

Tranh nghệ thuật miêu tả đầu của Người ngoài Trái Đất
Sinh vật ngoài Trái Đất là những sinh vật có thể tồn tại và có nguồn gốc bên ngoài Trái Đất. Sự tồn tại của nó cho đến nay vẫn chỉ là giả thuyết: vẫn chưa có bằng chứng cụ thể về sự sống ngoài Trái Đất như các nhà khoa học đã công nhận một cách rộng rãi.
Hầu hết các nhà khoa học cho rằng sự sống ngoài Trái Đất nếu có tồn tại thì sự tiến hóa của nó đã xuất hiện độc lập ở nhiều nơi khác nhau trong vũ trụ. Có giả thuyết khác cho rằng sự sống ngoài Trái Đất có thể có nguồn gốc ban đầu chung, và sau đó phân tán khắp vũ trụ, từ hành tinh có thể sống được này tới hành tinh có thể sống được khác. Lại có đề xuất cho rằng nếu chúng ta tìm thấy được sự sống và nền văn minh ngoài Trái Đất gần chúng ta thì sự sống và nền văn minh đó hoặc đã phát triển hơn chúng ta rất nhiều hoặc vẫn còn rất sơ khai hơn chúng ta rất nhiều.
Sinh vật ngoài Trái Đất theo suy đoán có thể thay đổi từ dạng giống con người hay quái dị như trong phim khoa học viễn tưởng cho đến dạng sống nhỏ hơn là vi khuẩn và virus.
Sinh vật ngoài Trái Đất, nhất là dạng có trí tuệ, thường ăn sâu vào văn hóa với tên gọi "người ngoài Trái Đất".
Mục lục |
Khả năng tồn tại sự sống ngoài Trái Đất
Theo sinh học vũ trụ
Tất cả sự sống trên Trái Đất đều có cơ sở từ nguyên tố carbon với nước làm dung môi, trong đó xảy ra các quá trình hóa sinh. Sự sống ngoài Trái Đất cũng có thể sử dụng các thành phần này. Tuy nhiên, các nguyên tố và dung môi khác cũng có thể làm cơ sở cho sự sống. Silicon có vẻ thay thế tương tự cho carbon về điều này, mặc dù vẫn chưa chắc chắn lắm. Có giả thuyết cho rằng sự sống dạng silicon có thể tồn tại được ở nhiệt độ cao, chẳng hạn trong các hành tinh gần Mặt Trời hơn. Dạng sống dựa vào nguồn ammoniac thay vì nước cũng đã được đưa ra xem xét nhưng hiếm khi hơn. Không loại trừ có thể tìm thấy nguyên tố khác trong vũ trụ có cách phản ứng tương tự như carbon hay hoàn toàn mới, và xa hơn nữa, có thể sự sống ngoài Trái Đất, ngoài các dạng phụ thuộc vào các phản ứng hóa học còn có dạng chỉ phụ thuộc vào các hiện tượng vật lý.
Bên cạnh các nguyên tố và dung môi, sự sống còn cần tới nguồn năng lượng. Năng lượng từ một ngôi sao ở gần là rõ ràng hơn cả nhưng không phải duy nhất. Năng lượng địa nhiệt của một hành tinh có thể cung cấp cho sự sống dưới bề mặt và trong lòng đại dương.
Giả thuyết về hình thái và tiến hóa
Cùng với khả năng tồn tại sự sống ngoài Trái Đất về phương diện hóa học, vẫn còn có câu hỏi hóc búa về tiến hóa và hình thái. Sinh vật ngoài Trái Đất có thể có hình dạng như thế nào? Khoa học viễn tưởng đã thể hiện điều này từ lâu theo hai hướng: rất nhân tính giống con người hoặc (thường trong trường hợp nói về sự xâm lược hung ác) dạng như bò sát. Sinh vật ngoài Trái Đất mô tả từ xa xưa có da xanh sáng hoặc xám, với cái đầu to, bốn chi rõ rệt và bốn tới năm ngón chi- ví dụ, về cơ bản giống con người với một bộ não to ám chỉ trí tuệ khủng khiếp. Khoa học viễn tưởng cũng hình dung về các dạng sinh vật ngoài Trái Đất khác như giống thú vật hoặc côn trùng.
Niềm tin vào sự sống ngoài Trái Đất
Tư tưởng cổ đại và cận đại
Niềm tin vào sự tồn tại của sự sống ngoài Trái Đất có lẽ đã có từ thời Ai Cập, Babylon và Sumer cổ, mặc dù trong các xã hội đó, các lý thuyết về nguồn gốc vũ trụ coi vũ trụ là siêu nhiên và hình tượng sinh vật ngoài Trái Đất khó phân biệt được với chúa, quỷ... Người phương Tây đầu tiên có lý luận hệ thống về vấn đề này là Thales và học trò của ông Anaximander, thế kỷ thứ 7 và 6 trước Công Nguyên. Thales cho rằng vũ trụ đầy các hành tinh và vì vậy, có thể có sự sống ngoài Trái Đất. Thuyết nguyên tử Ai Cập cho rằng một vũ trụ vô tận có thể có vô số thế giới có người ở. Các công trình vũ trụ học Hy Lạp cổ chống lại ý tưởng về sự sống ngoài Trái Đất, tuy vậy thuyết vũ trụ địa tâm dành đặc quyền cho Trái Đất và sự sống trên Trái Đất, "dường như" có phần diễn tả rằng sự sống ngoài Trái Đất là có thể tồn tại.
Khi Thiên chúa giáo trải rộng quyền lực khắp châu Âu, mọi lý luận trở nên giáo điều, mặc dù nhà thờ không có tuyên bố chính thức nào về sinh vật ngoài Trái Đất thì tư tưởng chính thống giáo vẫn lưu truyền từ đời này qua đời khác. Năm 1277, giám mục Paris là Etienne Tempier có quan điểm lật đổ Aristotle ở chỗ: Chúa có thể đã tạo ra hơn một thế giới.
Tuy vậy, chỉ khi việc phát minh ra kính viễn vọng và tư tưởng của Nicolaus Copernicus trong thuyết vũ trụ nhật tâm, Trái Đất mới thực sự được biết tới là một hành tinh đơn thuần trong vô số thiên thể vũ trụ, sự sống ngoài Trái Đất dần hướng tới cái nhìn khoa học. Vào thế kỷ 16, Giordano Bruno cho rằng vũ trụ vô tận và mọi ngôi sao đều được các hành tinh của nó bao quanh. Đầu thế kỷ 17, nhà thiên văn học người Tiệp là Antonín Maria Sírek of Reity nghĩ rằng:" nếu sao Mộc có... người ở... thì họ chắc hẳn to lớn và đẹp hơn cư dân Trái Đất, hoàn toàn cân xứng với mẫu tiêu chuẩn hai vòng tròn."
Sinh vật ngoài Trái Đất với thời hiện đại
Niềm tin vào sự sống ngoài Trái Đất tiếp tục kéo dài tới thế kỷ 20. Quả thật vậy, khoảng ba thế kỷ sau cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, đầu thời kỳ con người hiện đại tìm hiểu bản chất Hệ Mặt Trời, nhiều nhà thiên văn học và các tác giả lý luận khác, ít nhất là một số người theo tôn giáo, cũng như đa số công chúng đều tin rằng sự tồn tại của sinh vật ngoài Trái Đất là hoàn toàn có thật. Xu thế này cuối cùng cũng bị chững lại sau các cuộc thăm dò không gian: Mặt Trăng rõ ràng bị loại ra khỏi danh sách, trong khi sao Kim và sao Hỏa- hai ứng cử viên sáng giá cho sự sống ngoài Trái Đất hiện tại- cho thấy không có bằng chứng rõ ràng. Các mặt trăng trong của Hệ Mặt Trời đã được viếng thăm, cũng không có dấu hiệu sự sống mặc dù đã quan sát thấy các hoạt động địa chất thú vị (núi lửa trên mặt trăng Io, bầu khí quyển dày của mặt trăng Titan, biển trên mặt trăng Europa) đã giảm hi vọng tìm thấy một tiềm năng cho sự sống ngoài Trái Đất. Cuối cùng, sự thất bại của chương trình SETI trong việc dò tìm tín hiệu radio của nền văn minh có trí tuệ khác, sau bốn thập kỷ nỗ lực đã đẩy niềm lạc quan từ đầu kỷ nguyên vũ trụ xuống vực thẳm và là cơ hội cho mọi người chỉ trích: tìm kiếm sinh vật ngoài Trái Đất là hành động phản khoa học.
Tóm lại, viễn cảnh về những nền văn minh có trí tuệ du hành khắp nơi trong không gian vũ trụ trong Hệ Mặt Trời đối với các nhà khoa học thật mơ hồ. Nhưng trong khi đó, dữ liệu truyền về từ các cuộc thăm dò không gian và các tiến bộ trong phương pháp tìm kiếm được khoa học chấp nhận cũng vẽ ra một viễn cảnh về tiêu chuẩn mới về tiềm năng có thể có sự sống trên các hành tinh khác, ít nhất thì cũng còn rất rất nhiều hành tinh khác, mặc dù sinh vật ngoài Trái Đất có tồn tại hay không vẫn là câu hỏi hóc búa.
Hiện nay, nhiều người đam mê lĩnh vực này vẫn tin rằng sinh vật ngoài Trái Đất đã và vẫn thường viếng thăm Trái Đất. Một số người nghĩ rằng vật thể bay không xác định (UFO) (unidified flying object) quan sát thấy trên bầu trời thực tế là hình ảnh của phi thuyền của sinh vật ngoài Trái Đất và thậm chí còn tuyên bố là đã từng gặp người ngoài Trái Đất. Crop circle cũng được cho là do hành động của sinh vật ngoài Trái Đất mặc dù nhiều hình về sau đã phát hiện là giả mạo.
Khả năng tồn tại sự sống dạng nguyên thủy (vi sinh vật) ngoài Trái Đất ít gây tranh cãi hơn mặc dù hiện nay không có bằng chứng trực tiếp nào được tìm thấy. Có bằng chứng gián tiếp về sự tồn tại sự sống nguyên thủy trên sao Hỏa, tuy vậy, kết luận cuối cùng từ bằng chứng này vẫn còn gây nhiều tranh cãi.
Tìm kiếm sự sống ngoài Trái Đất
Công việc tìm kiếm sự sống ngoài Trái Đất đang được tiến hành theo hai hướng khác nhau: trực tiếp và gián tiếp.
Tìm kiếm trực tiếp
Các nhà khoa học đang tìm kiếm chứng cứ cho sự tồn tại của dạng sống đơn bào trong Hệ Mặt Trời, trong đó đáng chú ý là bề mặt sao Hỏa và các sao băng đã rơi xuống Trái Đất. Có một nhiệm vụ thực thi trên Europa, một trong những vệ tinh của sao Mộc với lớp nước dưới bề mặt, có thể có sự sống.
Có một số bằng chứng hạn chế cho thấy sự sống dạng vi khuẩn có thể tồn tại hoặc đã từng tồn tại trên sao Hỏa.[1] Một thí nghiệm do tàu Viking ghi nhận khí gas bốc ra từ đất sao Hỏa bị nung nóng có thể thích hợp với sự xuất hiện của một số vi khuẩn. Tuy vậy, sự thiếu chứng cứ vững chắc từ các cuộc thí nghiệm khác trên tàu Viking cho thấy đó là do phản ứng hóa học vô sinh thì hợp lý hơn. Việc giải thích có thể dẫn đến nhiền tranh luận. Độc lập với mọi thí nghiệm nói trên, năm 1996, những cấu trúc giống như vi khuẩn đã được khám phá trên thiên thạch ALH84001, tạo thành từ đá bắn ra từ sao Hỏa. Báo cáo này cũng gây ra nhiều tranh luận.
Tháng 2 năm 2005, các nhà khoa học NASA đã báo cáo rằng họ tìm thấy chứng cứ có sức thuyết phục về sự tồn tại của sự sống trên sao Hỏa.[2] Hai nhà khoa học, Carol Stoker và Larry Lemke căn cứ vào dấu vết mêtan tìm thấy trong khí quyển sao Hỏa tương tự như sản phẩm mêtan của một số dạng vi sinh vật trên Trái Đất, ví dụ như những hiểu biết của chúng ta về cuộc sống nguyên thủy gần sông Rio Tinto ở Tây Ban Nha. Các công chức của NASA đã bác bỏ khẳng định của nhiều nhà khoa học, và Stoker đã từ bỏ khẳng định ban đầu của mình.[3]
Mặc dù các bằng chứng vẫn còn gây tranh cãi và vẫn còn có sự bất đồng giữa các nhà khoa học với nhau nhưng niềm tin rằng có tồn tại sự sống trên sao Hỏa vẫn ngày càng lớn dần. Một cuộc khảo sát thông thường được tiến hành tại một hội nghị của Cơ quan vũ trụ Châu Âu cho thấy rằng, 75% các nhà khoa học có mặt được ghi nhận là tin rằng đã từng một lần có sự sống trên sao Hỏa; 25% các nhà khoa học tin rằng vẫn còn sự sống trên sao Hỏa.[4]
Giả thuyết Gaia cho rằng mọi hành tinh với lương dân cư lớn sẽ có khí quyển không trong trạng thái cân bằng, mà ở có thể phát hiện tương đối dễ dàng bằng quang phổ dù ở một vị trí cách xa. Mặc dù vậy, những sự tiến bộ quan trọng trong việc dò tìm và phân tích ánh sáng này cần được áp dụng các hành tinh nhỏ gần hành tinh của chúng ta thì cần thiết hơn trước khi đưa vào áp dụng cho các hành tinh ngoài thái dương hệ.
Tìm kiếm gián tiếp
Kế hoạch tìm kiếm các hành tinh giống với Trái Đát của NASA (nhưng vào năm 2007, nó không nhận được tiền tài trợ từ NASA mà nó cần nên nó đã bị hủy bỏ và thay thế nó là chương trình Kepler).Các nhà khoa học lập luận rằng bất kì một xã hội nào với công nghệ hiện đại trong vũ trụ cũng sẽ cần phải có sự trao đổi thông tin, liên lạc. Dự án SETI được xác định là một dự án bao gồm các cuộc tìm kiếm trong không gian bằng sóng radio mà sẽ xác định được nếu tồn tại sự sống hiện đại. Một đề xuất liên quan là người ngoài hành tinh có thể sẽ phát ra các xung động và các tín hiệu laser trong quang học kiểu quang phổ hồng ngoại;[5] các tín hiệu laser có lợi do không bị "bẩn" khi đi chuyển đi qua ranh giới giữa các hành tinh và đồng thời có thể có lợi hơn trong viêc truyền thông tin giữa các ngôi sao. Và các cách liên lạc khác bao gồm các tín hiệu laser và các chuyến bay giữa các vì sao đã được đưa ra thảo luận và tạo ra nhiều ý kiến tranh cãi gay gắt và dường như không thế làm được, đơn vị đo biểu thị tính hiệu quả của các cách trao đổi thông tin là số lượng thông tin được trao đổi thành công với một chi phí nhất định, kết quả là tín hiệu radio được chọn làm phương pháp thích hợp nhất. Các hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời
Các nhà thiên văn học đồng thời cũng tìm kiếm sự sống trên các hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời, họ tin rằng có thể có hành tinh có lợi cho sự sống phát triển, ví dụ như Gliese 581 c và OGLE-2005-BLG-390Lb, nơi mà được tìm thấy có dạng tương đối giống với Trái Đất.[6][7] Những phương pháp dò tìm bằng radio hiện nay đã không còn tương xứng với một cuộc tìm kiếm lớn, ví dụ như cách giải quyết với công nghệ gần đây đã không còn tương xứng với những gì chúng ta biết về các thiên thể ngoài thái dương hệ. Loại kính viễn vọng trong tương lai cần phải có khả năng cho việc nhìn các hành tinh quay xung quanh các ngôi sao, mà có thể có tồn tại sự sống (dù bằng phương pháp trực tiếp hay thông qua việc chụp ảnh bằng quang phổ giúp làm lộ ra các thông tin quan trọng như sự tồn tại của khí Ôxy trong khí quyển của hành tinh đó:
- Darwin là một kế hoạch của ESA tìm kiếm những hành tinh giống với Trái Đất, và phân tích khí quyển của chúng.
- Nhiệm vụ COROT, ban đầu thuộc về của Cơ quan vũ trụ Pháp, được bắt đầu vào năm 2006 và vẫn đang xem xét các hành tinh ngoài hệ mặt trời.
