Tương đồng giữa Khoa học và Phật giáo theo nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận nhân buổi thuyết trình về Khoa học và Phật giáo tại Làng Mai (Pháp) ngày 03/06/2012.
Như Trang
Thượng tuần tháng 06/2012, nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân
Thuận đã từ Mỹ đến Paris nhận Giải thưởng Prix Mondial Cino Del Duca do
giới Hàn lâm Pháp trao tặng. Trước đó, ông đã ghé Làng Mai - miền tây
nam nước Pháp - thuyết trình về Khoa học và Phật giáo, đồng thời đối
thoại với Thiền sư Nhất Hạnh về cái nhìn của đạo Phật đối với khoa học.
Được sự đồng ý của tác giả, RFI xin đăng lại bài tường thuật của nhà
nghiên cứu Đỗ Quý Toàn, có mặt tại Làng Mai nhân buổi thuyết trình của
giáo sư Trịnh Xuân Thuận.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã thuyết trình trong khóa tu tại Làng
Mai về Khoa học và Phật giáo vào đầu tháng Sáu năm 2012; và sau đó,
với tư cách một nhà khoa học ông đã đặt một số câu hỏi với Thiền sư Nhất
Hạnh về cách nhìn của đạo Phật đối với một số vấn đề căn bản trong khoa
học hiện đại.
Khóa tu tại Làng Mai, ở vùng tây nam nước Pháp gần thành phố
Bordeaux, diễn ra trong 21 ngày, kể từ ngày 1 tháng Sáu năm 2012, quy tụ
hơn 900 thiền sinh đến từ gần 30 quốc gia khác nhau. Ngôn ngữ chính
được sử dụng là tiếng Anh, với tám nhóm thông dịch đồng thời sang tiếng
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, tiếng Ý, tiếng Thái, tiếng Nhật; tiếng Trung
Hoa dịch cho nhiều người đến từ Singapore, Hồng Kong, Mã Lai, Đài
Loan...; nhóm đông nhất là những người nghe tiếng Việt và tiếng Pháp.
Trong bài thuyết trình vào ngày Chủ Nhật 3 tháng Sáu 2012 tại Xóm Hạ,
Làng Mai, ông Trịnh Xuân Thuận đã nêu lên một số lý thuyết trong môn
vật lý học hiện tại để so sánh với những quan điểm trong truyền thống
Phật giáo. Là một nhà chuyên khảo về vũ trụ học, Giáo sư Trịnh Xuân
Thuận cho biết Vật lý học đã nhận thấy một số điểm tương đồng giữa Phật
giáo và khoa học.
Những điểm “hội tụ” (convergence) mà ông nhìn ra là tính tương quan
và tùy thuộc vào nhau của mọi hiện tượng vật lý (interdependence); tính
trống rỗng (vacuity, emptiness) của vạn pháp; và tính vô thường
(impermanence). Nhiều khám phá trong khoa học trong một thế kỷ gần đây
đã đưa tới những cách nhìn giống như quan điểm của đạo Phật từ nhiều
ngàn năm qua. Thí dụ, tính bất khả phân (non-seperability) của mọi vật;
mối liên quan không thể tránh giữa chủ thể quan sát và đối tượng được
khảo sát (tương tức, tương nhập); vân vân.
Trong khi các bộ môn khoa học sử dụng lý trí với các phương pháp phân
tích toán học và thí nghiệm để gia tăng hiểu biết có tính chất khách
quan và định lượng của con người về vũ trụ chung quanh mình, thì Phật
giáo là một truyền thống tu tập với cách nhìn toàn diện theo đuổi mục
tiêu trị liệu, đưa tới giác ngộ toàn diện (enlightenment) chứ không nhằm
hiểu biết thuần túy. Phật giáo không nhìn thế giới theo lối lưỡng
nguyên (tâm và vật) nhưng cũng không cố chấp vào cách nhìn phi lưỡng
nguyên. Từ nhận định về tính tương lập (interdependence) của mọi vật và
mọi người, Phật giáo đã dẫn tới đức từ bi như là một cách biểu hiện khác
của trí tuệ.
Một ngày sau cuộc thuyết trình trên, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã đặt
với Thiền sư Thích Nhất Hạnh một số thắc mắc của một nhà khoa học để tìm
hiểu cách giải đáp của Phật Giáo. Thứ nhất là Phật giáo yêu cầu phải
vượt qua những chướng ngại do sự hiểu biết gây ra, một điều khác với
khảo hướng của khoa học là luôn luôn dựa trên những hiểu biết đã có để
đi tìm các hiểu biết mới. Thứ hai là quan điểm Phật giáo về trình độ ý
thức (consciousness) của loài người so sánh với các sinh vật khác, với
vật chất vô sinh, cho tới các hạt nhân. Khoa học, kể từ Einstein, đã
nhìn ra thời gian chỉ là một kích thước mới của không gian, điều này tư
tưởng đạo Phật đã nhận định ra sao. Điểm sau cùng là theo quan điểm Phật
giáo, mọi vật đều là do biểu hiện của tâm thức, thì như vậy có một thế
giới hoàn toàn vật chất ở ngoài tâm thức hay không?
