Wednesday, August 29, 2012

NGÔ MINH HẰNG * VƯỢT THOÁT

VƯỢT THOÁT
Ngô Minh Hang


Thời gian lúc này với Nhung thật nặng nề chậm chạp. Dường
như Nhung ngồi yên như thế đã lâu lắm rồi. Trong đám cỏ
cao hơn nửa thân người, nàng cố gắng thu mình cho nhỏ hơn
nữa. Nhung nghe rõ tiếng tim đập loạn xạ trong lồng ngực và
chân tay lạnh giá. Mùi cỏ mục và muì bùn hăng hắc thoảng trong
sương đêm.
Dưới hai bàn chân trần, Nhung cảm thấy nước và bùn ướt
nhẹp. Quái ác hơn nữa, những cơn gió dù rất nhẹ cũng đủ gây
thành tiếng động làm cho những con cào cào nhảy loạn. Một con
nhái nhỏ nhảy đến ngồi ngay trên lưng bàn chân Nhung. Giá phải
như lúc thường thì Nhung đã nhảy nhỏm và la chói lói. Cảm giác
lành lạnh ươn ướt từ con vật thấm qua da chân làm Nhung càng
thêm khiếp đảm. Một cái gì ơn ớn chạy dọc theo chiều xương
sống. Nhung rùng mình. May qúa, nhờ cái rùng mình, con vật thấy
động hốt hoảng nhảy đi. Tuy vậy, Nhung vẫn cảm thấy còn qúa
sức căng thẳng. Căng thẳng vì sợ hãi. Nàng sợ hãi không
phải chỉ vì con nhái nhỏ bé kia mà vì đám công an, du kích đang
ở đó không xa.
Cách nàng chừng vài trăm thước, những ánh đèn pin vẫn loang
loáng trong đêm. Tiếng gọi nhau, tiếng quát tháo, tiếng chửi
thề tục tĩu của đám du kích xã vọng lại từ phía bãi cỏ gần
bờ lạch tuỳ theo chiều gió nên nghe lúc rõ lúc không. Cách
Nhung chừng vài thước phía bên mặt, anh Long và đứa con trai
cũng cố nép mình thật thấp. Nhung đoán chắc họ cũng sợ hãi
không kém gì nàng. Phía bên trái, gần Nhung hơn là chi. Thanh và
Thảo, chị em bạn dì với Nhung. Thảo vai lớn nhưng vì cùng tuổi
lại học chung trường nên hai đứa gọi nhau bằng tên từ bé.
Bỗng đâu, trong lúc bất ngờ nhất, một tiếng cười nhỏ vang
lên. Sau đó, Nhung nghe chi. Thanh rít qua kẽ răng bực bội :
- Cái con này. Lúc này mà mày còn cười được thì tao chịu!
Không có tiếng trả lời nhưng tiếng cười vẫn tiếp tục nổi
lên. Đúng ra, không phải là tiếng cười mà chỉ là những
tiếng gió đi qua ống mũi nghe "hích hích" . Hình như Thảo đã
lấy tay bụm cả mũi miệng lại để cố giữ không cho những
tiếng "cười" đó bay thoát ra ngoài. Qua tiếng cười của Thảo,
dù không biết lý do nhưng Nhung cũng cảm thấy không khí nhẹ đi
đôi chút. Không lâu, một mùi xú uế thoảng xông lên. Nhung
chợt nhớ mẹ kể rằng chi. Thanh phải cái bệnh cứ sợ qúa thì
chị lại đau bụng đi ngoài. Xưa, hồi mới lấy chồng, chị
đến đơn vị thăm anh, chẳng may đêm đó bi. VC pháo kích, chị
"đũn" ra quần. Chị mắc cở khóc suốt đêm. Ông chồng dỗ mãi
chị cũng không chịu nín. Sáng sớm, chị đòi anh đưa ra bến xe
đò chuyến sớm nhất về thẳng nhà mẹ ở đến cả tuần. Từ
đó, dù anh Lân bận hành quân mấy tháng không về được, nhớ
vợ nhớ con, nhắn chị đến thăm, chị cũng nhất định không
đi. Nghĩ đến đây Nhung cũng không nhịn được cười. Nàng
vội đưa tay bụm miệng và thấy mình rung cả hai vai. "Ừ nhỉ.