- Kế hoạch tìm kiếm các hành tinh giống Trái Đất được NASA tiến hành, nhưng đến năm 2007, ngân quĩ bị cắt đã khiến cho nó kéo dài vô tận
- Chương trình Kepler, thay thế cho Kế hoạch tìm kiếm các hành tinh giống Trái Đất, sẽ được diễn ra vào tháng mười một năm 2008
Có ý kiến cho rằng Alpha Centauri, chòm sao gần nhất đối với Trái Đất, có thể chứa những hành tinh có khả năng tồn tại sự sống.[8]
Vào ngày 24 tháng tư, năm 2007, các nhà khoa học thuộc đài thiên văn Nam Âu ở La Silla, Chile nói rằng họ đã tìm thấy hành tinh đầu tiên giống với Trái Đất. Hành tinh, được biết dưới cái tên Gliese 581 c, quay trong khoảng không cho phép tồn tại sự sống của ngôi sao Gliese 581, một sao lùn đỏ cách Trái Đất 20.5 Năm ánh sáng (194 ngàn tỉ km). Lúc đầu nó được cho rằng có thể có nước. Tuy nhiên, khí hậu trên Gliese 581 c đã được Weiner Volt Bloh và đội của anh mô phỏng trên máy tính tại Viện Nghiên cứu về sự ảnh hưởng khí hậu của Đức và cho kết quả là: các bon đi-ôxít và mêtan trong khí quyển của hành tinh này có thể tạo ra được hiệu ứng nhà kính nhưng sau đó sẽ bị biến mất. Nó sẽ làm hành tinh ấm lên, vượt quá cả mức để nước có thể sôi(100 độ C/ 212 độ F), chính vì vậy nó xóa tan đi hi vọng có thể tồn tại sự sống trên hành tinh này. Hiện giờ các nhà khoa học chuyển sang theo dõi Gliese 581 d, hành tinh mà chỉ nằm sát vùng có thể sống của một ngôi sao.[9]
Vào ngày 29 tháng năm năm 2007, the Associated Press công bố một bản bào cáo rằng các nhà khoa học đã tìm thấy 28 thiên thể dạng hành tinh ngoài hệ mặt trời. Một trong số các hành tinh mới được phát hiện này được cho rằng có rất nhiều điểm giống với sao Hải vương.[10]
Sự sống ngoài Trái Đất trong Hệ Mặt Trời
Nhiều thiên thể trong Hệ Mặt Trời được cho là dường như có sự sống. Trong danh sách dưới đây, ba trong số năm thiên thể là vệ tinh, và được cho là có chứa chất lỏng trong lòng đất, nơi mà sự sống có thể giống như dưới biển sâu.
- Sao Kim - hành tinh thứ hai tính từ Mặt Trời - Carbonyl sulfide, nền tảng cho sự sống vừa mới được tìm thấy trong khí quyển sao Kim.
- Sao Hỏa - hành tinh thứ tư tính từ Mặt Trời - có nước dạng lỏng tồn tại trong quá khứ và vẫn còn nước dạng lỏng ở dưới bề mặt. Gần đây, methane được tìm thấy trong khí quyển sao Hỏa. Xem bài chính: Người Hỏa tinh.
- Titan - vệ tinh lớn nhất của sao Thổ, vệ tinh duy nhất có một bầu khí quyển đáng chú ý. Các khám phá mới nhất chỉ ra rằng không có biển bao phủ trên đó nhưng có thể tồn tại các hồ hydradcarbon theo mùa.
- Europa - vệ tinh lớn thứ tư của sao Mộc - dường như có một biển muối dưới lớp vỏ băng mỏng. Nếu như vệ tinh này có sự sống, nhiều hy vọng có thể tìm thấy dạng sống tương tự như ở các miệng núi lửa trên Trái Đất. Hơn nữa, các nhà sinh học vũ trụ đang hy vọng tìm thấy dạng sống kỵ khí dưới vùng biển ở đây nhờ khuấy tung bề mặt băng của mặt trăng này.
- Enceladus - vệ tinh lớn thứ sáu của sao Thổ - đã quan sát thấy các hoạt động địa chất cùng với nước ở dạng lỏng và các mạch nước tại cực nam.
Nhiều thiên thể khác cũng được cho là có dấu hiệu sự sống dạng vi sinh vật. Ví dụ có giả thuyết cho là có sự sống trong khí quyển của sao Kim hay có thể tồn tại sự sống trên các sao chổi, giống như một vài loại vi trùng trên Trái Đất sống sót thành công theo như một cuộc nghiên cứu Mặt Trăng trong nhiều năm. Tuy vậy, không có nhiều hy vọng rằng sinh vật đa bào phức tạp có thể tồn tại được dưới các điều kiện đó.
[sửa] Đối đầu với sinh vật ngoài Trái Đất
Nếu như sinh vật có trí tuệ ngoài Trái Đất được tìm thấy và có thể liên lạc được với chúng, con người và chính phủ của mình phải xác định làm gì và làm thế nào với mối quan hệ đó. Quy tắc ứng xử khi đối đầu với sinh vật ngoài Trái Đất và vấn đề lãnh thổ trong đó đã được các tác giả Michael Salla và Alfred Webre phát triển.[cần dẫn nguồn] Xem liên lạc với nền văn minh ngoài Trái Đất.
Cũng có ý kiến cho rằng tốt nhất là không nên tìm kiếm hay giao tiếp với người ngoài hành tinh vì rất có thể sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong của nhân loại.[cần dẫn nguồn]
Chú thích
- ^ Spherix: Makers of Naturlose (tagatose), a natural, low-calorie sugar made from whey that may be useful as a treatment for Type 2 diabetes
- ^ Berger, Brian. “Độc nhất: Khẳng định của các nhà nghiên cứu NASA về bằng chứng của sự sống trên sao Hỏa”, 2005.
- ^ “NASA bác bỏ bản báo cáo vè sự sống trên sao Hỏa”, spacetoday.net, 2005.
- ^ Spotts, Peter N.. “Sea boosts hope of finding signs of life on Mars”, The Christian Science Monitor, 2005-02-28. Truy cập 18 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Dự án tìm kiếm trí thông minh ngoài Trái Đất(SETI) bằng tín hiệu hông ngoại”. The Columbus Optical SETI Observatory.
- ^ http://planet.iap.fr/OB05390.news.html.
- ^ SPACE.com - Khám phá lớn: Hành tinh mới có thể có chứa nước và sự sống
- ^ 1997AJ 113.1445W Page 1445
- ^ Hi vọng vào cuộc sống ở một hành tinh xa - USATODAY.com
- ^ BBC NEWS | Science/Nature | Planet hunters spy distant haul
Liên kết ngoài

Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về: Sự sống ngoài Trái Đất
Tiếng Việt:
- Video về sinh vật ngoài Trái Đất bị bắt tại Rostov (Nga)
- Phát hiện mới về sự sống ngoài Trái Đất
- Không có dấu hiệu của sự sống ngoài Trái Đất
- Người ngoài hành tinh là sản phẩm của ảo giác
Tiếng Anh:
- PBS: Life Beyond Earth a film by Timothy Ferris
- PBS: Exploring Space - The Quest for Life by Scott Pearson
- ufoskeptic.org by Bernard Haisch
- Xenopsychology by Robert A. Freitas Jr.
- "What Aliens Might Look Like" from National Geographic
- Sylvia Engdahl, "Early Space Poetry" Part I: Didactic and other poetry concerning other inhabited worlds, well-known and obscure poets, 17th-18th centuries. "Part II": 19th century
- Top stars picked in alien search

Bằng chứng những nền văn minh ngoài trái đất từ thời cổ đại
Bằng chứng nền văn minh cổ đại phát triển vượt bậc
Có nhiều khám phá rải rác trên phạm vi toàn thế giới chứng tỏ từ thời xa xưa, trên hành tinh Trái Đất nhỏ bé của chúng ta đã từng tồn tại ít nhất một nền văn minh toàn cầu có trình độ kỹ thuật cao không kém gì so với nền khoa học kỹ thuật hiện đại của chúng ta ngày nay, thậm chí về một số mặt còn vượt trội hơn.
Bằng chứng đầu tiên: Điện đã từng được biết đến và sử dụng trong nhiều nền văn minh tiền sử.
Pin điện tiền sử.
Tại I Rắc: Năm 1936, trong các cuộc khai quật một ngôi làng cổ 2000 năm tuổi ở phía Đông Ai Cập vài trăm km, ngày nay thuộc I Rắc, những người công nhân đã khám phá ra những bình gốm nhỏ kỳ lạ. Những bình này có chứa các trụ đồng được ngâm trong một loại dung dịch đã đông đặc, gắn vào bình bằng nhựa đường, được định niên vào khoảng từ năm 248 trước công nguyên đến 226 sau công nguyên. Trong số này có một bình bằng đất nung cao 6 inch, màu vàng sáng có chứa một trụ đồng kích thước 5 inch chiều dài x 1,5 inch đường kính tiết diện. Ở giữa các trụ bằng đồng là một lõi thép cũng được gắn vào bằng keo nhựa đường.
Nhà khảo cổ học nổi tiếng người Đức Wilhelm Konig, đã kiểm tra mẫu vật và đưa ra một kết luận đáng ngạc nhiên : cái bình gốm này không có gì khác hơn chính là một pin điện thời tiền sử.
Pin điện tiền sử, được trưng bày tại Viện bảo tàng Baghdad
Pin điện tiền sử tại viện bảo tàng Bát Đa, cũng giống như những bình pin gốm khác được đào lên, tất cả đều được định niên từ năm 240 TCN đến năm 226 sau công nguyên trong thời chiếm đóng của đế chế Parthi. Tuy nhiên, tiến sĩ Konig còn phát hiện được những bình đồng mạ bạc khác trong viện bảo tàng Bát Đa, được khai quật từ những vùng đất cổ của người Sumer ở miền Nam I Rắc, qua giám định niên đại cho thấy ít nhất có từ 2500 năm trước công nguyên. Khi những cái bình này được dùi nhẹ vào, một lớp gỉ đồng tách ra từ bề mặt, có đặc điểm của một vật được mạ điện bạc lên một vật bằng đồng. Điều này làm ta không thể không nghĩ rằng những người Pathi đã thừa kế những Pin này từ nền văn minh Sumer, một trong những nền văn minh sớm nhất được biết đến.
Vào năm 1940, Willard F.M. Gray, một kỹ sư từ General Electric High Volatage Laboratory tại Pittsfield, Massachusetts, Mỹ, đã đọc những lý luận của Konig. Dùng những bản vẽ và các chi tiết được cung cấp bởi nhà khoa học hỏa tiễn người Đức Willy Ley, Gray đã làm ra một bản sao từ Pin này. Dùng dung dịch Đồng Sunphát, nó cho một dòng điện khoảng nửa Vôn.
Vào thập kỷ 70 thế kỷ trước, Nhà Ai Cập học người Đức, Arne Eggebrecht đã làm ra một bản sao của Pin Bát Đa và dùng dung dịch nước nho ép nguyên chất mà ông phỏng đoán những nhà khoa học tiền sử đã dùng. Bản sao này đã sinh ra dòng điện 0,87V. Ông đã dùng dòng điện này để mạ vàng cho một bức tượng bằng bạc. Thí nghiệm này đã chứng minh rằng những Pin điện đã được sử dụng khoảng 1800 năm trước khi viên Pin đầu tiên được phát minh bởi Alessandro Volta năm 1799.
Cũng dễ nhận thấy việc sử dụng những pin tương tự có thể đã được những người Ai Cập cổ đại biết đến, nơi mà vài mẫu vật với dấu vết mạ điện những kim loại quý được tìm thấy tại nhiều địa điểm khác nhau. Có vài khám phá dị thường từ nhiều vùng khác nhau, cho phép khẳng định điện đã được sử dụng trong một quy mô lớn.
Những hình chạm khắc tại Ai Cập 3000 năm trước
Vào năm 1848, một đoàn nghiên cứu khảo cổ làm việc tại Ai Cập đã khám phá ra những ký hiệu bí mật kỳ lạ trên một đoạn rầm trên trần tại một ngôi đền cổ tại Abydos, vài trăm dặm về phía Nam Cairo. Những ký hiệu này đã được sao chép cẩn thận và gửi về Châu Âu. Bí ẩn của những hình vẽ này đã gây tranh cãi nóng bỏng trong những nhà Ai Cập học lúc bấy giờ, tuy nhiên dần dần, do không thể hiểu các hình vẽ đó nói về điều gì, họ đã gạt nó sang một bên như là những vật thể kỳ dị mà không ai có một giải thích thỏa đáng nào, rồi rơi vào quên lãng.
Vào giữa thập kỷ 90 thế kỷ trước, những bức ảnh và phim video, được chụp đầu tiên bởi những du khách viếng thăm Abydos, bắt đầu xuất hiện trên internet. Chúng mô tả “những ký hiệu tượng hình về những cỗ máy kỳ lạ” vốn đã được khám phá vào thế kỷ 19. Ngôi đền mà người ta tìm thấy những ký hiệu tượng hình này được xây dựng vào thời Pharaong Seti I khoảng 3000 năm trước. Đối với những người quan sát hiện đại chúng rõ ràng đó là những cỗ máy kỳ lạ, nhưng lại hết sức bí ẩn đối với những người thuộc thời của nữ hoàng Victoria. Thực tế chúng là nhiều chủng loại khác nhau của các thiết bị bay cùng với một chiếc xe tăng, và trong số những thiết bị bay là một chiếc máy bay trực thăng! Đó là một trong những khám phá gây sửng sốt nhất được tìm thấy tại Ai Cập.
Gần đây, tờ báo uy tín của A Rập “Al-Sharq Al-Awsat” đã phát hành nhiều ảnh được chụp tại một ngôi đền Ai Cập khác, đền thờ Amon Ra tại Karnak. Các bức ảnh là những chạm khắc khoảng 3000 năm trước đây. Chúng tỏ ra rất giống với những hình chạm khắc tìm thấy tại Abydos. Đó là một máy bay trực thăng chiến đấu với một động cơ và một bộ đuôi, và gần đó, một thiết bị bay hiện đại. Thế là, trong thực tế thì không phải 1, mà có đến 2 bộ hình chạm như thế tại Karnak and Abydos.
Vậy nếu những người Ai Cập cổ không có công nghệ để chế tạo các trực thăng hay các thiết bị bay khác, thì những hình ảnh về các cỗ máy bay đó nguồn gốc từ đâu? Cái lịch sử loài người mà ta được học hiện nay lại một lần nữa bất lực. Có nhiều thư viện huyền thoại cổ xưa, như là Thư viện Alexandria và những thư viện cổ Trung Hoa đã bị tiêu hủy. Nhiều trong số các bằng chứng vô giá về quá khứ xa xăm đã bị xóa sạch. May thay, những văn bản cổ đại vẫn còn được lưu giữ, một phần tại Ấn Độ. Vô cùng kinh ngạc khi biết rằng một vài trong những ghi chép tiền sử ấy kể về những thiết bị bay tinh xảo cao cấp.
Hình chạm này thể hiện cái gì, nếu không phải là một cái xe tăng?
Gần đây, có một báo cáo TQ vừa khám phá những văn bản tiếng Phạn thượng cổ tại Tây Tạng và đã gửi chúng về trường đại học Chandrigarh ở Ấn Độ để dịch. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy những tài liệu này chứa những chỉ dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ.
Những bằng chứng thêm nữa cho thấy thứ được gọi là “Đế chế Rama” miền Bắc Ấn và Pakistan là cổ xưa hơn nhiều so với những gì họ từng nghĩ trước đây. Tàn dư của những thành phố tân kỳ vẫn được tìm thấy trong sa mạc Pakistan, và tại Bắc và Tây Ấn Độ. Theo những văn bản Ấn Độ cổ, Đế chế Rama có những thiết bị bay được gọi là “Vimana”. Có vô số văn bản về Vimana được miêu tả hết sức chi tiết. Những người Ấn Độ tiền sử đã viết toàn bộ các chỉ dẫn sổ tay và sách học về cách điều khiển nhiều loại Vimana khác nhau, nhiều sách trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay; một số đã được dịch sang Anh ngữ. Những loại Vimana khác nhau được miêu tả, một số thì hình đĩa, số khác thì hình điếu xì gà. Vimana có vẻ được cung cấp năng lượng bởi vài loại thiết bị phản trọng lực, khiến nó có thể cất cánh theo chiều thẳng đứng và bay lượn trong không gian.
Các chuyên gia Ai Cập học đều biết nhiều bí ẩn của Ai Cập thời thượng cổ là không thể giải thích được nếu sử dụng cái khung hạn hẹp của cách nghĩ truyền thống. Ví dụ họ hoàn toàn không thể giải thích thấu đáo làm thế nào các kim tự tháp được xây dựng nên, và làm thế nào nền văn minh Ai Cập thượng cổ xuất hiện một cách đột ngột với trình độ rất cao ngay từ thủa khai sinh? Nguyên nhân nào Kim tự tháp lớn Giza lại được xây dựng với công nghệ cao hơn nhiều so với các kim tự tháp nhỏ được xây dựng sau nó?