Thiền sư Nhất Hạnh đã trình bầy cách nhìn của Phật giáo trước các vấn
đề trên, dựa trên sự phân biệt “sự thật tương đối” (tục đế) và “sự thật
tuyệt đối” (chân đế) trong truyền thống Phật giáo. Các độc giả quan tâm
có thể tìm trong website của Làng Mai (langmai.org hoặc
plumvillage.org). Những lời trình bầy của Hòa thượng Nhất Hạnh trong
các khóa tu chỉ nhắm hướng dẫn các các thiền sinh trong việc tu học hơn
là chú trọng đến những kiến thức mà các nhà nghiên cứu quan tâm.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rất
rộng khắp thế giới về đề tài vũ trụ học. Ông cũng viết chung với
Matthieu Ricard, một tăng sĩ người Pháp tu theo truyền thống Tây Tạng,
cuốn L'Infini dans la paume de la main (Vũ trụ trong lòng bàn tay),
về tương quan giữa khoa học và đạo Phật. Matthieu Ricard vốn là một nhà
nghiên cứu về thần kinh học tại Trung Tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học
nước Pháp (CNRS, Centre National de Recherches Scientifiques) trước khi
đi tu.
Hội tụ giữa Khoa học và Đạo Phật
Tựa đề cuốn sách trên, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cho biết, là do câu
thơ thứ ba trong đoạn đầu bài thơ Auguries of Innocence của William
Blake:
To see a world in a grain of sand,
And a heaven in a wild flower,
Hold infinity in the palm of your hand,
And eternity in an hour.
And a heaven in a wild flower,
Hold infinity in the palm of your hand,
And eternity in an hour.
(Nhìn thấy cả thế giới trong một hạt cát - Và thiên đường trong
một đóa hoa dại – Nắm vô cực trong bàn tay của anh – Và vĩnh cửu trong
một giờ khắc)
Khi cuốn sách này được dịch sang tiếng Anh, ấn hành năm 2001, nhà xuất bản đã đề nghị đổi tựa: Lượng Tử và Hoa Sen, The Quantum and the Lotus cho dễ phổ biến hơn.
Bài thuyết trình của Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đối chiếu giữa quan
điểm Phật Giáo về vũ trụ và nhân sinh với các hiểu biết khoa học để nêu
ra những tương đồng giữa hai bên; ông đặt tựa là, Science and Buddhism: A Meeting of the Mind (Khoa học và Phật Giáo: Cuộc Gặp gỡ tại Tâm). Sau đây là một số điểm chính trong bài thuyết trình của ông.
Tương Tức
Một điểm được nêu lên đầu tiên là tính chất tương tức, tương lập
(interdependence) của “vạn pháp,” tức là sự liên quan chằng chịt giữa
mọi hiện tượng vật lý và tâm lý, theo lối nhìn của Phật Giáo. Trong khoa
học, Trịnh Xuân Thuận nhắc đến một hiện tượng được nêu lên trong một
bài do Boris Podolsky viết được in năm 1935 ký tên
Einstein-Podolsky-Rosen (EPR), để thách thức Vật lý học Lượng tử
(Quantum Physics). Vấn đề được nêu lên liên hệ tới hiện tượng vật lý
trong phạm vi cực nhỏ bên trong các nguyên tử, gọi là những “hạt dính
líu” (entangled particles).
Nhiều nguyên tử bị kích thích phát ra hai hạt pho ton (photons) đi về
hai phía khác nhau. Những pho ton này có đặc tính nếu một cái bị kích
thích để xoay thì cái thứ hai cũng xoay theo một chiều thẳng góc với cái
thứ nhất, dù ở cách xa hàng ngàn dặm cũng vậy. Một cách giải thích hiện
tượng này theo Cơ học Lượng tử, coi như hai hạt pho ton đã “thông tin”
được với nhau, sẽ trái nghịch với Thuyết Tương Đối của Einstein vì không
có thông tin nào có thể đi nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Do đó Einstein
kết luận Cơ học Lượng tử không giải thích được đầy đủ các hiện tượng vật
lý và đề nghị một lối giải thích khác.