Sao lúc này mà mình cười được nhỉ" Nhung nghĩ thầm.
Trời vừa xẩm tối là Nhung và Thảo đã từ Saigon đi chuyến xe
chót đến nhà ông Cả. Ông Cả làm nghề đánh cá ở Chu Hải
từ lâu. Ông lại khá giả, tốt bụng và hay giúp đỡ người cơ
khó nên rất có uy tín với xóm giềng. Ông bà Cả có bảy
người con, năm trai, hai gái. Các con ông, tất cả đã thành gia
thất và ông có một bày cháu nội ngoại đến gần hai chục
đứa.
Sau biến cố 75, ông nghỉ đi biển. Con ông, ba người con trai,
một con rể nối nghề của bố. Mấy năm sau này cứ chờ lúc
thuận tiện ông lại tổ chức một chuyến vượt biên cho con
cháu ông đi. Do đó, họ hàng thân quen ông, ai biết chuyện đều
gởi gấm con cháu ho. Anh Long, cháu gọi me. Nhung là cô, vợ anh
là cháu gọi ông Cả bằng bác nên khi me. Nhung thấy Long đi, bà
nhất định gởi Nhung và chị em Thảo đi theo vì trước đó, Nhung
đã bị lừa và đi hụt mấy lần.
Theo sự sắp xếp của ông Cả, chi. Thanh đến nhà bà Tư, em gái
ông từ sáng sớm để "ăn giỗ" ông Tự Anh Long và Mạnh, thằng
con trai lớn mười bảy tuổi của anh thì nằm ở kho chứa lưới
và vật dụng phế thải đã hai hôm. Đợi Nhung và Thảo vào hẳn
trong nhà, Ông Cả bảo chi. Thêm, người con dâu thứ hai, đưa sang
nhà bà Tư bằng cửa sau để chờ nửa đêm lên ghe ngay tại con
lạch nhỏ sau nhà.
Con lạch nhỏ này chỉ có những ngày nước lớn ghe mới đi lại
được mà phải là loại ghe nhẹ nên không ai nghĩ đó là một
khởi điểm tốt cho những cuộc vượt biên của con cháu ông
Cả. Cũng bằng con lạch nhỏ này, chỉ có người trong xóm như gia
đình ông Cả mới dùng làm con đường tắt ra bến, nơi ông neo
tàu đánh cá cho gần. Những ngày nước cạn phơi cả lòng đất
nứt nẻ, không ai qua lại nên bọn công an và du kích xã không lưu
tâm đến.
Cho đến một hôm thấy đám con cháu ông vơi dần, bọn công an
hỏi, ông mua lòng heo, rượu đế cho chúng ăn uống rồi ông
mượn cớ say chửi toáng lên là con cháu ông hư hỏng, chê nghề
đánh cá của ông nắng nôi tanh tưởi nên bỏ lên Saigon làm du
đãng. Ông giận nên không thèm ngó mặt và cũng không thích ai
nhắc đến những đứa con, đứa cháu hư hỏng ấy nữa. Được
ăn uống no say, bọn công an phường chẳng tìm hiểu gì thêm
nhưng bọn du kích xã thì bắt đầu để ý. Chuyến vượt biên
mới đây, ông Cả phải chi cho bọn chúng hai chục cây vàng để
chúng lờ đi. Lần này cũng vậy. Lúc nãy Nhung nghe anh Long nói
là ông Cả đang bị hai phe công an vàdu kích tranh ăn với nhau nên
ông phải chi cho cả hai phe. Ấy vậy mà chúng vẫn còn cố bới
móc lẫn nhau.