Có rất nhiều mẫu vật đáng tin cậy như những gì chúng ta đã thấy từ đầu thường không được một số “khoa học gia” và các “chuyên gia” để ý một cách đúng mực, họ cũng không khách quan nghiên cứu và tìm hiểu nghiêm túc, chính là bởi vì : nó quá trực quan, đối nghịch với thành kiến của họ, và nó không nằm lọt thỏm trong cái khung hạn hẹp của những “hiểu biết” mà họ được những đàn anh bơm vào não từ khi còn là học sinh tiểu học. Họ nghi ngờ và loại bỏ tất cả những gì không nằm trong cái khung ấy, cũng như cố gắng bằng mọi giá uốn ép những bằng chứng khách quan cho vừa vặn lọt vào cái khung, chứ không muốn cải biến chính cách tư duy sao cho toàn diện và khoa học hơn, cho phù hợp với thời đại và thực tiễn khách quan.
Hầu như tất cả chúng ta đều khẳng định 100% những hình chạm khắc trên thể hiện những chiếc trực thăng và những thiết bị bay công nghệ cao – nếu họ chưa biết chúng được tìm thấy ở đâu. Thú vị hơn nữa, là hình chạm khắc thượng cổ đó lại thể hiện như một chiếc trực thăng chiến đấu, một phương tiện chiến tranh.
Bằng chứng thứ 4: Kỹ thuật hàng không vũ trụ thời tiền sử
Từ những tấm bản đồ cổ đại …
Bản đồ Piri Re’is
Vào năm 1929, một nhóm các nhà sử học đã tìm thấy một bản đồ kì lạ được vẽ trên da linh dương gazel. Nghiên cứu cho thấy đó là một bản đồ thật được vẽ vào năm 1513 bởi Piri Re’is, một đô đốc hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ thứ 16. Niềm yêu thích của ông ta là nghệ thuật vẽ bản đồ. Địa vị cao trong hàng ngũ hải quân Thổ khiến ông được phép tiếp cận với Thư viện Hoàng gia Côngstantinốp. Ông khẳng định rằng bản đồ mà ông biên soạn là sao chép lại dữ liệu từ nhiều bản đồ khác nhau, một vài trong số đó có giám định niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên.
Bản đồ thể hiện vùng bờ biển Tây Phi, bờ biển Nam Mỹ, và bờ Bắc của Nam Cực. Đường bờ biển Nam Cực được vẽ chi tiết đến hoàn hảo. Tuyến bờ biển dọc Nam Mỹ và Bắc Mỹ, thậm chí cả hình dáng của Cực Nam cũng đều được vẽ một cách tỷ mỷ trong bản đồ Re’is. Ở đó không chỉ thể hiện hình dáng của đại lục, vẽ tỷ mỷ sự phân bố địa hình trong đất liền mà còn chứa đựng những điểm cực kỳ chính xác, biểu thị đầy đủ núi, dãy núi, đảo, sông, suối và cao nguyên. Điều khiến người ta kinh ngạc là dãy núi ở cực Nam đến năm 1852 mới phát hiện ra, nhưng nó đã được vẽ đầy đủ trên bản đồ Re’is. Tuy nhiên câu hỏi làm sao Piri Re’is có thể vẽ một bản đồ chính xác đến thế của vùng Nam Cực đến 300 năm trước khi nó được khám phá không phải là câu hỏi lớn nhất, mà việc bản đồ thể hiện đường bờ biển Nam Cực nằm dưới lớp băng dày mới là bí ẩn khó giải thích nhất. Các bằng chứng địa chất khẳng định rằng thời điểm mà vùng đất Queen Maud Land của Nam Cực không có băng giá gần đây nhất là vào khoảng 4000 năm trước công nguyên.
Vào ngày 6/7/1960 Không lực Hoa Kỳ đã trả lời giáo sư Charles H. Hapgood của trường đại học Keene College một cách chính xác các thỉnh cầu của ông về việc thẩm định giá trị của bản đồ tiền sử Piri Re’is. Nội dung bức thư như sau:
6, July, 1960
Subject: Admiral Piri Reis Map
TO: Prof. Charles H. Hapgood
Keene College
Keene, New Hampshire
Dear Professor Hapgood, Your request of evaluation of certain unusual features of the Piri Reis map of 1513 by this organization has been reviewed. The claim that the lower part of the map portrays the Princess Martha Coast of Queen Maud Land, Antarctic, and the Palmer Peninsular, is reasonable. We find that this is the most logical and in all probability the correct interpretation of the map. The geographical detail shown in the lower part of the map agrees very remarkably with the results of the seismic profile made across the top of the ice-cap by the Swedish-British Antarctic Expedition of 1949. This indicates the coastline had been mapped before it was covered by the ice-cap. The ice-cap in this region is now about a mile thick. We have no idea how the data on this map can be reconciled with the supposed state of geographical knowledge in 1513.
Harold Z. Ohlmeyer Lt. Colonel, USAF Commander.
Giáo sư Hapgood thân mến, Thỉnh cầu thẩm định các đặc điểm bất thường của bản đồ Piri Re’is được vẽ năm 1513 tới chúng tôi đã được xem xét. Lời khẳng định rằng phần dưới của bản đồ biểu thị bờ biển Princess Martha của Queen Maud Land Nam Cực và Bán đảo Palmer là hợp lý. Chúng tôi thấy rằng đây là một kết luận hợp lôgic nhất và có khả năng đúng nhất. Các chi tiết địa lý thể hiện trong phần dưới của bản đồ cực kỳ giống với các kết quả của phương pháp đo đạc dùng sóng địa chấn xuyên qua đỉnh của chỏm băng bởi các nhà thám hiểm Thụy Điển – Anh vào năm 1949. Điều này cho thấy đường bờ biển đã được vẽ trước khi nó bị băng bao phủ. Chỏm băng trong khu vực hiện nay dày khoảng 1 dặm. Chúng tôi không thể hiểu nổi làm thế nào dữ liệu trên tấm bản đồ này có thể được biết đến với tình trạng kiến thức địa chất vào năm 1513.
Khoa học chính thống khẳng định rằng chỏm băng bao phủ Nam Cực là hàng triệu tuổi. Bản đồ Piri Re’is cho thấy vùng phía Bắc của lục địa Nam Cực đã được vẽ trước khi nó bị băng bao phủ. Điều này không khỏi khiến ta nghĩ rằng nó đã được vẽ ra hàng triệu năm trước, nhưng điều đó là không thể bởi con người theo thuyết tiến hóa* chưa tồn tại vào thời điểm đó. Và các nghiên cứu xa hơn và chính xác hơn đã chứng minh thời kỳ Không Băng gần đây nhất kết thúc vào khoảng 6000 năm trước đây. Vẫn có những nghi ngờ về thời điểm bắt đầu của thời kỳ Không Băng này, được đưa ra bởi nhiều nhà nghiên cứu khác nhau dao động vào khoảng từ 13 đến 9 ngàn năm trước công nguyên. Câu hỏi đặt ra là: Ai đã vẽ Queen Maud Land của 6000 trước. Nền văn minh chưa được biết đến nào có công nghệ cần thiết để làm được điều này?
Ngày nay người ta cho rằng nền văn minh sớm nhất của loài người, theo lịch sử truyền thống được dạy trong trường, đã phát triển tại Trung Đông vào khoảng năm 3000 trước công nguyên, không lâu sau là nền văn minh thung lũng Indus Ấn Độ, nền văn minh cổ Ai Cập và nền văn minh Hoàng Hà TQ. Vì thế, không có nền văn minh đã biết nào có thể làm công việc này. Ai đã ở đây 4000 năm TCN, để có thể làm những việc mà chúng ta đến tận bây giờ mới làm được với các công nghệ tối tân?
Vào thời Trung Cổ đã tồn tại một số bản đồ hàng hải được gọi là "portolani", là thứ bản đồ chính xác của các con đường biển, các đường bờ biển đã biết, các bến cảng, các eo biển, các vịnh … thông thường nhất. Phần lớn những bản đồ này tập trung tại vùng Địa Trung Hải và các biển Aegean, và những con đường được biết khác, như là quyển sách hàng hải mà chính Piri Re’is đã viết. Nhưng một vài báo cáo của những vùng đất vẫn chưa được biết đến, và lưu thông trong một số rất ít thủy thủ có vẻ đã cố gắng giữ kín những kiến thức của họ về những tấm bản đồ đặc biệt đó càng bí mật càng tốt.
Piri Re’is có thể đã được tiếp cận với một số bản đồ như thế khi đến Thư viện của Alexandria, thư viện quan trọng nhất nổi tiếng trong thời kỳ cổ đại. Chiểu theo suy luận của Hapgood, những bản copy của những tài liệu này và một số trong những bản đồ gốc đã lưu chuyển đến những trung tâm nghiên cứu khác, và mang chúng tới Côngstantinốp. Thế là vào năm 1204, năm của lần Thập tự chinh thứ tư, khi những người Venetian xâm nhập Côngstantinốp, những bản đồ này bắt đầu quay vòng trong những thủy thủ Châu Âu.
Để vẽ tấm bản đồ của mình, Piri Re’is đã dùng nhiều nguồn khác nhau, thu thập đây đó trong suốt những chuyến đi của mình. Chính ông đã ghi chú lại nhiều trên tấm bản đồ này nhờ đó chúng ta có thể hình dung được công việc ông đã làm với tấm bản đồ này. Ông bảo ông không chịu trách nhiệm về các nguồn dùng để vẽ nên bản đồ này. Vai trò của ông đơn thuần là của một người soạn thảo dùng một số lớn các nguồn bản đồ gốc khác nhau. Ông cũng nói rằng một vài trong những bản đồ gốc đã được vẽ bởi một số thủy thủ đương thời, trong khi một số khác là từ các bản đồ rất cổ, có niên đại từ khoảng thế kỷ 4 TCN trở về trước.
Sự chính xác tuyệt đối của các bản đồ gốc mà Piri Re’is dựa vào có thể nhận thấy trên tấm bản đồ của ông. Những điểm không chính xác hiếm hoi của bản đồ Piri Re’is là các lỗi của chính Piri Re’is tự gây ra trong quá trình tổng hợp từ các bản đồ tiền sử, mà chủ yếu là : tổng hợp các bản đồ gốc không cùng một tỉ lệ, tổng hợp sai phương vị theo một góc quay lệch.
Vào năm 1953, một sỹ quan hải quân gửi tấm bản đồ Piri Re’is đến Thủy Cục Hải Quân Hoa Kỳ. Để giám định nó M.I. Walters, Kỹ sư trưởng của Cục, đã tham vấn Arlington H. Mallery, một chuyên gia lớn về các bản đồ cổ, người đã từng làm việc với ông ta. Sau một nghiên cứu dài hơi, Mallery đã khám phá ra phép chiếu đã được sử dụng trong bản đồ. Để kiểm tra mức độ chính xác của bản đồ, ông đã tạo ra một hệ lưới ô và dịch chuyển bản đồ của Piri Re’is vào quả cầu: bản đồ hoàn toàn chính xác. Ông phát biểu rằng cách duy nhất để vẽ nên một tấm bản đồ chính xác đến thế chỉ có thể là ở góc nhìn từ trên cao, nhưng ai, 6000 năm trước, có thể có máy bay để mà vẽ bản đồ Trái Đất ??
Thủy Cục Hải quân không thể tin nổi vào mắt mình: họ đã, thậm chí có thể sửa lại những lỗi sai trong cái bản đồ hiện đại mà họ đang dùng lúc đó !!
Độ chính xác dựa trên sự kiểm tra tọa độ kinh độ, mặt khác, cho thấy để vẽ được bản đồ cần thiết phải dùng phương pháp Lượng giác hình Cầu, một thành tựu chưa được phát minh cho đến giữa thế kỷ 18.
Hapgood đã chứng minh rằng bản đồ Piri Re’is là được vẽ trong hình học phẳng, chứa các kinh và vĩ độ vuông góc trong một “lưới ô” truyền thống; bởi thế nó đã được sao lại từ một bản đồ trước mà đã được chiếu ra sử dụng phép lượng giác hình cầu! Không chỉ rằng những người làm ra cái bản đồ gốc đó biết rằng quả đất hình cầu, mà họ còn có kiến thức về chu vi Trái Đất với sai số nhỏ hơn 50 dặm!
Hapgood đã gửi bộ sưu tập những bản đồ cổ (chúng ta có thể thấy bản đồ Piri Re’is không phải là bản đồ duy nhất như thế …) đến Richard Strachan, tại Học viện Công nghệ Massachusetts. Ông muốn biết chính xác cấp độ toán học cần thiết để vẽ nên các bản đồ gốc cao đến đâu. Strachan đã trả lời năm 1965 rằng, cấp độ đó phải rất cao. Thực tế Strachan đã nói để vẽ những tấm bản đồ như thế, các phương pháp hình chiếu, kiến thức cần thiết là của một cấp độ cực cao.
Xem bản đồ Piri Re’is với các kinh và vĩ độ được chiếu ra:
• Bản đồ thứ 1
• Bản đồ thứ 2
Cái cách mà bản đồ Piri Re’is thể hiện Queen Maud Land, các đường bờ biển của nó, các con sông, dãy núi, các sa mạc, các vịnh, có thể được xác nhận bởi một nhóm thám hiểm Anh – Thụy Điển đến Nam Cực (như đã nói bởi Olhmeyer trong thư gửi Hapgood); những nhà nghiên cứu, dùng các thiết bị sonar và sóng địa chấn, đã khẳng định những vịnh và sông, vv … là đang nằm dưới chỏm băng dày khoảng 1 dặm.
Charles Hapgood, vào năm 1953, đã viết một cuốn sách tựa đề "Earth's shifting crust: a key to some basic problems of earth science" – “Sự dịch chuyển vỏ Trái Đất: chìa khóa cho những vấn đề cơ bản của khoa học về Trái Đất”, ở đây ông đã xây dựng một thuyết để giải thích làm thế nào lục địa Nam Cực có thể Không Băng cho đến 4000 năm TCN. Bạn đọc quan tâm đến nội dung của thuyết này có thể xem thêm tại đây.
Thuyết này có các luận điểm chính như sau:
1. Nguyên nhân Nam Cực không có băng phủ, và vì thế ấm hơn nhiều, là vào một thời kỳ quá khứ xa xôi, địa điểm của nó không phải nằm ở vị trí hiện nay trên vỏ Trái Đất. Nó ngày xưa nằm tại vị trí khoảng 2000 dặm về phía Bắc so với hiện tại. Hapgood nói rằng “có thể đặt nó ra ngoài vòng Nam Cực trong một khí hậu ôn hòa hoặc tương đối lạnh”. Đọc thêm về thuyết Trái Đất đổi trục tại đây.
2. Nguyên nhân lục địa này di chuyển xuống đến địa điểm như ngày nay có thể được tìm thấy trong một cơ chế gọi là “sự trượt vỏ Trái Đất”. Cơ chế này, không nên nhầm lẫn với thuyết về kiến tạo mảng hoặc là sự trượt lục địa, là một thứ nhờ đó mà quyển đá, toàn thể vỏ ngoài của trái đất “có thể dịch chuyển theo thời kỳ, dịch chuyển trượt qua phần dẻo hơn bên trong, giống như là da của một trái cam, nếu nó lỏng lẻo, có thể dịch chuyển trên phần bên trong của quả cam toàn thể đồng thời”. (Charles Hapgood, trích dẫn trong sách "Maps of the ancient sea-kings", Bạn có thể vào đây để tìm thêm thông tin).
Thuyết này đã được gửi cho Albert Einstein, và ông rất hứng thú nhiệt tình trả lời một cách nhanh chóng. Mặc dù các nhà địa chất dường như không chấp nhận thuyết của Hapgood, Einstein có vẻ còn cởi mở phóng khoáng hơn cả Hapgood khi phát biểu:
“Trong một vùng địa cực có một sự tan rã dần dần của băng tuyết, không được phân phối đồng đều xung quanh cực. Sự xoay chuyển của Trái Đất dựa trên những khối lượng bất đối xứng, và gây ra một xung lượng ly tâm truyền đến lớp vỏ cứng của Trái Đất. Sự tăng dần đều của xung lượng bất đối xứng được sản sinh ra khi đến một điểm giới hạn nào đó, sẽ gây ra một chuyển động của lớp vỏ cứng Trái Đất phía trên phần bên trong của nó”.
Lời dẫn của Einstein cho cuốn sách “Sự dịch chuyển lớp vỏ cứng của Trái Đất”, trang 1
"In a polar region there is a continual deposition of ice, which is not symmetrically distributed about the pole. The earth's rotation acts on these unsymmetrically deposited masses, and produces a centrifugal momentum that is transmitted to the rigid crust of the earth. The constantly increasing centrifugal momentum produced in this way will, when it has reached a certain point, produce a movement of the earth's crust over the rest of the earth's body...." (Einstein's foreword to "Earth's shifting crust" p.1)
Dù sao, dẫu Hapgood đúng, bí ẩn vẫn nhiều.