Các cuộc nghiên cứu và thí nghiệm sau này cho thấy lối giải thích của EPR cũng không đứng vững; thí dụ, cuộc thí nghiệm của Alain Aspect năm 1982 về những cặp pho ton cho thấy Einstein không đúng. Hiệu ứng “Hạt Dính Líu” đã được dùng trong kỹ thuật thông tin và trong máy vi tính dựa trên hiện tượng này, khi kích thích một pho ton có thể gây phản ứng của một pho ton khác dù cách nhau vạn dậm, giúp cho máy vi tính lượng tử chạy nhanh hơn các máy vi tính bình thường.
Các cuộc nghiên cứu và thí nghiệm sau này cho thấy lối giải thích của EPR cũng không đứng vững; thí dụ, cuộc thí nghiệm của Alain Aspect năm 1982 về những cặp pho ton cho thấy Einstein không đúng. Hiệu ứng “Hạt Dính Líu” đã được dùng trong kỹ thuật thông tin và trong máy vi tính dựa trên hiện tượng này, khi kích thích một pho ton có thể gây phản ứng của một pho ton khác dù cách nhau vạn dậm, giúp cho máy vi tính lượng tử chạy nhanh hơn các máy vi tính bình thường.
Khám phá “mọi hiện tượng dính líu với nhau” như trên tương đồng với
quan niệm Phật Giáo trong các kinh điển Đại Thừa, như kinh Hoa Nghiêm đã
diễn tả tính tương tức, tương nhập của vạn pháp. Một đoạn trong Đệ Nhất
Nghĩa Không Kinh (The Discourse on the Emptiness in its Ultimate
Meaning) được thuyết giảng trong khóa tu tại Làng Mai lần này, viết:
“thử hữu cố bỉ hữu; thử khởi cố bỉ khởi, …” (có cái này nên mới có cái
kia, cái này dấy lên nên cái kia dấy lên).
Theo Phật Giáo thì mỗi sự vật, hiện tượng đều do các “nhân duyên”
khác tạo thành, tất cả mọi vật, mọi hiện tượng là nhân duyên lẫn của
nhau (mutual causation). Hệ luận của quan niệm này là tính tương lập của
“vạn pháp,” không có cái gì tự làm nguyên nhân duy nhất của chính nó.
Một hệ luận khác là thực tại (reality) trong vũ trụ có tính toàn thể
không thể phân chia được. Vật lý học hiện đại cũng tiến tới một quan
điểm tương tự. Như ông Trịnh Xuân Thuận nói một cách văn vẻ: Vũ trụ Vật
lý học hiện đại (Astrophysics) cho thấy là tất cả chúng ta chỉ là những
hạt bụi của các vì sao; chúng ta có cùng một lịch sử trong vũ trụ giống
như các loài hoa cỏ, các sinh vật khác. Trong thời gian và không gian,
tất cả chúng ta tương lập với nhau. Thông điệp chính yếu của khoa học,
đặc biệt của cơ học lượng tử, là có một thực tại sâu xa hơn những gì mà
giác quan của chúng ta nhận thấy, một thực tại ẩn tàng.
Khoa học đã gặp Phật Giáo trong lối nhìn này; nhưng sử dụng các khảo
hướng khác nhau. Khoa học dùng “ngôn ngữ” toán học và dùng thí nghiệm
thực tế để kiểm chứng. Phật Giáo dùng trực giác và kinh nghiệm tâm linh.
Nếu không có khoa học thì Phật Giáo vẫn tồn tại; mà nếu không có Phật
Giáo thì khoa học vẫn được phát triển. Người ta không cần phải ràng buộc
cả hai lại bằng bất cứ giá nào. Điều chúng ta muốn hiểu là thấy được
tính tương đồng nhất quán của hai bên. Cả hai đều nói về một đối tượng
là thực tại, và mỗi bên đều có tính chất nhất quán (coherent) trong phạm
vi của mình; thế nào cũng có thể so sánh để thấy những điểm hội tụ giữa
khoa học và Phật Giáo.
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cũng phân biệt: Mục đích của Phật Giáo có
tính chất trị liệu (therapeutic): Làm sao để sống tốt đẹp hơn, mục tiêu
sau cùng là giác ngộ. Trong khi đó khoa học nhằm tìm hiểu thế giới, khám
phá các định luật chi phối cả vũ trụ, những luật coi là bất biến trong
vũ trụ, khiến người ta thấy vũ trụ có một thứ trật tự, một hòa điệu và
vẻ đẹp trong vũ trụ; chứ không phải chỉ là một mớ hỗn độn (chaos). Trịnh
Xuân Thuận là tác giả các cuốn sách mang tên Giai điệu huyền bí (La Mélodie Secrète), Hỗn mang và Hòa điệu (Le Chaos et l'Harmonie).