Bữa cơm tối dọn ra vội vã và ai cũng chỉ ăn qua loa. Cô Nhàn,
con gái bà Tư vừa rửa xong chén bát thì có người đứng ngoài
cửa sổ làm tín hiệu gọi anh Long, bảo rằng tất cả phải đi ra
bãi cỏ phía sau nhà mà trốn vì có tin là bọn du kích sẽ kiểm
tra hộ khẩu. Thế là tất cả hoảng hốt bỏ cả guốc dép, nối
đuôi nhau ra đây. Chỉ còn hai đứa con nhỏ của chi. Thanh đang
ngủ nên đành để lại trong nhà.
Đột nhiên trong gió, một giọng đàn ông vọng lại làm Nhung trở
về thực tại:
- Các đồng chí chỉ nghe tin thất thiệt rồi làm chúng ta phí
công vô ích. Hồi chiều này đội tôi đi công tác ở đây có
thấy gì đâu. Vả lại, các đồng chí du kích ai cũng đề cao
đạo đức cách mạng, noi gương Bác mà canh gác kỹ lưỡng thế
này thì bọn phản động nào mà dám đưa đầu vào rọ cơ chứ.
- Ấy, đồng chí trưởng ban công an nói thế thì rất phải
nhưng tụi ngụy nó ghê lắm, phản động lắm. Mình cứ đề cao
cảnh giác là hơn. Hồi chiều tôi được nhân dân báo cáo là
bọn nó tổ chức đi "tắc xi" từ đây cơ đấy!
Một tên khác xen vào:
- Hay là tụi nó ẩn nấp ở nhà nhân dân đấy. Mình đi kiểm
tra xem.
Giọng nói đầu lại ồm ồm:
- Ý kiến của đồng chí Bảy cũng tốt thôi. Nhưng tôi chỉ sợ
là mất công mà chẳng thu được thắng lợi gì. Mà đi kiểm
tra thế, không khéo lại phải làm kiểm điểm vì trễ buổi họp
trên xã tối nay đấy.
Nghe đến đây, chi. Thanh hoảng hốt thầm thì:
- Thôi chết rồi. Nếu lỡ tụi nó khám nhà bà Tư, thấy mấy
đứa nhỏ lạ nằm ngủ mà không có người lớn, nó hỏi, mẹ con
bà Tư luống cuống, nó tuá ra đây thì chết cả đám. Thảo ơi,
Nhung ơi. Để chị vào với cháu.
Thảo vội vàng:
- Thế lỡ tụi nó hỏi thì chị nói thế nào?
- Chị nói là cho con về nhà bà cô ăn giỗ và đưa giấy phép
đi đường chứng minh cho chúng nó là xong chứ gì! Hơn nữa,
ông Cả đã lo lót cho thằng trưởng toán rồi. Chắc không đến
nỗi nào đâu!
Thảo làm ra vẻ sành đời:
- Ấy, thế mới chết. Nếu thằng này ăn mà thằng kia nhịn,
chúng nó ganh nhau thì mình mệt.
Nghe chị em Thảo bàn tính và thấy chi. Thanh có lý, lại thấy
quãng đường từ chỗ núp đến cửa sau nhà bà Tư nếu "đi"
theo kiểu "ngồi" thìtô"n độ năm bảy phút. Nhung phụ họa:
- Đúng đấy chi. Thanh a. Thấy trẻ con lạ mà không thấy bố mẹ
chúng nó nghi ngay, lúc đó, nó ra đây lục soát thì nguy cả đám.
Nhất là anh Long. Anh ấy mới đi học tập về.
"Được lời như cởi tấm lòng" chi. Thanh vẫn theo thế ngồi,
dùng hai tay vẹt nhẹ từng đám cỏ, cẩn thận "đi" về phía nhà
bà Tự Nhung và Thảo hồi hộp nhìn theo dấu chị. Mỗi "bước"
chị "đi" qua, đám cỏ lao xao nhưng mau trở về vị trí cũ. Lại
cũng may là có gió. Những cơn gió đồng lõa với những tiếng
xào xạc của cỏ làm sự di động của chị khó ai nhận biết.