Bản đồ Piri Re’is là một thứ gì đó có vẻ hoang đường. Dường như không có cách nào mà một người ở trong thời đại xa xưa có thể vẽ một tấm bản đồ chính xác như thế; thực tế các tọa độ kinh độ là hoàn toàn chính xác. Và đó là thể hiện của một trình độ kỹ thuật công nghệ không tin nổi: phương tiện tính toán vĩ độ chính xác tương đối đầu tiên mới chỉ được phát minh vào năm 1761 bởi một người Anh tên là John Harrison, tức là sau Piri Re’is 248 năm. Và trước đó không có cách nào có thể tính toán vĩ kinh độ chính xác đến mức có thể chấp nhận được: phải có những lỗi đến hàng trăm km.
Và tấm bản đồ Piri Re’is chỉ là một trong nhiều bản đồ thể hiện những vùng đất chưa được biết đến, những kiến thức không thể tin nổi, với độ chính xác mà ngày nay chúng ta cũng phải kinh ngạc.
Thực tế Piri Re’is bản thân cũng khẳng định ông đã lấy những bản đồ cổ hơn làm nguồn; và những bản đồ này đã được dùng như là nguồn gốc cho những người đã vẽ những tấm bản đồ khác nhau mà cho đến lúc đó vẫn ở độ chính xác tuyệt vời. Ấn tượng là “Dulcert's Portolano” “Bản đồ của Dulcert” năm 1339, vĩ độ của Châu Âu và Bắc Phi là hoàn hảo, và tọa độ kinh độ của Địa Trung Hải và Biển Đen là chính xác đến từng nửa độ.
Và đáng kinh ngạc hơn là “Zeno's chart”, “Bản đồ của Zeno”, vẽ năm 1380. Nó cho thấy một vùng rộng lớn ở phía Bắc, chạy dọc đến Greenland; độ chính xác của nó gây sửng sốt. Một bản đồ gây sửng sốt nữa được vẽ bởi Hadji Ahmed người Thổ Nhĩ Kỳ, vào năm 1559, trong đó ông thể hiện một dải đất liền khoảng 1600km chiều rộng, nối liền Alaska và Siberia. Giống như một cây cầu tự nhiên từng tồn tại, đã bị bao phủ bởi nước vào cuối kỷ Băng Hà vừa rồi khi mực nước biển tăng lên.
Oronteus Fineus là một người khác đã vẽ một tấm bản đồ chính xác khó tin khác. Ông đã vẽ Nam Cực không có băng, vào năm 1532. Có những tấm bản đồ thể hiện Greenland làm 2 phần tách biệt, đúng như sự khẳng định của đội thám hiểm địa cực người Pháp đã khám phá ra có một tảng băng rất dày nối liền 2 hòn đảo tách biệt để tạo thành Greenland.
Như ta đã thấy, nhiều bản đồ là thuộc về những thời kỳ rất cổ xưa, và ta có thể nói rằng toàn thể hành tinh đều đã được vẽ trên bản đồ vào thời đó. Chúng dường như là những mảnh nhỏ của một tấm bản đồ thế giới cổ đại, được vẽ bởi những người bí ẩn sở hữu những công nghệ rất cao ngay cả so với ngày nay.
Khi toàn thể loài người có lẽ còn sống trong thời kỳ hoang sơ thì ai đó đã “vẽ ra giấy” toàn bộ bề mặt địa lý của hành tinh. Và nó là một kiến thức phổ biến, bằng một cách nào đó bị chia cắt thành nhiều mẩu nhỏ để rồi lại được tập hợp đây đó bởi một vài người, và họ chỉ sao chép những gì họ có thể tìm thấy trong các thư viện, các khu chợ Đông Phương và bất cứ nơi nào họ tìm thấy chúng.
Hapgood đã vạch rõ những điều kinh ngạc hơn nữa: Ông đã tìm thấy một tài liệu bản đồ được sao chép bởi một nguồn cổ hơn được vẽ trên một cột đá, ở TQ, vào năm 1137. Nó thể hiện cũng một trình độ kỹ thuật công nghệ cao như thế, với cùng một phương pháp lưới ô, với cùng sự sử dụng phương pháp lượng giác hình cầu như vậy. Nó có quá nhiều điểm chung với những bản đồ Châu Âu khác, khiến ta phải nghĩ rằng phải có một nguồn gốc chung: có thể nó thuộc về một nền văn minh đã diệt vong nhiều ngàn năm trước?
Như chúng ta có thể thấy bên dưới, một phép chiếu góc cực (nhìn Địa Cầu từ một điểm trên cao), từ một điểm bên trên Cairo, Ai Cập thuộc châu Phi cho thấy tấm bản đồ của Piri Re’is
Vào Năm 1956, "máy bay vàng" từng được trưng bày trong Triển lãm Pre-Columbian Gold, ở New York (Mỹ). Đôi cánh hình tam giác và phần đuôi lớn hướng theo phương thẳng đứng của những vật trưng bày đó khiến các nhà thiết kế máy bay Mỹ chú ý. Họ đã thử các "máy bay" cổ đại đó trong một đường ống gió. Hoá ra có một kiểu "máy bay vàng" có thể lướt với tốc độ siêu âm. Mẫu "máy bay" cổ đại này đã giúp hãng Lockheed chế tạo được loại máy bay siêu âm tốt nhất thế giới hồi đó.
Bài viết này đã được xuất bản trong chủ đề diễn đàn: The Ancient Aliens - Bằng chứng những nền văn minh ngoài trái đất từ thời cổ đại bắt đầu bởi Skeptischer Xem bản gốc http://www.2012.vn/tai-lieu/bang-chung-nhung-nen-van-minh-ngoai-trai-dat-tu-thoi-co-dai-805.html
Những bí ẩn đáng kinh ngạc về một nền văn minh ngoài trái đất.
Thứ sáu, 19/11/2010 14:21
Những tiết lộ "giật mình" về người ngoài hành tinh
Người ngoài hành tinh có thật và đã liên lạc với con người trên trái đất. Đây là khẳng định của ông Edgar Mitchell, cựu phi hành gia hàng đầu của NASA và là người đàn ông thứ 6 đặt chân lên mặt trăng.
Cựu phi hành gia NASA Edgar Mitchell.
Mitchell, 77 tuổi, người đặt chân lên mặt trăng trên con tàu Apollo 14 năm 1971, đã ra đưa ra những khẳng định gây sốc trên trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh Kerrang! nổi tiếng tại Anh.
Cũng theo lời Mitchell, người ngoài hành tinh là có thật nhưng đã bị các chính phủ Mỹ che giấu suốt hơn 60 năm qua. Mitchell nói ông đang phơi bày một âm mưu nhằm giữ kín người ngoài hành tinh như một bí mật.
Cựu phi hành gia của NASA cho hay ông đã biết về nhiều chuyến viếng thăm của UFO tới trái đất trong suốt những năm ông làm việc tại NASA nhưng tất cả các vụ việc đều bị che đậy.
Người đàn ông 77 tuổi khẳng định NASA đã liên lạc với những người ngoài hành tinh, miêu tả họ "là những con người bé nhỏ nhìn chúng tôi một cách lạ lẫm".
Theo miêu tả của ông Mitchell, người ngoài
hành tinh có dáng người bé nhỏ, mắt và đầu to.
Ông Mitchell nói rằng người ngoài hành tinh có dáng dấp đúng như những gì mà các nhà sản xuất phim tưởng tượng: thân hình bé nhỏ, mắt và đầu to.
"Không có gì nghi ngờ khi nói rằng cuộc sống tồn tại trên khắp vũ trụ. Chúng ta không đơn độc. Tôi có thể khẳng định điều đó".
"Liệu chúng ta có thể xác định những hành tinh đó ở đâu? Không, tất nhiên là không trong Hệ mặt trời. Nhưng chúng ta có thể xác định một số hành tinh tồn tại sự sống".
Theo lời Mitchell, công nghệ của con người không tinh vi bằng công nghệ của người ngoài hành tinh, và rằng con người có thể không còn trên trái đất nếu bị người ngoài hành tinh căm ghét. "Họ không có hại và không thù địch với con người".
Ông Mitchell, cùng với chỉ huy tàu Apollo 14 Alan Shepard, hiện đang giữ kỷ lục cuộc đi bộ dài nhất trên mặt trăng với thời gian 9 giờ, 17 phút vào năm 1971.
Trong cuộc phỏng vấn, ông nói: "Người ngoài hành tinh đã ghé thăm trái đất và hiện tượng UFO là có thật... Chuyện đó đã bị giấu kín bởi tất cả các chính phủ trong 60 năm qua, nhưng dần dần nó đã bị rò rỉ".
Edgar Dean Mitchell trở thành phi công năm 1966 và sau đó được chuyển từ Hải quân Mỹ sang NASA. Ông đã gắn bó với NASA cho tới khi về hưu năm 1972, một năm sau khi đặt chân lên mặt trăng trên con tàu Apollo 14.
"Tôi nằm trong số các quan chức bình báo và quân đội biết sự thật đằng sau những gì công chúng biết, đó là trái đất đã được ngoài hành tinh ghé thăm. Đọc báo thời gian gần đây, tôi thấy chuyện đó đã xảy ra khá nhiều".
"Đây mới là sự khởi đầu trong quá trình công khai mọi chuyện. Tôi nghĩ chúng ta đang tiến tới việc mở tấm rèm bí mật và một số tổ chức nghiêm túc đang hướng tới điều này".
Mitchell có bằng kỹ sư hàng không và là tiến sĩ khoa học về hàng không và du hành vũ trụ. Ông khẳng định đĩa bay Roswell "đổ bộ" trái đất năm 1947 là có thật và những chuyến viếng thăm tương tự của người ngoài hành tinh sẽ tiếp tục được điều tra.
Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ NASA đã ra tuyên bố nói rằng họ không đồng tình với những bình luận của Mitchell.
Các quan chức của NASA cho biết họ không theo dõi các UFO và không liên quan tới việc giấu giếm sự thật. Một phát ngôn viên nói thêm: "Tiến sĩ Mitchell là một người Mỹ vĩ đại, nhưng chúng tôi không có cùng quan điểm với ông về vấn đề này".
bí ẩn nữa của đảo Phục Sinh,
Được xem là một điều bí ẩn nữa của đảo Phục Sinh, Rongorongo là tên của bản thảo viết bằng chữ tượng hình do những cư dân đầu tiên của đảo viết ra.
ảnh minh họa
Bản thảo Rongorongo
Rongorongo xuất hiện một cách đầy bí ẩn vào vào những năm 1700 trong khi cư dân những vùng đảo lân cận còn chưa có chữ viết. Ngôn ngữ này đã biến mất từ lâu khiến cho việc giải mã bản thảo trở nên vô vọng. Thực dân châu Âu cấm đoán ngôn ngữ này vì nguồn gốc ngoại giáo của người dân trên đảo.
Thành phố Helike biến mất như thế nào?
Nhà văn Hy Lạp Pausanias đã miêu tả lại cảnh tượng trận động đất kinh hoàng đã phá hủy thành phố Helike trong một đêm, kéo theo một cơn sóng thần khủng khiếp nhấn chìm tất cả những gì còn sót lại của thủ phủ phồn thịnh một thời.
Thủ đô của các nước liên minh vùng Achaean này là trung tâm thờ phụng thần biển cả Poseidon. Ngoài các văn tự Hy Lạp cổ, không có dấu hiệu gì cho thấy thành phố này đã từng tồn tại cho đến khi một nhà khảo cổ phát hiện đồng tiền Helike có chạm khắc hình đầu thần Poisedon.
Năm 2001, hai nhà khảo cổ đã xác định được vị trí của thành phố Helike bên dưới một lớp bùn và sỏi. Công tác khai quật đang được tiến hành và các nhà khoa học hy vọng sẽ tìm hiểu được quá trình lớn mạnh và diệt vong của thành phố được một số người xem là thành phố Atlantis trong huyền thoại.
Xác ướp đầm lầy
Cho đến nay đã có hàng trăm xác ướp – chủ yếu từ thời đồ sắt – được phát hiện ở vùng đầm lầy phía bắc châu Âu. Phần nhiều các xác ướp được bảo quản rất tốt có niên đại đến 2000 năm và mang dấu vết của việc bị tra tấn và bạo lực. Những vết tích đáng sợ này khiến các nhà khoa học phải đặt giả thiết rằng họ là nạn nhân của một nghi thức cúng tế của người xưa.
Sự sụp đổ của Đế chế Minoan
Trong khi các sử gia ngày càng khám phá thêm nhiều nguyên nhân khiến Đế chế La Mã sụp đổ thì bí ẩn vẫn bao trùm lên sự biến mất của Đế chế Minoan. Cách đây khoảng 3.500 năm, một trận động đất xảy ra trên đảo Thera đã cuốn đi tất cả sự sống trên đảo Crete, nơi xuất phát câu chuyện về một vị vua và con quái vật đã ăn thịt ông ta. Những tấm bảng đất sét do các nhà khảo cổ phát hiện ra lại cho thấy đế chế này vẫn còn tồn tại sau đó khoảng 50 năm trước khi biến mất hoàn toàn. Các giả thiết về sự sụp đổ bao gồm một lớp tro núi lửa làm mùa màng thất bát hoặc họ đã bị quân Hy Lạp chiếm quyền.
Các cột đá Carnac
Công trình đá Stonehenge ở Anh vẫn còn là bí ẩn đối với các nhà khoa học nhưng công trình Carnac tại bờ biển Brittany đông bắc Pháp có lẽ còn gây tò mò hơn nữa.
Hơn 3.000 cột đá cự thạch được sắp xếp thành một đường hoàn hảo trải dài hơn 12 km. Truyền thuyết địa phương kể rằng những cột đá này là một quân đoàn La Mã bị pháp sư Merlin hóa đá. Một nhà khoa học nghiên cứu công trình hơn 30 năm lại giả thiết rằng những cột đá này là một công cụ dự báo động đất. Nhân dạng của những người thuộc thời kỳ đồ đá mới xây dựng công trình này hiện vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn.
Robin Hood là ai?
Các sử gia vẫn tiếp tục tìm kiếm nhân vật Robin Hood huyền thoại, một hiệp sĩ rừng xanh cướp của người giàu chia cho dân nghèo và danh sách những người tình nghi xuất hiện khá nhiều tên tuổi. Trong số đó bao gồm một người chạy trốn đến Yorkshire tên Robert Hod, Hobbehod và một Robert Hood vùng Wakefield. Việc lọc ra những cái tên trở nên ngày càng phức tạp vì "Robin Hood" mang nghĩa người sống ngoài vòng pháp luật như trong trường hợp của William Le Fevre. Người này sau đó đổi họ thành RobeHod, theo như những ghi chép của tòa án. Cuộc tìm kiếm nhân vật huyền thoại này trở nên khó khăn hơn vì về sau những người kể chuyện lại thêu dệt thêm nhiều nhân vật câu chuyện, ví dụ như Hoàng tử John và Richard Dũng Mãnh.
Sự mất tích của một binh đoàn La Mã
Sau khi một đội quân La Mã kém cỏi của tướng Crassus bị quân Parthians đánh bại, người ta cho rằng một nhóm nhỏ tù binh chiến tranh đã lang thang qua sa mạc và cuối cùng gia nhập vào quân đội của 17 năm sau. Sử gia Ban Gu sống ở Trung Quốc thế kỷ thứ nhất có ghi lại một trận đối đầu với đội quân lạ lùng chiến đấu theo đội hình vảy cá, một nét đặc trưng của quân đội La Mã.
Một sử gia thuộc Đại học Oxford so sánh các tài liệu cổ và cho rằng tàn quân La Mã đã xây dựng một thị trấn nhỏ tên Liqian gần sa mạc Gobi (cách viết của từ "La Mã" theo tiếng Trung). Các nhà khoa học đang tiến hành thử nghiệm DNA đế chứng minh cho giả thiết trên và để giải thích một số đặc điểm của hậu duệ hiện nay: mắt màu lục, tóc vàng và thú vui đấu bò.
Bản thảo Voynich
Bản thảo viết tay Voynich có lẽ là quyển sách khó đọc nhất trên thế giới. Di vật 500 tuổi này được phát hiện vào năm 1912 ở một thư viện ở Rome, bao gồm 240 trang chữ viết và tranh minh họa hoàn toàn xa lạ. Các nhà mật mã đã ra sức giải mã chữ viết lạ lùng này nhưng chưa ai thành công. Thậm chí một số người còn cho đây chỉ là một trò đùa của người xưa. Tuy nhiên, phân tích quyển sách cho thấy bản viết tay này dường như tuân theo các cấu trúc và quy luật của một ngôn ngữ thật sự.
Xác ướp hồ Tarim
Trong một cuộc khai quật bên dưới lưu vực Tarim phía tây Trung Quốc, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra hơn 100 xác ướp có tuổi thọ hơn 2000 năm. Victor Mair, một giáo sư đại học đã hết sức ngạc nhiên khi đối mặt với các xác ướp tóc vàng, mũi dài trong một cuộc trưng bày ở viện bảo tàng đến nỗi năm 1993 ông đã quay lại để thu thập các mẫu DNA.