Einstein, cũng như nhiều nhà khoa học khác, trong đó có những người
khám phá cơ học lượng tử, đều nói rằng Phật Giáo là một tôn giáo có khả
năng phù hợp nhất với hiểu biết khoa học. Thí dụ, trong khoa học người
ta biết là ánh sáng vừa là những hạt nhân, vừa là sóng. Làm sao một thứ
có thể là hai dạng hoàn toàn khác nhau như vậy ? Trong truyền thống tư
tưởng Tây phương, lối nhìn này không thể nào hiểu được. Nhưng Phật Giáo
có thể chấp nhận lối nhìn đó; bởi vì theo Phật Giáo thì mọi vật đều
không có tự tánh, cho nên có thể là một cái này mà cũng là cái khác hẳn.
Tính Không
Vật lý học hiện đại cũng chia sẻ với Phật Giáo trong cách nhìn thấy
tính chất trỗng rỗng của vạn vật, gọi là Tính Không. Vật chất do các
nguyên tử tạo thành, mà trong các nguyên tử có thể nói là trống rỗng,
với những hạt vận chuyển. Thuyết Cơ học Lượng tử cho biết: Những hạt
này, căn bản của mọi vật chất, có hai đặc tính; một là hạt và hai là
sóng. Trước khi đem các dụng cụ để quan sát, mỗi hạt chỉ có thể được mô
tả bằng một xác suất. Điều duy nhất mà chúng ta có thể biết và nói về
một hạt là nó có một xác suất sẽ hiện ra ở một chỗ này hay chỗ khác. Khi
chúng ta dùng khí cụ để đo lường, sẽ thấy mỗi hạt có một vị trí và một
tốc độ, nhưng bị giới hạn bởi Nguyên lý Bất định của Heisenberg: Không
thể thấy cả hai đặc tính đó cùng một lúc một cách chắc chắn. Trong phạm
vi nghiên cứu nhỏ bên trong các nguyên tử, hành động của người quan sát
sẽ ảnh hưởng ngay đến vật được quan sát.
Khoa học hiện đại còn chưa biết thật sự vật chất trong vũ trụ này nó
thế nào, chúng ta chỉ biết được khoảng 4% về vũ trụ, còn 96% không hề
biết gì cả. Những gì chúng ta nhìn thấy trên các giải ngân hà sáng trong
bầu trời chỉ là nửa phần trăm của vũ trụ. Tất cả còn là một “giai điệu
huyền bí.” Các nhà vật lý học đã nói đến giả thuyết có một “năng lượng
tối” gây ra sự thành hình của vũ trụ, trong đó một phần là vật chất có
trọng lực rất mạnh nhưng không phát ra một “ánh sáng” nào có thể trông
thấy được, mà người ta gọi là “vật chất tối.” Chúng ta chưa biết gì về
vật chất đen (hay tối) cũng như năng lượng đen (hay tối); chỉ biết là
nếu không có chúng thì khó giải thích sự phát sinh và tồn tại của vũ
trụ.
Các nhà khoa học chưa biết đâu là biên giới nơi vũ trụ lớn gặp vũ trụ
vi tiểu trong đó các hạt và sóng lượng tử do nguyên lý bất định ngự
trị, mà ra đến vũ trụ vĩ đại thì nguyên lý đó không còn hiệu lực. Mỗi
ngày các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục đẩy biên giới của thế giới lượng tử
ra xa hơn, mở ra những chân trời mới.
Ông Trịnh Xuân Thuận nhắc lại: Tất cả vật chất như trong chính cơ thể
chúng ta đều bắt đầu được tạo nên từ khi các vì sao phát sinh trong vũ
trụ. Từ gần 4 tỷ năm trước, những hạt bụi tinh cầu đó đã biến chuyển tạo
ra những nguyên tố đầu tiên của sự sống, rồi tiến hóa dần đến loài
người. Tổ tiên của tất cả chúng ta và các sinh vật khác là các vì sao;
lịch sử vũ trụ cũng chính là tiểu sử của chúng ta. Tất cả bắt đầu trước
đây 14 tỷ năm, dần dần đưa tới sự xuất hiện của loài người và ý thức.
Tìm hiểu vũ trụ chính là đi tìm lại gia phả của chúng ta; quán sát các thiên hà cũng là nhìn vào chính bản thân mình.
Tìm hiểu vũ trụ chính là đi tìm lại gia phả của chúng ta; quán sát các thiên hà cũng là nhìn vào chính bản thân mình.
Chúng ta có thể quan sát được hàng trăm tỷ thiên hà như giải Ngân Hà,
mỗi thiên hà chứa hàng trăm tỷ các vì sao giống như mặt trời. Nếu mỗi
vì sao đó có chừng mươi hành tinh giống như trái đất; thì chúng ta thấy
ngay là không thể nghĩ rằng trái đất nơi ta sống là hành tinh duy nhất
có sự sống. Chắc phải có cuộc sống với trí thông minh ở ngoài trái đất,
họ cũng đang quán sát vũ trụ như chúng ta. Einstein, một thần tượng của
tôi, Trịnh Xuân Thuận, phải lấy làm ngạc nhiên tại sao con người lại có
khả năng tìm hiểu cả vũ trụ; ông coi đó là “một điều khó hiểu nhất!”