Cỏ lại cao nên chị chỉ "đi" được vài "bước" là đã mất
dấu. Đoạn đường ngắn ngủi nhưng thời gian chờ đợi thì
lại thật dài. Sau cùng, Nhung và Thảo cũng nghe được tiếng
cửa mở rít lên. Đến lúc ấy, Thảo mới hoàn hồn, cô nhích
lại gần Nhung. Hai tiếng thở phào cùng vang lên một lượt.
- Tội nghiệp bà Thanh. Nhung biết không, sợ qúa, bà ấy....bà
ấy....
Nhung không nói, gật đầu thông cảm.
Chuyến đi ấy vẫn không thành. Nhung chán nản tính bỏ cuộc.
Nhưng mỗi lần nhận thư và tiền Lâm gởi về cùng những lời
bóng gió giục giã là Nhung lại nôn nả tìm mối này, mối nọ
Liên tiếp trong ba tháng Nhung nhận cả chục lá thư của Lâm làm
nàng càng thêm bấn loạn. Nàng thương nhớ Lâm nên rất mong đi
được để gặp lại chàng. Lâm và Nhung yêu nhau từ hồi nàng
còn học trung học và được cả hai gia đình chấp thuận. Lâm bị
động viên, vừa ra trường khóa Trừ Bị Thủ Đức và Nhung vừa
học xong sư phạm chưa kịp cưới thì mất nước.
Tuy vậy, Lâm cũng phải đi học tập gần ba năm. Đến khi gia
đình Lâm chưng đủ bằng chứng quốc tịch Pháp và đút lót khá
nhiều Lâm mới được thả về.
Lâm theo gia đình xuất ngoại do sự can thiệp đặc biệt của
toà đại sứ Pháp ngay sau đó. Trước khi Lâm đi, họ đã đính
hôn. Nếu không vì lập gia đình mà Lâm phải ở lại thì họ đã
làm đám cưới. Mẹ Lâm dù thương Nhung nhưng bà lại không muốn
con trai bà bị kẹt lại trên mảnh đất có một chế độ qúa ư
quái gở này. Bà khuyên Lâm nên đi trước rồi tìm đường cho
Nhung qua sau vì như thế vẫn dễ hơn. Lâm vâng lời mẹ vì chàng
nhận thấy mẹ chàng có lý.
Khi đến nơi, Lâm liên lạc ngay với các cơ quan liên hệ. Ở
đâu Lâm cũng chỉ được trả lời là chưa có chương trình bảo
lãnh cho vợ chưa cưới. Lâm thì chưa đủ điều kiện và thời
gian định cư cần thiết để có thể về cưới Nhung mà đem
nàng đi được. Hoặc nếu có thì ngày ra đi của Nhung cũng trong
vòng chờ đợi và không ai biết là chờ đợi đến bao giờ.
Thấy Lâm buồn, gia đình cũng như bạn bè Lâm bàn với chàng
rằng đề nghi. Nhung vượt biên. Bàn đi tính lại thì Lâm thấy
chỉ có cách ấy là hay hơn cả. Mặc dù nguy hiểm thật nhưng
nhiều người làm và đã thành công.
Thế là dự định được thi hành.
Thư và quà ngoại quốc gởi về đều chịu sự kiểm soát rất
gắt gao. Có khi Nhung nhận lá thư đã bị bóc ra mà cũng không
dám kêu ca gì. Để qua mặt được sự kiểm soát đó, Lâm và
Nhung phải viết cho nhau bằng những mật mã đã dặn nhau từ
trước và chỉ có họ mới biết được là họ muốn nói gì.