Xét nghiệm DNA đã củng cố giả thiết của ông là các xác ướp này mang bộ gien của người châu Âu. Văn tịch cổ Trung Quốc thuộc thế kỷ thứ I trước Công nguyên có đề cập đến những nhóm người định cư da trắng được gọi là Bai, Yeuzhi và Tocharians. Tuy nhiên, vẫn chưa có lời giải thích nào về nguyên nhân tại sao những người này lại xuất hiện ở đây.
Sự biến mất của nền văn minh Thung lũng Indus
Nền văn minh Thung lũng Indus trải dài từ Tây Ấn đến Afghanistan và dân số lên đến 5 triệu người. Đây là nền văn minh lâu đời nhất được biết đến của Ấn Độ. Cho đến tận năm 1922, ông John Marshall khai quật thành phố đã phát hiện ra một nền văn hóa cực kỳ "vệ sinh". Có hệ thống thoát nước cực kỳ phức tạp và những bồn tằm được thiết kế hoàn hảo. Điều kỳ lạ là không có bằng chứng khảo cổ cho thấy sự tồn tại của quân đội, nhà vua, nô lệ, mâu thuẫn xã hội hoặc các tệ nạn phổ biến thời cổ đại.
http://blog.yume.vn/xem-blog/nhung-bi-an-dang-kinh-ngac-ve-mot-nen-van-minh-ngoai-trai-dat-.wait4loving.35D09940.html
Tìm kiếm nền văn minh ngoài Trái đất đã chấm hết!6:22 chiều | Tháng Năm 10, 2011Bắt đầu từ ngày 27-4 vừa qua, hệ thống kính thiên văn vô tuyến Allen "có nhiệm vụ tìm kiếm những tín hiệu phát ra từ các nền văn minh ngoài Trái đất" đã chính thức ngừng hoạt động.
Thế là nỗ lực tìm kiếm thông tin về những thế giới mới ngoài Trái đất trong khuôn khổ dự án SETI đã chính thức bị đóng lại sau nhiều năm bị chỉ trích là không hiệu quả và vô nghĩa. Dù sao, dự án SETI vẫn được coi là một bước đi cụ thể đầu tiên hiện thực hóa giấc mơ lâu nay của nhân loại nhằm tìm kiếm trí tuệ nằm ngoài Trái đất…
Một lịch sử lâu dài
Dự án SETI (Search for Extra-Terrestrial Intelligence – có nghĩa là Tìm kiếm trí tuệ ngoài Trái đất) được Mỹ triển khai với mục đích tìm kiếm những tín hiệu không mang tính ngẫu nhiên đến từ vũ trụ. Những tín hiệu kiểu này được xác định trước rất có thể xuất phát từ những cơ cấu không phải do tự nhiên sinh ra. Cần biết rằng, bản thân vũ trụ cũng có những nguồn “phi trí tuệ” liên tục phát đi những tín hiệu thường xuyên như các pulsar (còn gọi là các ẩn tinh).
Những người tham gia dự án SETI có nhiệm vụ liên tục theo dõi và phân tích các tín hiệu tới từ vũ trụ bao la trong các dải sóng vô tuyến. Trên thực tế, ý tưởng nghiên cứu những tín hiệu trên có thể cho phép phát hiện ra các nền văn minh ngoài Trái đất đã xuất hiện từ thế kỷ XIX. Cuộc thử nghiệm đầu tiên – được coi là “ông tổ” của chương trình SETI – được tiến hành vào năm 1960 dưới sự lãnh đạo của nhà thiên văn học Frank Drake từ Đại học Tổng hợp Cornell, người đã nghiên cứu ra phương trình nổi tiếng Drake giúp đánh giá xác xuất phát hiện các nền văn minh khác tùy thuộc vào một vài tham số.
Drake và các đồng nghiệp đã gọi cuộc thử nghiệm của mình là “Ozma”, theo tên gọi vị nữ hoàng của đất nước Oz trong loạt truyện viễn tưởng của Frank Baum. Nhờ sự giúp đỡ của một kính viễn vọng vô tuyến kích thước 27m của đài quan trắc vô tuyến quốc gia tại Green Bank (bang Virginia), các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu các tín hiệu vũ trụ tới từ khu vực hai vì sao Tau Ceti và Epsilon Eridani. Các nhà nghiên cứu lựa chọn khu vực này do cả hai sao trên có nhiều đặc điểm giống Mặt trời, nên về mặt lý thuyết có thể có các hệ thống hành tinh của riêng mình (kỹ thuật hồi những năm 60 chưa cho phép tìm kiếm các hành tinh nằm ngoài Thái dương hệ). Cuộc thử nghiệm Ozma đã không đem lại kết quả – các nhà khoa học đã không phát hiện ra bất cứ tín hiệu nào có khả năng có nguồn gốc nhân tạo.
Năm 1971, Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) đã quyết định cung cấp tiền cho các hoạt động nghiên cứu trong khuôn khổ dự án SETI. Vào thời điểm cuộc chạy đua vào vũ trụ nóng bỏng khi đó giữa Liên Xô và Mỹ, NASA tỏ rõ sự quan tâm đặc biệt đến việc tìm kiếm sự sống ngoài Trái đất. Cơ quan này còn xem xét nghiêm túc ý tưởng xây dựng một hệ thống khổng lồ bao gồm 1.500 kính viễn vọng vô tuyến để có thể phát hiện và nghiên cứu những tín hiệu đáng ngờ trong bán kính tới cả ngàn năm ánh sáng. Dự án đầy tham vọng có tên Cyclops này đã không bao giờ được triển khai vì những khó khăn về tài chính.
6 năm sau, SETI đã thu hút được đông đảo sự chú ý của công chúng nhờ việc phát hiện ra tín hiệu WOW (được gọi là WOW Signal). Những đặc tính của tín hiệu này – do kính viễn vọng “Big Ear” tại Đại học Tổng hợp Ohio thu được – được đánh giá nhiều khả năng có nguồn gốc nhân tạo. Các nhà khoa học đã cố gắng thu nhận một lần nữa tín hiệu này bằng “Big Ear” và sau đó bằng kính viễn vọng có độ nhạy cao hơn “Very Large Array”, nhưng tất cả mọi nỗ lực đều không đạt được kết quả nào. Nguồn gốc của tín hiệu bí ẩn trên cho tới giờ vẫn chưa được làm rõ. Ngay cả những người ủng hộ giả thuyết cho rằng, nhân loại không cô đơn trong vũ trụ cũng phải thừa nhận, tín hiệu WOW cũng không thể được coi như một bằng chứng xác đáng để chứng minh cho quan điểm của họ.
Những năm tiếp theo, ngân sách quốc gia Mỹ vẫn dành ra một số khoản để triển khai một số chương trình trong khuôn khổ dự án SETI. Nhưng đến năm 1994, Quốc hội Mỹ đã quyết định chấm dứt hoàn toàn việc cung cấp tài chính cho dự án. Bất chấp điều này, Viện Nghiên cứu SETI (được thành lập năm 1984) vẫn tiếp tục hoạt động. Các nhà khoa học tại viện này không chỉ có nhiệm vụ phân tích các tín hiệu từ vũ trụ mà còn đảm trách nhiều công việc khác như tìm kiếm các hành tinh ngoài Thái dương hệ, nghiên cứu khả năng tồn tại của sự sống trên sao Hỏa và nhiều hành tinh khác v.v…
Đến năm 1999, người Mỹ tiếp tục khởi động dự án SETI@Home nhằm thu hút đông đảo hàng ngàn người trên khắp thế giới tham gia vào việc phân tích các dữ liệu thu thập được từ hệ thống kính viễn vọng. Tiếp theo SETI@Home, còn có một vài dự án khác được triển khai như MilkyWay@Home (nhằm xây dựng hình ảnh 3 chiều các nhóm sao trong dải Ngân hà) và Einstein@Home (tập hợp những người tham gia tìm kiếm các loại sóng hấp dẫn). Cho tới giờ, SETI@Home vẫn chưa có được kết quả đáng kể nào, trong khi một số dự án khác cũng đã có một vài phát hiện.
Do hệ thống các kính viễn vọng của dự án Cyclops không được xây dựng, SETI trong suốt nhiều năm phải sử dụng các trang bị “không chuyên” – có nghĩa là các quan sát trong khuôn khổ dự án được tiến hành đồng thời tại các kính viễn vọng đang được sử dụng cho những nghiên cứu khác nhau. Điều này cũng có nghĩa là các tiến trình của dự án chắc chắn không thể được tiến hành theo đúng kế hoạch. Cuối cùng đến năm 2007, SETI cũng có được những trang thiết bị của riêng mình – một hệ thống 42 kính viễn vọng được lắp đặt tại đài quan sát thiên văn Hat Creek. Một phần không nhỏ kinh phí cho hệ thống này được lấy từ hầu bao của Paul Allen, một trong những nhà sáng lập ra hãng phần mềm Microsoft. Đó là lý do toàn bộ hệ thống được mang tên của ông. Tuy nhiên, toàn bộ hệ thống kính trên đã bị đưa vào trạng thái “ngủ chờ” từ ngày 22-3 vừa rồi.
Dấu chấm hết cho giấc mơ tìm kiếm nền văn minh ngoài Trái đất?
Giám đốc điều hành Viện SETI, Tom Pierson, là người đã chính thức thông báo tin buồn qua đường thư điện tử cho các nhà tài trợ dự án. Ông này giải thích rằng, để đảm bảo được hoạt động bình thường cho hệ thống kính viễn vọng, các nhà nghiên cứu phải cần ít nhất 5 triệu USD. Cần biết là chi phí chung cho việc xây dựng cả hệ thống trên đã là 50 triệu USD, trong đó có 30 triệu USD do Paul Allen cung cấp. Đây là số tiền tối thiểu để đảm bảo cho dự án tìm kiếm các tín hiệu có nguồn gốc nhân tạo tới từ các hành tinh ngoài Thái dương hệ.
Jill Tarter, Giám đốc Trung tâm tìm kiếm nền văn minh ngoài Trái đất thuộc Viện SETI đã tỏ ra rất tiếc nuối khi trả lời phỏng vấn tờ Mercury News về sự kiện này: “Điều trớ trêu đầy cay đắng là ở chỗ, ngay khi chúng ta vừa tìm ra nhiều hành tinh, chúng ta lại không có tiền để tìm kiếm các tín hiệu xuất phát từ chúng”. Thật ra, ngoài số tiền thiếu đã nêu trên, các nhà khoa học còn cần phải có thêm từ 2 đến 3 triệu USD nữa để SETI có thể duy trì tình trạng hoạt động của hệ thống kính viễn vọng Allen.
Cho tới giờ, việc đảm bảo cho hoạt động của hệ thống kính viễn vọng trong dự án SETI được triển khai với sự tài trợ đồng thời của một loạt các nhà đầu tư tư nhân, chính quyền bang California và Quĩ khoa học quốc gia Mỹ (NSF). Có điều nguồn tài chính từ NSF đã giảm tới 10 lần, trong khi số tiền tới từ ngân sách bang cũng giảm mạnh. Trong khi đó, dự án SETI ngày càng phải hứng chịu nhiều chỉ trích gay gắt từ ngay cộng đồng khoa học. Một số cho rằng, trong khi chưa phát hiện ra dấu vết đáng tin cậy nào về sự tồn tại của một nền văn minh ngoài Trái đất, việc vung tiền để tìm kiếm các tín hiệu từ chúng thật là quá phi lý. Một số chuyên gia khác đánh giá có phần công bằng hơn khi cho rằng, việc chưa bắt được tín hiệu từ công dân các hành tinh khác chẳng qua là do khoảng cách quá xa nên không thể liên lạc được. Dù thế nào, những người tâm huyết với dự án vẫn ra sức kêu gọi phải tiếp tục vì nhiều lý do. Thứ nhất, những kết quả của dự án không chỉ có lợi đối với việc tìm kiếm các nền văn minh ngoài Trái đất, mà còn có thể sử dụng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác. Thứ hai, SETI phần nào đã thể hiện được hiệu quả của mình qua mô hình huy động đông đảo các nhà nghiên cứu có tâm huyết trên khắp thế giới với nhiều hy vọng về một thành công không xa trong tương lai. Và cuối cùng, việc cả hệ thống kính viễn vọng Allen phải ngừng hoạt động chắc chắn được đánh giá là một sự kiện buồn, phá vỡ giấc mơ mà nhân loại từ bao năm qua vẫn theo đuổi.
Hồng Sơn (Tổng hợp)
http://www.petrotimes.vn/the-gioi-phang/2011/05/tim-kiem-nen-van-minh-ngoai-trai-dat-da-cham-het


Kế hoạch tìm kiếm các hành tinh giống với Trái Đát của NASA (nhưng vào năm 2007, nó không nhận được tiền tài trợ từ NASA mà nó cần nên nó đã bị hủy bỏ và thay thế nó là chương trình Kepler).Các nhà khoa học lập luận rằng bất kì một xã hội nào với công nghệ hiện đại trong vũ trụ cũng sẽ cần phải có sự trao đổi thông tin, liên lạc. Dự án SETI được xác định là một dự án bao gồm các cuộc tìm kiếm trong không gian bằng sóng radio mà sẽ xác định được nếu tồn tại sự sống hiện đại. Một đề xuất liên quan là người ngoài hành tinh có thể sẽ phát ra các xung động và các tín hiệu laser trong quang học kiểu quang phổ hồng ngoại;[5] các tín hiệu laser có lợi do không bị "bẩn" khi đi chuyển đi qua ranh giới giữa các hành tinh và đồng thời có thể có lợi hơn trong viêc truyền thông tin giữa các ngôi sao. Và các cách liên lạc khác bao gồm các tín hiệu laser và các chuyến bay giữa các vì sao đã được đưa ra thảo luận và tạo ra nhiều ý kiến tranh cãi gay gắt và dường như không thế làm được, đơn vị đo biểu thị tính hiệu quả của các cách trao đổi thông tin là số lượng thông tin được trao đổi thành công với một chi phí nhất định, kết quả là tín hiệu radio được chọn làm phương pháp thích hợp nhất.
Các hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời
Các nhà thiên văn học đồng thời cũng tìm kiếm sự sống trên các hành tinh ngoài Hệ Mặt Trời, họ tin rằng có thể có hành tinh có lợi cho sự sống phát triển, ví dụ như Gliese 581 c và OGLE-2005-BLG-390Lb, nơi mà được tìm thấy có dạng tương đối giống với Trái Đất.[6][7] Những phương pháp dò tìm bằng radio hiện nay đã không còn tương xứng với một cuộc tìm kiếm lớn, ví dụ như cách giải quyết với công nghệ gần đây đã không còn tương xứng với những gì chúng ta biết về các thiên thể ngoài thái dương hệ. Loại kính viễn vọng trong tương lai cần phải có khả năng cho việc nhìn các hành tinh quay xung quanh các ngôi sao, mà có thể có tồn tại sự sống (dù bằng phương pháp trực tiếp hay thông qua việc chụp ảnh bằng quang phổ giúp làm lộ ra các thông tin quan trọng như sự tồn tại của khí Ôxy trong khí quyển của hành tinh đó:
- Darwin là một kế hoạch của ESA tìm kiếm những hành tinh giống với Trái Đất, và phân tích khí quyển của chúng.
- Nhiệm vụ COROT, ban đầu thuộc về của Cơ quan vũ trụ Pháp, được bắt đầu vào năm 2006 và vẫn đang xem xét các hành tinh ngoài hệ mặt trời.
- Kế hoạch tìm kiếm các hành tinh giống Trái Đất được NASA tiến hành, nhưng đến năm 2007, ngân quĩ bị cắt đã khiến cho nó kéo dài vô tận
- Chương trình Kepler, thay thế cho Kế hoạch tìm kiếm các hành tinh giống Trái Đất, sẽ được diễn ra vào tháng mười một năm 2008
Có ý kiến cho rằng Alpha Centauri, chòm sao gần nhất đối với Trái Đất, có thể chứa những hành tinh có khả năng tồn tại sự sống.[8]
Vào ngày 24 tháng tư, năm 2007, các nhà khoa học thuộc đài thiên văn Nam Âu ở La Silla, Chile nói rằng họ đã tìm thấy hành tinh đầu tiên giống với Trái Đất. Hành tinh, được biết dưới cái tên Gliese 581 c, quay trong khoảng không cho phép tồn tại sự sống của ngôi sao Gliese 581, một sao lùn đỏ cách Trái Đất 20.5 Năm ánh sáng (194 ngàn tỉ km). Lúc đầu nó được cho rằng có thể có nước. Tuy nhiên, khí hậu trên Gliese 581 c đã được Weiner Volt Bloh và đội của anh mô phỏng trên máy tính tại Viện Nghiên cứu về sự ảnh hưởng khí hậu của Đức và cho kết quả là: các bon đi-ôxít và mêtan trong khí quyển của hành tinh này có thể tạo ra được hiệu ứng nhà kính nhưng sau đó sẽ bị biến mất. Nó sẽ làm hành tinh ấm lên, vượt quá cả mức để nước có thể sôi(100 độ C/ 212 độ F), chính vì vậy nó xóa tan đi hi vọng có thể tồn tại sự sống trên hành tinh này. Hiện giờ các nhà khoa học chuyển sang theo dõi Gliese 581 d, hành tinh mà chỉ nằm sát vùng có thể sống của một ngôi sao.[9]
Vào ngày 29 tháng năm năm 2007, the Associated Press công bố một bản bào cáo rằng các nhà khoa học đã tìm thấy 28 thiên thể dạng hành tinh ngoài hệ mặt trời. Một trong số các hành tinh mới được phát hiện này được cho rằng có rất nhiều điểm giống với sao Hải vương.[10]
Sự sống ngoài Trái Đất trong Hệ Mặt Trời
Nhiều thiên thể trong Hệ Mặt Trời được cho là dường như có sự sống. Trong danh sách dưới đây, ba trong số năm thiên thể là vệ tinh, và được cho là có chứa chất lỏng trong lòng đất, nơi mà sự sống có thể giống như dưới biển sâu.