Vô Thường
Một quan niệm căn bản trong truyền thống Phật Giáo là tính Vô Thường
(impermanence) của vạn pháp, mọi sự vật, mọi hiện tượng. Trước đây, khoa
học Tây phương đã bị ràng buộc trong nhiều thế kỷ với khái niệm từ thời
cổ Hy Lạp về tính bất biến của các hiện tượng thiên văn; vì Aristote
nói rằng cái gì thuộc về loài người thì thay đổi, phù du; còn thế giới
các thần linh, như các vì sao trên bầu trời thì vĩnh cửu và không bao
giờ thay đổi, bởi vì các vị thần linh đều hoàn hảo tuyệt đối. Vì vậy,
vào ngày 4 tháng Bẩy năm 1054, ban đêm trên bầu trời xuất hiện một thiên
thể hoàn toàn mới sáng rực, nó sáng như Kim Tinh, Vénus, ngay cả ban
ngày mắt thường cũng nhìn thấy, và kéo dài hàng mấy tuần lễ liền; nhưng
các nhà thiên văn tài giỏi ở Âu Châu thời đó không hề ghi nhận họ thấy
“ngôi sao” mới này trong niên biểu thiên văn học đương thời. Bởi vì theo
quan niệm của họ thì bầu trời của các vị thần linh là bất biến. Thiên
thể trên, có nguồn gốc là phần còn lại của một vụ nổ sao mà ngày nay
chúng ta gọi là "Tinh vân Cua."
Trong thời gian đó thì ở Trung Hoa người ta đã ghi nhận sự xuất hiện
của “ngôi sao” này, và họ đặt tên là “Sao Khách.” Di tích khảo cổ cho
thấy người Maya ở Mỹ châu cũng ghi nhận hiện tượng thiên văn này. Các
nhà khoa học Âu Châu thời Trung Cổ tin tưởng ở lý thuyết vũ trụ bất biến
của Aristote hơn là tin vào chính mắt của họ. Mãi đến thời Copernic,
năm 1543, mới thuyết phục được các nhà khoa học là vũ trụ có tính vô
thường. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận cười: “Các nhà thiên văn Âu châu thời
Trung Cổ tin vào lý thuyết vũ trụ bất biến của Aristote hơn là tin ở
chính con mắt họ.”
Vũ trụ luôn biến chuyển, không bao giờ ngưng. Các vì sao cũng sinh
ra, tàn lụi, rồi chết đi như tất cả chúng ta, nhưng cuộc đời của một vì
sao dài tính bằng hàng tỷ năm chứ không ngắn như đời chúng ta. Phật Giáo
theo quan điểm vô thường. Như chúng ta nghĩ đang “ngồi yên” trong thiền
đường này thì thực ra chúng ta đang vận chuyển theo trái đất chung
quanh mặt trời với vận tốc 30 km một giây đồng hồ; mà mặt trời cũng đang
vận chuyển 220 km một giây quanh trung tâm của Ngân Hà; và chính thiên
hà này cũng đang tự quay với tốc độ 90 km mỗi giây ở nơi chúng ta đang
sống. Tất cả đều vận chuyển, tất cả đều thay đổi, đó cũng là quan niệm
vô thường trong Phật Giáo.
Tôn giáo của tương lai
Ông Trịnh Xuân Thuận nhận xét, khoa học chỉ là một cửa sổ để chúng ta
nhìn thế giới. Muốn hiểu biết thực tại chúng ta phải nhìn qua nhiều cửa
khác. Phật Giáo phân biệt hai loại sự thật, tục đế là những sự thật
tương đối, chân đế là sự thật tuyệt đối. Khoa học vẫn cố tìm đến sự thật
tuyệt đối nhưng chưa tới được. Mỗi lần nhà khoa học giải đáp được một
câu hỏi thì hàng ngàn câu hỏi khác hiện lên. Nếu dùng kinh nghiệm tâm
linh đạt tới “giác ngộ,” chúng ta có hy vọng nhìn thấy sự thật. Nếu
không, vẫn là một “giai điệu huyền bí.” Ông nghĩ rằng khoa học không
thôi không thể mô tả đầy đủ sự thật; khoa học không quá tự cao như vậy.