Đọc thư Lâm, Nhung hiểu là Lâm muốn nàng tìm cách ra đi. Mỗi
lần nghĩ đến đi, Nhung lại ngần ngại và xót xa thương cha mẹ
. Ông bà Đức chỉ có hai người con, Hải và Nhung. Như bao thanh
niên cùng lứa tuổi, Hải đang ở trong trại cải tạo. Rã ngũ
chạy về, Hải đem vợ con về nhà cha mẹ . Khi trình diện học
tập cải tạo, chàng thật thà tin tưởng rằng chỉ có mười
ngày như lời họ nói. Chàng an ủi vợ :
- Em ạ, mười ngày thôi thì cũng chẳng nhiều nhặn gì. Em và
con cứ an tâm ở với ba mẹ . Anh về rồi mình tính.
Thế mà gần năm năm rồi vẫn chưa thấy Hải trở về. Ông bà
Đức thương con, thương dâu, thương đàn cháu ngoan bốn đứa
nên đầu ông cứ bạc thêm, mắt bà cứ yếu thêm vì khóc. Chút
tiền bạc dành dụm được của những ngày ông làm cán sự ở
bịnh viện từ từ biến thành quà thăm nuôi cho con trai, bù
đắp cho bày cháu nhỏ. Hạnh, vợ Hải, dù có giỏi giang tần tảo
thì cũng chỉ kiếm thêm rau mắm giữa thời buổi gạo châu củi
quế. May mà bà Đức còn khoẻ mạnh, săn sóc được cho lũ trẻ
để Hạnh rảnh rang buôn bán. Còn ở nhà, Nhung còn giúp đỡ cha
mẹ lo cho bày cháu chút đỉnh, nhưng nếu Nhung đi, bà Đức sẽ
mất đi một cánh tay và chắc chắn là sẽ buồn hơn nữa. Nhưng
nếu nàng đi được, nàng sẽ có điều kiện giúp cha mẹ và chị
dâu được nhiều hơn. Ấy là chưa kể sau này biết đâu nàng
chẳng bảo lãnh được cho ông bà Đức. Người ta chẳng vẫn
đồn rằng có con cháu đi ngoại quốc là sẽ có cơ hội bảo
lãnh cho gia đình, cho cha mẹ là gì. Cứ như thế, Nhung với trăm
ngàn nỗi suy tính thiệt hơn, cộng với sự hối thúc của Lâm
làm Nhung như điên lên được.
Cuối cùng, Nhung cũng vượt khỏi hải phận VN. Qua một đêm
lắc lư theo tàu mệt lả, đến trưa hôm sau thì ai cũng ngất
ngư. Sóng cấp bốn và mưa như trút. Chủ tàu nói phải ra đi
vào lúc thời tiết xấu như thế thì mới có nhiều hy vọng
thoát được sự kiểm soát gắt gao của bọn công an biên phòng.
Phải liều mới được!
Xế chiều hôm sau thì trời ngưng mưa nhưng mây vẫn âm u dày
đặc và gío vẫn dữ dằn. Một số đàn ông gốc hải quân
hoặc đi biển đã quen, ít say sóng hơn nên đã dắt dìu vợ
con, anh em họ lên khỏi hầm tàu. Gần phân nửa là đàn bà trẻ
con. Họ nằm ngồi la liệt trong lòng tàu và ói mửa lên nhau.
Số người qúa say sóng, không lên trên được, nằm lịm trong
hầm tàu có cả Nhung. Ở đây, nước biển, dầu máy, và các
thứ từ trong bao tử cho ra trộn lẫn vào nhau thành một thứ
nước bầy nhầy, đen ngòm, nồng nặc, hôi hám và dơ bẩn.