- Sao Kim - hành tinh thứ hai tính từ Mặt Trời - Carbonyl sulfide, nền tảng cho sự sống vừa mới được tìm thấy trong khí quyển sao Kim.
- Sao Hỏa - hành tinh thứ tư tính từ Mặt Trời - có nước dạng lỏng tồn tại trong quá khứ và vẫn còn nước dạng lỏng ở dưới bề mặt. Gần đây, methane được tìm thấy trong khí quyển sao Hỏa. Xem bài chính: Người Hỏa tinh.
- Titan - vệ tinh lớn nhất của sao Thổ, vệ tinh duy nhất có một bầu khí quyển đáng chú ý. Các khám phá mới nhất chỉ ra rằng không có biển bao phủ trên đó nhưng có thể tồn tại các hồ hydradcarbon theo mùa.
- Europa - vệ tinh lớn thứ tư của sao Mộc - dường như có một biển muối dưới lớp vỏ băng mỏng. Nếu như vệ tinh này có sự sống, nhiều hy vọng có thể tìm thấy dạng sống tương tự như ở các miệng núi lửa trên Trái Đất. Hơn nữa, các nhà sinh học vũ trụ đang hy vọng tìm thấy dạng sống kỵ khí dưới vùng biển ở đây nhờ khuấy tung bề mặt băng của mặt trăng này.
- Enceladus - vệ tinh lớn thứ sáu của sao Thổ - đã quan sát thấy các hoạt động địa chất cùng với nước ở dạng lỏng và các mạch nước tại cực nam.
Nhiều thiên thể khác cũng được cho là có dấu hiệu sự sống dạng vi sinh vật. Ví dụ có giả thuyết cho là có sự sống trong khí quyển của sao Kim hay có thể tồn tại sự sống trên các sao chổi, giống như một vài loại vi trùng trên Trái Đất sống sót thành công theo như một cuộc nghiên cứu Mặt Trăng trong nhiều năm. Tuy vậy, không có nhiều hy vọng rằng sinh vật đa bào phức tạp có thể tồn tại được dưới các điều kiện đó.
[sửa] Đối đầu với sinh vật ngoài Trái Đất
Nếu như sinh vật có trí tuệ ngoài Trái Đất được tìm thấy và có thể liên lạc được với chúng, con người và chính phủ của mình phải xác định làm gì và làm thế nào với mối quan hệ đó. Quy tắc ứng xử khi đối đầu với sinh vật ngoài Trái Đất và vấn đề lãnh thổ trong đó đã được các tác giả Michael Salla và Alfred Webre phát triển.[cần dẫn nguồn] Xem liên lạc với nền văn minh ngoài Trái Đất.
Cũng có ý kiến cho rằng tốt nhất là không nên tìm kiếm hay giao tiếp với người ngoài hành tinh vì rất có thể sẽ ảnh hưởng đến sự tồn vong của nhân loại.[cần dẫn nguồn]
Chú thích
- ^ Spherix: Makers of Naturlose (tagatose), a natural, low-calorie sugar made from whey that may be useful as a treatment for Type 2 diabetes
- ^ Berger, Brian. “Độc nhất: Khẳng định của các nhà nghiên cứu NASA về bằng chứng của sự sống trên sao Hỏa”, 2005.
- ^ “NASA bác bỏ bản báo cáo vè sự sống trên sao Hỏa”, spacetoday.net, 2005.
- ^ Spotts, Peter N.. “Sea boosts hope of finding signs of life on Mars”, The Christian Science Monitor, 2005-02-28. Truy cập 18 tháng 12 năm 2006.
- ^ “Dự án tìm kiếm trí thông minh ngoài Trái Đất(SETI) bằng tín hiệu hông ngoại”. The Columbus Optical SETI Observatory.
- ^ http://planet.iap.fr/OB05390.news.html.
- ^ SPACE.com - Khám phá lớn: Hành tinh mới có thể có chứa nước và sự sống
- ^ 1997AJ 113.1445W Page 1445
- ^ Hi vọng vào cuộc sống ở một hành tinh xa - USATODAY.com
- ^ BBC NEWS | Science/Nature | Planet hunters spy distant haul
Liên kết ngoài
![]() | Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và tài liệu về: Sự sống ngoài Trái Đất |
Tiếng Việt:
- Video về sinh vật ngoài Trái Đất bị bắt tại Rostov (Nga)
- Phát hiện mới về sự sống ngoài Trái Đất
- Không có dấu hiệu của sự sống ngoài Trái Đất
- Người ngoài hành tinh là sản phẩm của ảo giác
Tiếng Anh:
- PBS: Life Beyond Earth a film by Timothy Ferris
- PBS: Exploring Space - The Quest for Life by Scott Pearson
- ufoskeptic.org by Bernard Haisch
- Xenopsychology by Robert A. Freitas Jr.
- "What Aliens Might Look Like" from National Geographic
- Sylvia Engdahl, "Early Space Poetry" Part I: Didactic and other poetry concerning other inhabited worlds, well-known and obscure poets, 17th-18th centuries. "Part II": 19th century
- Top stars picked in alien search
Có nhiều khám phá rải rác trên phạm vi toàn thế giới chứng tỏ từ thời xa xưa, trên hành tinh Trái Đất nhỏ bé của chúng ta đã từng tồn tại ít nhất một nền văn minh toàn cầu có trình độ kỹ thuật cao không kém gì so với nền khoa học kỹ thuật hiện đại của chúng ta ngày nay, thậm chí về một số mặt còn vượt trội hơn.
Bằng chứng đầu tiên: Điện đã từng được biết đến và sử dụng trong nhiều nền văn minh tiền sử.
Pin điện tiền sử.
Tại I Rắc: Năm 1936, trong các cuộc khai quật một ngôi làng cổ 2000 năm tuổi ở phía Đông Ai Cập vài trăm km, ngày nay thuộc I Rắc, những người công nhân đã khám phá ra những bình gốm nhỏ kỳ lạ. Những bình này có chứa các trụ đồng được ngâm trong một loại dung dịch đã đông đặc, gắn vào bình bằng nhựa đường, được định niên vào khoảng từ năm 248 trước công nguyên đến 226 sau công nguyên. Trong số này có một bình bằng đất nung cao 6 inch, màu vàng sáng có chứa một trụ đồng kích thước 5 inch chiều dài x 1,5 inch đường kính tiết diện. Ở giữa các trụ bằng đồng là một lõi thép cũng được gắn vào bằng keo nhựa đường.
Nhà khảo cổ học nổi tiếng người Đức Wilhelm Konig, đã kiểm tra mẫu vật và đưa ra một kết luận đáng ngạc nhiên : cái bình gốm này không có gì khác hơn chính là một pin điện thời tiền sử.

Pin điện tiền sử tại viện bảo tàng Bát Đa, cũng giống như những bình pin gốm khác được đào lên, tất cả đều được định niên từ năm 240 TCN đến năm 226 sau công nguyên trong thời chiếm đóng của đế chế Parthi. Tuy nhiên, tiến sĩ Konig còn phát hiện được những bình đồng mạ bạc khác trong viện bảo tàng Bát Đa, được khai quật từ những vùng đất cổ của người Sumer ở miền Nam I Rắc, qua giám định niên đại cho thấy ít nhất có từ 2500 năm trước công nguyên. Khi những cái bình này được dùi nhẹ vào, một lớp gỉ đồng tách ra từ bề mặt, có đặc điểm của một vật được mạ điện bạc lên một vật bằng đồng. Điều này làm ta không thể không nghĩ rằng những người Pathi đã thừa kế những Pin này từ nền văn minh Sumer, một trong những nền văn minh sớm nhất được biết đến.
Vào năm 1940, Willard F.M. Gray, một kỹ sư từ General Electric High Volatage Laboratory tại Pittsfield, Massachusetts, Mỹ, đã đọc những lý luận của Konig. Dùng những bản vẽ và các chi tiết được cung cấp bởi nhà khoa học hỏa tiễn người Đức Willy Ley, Gray đã làm ra một bản sao từ Pin này. Dùng dung dịch Đồng Sunphát, nó cho một dòng điện khoảng nửa Vôn.
Vào thập kỷ 70 thế kỷ trước, Nhà Ai Cập học người Đức, Arne Eggebrecht đã làm ra một bản sao của Pin Bát Đa và dùng dung dịch nước nho ép nguyên chất mà ông phỏng đoán những nhà khoa học tiền sử đã dùng. Bản sao này đã sinh ra dòng điện 0,87V. Ông đã dùng dòng điện này để mạ vàng cho một bức tượng bằng bạc. Thí nghiệm này đã chứng minh rằng những Pin điện đã được sử dụng khoảng 1800 năm trước khi viên Pin đầu tiên được phát minh bởi Alessandro Volta năm 1799.
Cũng dễ nhận thấy việc sử dụng những pin tương tự có thể đã được những người Ai Cập cổ đại biết đến, nơi mà vài mẫu vật với dấu vết mạ điện những kim loại quý được tìm thấy tại nhiều địa điểm khác nhau. Có vài khám phá dị thường từ nhiều vùng khác nhau, cho phép khẳng định điện đã được sử dụng trong một quy mô lớn.
Những hình chạm khắc tại Ai Cập 3000 năm trước





Gần đây, có một báo cáo TQ vừa khám phá những văn bản tiếng Phạn thượng cổ tại Tây Tạng và đã gửi chúng về trường đại học Chandrigarh ở Ấn Độ để dịch. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy những tài liệu này chứa những chỉ dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ.
Những bằng chứng thêm nữa cho thấy thứ được gọi là “Đế chế Rama” miền Bắc Ấn và Pakistan là cổ xưa hơn nhiều so với những gì họ từng nghĩ trước đây. Tàn dư của những thành phố tân kỳ vẫn được tìm thấy trong sa mạc Pakistan, và tại Bắc và Tây Ấn Độ. Theo những văn bản Ấn Độ cổ, Đế chế Rama có những thiết bị bay được gọi là “Vimana”. Có vô số văn bản về Vimana được miêu tả hết sức chi tiết. Những người Ấn Độ tiền sử đã viết toàn bộ các chỉ dẫn sổ tay và sách học về cách điều khiển nhiều loại Vimana khác nhau, nhiều sách trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay; một số đã được dịch sang Anh ngữ. Những loại Vimana khác nhau được miêu tả, một số thì hình đĩa, số khác thì hình điếu xì gà. Vimana có vẻ được cung cấp năng lượng bởi vài loại thiết bị phản trọng lực, khiến nó có thể cất cánh theo chiều thẳng đứng và bay lượn trong không gian.
Các chuyên gia Ai Cập học đều biết nhiều bí ẩn của Ai Cập thời thượng cổ là không thể giải thích được nếu sử dụng cái khung hạn hẹp của cách nghĩ truyền thống. Ví dụ họ hoàn toàn không thể giải thích thấu đáo làm thế nào các kim tự tháp được xây dựng nên, và làm thế nào nền văn minh Ai Cập thượng cổ xuất hiện một cách đột ngột với trình độ rất cao ngay từ thủa khai sinh? Nguyên nhân nào Kim tự tháp lớn Giza lại được xây dựng với công nghệ cao hơn nhiều so với các kim tự tháp nhỏ được xây dựng sau nó?
Có rất nhiều mẫu vật đáng tin cậy như những gì chúng ta đã thấy từ đầu thường không được một số “khoa học gia” và các “chuyên gia” để ý một cách đúng mực, họ cũng không khách quan nghiên cứu và tìm hiểu nghiêm túc, chính là bởi vì : nó quá trực quan, đối nghịch với thành kiến của họ, và nó không nằm lọt thỏm trong cái khung hạn hẹp của những “hiểu biết” mà họ được những đàn anh bơm vào não từ khi còn là học sinh tiểu học. Họ nghi ngờ và loại bỏ tất cả những gì không nằm trong cái khung ấy, cũng như cố gắng bằng mọi giá uốn ép những bằng chứng khách quan cho vừa vặn lọt vào cái khung, chứ không muốn cải biến chính cách tư duy sao cho toàn diện và khoa học hơn, cho phù hợp với thời đại và thực tiễn khách quan.
Hầu như tất cả chúng ta đều khẳng định 100% những hình chạm khắc trên thể hiện những chiếc trực thăng và những thiết bị bay công nghệ cao – nếu họ chưa biết chúng được tìm thấy ở đâu. Thú vị hơn nữa, là hình chạm khắc thượng cổ đó lại thể hiện như một chiếc trực thăng chiến đấu, một phương tiện chiến tranh.

Từ những tấm bản đồ cổ đại …
Bản đồ Piri Re’is
Vào năm 1929, một nhóm các nhà sử học đã tìm thấy một bản đồ kì lạ được vẽ trên da linh dương gazel. Nghiên cứu cho thấy đó là một bản đồ thật được vẽ vào năm 1513 bởi Piri Re’is, một đô đốc hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ thứ 16. Niềm yêu thích của ông ta là nghệ thuật vẽ bản đồ. Địa vị cao trong hàng ngũ hải quân Thổ khiến ông được phép tiếp cận với Thư viện Hoàng gia Côngstantinốp. Ông khẳng định rằng bản đồ mà ông biên soạn là sao chép lại dữ liệu từ nhiều bản đồ khác nhau, một vài trong số đó có giám định niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên.

Vào ngày 6/7/1960 Không lực Hoa Kỳ đã trả lời giáo sư Charles H. Hapgood của trường đại học Keene College một cách chính xác các thỉnh cầu của ông về việc thẩm định giá trị của bản đồ tiền sử Piri Re’is. Nội dung bức thư như sau:
6, July, 1960
Subject: Admiral Piri Reis Map
TO: Prof. Charles H. Hapgood
Keene College
Dear Professor Hapgood, Your request of evaluation of certain unusual features of the Piri Reis map of 1513 by this organization has been reviewed. The claim that the lower part of the map portrays the Princess Martha Coast of Queen Maud Land, Antarctic, and the Palmer Peninsular, is reasonable. We find that this is the most logical and in all probability the correct interpretation of the map. The geographical detail shown in the lower part of the map agrees very remarkably with the results of the seismic profile made across the top of the ice-cap by the Swedish-British Antarctic Expedition of 1949. This indicates the coastline had been mapped before it was covered by the ice-cap. The ice-cap in this region is now about a mile thick. We have no idea how the data on this map can be reconciled with the supposed state of geographical knowledge in 1513.
Harold Z. Ohlmeyer Lt. Colonel, USAF Commander.


Ngày nay người ta cho rằng nền văn minh sớm nhất của loài người, theo lịch sử truyền thống được dạy trong trường, đã phát triển tại Trung Đông vào khoảng năm 3000 trước công nguyên, không lâu sau là nền văn minh thung lũng Indus Ấn Độ, nền văn minh cổ Ai Cập và nền văn minh Hoàng Hà TQ. Vì thế, không có nền văn minh đã biết nào có thể làm công việc này. Ai đã ở đây 4000 năm TCN, để có thể làm những việc mà chúng ta đến tận bây giờ mới làm được với các công nghệ tối tân?
Piri Re’is có thể đã được tiếp cận với một số bản đồ như thế khi đến Thư viện của Alexandria, thư viện quan trọng nhất nổi tiếng trong thời kỳ cổ đại. Chiểu theo suy luận của Hapgood, những bản copy của những tài liệu này và một số trong những bản đồ gốc đã lưu chuyển đến những trung tâm nghiên cứu khác, và mang chúng tới Côngstantinốp. Thế là vào năm 1204, năm của lần Thập tự chinh thứ tư, khi những người Venetian xâm nhập Côngstantinốp, những bản đồ này bắt đầu quay vòng trong những thủy thủ Châu Âu.