Kinh nghiệm tâm linh là con đường khác bổ túc cho khoa học. Dù theo hai
hệ thống lý luận khác nhau, Phật Giáo và Khoa học Vũ trụ đã gặp gỡ trên
nhiều điểm. Những nguyên lý Phật Giáo như tính tương lập
(interdépendance) của mọi sự vật, tất cả đều liên hệ với nhau và có
duyên nhân quả với nhau (mutual causality), về tính không (vacuity) và
tính vô thường (impermanence) của vạn pháp, đều tương đồng với kết luận
của các nhà nghiên cứu khoa học vũ trụ.
Tính tương lập của mọi vật trong vũ trụ giúp chúng ta suy nghĩ để
thấy hạnh phúc của mỗi người tùy thuộc vào mọi người khác và cả vạn vật
chung quanh. Từ đó, chúng ta phát khởi lòng từ bi và ý thức phải bảo vệ
các sinh vật cũng như những vật vô sinh trong môi trường sống. Mỗi người
không thể hạnh phúc nếu người chung quanh không hạnh phúc. Đó là điều
mà các tôn giáo đều dậy chúng ta.
Cuối bài thuyết trình, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã đọc cho thính
chúng nghe một câu của Albert Einstein nói về tôn giáo thường được trích
dẫn, “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ. Phải là một tôn
giáo dựa trên thực chứng (based on experience) và từ bỏ tính cách giáo
điều (refuses dogmatic). Nếu có một tôn giáo đáp ứng được nhu cầu khoa
học hiện đại, thì đó là Phật Giáo (If there is any religion that would
cope with modern scientific needs it would be Buddhism).
Giới thiệu
Trước buổi thuyết trình, Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã được một vị tăng
sĩ tại Làng Mai giới thiệu với đại chúng. Ông sinh năm 1948 tại Hà Nội,
đậu Tú tài năm 1966, rồi học một năm tại l’Ecole Polytechnique de
Lausanne, Thụy Sĩ. Sau đó ông đã theo học các đại học có tiếng tại Hoa
Kỳ, California Institute of Technology (Caltech), và Đại học Princeton,
nơi đã trao bằng Ph.D. cho ông vào năm 1974, về môn Vật lý học Vũ trụ
(astrophysics), dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Lyman Spitzer, người sáng
chế viễn vọng kính Hubble. Từ năm 1996 ông là giáo sư Vật lý Vũ trụ tại
Đại học University of Virginia tại Charlottesville.
Ông cũng là giáo sư Đại học Paris 7, làm việc tại Thiên văn đài Meudon, tại IAP (Institut d’astrophysique de Paris) và Trung tâm Nghiên cứu Khoa học (CNRS) của nước Pháp. Ông đã viết trên 230 bài tường trình khảo cứu trên đề tài chuyên khảo là sự hình thành và tiến hóa của các thiên hà (galaxies); về sự tạo lập vũ trụ theo lý thuyết “Vụ Nổ Lớn” (Big Bang). Một đóng góp của ông được giới khoa học thảo luận với lòng thán phục là việc ông khám phá thiên hà “trẻ nhất” trong vũ trụ, mang ký hiệu I Zwicky 18. Ông là một trong số người sáng lập Hội Quốc tế Khoa học và Tôn giáo (International Society for Science and Religion).
Ông cũng là giáo sư Đại học Paris 7, làm việc tại Thiên văn đài Meudon, tại IAP (Institut d’astrophysique de Paris) và Trung tâm Nghiên cứu Khoa học (CNRS) của nước Pháp. Ông đã viết trên 230 bài tường trình khảo cứu trên đề tài chuyên khảo là sự hình thành và tiến hóa của các thiên hà (galaxies); về sự tạo lập vũ trụ theo lý thuyết “Vụ Nổ Lớn” (Big Bang). Một đóng góp của ông được giới khoa học thảo luận với lòng thán phục là việc ông khám phá thiên hà “trẻ nhất” trong vũ trụ, mang ký hiệu I Zwicky 18. Ông là một trong số người sáng lập Hội Quốc tế Khoa học và Tôn giáo (International Society for Science and Religion).
Là một người viết rất nhiều sách phổ thông về Vật lý học Vũ trụ; tại
Đại học Virginia ông Trịnh Xuân Thuận cũng dậy một lớp mang tên là “Vật
lý học Vũ trụ cho các Thi sĩ.” Ông đã xuất bản các tác phẩm phổ biến
khoa học cho đại chúng, viết bằng tiếng Pháp với một lối văn nhuần nhã,
điêu luyện, đầy thi vị, chính xác và trong sáng dễ hiểu. Các tác phẩm
của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới, được các tổ chức
văn hóa quốc tế vinh danh.