Vũng nước ấy giận dữ xô đẩy nhau theo sự lắc lư nhiều
ít của con tàu và đôi lúc chồm tới, phủ lên tóc, lên mặt,
thấm vào quần áo những người nằm lại không chút xót
thương. Đã thế, những gì có được từ trong bao tử của
những người ở phiá trên cũng đều cho ra sạch sẽ. Những thứ
ấy hoà cùng nước tiểu khai nồng của người lớn cũng như
trẻ con đã len qua kẽ ván lòng tàu chảy cả xuống đầu, xuống
mặt, xuống quần áo những người ở dưới. Cũng may mà Nhung
qúa say sóng để không biết thế nào là dơ bẩn, nếu không,
trong
hoàn cảnh đó, chắc Nhung cũng đến chết đi vì ghê sợ.
Tàu đi được hai đêm một ngày thì sóng bắt đầu êm. Sang
ngày thứ ba, bầu trời trong lại. Người trên tàu đã hết ói
nhưng vẫn nằm như cá hộp. Nhung cũng đã lên được khỏi
hầm. Quần aó Nhung đã khô đổi màu lem luốc và cứng nên
mỗi khi cử động kêu lên sột soạt. Mái toc' dài óng ả của
Nhung không còn óng ả nữa mà dính bết lại từng chùm. Nhung
đưa tay vuốt, nàng có cảm tưởng như chạm phải những sợi dây
thừng ẩm. Một chất dinh dính bám vào tay làm Nhung thấy ghê
ghê, nhờn nhợn.
Nhung không thấy đói, chỉ thấy dã dượi, mệt và khát nước.
Mọi người chuyền tay nhau bình nước bằng nhựa và mỗi
người chỉ được uống mỗi lần một cái nắp bình đầy và
uống ba lần một ngày để cầm chừng.
Đầu óc trống rỗng, mệt mỏi, Nhung ngồi dựa lưng vào thành
tàu nhìn ra biển cả. Trước mặt nàng bát ngát một màu xanh
thật đẹp. Nắng buổi sáng rực rỡ long lanh trên mặt nước.
Không có đường chân trời mà biển và trời là một màu xanh
hài hoà kỳ diệu. Ở tận cùng tầm mắt, biển và trời như
nối liền lại với nhau. Biển qúa đỗi hiền hòa. Hiền hòa
như chưa từng bao giờ có sóng. Biển như một hồ nước mênh
mông xanh thẳm với mặt hồ gợn sóng lăn tăn. Biển với hai
cánh tay bao dung ôm lấy con tàu như hai cánh tay mẹ hiền dang ra
đón lấy đứa con với vô vàn yêu dấu. Biển nên thơ và trong
lành vô tội. Biển thật đầy, thật đẹp. Đẹp như tình em cho
anh đấy, Lâm ơi. Nghĩ đến Lâm, Nhung thấy lòng êm hẳn lại.
Cuối cùng, em đã bỏ hết để ra đi. Em sắp gặp được anh
rồi Lâm a. Nhưng cũng vừa nghĩ đến đây niềm vui vừa tới
đột nhiên biến mất. Nhung chợt thấy lòng mình buồn bã. Ồ,
thật thế sao? Có phải mình đã thật sự rời khỏi quê hương
mình sao? Mình rời xa cha mẹ mình thật rồi sao? Ơi, Mẹ Một
người mẹ hiền hoà cả đời nhẫn nhục hy sinh cho chồng con.
Đời mẹ như không có niềm vui riêng và chỉ lấy niềm vui của
chồng của con làm niềm vui của mình. Ơi Chạ Một người cha
hiền lành lúc nào cũng thương yêu gia đình rất mực. Lúc nào
cũng tiện tặn phần mình để nhường đồng lương bé nhỏ của
mình cho no con, đủ vợ . Ơi những đứa cháu ngoan ngoãn dễ
thương luôn luôn chạy theo gọi "cô Nhung, cô Nhung...." Ơi, bạn
bè, ơi tuổi xanh và ơi kỷ niệm! Nói đến kỷ niệm, Nhung lại
nhớ da diết chiếc bàn học cũ với bao buồn vui của phần
đời. Đó là chiếc bàn cũ kỹ kê ở góc phòng từ những ngày
còn là học trò cho đến khi là cô giáo. Những buổi tối học
thi, và lá thơ tình vụng dại đầu đời được Nhung viết
viết, xé xé cũng trên chiếc bàn đó. Cũng chiếc bàn đó
những lúc Lâm đến thăm, hai người đã ngồi hằng giờ tâm
sư. Những chồng vở đem từ trường về cũng được chấm
trên đó . Những đêm soạn bài khuya cũng trên bàn đó và những
thư từ của Lâm cũng được xếp gọn gàng trong ngăn kéo
đó...Tất cả đã xa thật rồi sao?