Sự chính xác tuyệt đối của các bản đồ gốc mà Piri Re’is dựa vào có thể nhận thấy trên tấm bản đồ của ông. Những điểm không chính xác hiếm hoi của bản đồ Piri Re’is là các lỗi của chính Piri Re’is tự gây ra trong quá trình tổng hợp từ các bản đồ tiền sử, mà chủ yếu là : tổng hợp các bản đồ gốc không cùng một tỉ lệ, tổng hợp sai phương vị theo một góc quay lệch.
Vào năm 1953, một sỹ quan hải quân gửi tấm bản đồ Piri Re’is đến Thủy Cục Hải Quân Hoa Kỳ. Để giám định nó M.I. Walters, Kỹ sư trưởng của Cục, đã tham vấn Arlington H. Mallery, một chuyên gia lớn về các bản đồ cổ, người đã từng làm việc với ông ta. Sau một nghiên cứu dài hơi, Mallery đã khám phá ra phép chiếu đã được sử dụng trong bản đồ. Để kiểm tra mức độ chính xác của bản đồ, ông đã tạo ra một hệ lưới ô và dịch chuyển bản đồ của Piri Re’is vào quả cầu: bản đồ hoàn toàn chính xác. Ông phát biểu rằng cách duy nhất để vẽ nên một tấm bản đồ chính xác đến thế chỉ có thể là ở góc nhìn từ trên cao, nhưng ai, 6000 năm trước, có thể có máy bay để mà vẽ bản đồ Trái Đất ??
Thủy Cục Hải quân không thể tin nổi vào mắt mình: họ đã, thậm chí có thể sửa lại những lỗi sai trong cái bản đồ hiện đại mà họ đang dùng lúc đó !!
Độ chính xác dựa trên sự kiểm tra tọa độ kinh độ, mặt khác, cho thấy để vẽ được bản đồ cần thiết phải dùng phương pháp Lượng giác hình Cầu, một thành tựu chưa được phát minh cho đến giữa thế kỷ 18.
Hapgood đã chứng minh rằng bản đồ Piri Re’is là được vẽ trong hình học phẳng, chứa các kinh và vĩ độ vuông góc trong một “lưới ô” truyền thống; bởi thế nó đã được sao lại từ một bản đồ trước mà đã được chiếu ra sử dụng phép lượng giác hình cầu! Không chỉ rằng những người làm ra cái bản đồ gốc đó biết rằng quả đất hình cầu, mà họ còn có kiến thức về chu vi Trái Đất với sai số nhỏ hơn 50 dặm!
Hapgood đã gửi bộ sưu tập những bản đồ cổ (chúng ta có thể thấy bản đồ Piri Re’is không phải là bản đồ duy nhất như thế …) đến Richard Strachan, tại Học viện Công nghệ Massachusetts. Ông muốn biết chính xác cấp độ toán học cần thiết để vẽ nên các bản đồ gốc cao đến đâu. Strachan đã trả lời năm 1965 rằng, cấp độ đó phải rất cao. Thực tế Strachan đã nói để vẽ những tấm bản đồ như thế, các phương pháp hình chiếu, kiến thức cần thiết là của một cấp độ cực cao.
Xem bản đồ Piri Re’is với các kinh và vĩ độ được chiếu ra:
• Bản đồ thứ 1
• Bản đồ thứ 2
Cái cách mà bản đồ Piri Re’is thể hiện Queen Maud Land, các đường bờ biển của nó, các con sông, dãy núi, các sa mạc, các vịnh, có thể được xác nhận bởi một nhóm thám hiểm Anh – Thụy Điển đến Nam Cực (như đã nói bởi Olhmeyer trong thư gửi Hapgood); những nhà nghiên cứu, dùng các thiết bị sonar và sóng địa chấn, đã khẳng định những vịnh và sông, vv … là đang nằm dưới chỏm băng dày khoảng 1 dặm.
Charles Hapgood, vào năm 1953, đã viết một cuốn sách tựa đề "Earth's shifting crust: a key to some basic problems of earth science" – “Sự dịch chuyển vỏ Trái Đất: chìa khóa cho những vấn đề cơ bản của khoa học về Trái Đất”, ở đây ông đã xây dựng một thuyết để giải thích làm thế nào lục địa Nam Cực có thể Không Băng cho đến 4000 năm TCN. Bạn đọc quan tâm đến nội dung của thuyết này có thể xem thêm tại đây.
Thuyết này có các luận điểm chính như sau:
1. Nguyên nhân Nam Cực không có băng phủ, và vì thế ấm hơn nhiều, là vào một thời kỳ quá khứ xa xôi, địa điểm của nó không phải nằm ở vị trí hiện nay trên vỏ Trái Đất. Nó ngày xưa nằm tại vị trí khoảng 2000 dặm về phía Bắc so với hiện tại. Hapgood nói rằng “có thể đặt nó ra ngoài vòng Nam Cực trong một khí hậu ôn hòa hoặc tương đối lạnh”. Đọc thêm về thuyết Trái Đất đổi trục tại đây.
2. Nguyên nhân lục địa này di chuyển xuống đến địa điểm như ngày nay có thể được tìm thấy trong một cơ chế gọi là “sự trượt vỏ Trái Đất”. Cơ chế này, không nên nhầm lẫn với thuyết về kiến tạo mảng hoặc là sự trượt lục địa, là một thứ nhờ đó mà quyển đá, toàn thể vỏ ngoài của trái đất “có thể dịch chuyển theo thời kỳ, dịch chuyển trượt qua phần dẻo hơn bên trong, giống như là da của một trái cam, nếu nó lỏng lẻo, có thể dịch chuyển trên phần bên trong của quả cam toàn thể đồng thời”. (Charles Hapgood, trích dẫn trong sách "Maps of the ancient sea-kings", Bạn có thể vào đây để tìm thêm thông tin).
Thuyết này đã được gửi cho Albert Einstein, và ông rất hứng thú nhiệt tình trả lời một cách nhanh chóng. Mặc dù các nhà địa chất dường như không chấp nhận thuyết của Hapgood, Einstein có vẻ còn cởi mở phóng khoáng hơn cả Hapgood khi phát biểu:
“Trong một vùng địa cực có một sự tan rã dần dần của băng tuyết, không được phân phối đồng đều xung quanh cực. Sự xoay chuyển của Trái Đất dựa trên những khối lượng bất đối xứng, và gây ra một xung lượng ly tâm truyền đến lớp vỏ cứng của Trái Đất. Sự tăng dần đều của xung lượng bất đối xứng được sản sinh ra khi đến một điểm giới hạn nào đó, sẽ gây ra một chuyển động của lớp vỏ cứng Trái Đất phía trên phần bên trong của nó”.
Lời dẫn của Einstein cho cuốn sách “Sự dịch chuyển lớp vỏ cứng của Trái Đất”, trang 1
"In a polar region there is a continual deposition of ice, which is not symmetrically distributed about the pole. The earth's rotation acts on these unsymmetrically deposited masses, and produces a centrifugal momentum that is transmitted to the rigid crust of the earth. The constantly increasing centrifugal momentum produced in this way will, when it has reached a certain point, produce a movement of the earth's crust over the rest of the earth's body...." (Einstein's foreword to "Earth's shifting crust" p.1)
Dù sao, dẫu Hapgood đúng, bí ẩn vẫn nhiều.
Và tấm bản đồ Piri Re’is chỉ là một trong nhiều bản đồ thể hiện những vùng đất chưa được biết đến, những kiến thức không thể tin nổi, với độ chính xác mà ngày nay chúng ta cũng phải kinh ngạc.

Và đáng kinh ngạc hơn là “Zeno's chart”, “Bản đồ của Zeno”, vẽ năm 1380. Nó cho thấy một vùng rộng lớn ở phía Bắc, chạy dọc đến Greenland; độ chính xác của nó gây sửng sốt. Một bản đồ gây sửng sốt nữa được vẽ bởi Hadji Ahmed người Thổ Nhĩ Kỳ, vào năm 1559, trong đó ông thể hiện một dải đất liền khoảng 1600km chiều rộng, nối liền Alaska và Siberia. Giống như một cây cầu tự nhiên từng tồn tại, đã bị bao phủ bởi nước vào cuối kỷ Băng Hà vừa rồi khi mực nước biển tăng lên.
Như ta đã thấy, nhiều bản đồ là thuộc về những thời kỳ rất cổ xưa, và ta có thể nói rằng toàn thể hành tinh đều đã được vẽ trên bản đồ vào thời đó. Chúng dường như là những mảnh nhỏ của một tấm bản đồ thế giới cổ đại, được vẽ bởi những người bí ẩn sở hữu những công nghệ rất cao ngay cả so với ngày nay.
Khi toàn thể loài người có lẽ còn sống trong thời kỳ hoang sơ thì ai đó đã “vẽ ra giấy” toàn bộ bề mặt địa lý của hành tinh. Và nó là một kiến thức phổ biến, bằng một cách nào đó bị chia cắt thành nhiều mẩu nhỏ để rồi lại được tập hợp đây đó bởi một vài người, và họ chỉ sao chép những gì họ có thể tìm thấy trong các thư viện, các khu chợ Đông Phương và bất cứ nơi nào họ tìm thấy chúng.
Như chúng ta có thể thấy bên dưới, một phép chiếu góc cực (nhìn Địa Cầu từ một điểm trên cao), từ một điểm bên trên Cairo, Ai Cập thuộc châu Phi cho thấy tấm bản đồ của Piri Re’is
Vào Năm 1956, "máy bay vàng" từng được trưng bày trong Triển lãm Pre-Columbian Gold, ở New York (Mỹ). Đôi cánh hình tam giác và phần đuôi lớn hướng theo phương thẳng đứng của những vật trưng bày đó khiến các nhà thiết kế máy bay Mỹ chú ý. Họ đã thử các "máy bay" cổ đại đó trong một đường ống gió. Hoá ra có một kiểu "máy bay vàng" có thể lướt với tốc độ siêu âm. Mẫu "máy bay" cổ đại này đã giúp hãng Lockheed chế tạo được loại máy bay siêu âm tốt nhất thế giới hồi đó.

Những bí ẩn đáng kinh ngạc về một nền văn minh ngoài trái đất.
Thứ sáu, 19/11/2010 14:21
Những tiết lộ "giật mình" về người ngoài hành tinh
Người ngoài hành tinh có thật và đã liên lạc với con người trên trái đất. Đây là khẳng định của ông Edgar Mitchell, cựu phi hành gia hàng đầu của NASA và là người đàn ông thứ 6 đặt chân lên mặt trăng.
Cựu phi hành gia NASA Edgar Mitchell.
Mitchell, 77 tuổi, người đặt chân lên mặt trăng trên con tàu Apollo 14 năm 1971, đã ra đưa ra những khẳng định gây sốc trên trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh Kerrang! nổi tiếng tại Anh.
Cũng theo lời Mitchell, người ngoài hành tinh là có thật nhưng đã bị các chính phủ Mỹ che giấu suốt hơn 60 năm qua. Mitchell nói ông đang phơi bày một âm mưu nhằm giữ kín người ngoài hành tinh như một bí mật.
Cựu phi hành gia của NASA cho hay ông đã biết về nhiều chuyến viếng thăm của UFO tới trái đất trong suốt những năm ông làm việc tại NASA nhưng tất cả các vụ việc đều bị che đậy.
Người đàn ông 77 tuổi khẳng định NASA đã liên lạc với những người ngoài hành tinh, miêu tả họ "là những con người bé nhỏ nhìn chúng tôi một cách lạ lẫm".
Theo miêu tả của ông Mitchell, người ngoài
hành tinh có dáng người bé nhỏ, mắt và đầu to.
Ông Mitchell nói rằng người ngoài hành tinh có dáng dấp đúng như những gì mà các nhà sản xuất phim tưởng tượng: thân hình bé nhỏ, mắt và đầu to.
"Không có gì nghi ngờ khi nói rằng cuộc sống tồn tại trên khắp vũ trụ. Chúng ta không đơn độc. Tôi có thể khẳng định điều đó".
"Liệu chúng ta có thể xác định những hành tinh đó ở đâu? Không, tất nhiên là không trong Hệ mặt trời. Nhưng chúng ta có thể xác định một số hành tinh tồn tại sự sống".
Theo lời Mitchell, công nghệ của con người không tinh vi bằng công nghệ của người ngoài hành tinh, và rằng con người có thể không còn trên trái đất nếu bị người ngoài hành tinh căm ghét. "Họ không có hại và không thù địch với con người".
Ông Mitchell, cùng với chỉ huy tàu Apollo 14 Alan Shepard, hiện đang giữ kỷ lục cuộc đi bộ dài nhất trên mặt trăng với thời gian 9 giờ, 17 phút vào năm 1971.
Trong cuộc phỏng vấn, ông nói: "Người ngoài hành tinh đã ghé thăm trái đất và hiện tượng UFO là có thật... Chuyện đó đã bị giấu kín bởi tất cả các chính phủ trong 60 năm qua, nhưng dần dần nó đã bị rò rỉ".
Edgar Dean Mitchell trở thành phi công năm 1966 và sau đó được chuyển từ Hải quân Mỹ sang NASA. Ông đã gắn bó với NASA cho tới khi về hưu năm 1972, một năm sau khi đặt chân lên mặt trăng trên con tàu Apollo 14.
"Tôi nằm trong số các quan chức bình báo và quân đội biết sự thật đằng sau những gì công chúng biết, đó là trái đất đã được ngoài hành tinh ghé thăm. Đọc báo thời gian gần đây, tôi thấy chuyện đó đã xảy ra khá nhiều".
"Đây mới là sự khởi đầu trong quá trình công khai mọi chuyện. Tôi nghĩ chúng ta đang tiến tới việc mở tấm rèm bí mật và một số tổ chức nghiêm túc đang hướng tới điều này".
Mitchell có bằng kỹ sư hàng không và là tiến sĩ khoa học về hàng không và du hành vũ trụ. Ông khẳng định đĩa bay Roswell "đổ bộ" trái đất năm 1947 là có thật và những chuyến viếng thăm tương tự của người ngoài hành tinh sẽ tiếp tục được điều tra.
Cơ quan hàng không vũ trụ Mỹ NASA đã ra tuyên bố nói rằng họ không đồng tình với những bình luận của Mitchell.
Các quan chức của NASA cho biết họ không theo dõi các UFO và không liên quan tới việc giấu giếm sự thật. Một phát ngôn viên nói thêm: "Tiến sĩ Mitchell là một người Mỹ vĩ đại, nhưng chúng tôi không có cùng quan điểm với ông về vấn đề này".
bí ẩn nữa của đảo Phục Sinh,
Được xem là một điều bí ẩn nữa của đảo Phục Sinh, Rongorongo là tên của bản thảo viết bằng chữ tượng hình do những cư dân đầu tiên của đảo viết ra.
ảnh minh họa
Bản thảo Rongorongo
Rongorongo xuất hiện một cách đầy bí ẩn vào vào những năm 1700 trong khi cư dân những vùng đảo lân cận còn chưa có chữ viết. Ngôn ngữ này đã biến mất từ lâu khiến cho việc giải mã bản thảo trở nên vô vọng. Thực dân châu Âu cấm đoán ngôn ngữ này vì nguồn gốc ngoại giáo của người dân trên đảo.
Thành phố Helike biến mất như thế nào?
Nhà văn Hy Lạp Pausanias đã miêu tả lại cảnh tượng trận động đất kinh hoàng đã phá hủy thành phố Helike trong một đêm, kéo theo một cơn sóng thần khủng khiếp nhấn chìm tất cả những gì còn sót lại của thủ phủ phồn thịnh một thời.
Thủ đô của các nước liên minh vùng Achaean này là trung tâm thờ phụng thần biển cả Poseidon. Ngoài các văn tự Hy Lạp cổ, không có dấu hiệu gì cho thấy thành phố này đã từng tồn tại cho đến khi một nhà khảo cổ phát hiện đồng tiền Helike có chạm khắc hình đầu thần Poisedon.
Năm 2001, hai nhà khảo cổ đã xác định được vị trí của thành phố Helike bên dưới một lớp bùn và sỏi. Công tác khai quật đang được tiến hành và các nhà khoa học hy vọng sẽ tìm hiểu được quá trình lớn mạnh và diệt vong của thành phố được một số người xem là thành phố Atlantis trong huyền thoại.
Xác ướp đầm lầy
Cho đến nay đã có hàng trăm xác ướp – chủ yếu từ thời đồ sắt – được phát hiện ở vùng đầm lầy phía bắc châu Âu. Phần nhiều các xác ướp được bảo quản rất tốt có niên đại đến 2000 năm và mang dấu vết của việc bị tra tấn và bạo lực. Những vết tích đáng sợ này khiến các nhà khoa học phải đặt giả thiết rằng họ là nạn nhân của một nghi thức cúng tế của người xưa.