Năm 2007 ông xuất bản cuốn Les voies de la lumière, được
trao Giải Moron của cựu Tổng thống Jacques Chirac. Năm 2009, tại Hội
nghị Khoa học Ấn Độ (Indian Science Congress) kỳ thứ 99 tại Bhubaneswar,
ông được UNESCO trao tặng Giải Kalinga Năm 2012, ông được Học Viện Pháp
Quốc (Institut de France) trao Giải Hoàn Cầu (Prix Mondial) Cino Del
Duca. Đây là một giải hưởng văn chương rất uy tín, khi chúng ta biết
trong số những người được trao giải gần đây có các nhà văn Mario Vargas
Llosa (2008), Milan Kundera (2009) và Patrick Modiano (2010).
Giáo sư Trịnh Xuân Thuận đã xuất bản các sách bằng tiếng Pháp sau
đây: La Mélodie secrète (Fayard, 1988); Un astrophysicien
(Beauchesne-Fayard, 1992), tự thuật; Le Destin de l'Univers – Le Big
Bang et après (Découvertes Gallimard, 1992); Le Chaos et l'Harmonie
(Fayard, 1998); L'Infini dans la paume de la main (Nil/Fayard 2000, cùng
với Matthieu Ricard); Origines, (Fayard, 2003); Les voies de la lumière
(Fayard, 2007).
Chân Văn (Đ. Q. Toàn) tường thuật
http://www.viet.rfi.fr/khoa-hoc/20120803-tuong-dong-giua-khoa-hoc-va-phat-giao-theo-cai-nhin-cua-trinh-xuan-thuan
Cà phê làm giảm nguy cơ tử vong ?
Getty Images
Viện ung thư quốc gia của Mỹ vừa công bố một nghiên cứu cho
thấy là uống ít nhất ba ly cà phê sẽ giảm 10% nguy cơ tử vong nơi những
người lớn từ 50 đến 71 tuổi. Có lẽ đây là một phát hiện sẽ làm yên lòng
mọi dân ghiền cà phê, hay đúng hơn là làm yên lòng hàng triệu người trên
thế giới, bởi vì cà phê là thức uống được tiêu thụ nhiều nhất, chỉ sau
nước.
Nghiên cứu của Viện ung thư quốc gia Mỹ, được đăng trong tạp
chí y khoa New England Journal of Medicine (NEJM) ngày 16/5 cho thấy là
những người trong độ tuổi từ 50 đến 71 tuổi nếu uống ít nhất ba ly cà
phê mỗi ngày sẽ giảm được 10% nguy cơ tử vong so với những người không
uống cà phê. Riêng đối với phụ nữ, mức độ giảm nguy cơ tử vong lên tới
15%.
Nói một cách cụ thể hơn, kết quả nghiên cứu nói trên cho thấy là so với những người không uống cà phê, những người nào uống trung bình 3 ly cà phê mỗi ngày, cho dù là cà phê bình thường hay cà phê không chất caféine, thì ít có nguy cơ tử vong vì các bệnh tim mạch hay bệnh đường hô hấp, ít có nguy cơ tử vong vì đột quỵ, vì các vết thương, vì tai nạn, vì tiểu đường hay vì bị nhiễm trùng. Để kết quả không bị sai lạc, các nhà nghiên cứu cũng đã tính đến những tác nhân gây tử vong khác, như là hút thuốc hoặc uống rượu quá độ.
Một nghiên cứu vào năm 2010 đã khẳng định rằng cà phê làm tăng nguy cơ ung thư phổi. Nhưng một nghiên cứu khác công bố vào tháng 6 năm ngoái lại kết luận rằng uống cà phê có thể góp phần làm giảm 60% nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt !
Mà cho dù uống cà phê có làm giảm nguy cơ tử vong đi chăng nữa, thì cũng không nên cho trẻ em uống cà phê, bởi vì không nên tập cho trẻ em ghiền cà phê từ nhỏ. Cũng như những người chưa uống cà phê bao giờ đừng có vội vàng lao vào thức uống này với hy vọng sẽ sống được lâu hơn.
tags: Cuộc sống muôn màu - Khoa học - Sức khỏe /Nói một cách cụ thể hơn, kết quả nghiên cứu nói trên cho thấy là so với những người không uống cà phê, những người nào uống trung bình 3 ly cà phê mỗi ngày, cho dù là cà phê bình thường hay cà phê không chất caféine, thì ít có nguy cơ tử vong vì các bệnh tim mạch hay bệnh đường hô hấp, ít có nguy cơ tử vong vì đột quỵ, vì các vết thương, vì tai nạn, vì tiểu đường hay vì bị nhiễm trùng. Để kết quả không bị sai lạc, các nhà nghiên cứu cũng đã tính đến những tác nhân gây tử vong khác, như là hút thuốc hoặc uống rượu quá độ.
