Biên,
Công Chúa Liệt Truyện. Quốc Sử Quán, Huế.
3. Hoàng Triều Ngọc Phả, Bản Hán
Văn và Bản Quốc Ngữ. Tôn Nhân Phủ, Huế.
4.Việt Sử : Xứ Đàng Trong. Phan
Khoang, Xuân Thu, Houston, TX.
5. Hoàng Lê Nhất Thống Chí.
Ngô Gia Văn
Phái, Bản dịch Ngô Tất Tố, Cơ sở Xuất
bản và Báo chí Tự Do, Sài Gòn, 1958.
6. Quốc Văn Thời Tây Sơn. Hoàng
Thúc
Trâm, Vĩnh Bảo, Sài Gòn, 1950.
7. Việt Nam Văn Học Sử
Giản Ước Tân Biên, Tập II, Văn Học Lịch
Triều : Việt Văn. Phạm Thế Ngũ, Quốc Học
Tùng Thư, Dai Nam Co, Glendale, CA, 1982.
8. Một Vài Sử Liệu Về Bắc Bình
Vương Nguyễn Huệ. Một Nhóm Học Giả, Dai
Nam Co, Glendale, CA, 1992.
9. Documents historiques sur La Mission de
Cochinchine. A.
Launay, Archives des Missions Etrangères de Paris.
10. Tonkin, Volume 692, Volume 693.
Archives des Missions Etrangères de Paris. Các bản
trích dịch của
Đặng Phương Nghi, Tập San Sử Địa,
Sài Gòn.
11. Nam Phong Tạp Chí, số 103, phần
Hán
văn. Hà Nội, 1926.
12. Tạp Chí Tri Tân. Hà Nội,
1943.
13. Một Số Sử Liệu Về Các Nhân
Vật Thời Tây Sơn. Ty Thông Tin Văn Hóa Nghĩa
Bình,
Qui Nhơn, 1980.
14. Ca dao và Triều Nguyễn. Tôn Thất
Hứa,
Tuyển Tập Nhớ Huế, số 8, Westminster, CA,1996.
Đã đăng:
Tạp
Chí Đi Tới, Montréal, QC, Canada.
Tạp
Chí Cách Mạng, Houston, TX, USA.
Đặc
San Tưng Niệm 200 Năm Công
nghiệp Thống Nhất Quốc Gia Của Vua Gia Long,
Westminster, CA, USA.
No comments:
Post a Comment