Sự sụp đổ của Đế chế Minoan
Trong khi các sử gia ngày càng khám phá thêm nhiều nguyên nhân khiến Đế chế La Mã sụp đổ thì bí ẩn vẫn bao trùm lên sự biến mất của Đế chế Minoan. Cách đây khoảng 3.500 năm, một trận động đất xảy ra trên đảo Thera đã cuốn đi tất cả sự sống trên đảo Crete, nơi xuất phát câu chuyện về một vị vua và con quái vật đã ăn thịt ông ta. Những tấm bảng đất sét do các nhà khảo cổ phát hiện ra lại cho thấy đế chế này vẫn còn tồn tại sau đó khoảng 50 năm trước khi biến mất hoàn toàn. Các giả thiết về sự sụp đổ bao gồm một lớp tro núi lửa làm mùa màng thất bát hoặc họ đã bị quân Hy Lạp chiếm quyền.
Các cột đá Carnac
Công trình đá Stonehenge ở Anh vẫn còn là bí ẩn đối với các nhà khoa học nhưng công trình Carnac tại bờ biển Brittany đông bắc Pháp có lẽ còn gây tò mò hơn nữa.
Hơn 3.000 cột đá cự thạch được sắp xếp thành một đường hoàn hảo trải dài hơn 12 km. Truyền thuyết địa phương kể rằng những cột đá này là một quân đoàn La Mã bị pháp sư Merlin hóa đá. Một nhà khoa học nghiên cứu công trình hơn 30 năm lại giả thiết rằng những cột đá này là một công cụ dự báo động đất. Nhân dạng của những người thuộc thời kỳ đồ đá mới xây dựng công trình này hiện vẫn còn nằm trong vòng bí ẩn.
Robin Hood là ai?
Các sử gia vẫn tiếp tục tìm kiếm nhân vật Robin Hood huyền thoại, một hiệp sĩ rừng xanh cướp của người giàu chia cho dân nghèo và danh sách những người tình nghi xuất hiện khá nhiều tên tuổi. Trong số đó bao gồm một người chạy trốn đến Yorkshire tên Robert Hod, Hobbehod và một Robert Hood vùng Wakefield. Việc lọc ra những cái tên trở nên ngày càng phức tạp vì "Robin Hood" mang nghĩa người sống ngoài vòng pháp luật như trong trường hợp của William Le Fevre. Người này sau đó đổi họ thành RobeHod, theo như những ghi chép của tòa án. Cuộc tìm kiếm nhân vật huyền thoại này trở nên khó khăn hơn vì về sau những người kể chuyện lại thêu dệt thêm nhiều nhân vật câu chuyện, ví dụ như Hoàng tử John và Richard Dũng Mãnh.
Sự mất tích của một binh đoàn La Mã
Sau khi một đội quân La Mã kém cỏi của tướng Crassus bị quân Parthians đánh bại, người ta cho rằng một nhóm nhỏ tù binh chiến tranh đã lang thang qua sa mạc và cuối cùng gia nhập vào quân đội của 17 năm sau. Sử gia Ban Gu sống ở Trung Quốc thế kỷ thứ nhất có ghi lại một trận đối đầu với đội quân lạ lùng chiến đấu theo đội hình vảy cá, một nét đặc trưng của quân đội La Mã.
Một sử gia thuộc Đại học Oxford so sánh các tài liệu cổ và cho rằng tàn quân La Mã đã xây dựng một thị trấn nhỏ tên Liqian gần sa mạc Gobi (cách viết của từ "La Mã" theo tiếng Trung). Các nhà khoa học đang tiến hành thử nghiệm DNA đế chứng minh cho giả thiết trên và để giải thích một số đặc điểm của hậu duệ hiện nay: mắt màu lục, tóc vàng và thú vui đấu bò.
Bản thảo Voynich
Bản thảo viết tay Voynich có lẽ là quyển sách khó đọc nhất trên thế giới. Di vật 500 tuổi này được phát hiện vào năm 1912 ở một thư viện ở Rome, bao gồm 240 trang chữ viết và tranh minh họa hoàn toàn xa lạ. Các nhà mật mã đã ra sức giải mã chữ viết lạ lùng này nhưng chưa ai thành công. Thậm chí một số người còn cho đây chỉ là một trò đùa của người xưa. Tuy nhiên, phân tích quyển sách cho thấy bản viết tay này dường như tuân theo các cấu trúc và quy luật của một ngôn ngữ thật sự.
Xác ướp hồ Tarim
Trong một cuộc khai quật bên dưới lưu vực Tarim phía tây Trung Quốc, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra hơn 100 xác ướp có tuổi thọ hơn 2000 năm. Victor Mair, một giáo sư đại học đã hết sức ngạc nhiên khi đối mặt với các xác ướp tóc vàng, mũi dài trong một cuộc trưng bày ở viện bảo tàng đến nỗi năm 1993 ông đã quay lại để thu thập các mẫu DNA.
Xét nghiệm DNA đã củng cố giả thiết của ông là các xác ướp này mang bộ gien của người châu Âu. Văn tịch cổ Trung Quốc thuộc thế kỷ thứ I trước Công nguyên có đề cập đến những nhóm người định cư da trắng được gọi là Bai, Yeuzhi và Tocharians. Tuy nhiên, vẫn chưa có lời giải thích nào về nguyên nhân tại sao những người này lại xuất hiện ở đây.
Sự biến mất của nền văn minh Thung lũng Indus
Nền văn minh Thung lũng Indus trải dài từ Tây Ấn đến Afghanistan và dân số lên đến 5 triệu người. Đây là nền văn minh lâu đời nhất được biết đến của Ấn Độ. Cho đến tận năm 1922, ông John Marshall khai quật thành phố đã phát hiện ra một nền văn hóa cực kỳ "vệ sinh". Có hệ thống thoát nước cực kỳ phức tạp và những bồn tằm được thiết kế hoàn hảo. Điều kỳ lạ là không có bằng chứng khảo cổ cho thấy sự tồn tại của quân đội, nhà vua, nô lệ, mâu thuẫn xã hội hoặc các tệ nạn phổ biến thời cổ đại.
http://blog.yume.vn/xem-blog/nhung-bi-an-dang-kinh-ngac-ve-mot-nen-van-minh-ngoai-trai-dat-.wait4loving.35D09940.html
Bắt đầu từ ngày 27-4 vừa qua, hệ thống kính thiên văn vô tuyến Allen "có nhiệm vụ tìm kiếm những tín hiệu phát ra từ các nền văn minh ngoài Trái đất" đã chính thức ngừng hoạt động.
Thế là nỗ lực tìm kiếm thông tin về những thế giới mới ngoài Trái đất trong khuôn khổ dự án SETI đã chính thức bị đóng lại sau nhiều năm bị chỉ trích là không hiệu quả và vô nghĩa. Dù sao, dự án SETI vẫn được coi là một bước đi cụ thể đầu tiên hiện thực hóa giấc mơ lâu nay của nhân loại nhằm tìm kiếm trí tuệ nằm ngoài Trái đất…
Một lịch sử lâu dài
Dự án SETI (Search for Extra-Terrestrial Intelligence – có nghĩa là Tìm kiếm trí tuệ ngoài Trái đất) được Mỹ triển khai với mục đích tìm kiếm những tín hiệu không mang tính ngẫu nhiên đến từ vũ trụ. Những tín hiệu kiểu này được xác định trước rất có thể xuất phát từ những cơ cấu không phải do tự nhiên sinh ra. Cần biết rằng, bản thân vũ trụ cũng có những nguồn “phi trí tuệ” liên tục phát đi những tín hiệu thường xuyên như các pulsar (còn gọi là các ẩn tinh).
Những người tham gia dự án SETI có nhiệm vụ liên tục theo dõi và phân tích các tín hiệu tới từ vũ trụ bao la trong các dải sóng vô tuyến. Trên thực tế, ý tưởng nghiên cứu những tín hiệu trên có thể cho phép phát hiện ra các nền văn minh ngoài Trái đất đã xuất hiện từ thế kỷ XIX. Cuộc thử nghiệm đầu tiên – được coi là “ông tổ” của chương trình SETI – được tiến hành vào năm 1960 dưới sự lãnh đạo của nhà thiên văn học Frank Drake từ Đại học Tổng hợp Cornell, người đã nghiên cứu ra phương trình nổi tiếng Drake giúp đánh giá xác xuất phát hiện các nền văn minh khác tùy thuộc vào một vài tham số.
Drake và các đồng nghiệp đã gọi cuộc thử nghiệm của mình là “Ozma”, theo tên gọi vị nữ hoàng của đất nước Oz trong loạt truyện viễn tưởng của Frank Baum. Nhờ sự giúp đỡ của một kính viễn vọng vô tuyến kích thước 27m của đài quan trắc vô tuyến quốc gia tại Green Bank (bang Virginia), các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu các tín hiệu vũ trụ tới từ khu vực hai vì sao Tau Ceti và Epsilon Eridani. Các nhà nghiên cứu lựa chọn khu vực này do cả hai sao trên có nhiều đặc điểm giống Mặt trời, nên về mặt lý thuyết có thể có các hệ thống hành tinh của riêng mình (kỹ thuật hồi những năm 60 chưa cho phép tìm kiếm các hành tinh nằm ngoài Thái dương hệ). Cuộc thử nghiệm Ozma đã không đem lại kết quả – các nhà khoa học đã không phát hiện ra bất cứ tín hiệu nào có khả năng có nguồn gốc nhân tạo.
Năm 1971, Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) đã quyết định cung cấp tiền cho các hoạt động nghiên cứu trong khuôn khổ dự án SETI. Vào thời điểm cuộc chạy đua vào vũ trụ nóng bỏng khi đó giữa Liên Xô và Mỹ, NASA tỏ rõ sự quan tâm đặc biệt đến việc tìm kiếm sự sống ngoài Trái đất. Cơ quan này còn xem xét nghiêm túc ý tưởng xây dựng một hệ thống khổng lồ bao gồm 1.500 kính viễn vọng vô tuyến để có thể phát hiện và nghiên cứu những tín hiệu đáng ngờ trong bán kính tới cả ngàn năm ánh sáng. Dự án đầy tham vọng có tên Cyclops này đã không bao giờ được triển khai vì những khó khăn về tài chính.
6 năm sau, SETI đã thu hút được đông đảo sự chú ý của công chúng nhờ việc phát hiện ra tín hiệu WOW (được gọi là WOW Signal). Những đặc tính của tín hiệu này – do kính viễn vọng “Big Ear” tại Đại học Tổng hợp Ohio thu được – được đánh giá nhiều khả năng có nguồn gốc nhân tạo. Các nhà khoa học đã cố gắng thu nhận một lần nữa tín hiệu này bằng “Big Ear” và sau đó bằng kính viễn vọng có độ nhạy cao hơn “Very Large Array”, nhưng tất cả mọi nỗ lực đều không đạt được kết quả nào. Nguồn gốc của tín hiệu bí ẩn trên cho tới giờ vẫn chưa được làm rõ. Ngay cả những người ủng hộ giả thuyết cho rằng, nhân loại không cô đơn trong vũ trụ cũng phải thừa nhận, tín hiệu WOW cũng không thể được coi như một bằng chứng xác đáng để chứng minh cho quan điểm của họ.
Những năm tiếp theo, ngân sách quốc gia Mỹ vẫn dành ra một số khoản để triển khai một số chương trình trong khuôn khổ dự án SETI. Nhưng đến năm 1994, Quốc hội Mỹ đã quyết định chấm dứt hoàn toàn việc cung cấp tài chính cho dự án. Bất chấp điều này, Viện Nghiên cứu SETI (được thành lập năm 1984) vẫn tiếp tục hoạt động. Các nhà khoa học tại viện này không chỉ có nhiệm vụ phân tích các tín hiệu từ vũ trụ mà còn đảm trách nhiều công việc khác như tìm kiếm các hành tinh ngoài Thái dương hệ, nghiên cứu khả năng tồn tại của sự sống trên sao Hỏa và nhiều hành tinh khác v.v…
Đến năm 1999, người Mỹ tiếp tục khởi động dự án SETI@Home nhằm thu hút đông đảo hàng ngàn người trên khắp thế giới tham gia vào việc phân tích các dữ liệu thu thập được từ hệ thống kính viễn vọng. Tiếp theo SETI@Home, còn có một vài dự án khác được triển khai như MilkyWay@Home (nhằm xây dựng hình ảnh 3 chiều các nhóm sao trong dải Ngân hà) và Einstein@Home (tập hợp những người tham gia tìm kiếm các loại sóng hấp dẫn). Cho tới giờ, SETI@Home vẫn chưa có được kết quả đáng kể nào, trong khi một số dự án khác cũng đã có một vài phát hiện.
Do hệ thống các kính viễn vọng của dự án Cyclops không được xây dựng, SETI trong suốt nhiều năm phải sử dụng các trang bị “không chuyên” – có nghĩa là các quan sát trong khuôn khổ dự án được tiến hành đồng thời tại các kính viễn vọng đang được sử dụng cho những nghiên cứu khác nhau. Điều này cũng có nghĩa là các tiến trình của dự án chắc chắn không thể được tiến hành theo đúng kế hoạch. Cuối cùng đến năm 2007, SETI cũng có được những trang thiết bị của riêng mình – một hệ thống 42 kính viễn vọng được lắp đặt tại đài quan sát thiên văn Hat Creek. Một phần không nhỏ kinh phí cho hệ thống này được lấy từ hầu bao của Paul Allen, một trong những nhà sáng lập ra hãng phần mềm Microsoft. Đó là lý do toàn bộ hệ thống được mang tên của ông. Tuy nhiên, toàn bộ hệ thống kính trên đã bị đưa vào trạng thái “ngủ chờ” từ ngày 22-3 vừa rồi.
Dấu chấm hết cho giấc mơ tìm kiếm nền văn minh ngoài Trái đất?
Giám đốc điều hành Viện SETI, Tom Pierson, là người đã chính thức thông báo tin buồn qua đường thư điện tử cho các nhà tài trợ dự án. Ông này giải thích rằng, để đảm bảo được hoạt động bình thường cho hệ thống kính viễn vọng, các nhà nghiên cứu phải cần ít nhất 5 triệu USD. Cần biết là chi phí chung cho việc xây dựng cả hệ thống trên đã là 50 triệu USD, trong đó có 30 triệu USD do Paul Allen cung cấp. Đây là số tiền tối thiểu để đảm bảo cho dự án tìm kiếm các tín hiệu có nguồn gốc nhân tạo tới từ các hành tinh ngoài Thái dương hệ.
Jill Tarter, Giám đốc Trung tâm tìm kiếm nền văn minh ngoài Trái đất thuộc Viện SETI đã tỏ ra rất tiếc nuối khi trả lời phỏng vấn tờ Mercury News về sự kiện này: “Điều trớ trêu đầy cay đắng là ở chỗ, ngay khi chúng ta vừa tìm ra nhiều hành tinh, chúng ta lại không có tiền để tìm kiếm các tín hiệu xuất phát từ chúng”. Thật ra, ngoài số tiền thiếu đã nêu trên, các nhà khoa học còn cần phải có thêm từ 2 đến 3 triệu USD nữa để SETI có thể duy trì tình trạng hoạt động của hệ thống kính viễn vọng Allen.
Cho tới giờ, việc đảm bảo cho hoạt động của hệ thống kính viễn vọng trong dự án SETI được triển khai với sự tài trợ đồng thời của một loạt các nhà đầu tư tư nhân, chính quyền bang California và Quĩ khoa học quốc gia Mỹ (NSF). Có điều nguồn tài chính từ NSF đã giảm tới 10 lần, trong khi số tiền tới từ ngân sách bang cũng giảm mạnh. Trong khi đó, dự án SETI ngày càng phải hứng chịu nhiều chỉ trích gay gắt từ ngay cộng đồng khoa học. Một số cho rằng, trong khi chưa phát hiện ra dấu vết đáng tin cậy nào về sự tồn tại của một nền văn minh ngoài Trái đất, việc vung tiền để tìm kiếm các tín hiệu từ chúng thật là quá phi lý. Một số chuyên gia khác đánh giá có phần công bằng hơn khi cho rằng, việc chưa bắt được tín hiệu từ công dân các hành tinh khác chẳng qua là do khoảng cách quá xa nên không thể liên lạc được. Dù thế nào, những người tâm huyết với dự án vẫn ra sức kêu gọi phải tiếp tục vì nhiều lý do. Thứ nhất, những kết quả của dự án không chỉ có lợi đối với việc tìm kiếm các nền văn minh ngoài Trái đất, mà còn có thể sử dụng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khác. Thứ hai, SETI phần nào đã thể hiện được hiệu quả của mình qua mô hình huy động đông đảo các nhà nghiên cứu có tâm huyết trên khắp thế giới với nhiều hy vọng về một thành công không xa trong tương lai. Và cuối cùng, việc cả hệ thống kính viễn vọng Allen phải ngừng hoạt động chắc chắn được đánh giá là một sự kiện buồn, phá vỡ giấc mơ mà nhân loại từ bao năm qua vẫn theo đuổi.
Hồng Sơn (Tổng hợp)
http://www.petrotimes.vn/the-gioi-phang/2011/05/tim-kiem-nen-van-minh-ngoai-trai-dat-da-cham-het