Tuy vậy, các nhà nghiên cứu ghi nhận là những người đàn ông ( chứ
không phải phụ nữ ) uống rất nhiều cà phê thì có nhiều nguy cơ ung thư
hơn một chút. Họ cũng nhấn mạnh rằng, về mặt lâm sàng, không thể khẳng
định một cách chắc chắn là uống cà phê giúp kéo dài tuổi thọ. Tác giả
chính của công trình nghiên cứu, giáo sư Neal Freedman cho biết : « Cà
phê là thức uống được tiêu thụ nhiều nhất ở Hoa Kỳ, nhưng mối liên hệ
giữa uống cà phê với nguy cơ tử vong chưa rõ ràng. Chúng tôi chỉ khám
phá là tiêu thụ cà phê nói chung có liên quan đến một nguy cơ tử vong ít
hơn. »
Giáo sư Freedman nói thêm : « Tuy rằng chúng tôi không thể kết luận
là có liên hệ nhân quả giữa uống cà phê và việc giảm nguy cơ tử vong,
nhưng ít ra kết quả nghiên cứu này có thể đưa ra một vài bảo đảm rằng
thức uống này không gây nguy hại cho sức khoẻ ». Hơn nữa, theo lời
khuyên của giáo sư Freedman, nghiên cứu của họ chỉ đưa ra kết luận mang
tính tổng quát, chứ còn mỗi cá nhân nên hỏi ý kiến bác sĩ để đưa ra một
chế độ ăn uống thích hợp, nhất là cà phê, đặc biệt là đối với những
người có vấn đề sức khoẻ.
Trả lời tờ Le Figaro số ra ngày 17/5, giáo sư Jean Costentin, thành
viên Các Viện hàn lâm y khoa và dược khoa của Pháp cho biết ông không
ngạc nhiên về kết quả nhiên cứu nói trên. Theo giáo sư Costentin, cà phê
là một thứ ma túy, tức là chất gây nghiện, nhưng là chấy gây nghiện
tốt, bởi vì nó không ảnh hưởng gì đến sức khoẻ tâm thần. Thuốc lá cũng
không ảnh hưởng đến sức khoẻ tâm thần, nhưng ai cũng biết thuốc lá có
hại đến cơ thể như thế nào, còn uống cà phê chúng ta cảm thấy tỉnh táo
hơn, năng động hơn, làm việc tốt hơn.
Còn đối với nhà dinh dưỡng học Jean-Paul Blanc, « cà phê trước tiên
là một thú vui. Nó không gây tác hại gì về mặt dinh dưỡng, nếu chúng ta
không lạm dụng nó và nếu chúng ta không thuộc những trường hợp đặc biệt
như : phụ nữ có thai, bị chứng ợ hơi, hoặc đang dùng một số loại
thuốc... ». Nhưng giáo sư Laurent Chevallier, bác sĩ bệnh viện
Montpellier và cũng là nhà tư vấn về dinh dưỡng, lưu ý rằng, kết quả
nghiên cứu nói trên không có nghĩa là ai muốn có sức khoẻ tốt hơn thì
nên uống nhiều cà phê. Theo giáo sư Chavlier, nên thận trọng với cà phê
bởi vì khi cà phê được rang cháy lên, nó sẽ tạo ra chất acrylamide, một
chất có thể gây ung thư nơi người.
Nghiên cứu của Trung tâm ung thư quốc gia Mỹ đúng là đã không chứng
minh được uống cà phê giúp làm giảm nguy cơ tử vong do ung thư. Thậm
chí, nghiên cứu này cho thấy là những người mỗi ngày uống hơn 5 ly cà
phê có xu hướng tăng thêm một chút nguy cơ tử vong do ung thư. Tuy
nhiên, các nhà nghiên cứu chưa thể giải thích được điều này.
Một số nghiên cứu trước đây cũng là đã cho thấy rằng cà phê các một
số tác dụng tốt cho con người. Nhưng cho đến nay, đây vẫn còn là chủ đề
gây tranh cãi giữa các nhà khoa học.Một nghiên cứu vào năm 2010 đã khẳng định rằng cà phê làm tăng nguy cơ ung thư phổi. Nhưng một nghiên cứu khác công bố vào tháng 6 năm ngoái lại kết luận rằng uống cà phê có thể góp phần làm giảm 60% nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt !
Mà cho dù uống cà phê có làm giảm nguy cơ tử vong đi chăng nữa, thì cũng không nên cho trẻ em uống cà phê, bởi vì không nên tập cho trẻ em ghiền cà phê từ nhỏ. Cũng như những người chưa uống cà phê bao giờ đừng có vội vàng lao vào thức uống này với hy vọng sẽ sống được lâu hơn.
http://www.viet.rfi.fr/khoa-hoc/20120804-ca-phe-lam-giam-nguy-co-tu-vong
No comments:
Post a Comment