Ôi. Việt Nam.... Việt Nam, một mảnh đất thân yêu nhưng cũng
đầy đau khổ. Đến bao giờ... có bao giờ mình được trở
lại quê hương tội nghiệp của mình không ? Ngôi trường với
khuôn sân rộng và bốn cây phượng đầy hoa đỏ ở bốn góc
sân mỗi độ hè về....hình ảnh và khuôn mặt từng đứa học
trò xinh xắn, dễ thương cứ chờn vờn trong trí tưởng...Thật
thế không? Từ đây, tất cả chỉ còn là dĩ vãng ? Đôi mắt
Nhung cay sè. Cơn đau ập đến và Nhung thấy lòng mình xót xa
chìm đắm vào nỗi tiếc thương. Bất chợt, nàng nghĩ đến
mấy câu thơ:
Ngoái nhìn quê cũ lòng đau
Bao hải lý, bấy nhiêu sầu, nước ơi
Mênh mông những biển cùng trời
Một ranh trời biển chia đôi muôn trùng...
Người bên ấy nhớ ta không ???
Ba ơi, Mẹ ơi, phương ấy ba mẹ có nhớ con không? Còn con, con
nhớ ba mẹ lắm. Cu Bi, cu Tèo, bé Nhè, bé Mũm ơi, cô nhớ các
bé qúa. Chị Hạnh ơi, em nhớ chi. Chị về làm dâu ba mẹ thì em
mới bắt đầu học lớp Đệ Lục. Chúng ta là chị dâu em chồng
mà thương nhau như chị em ruột. Chị có nhớ những lần em nấu
canh mặn, cơm khô bị mẹ trách, chị nhận cho em không? Chị có
nhớ lúc em mới quen Lâm, ba bảo em còn nhỏ, cấm em. Nhớ Lâm
qúa em buồn ngơ ngẩn. Chị tội nghiệp, hẹn Lâm đến nhà bạn
chị và xin phép ba mẹ cho em đi chơi với chị để em gặp Lâm
không? Ôi...bao giờ...bao giờ em mới lại về. Bao giờ gia đình
ta mới lại đoàn tụ như xưa? ...
Mặc cho những giọt lệ theo nhau tràn xuống má, Nhung thấy mặn
ở môi nhưng không buồn lau nước mắt. Chưa lúc nào Nhung thấy
bơ vơ, nhỏ bé và bất lực như lúc này. Nàng cảm thấy một
mất mát qúa lớn lao và lòng tràn đầy đau khổ. Gía của hai
chữ Tự Do qúa lớn. Nàng phải đánh đổi bằng cả tình thương
yêu và sự đoàn tụ của một gia đình. Biển xanh vẫn đẹp
nhưng nàng không còn cảm thấy vẻ đẹp của nó nữa. Tự nhiên,
nàng cảm thấy một nỗi tức giận trào dâng. Nàng giận cho
chế độ tham tàn để Lâm và nàng phải ra đi. Nàng giận luôn
cả biển. Giận bọn người dã man làm đất nước đau thương
thì nàng hiểu được nhưng giận biển thì thật là phi lý.
Nàng biết mình vô lý nhưng không thể phân tích. Ừ, đúng
rồi. Cũng biển. Biển đã đưa mình đi xa để không còn
được ở bên những người yêu dấu. Biển đã chôn sống
biết bao người dân Việt Nam vô tội. Biển làm bộ hiền lành
để che giấu dữ dằn nghiệt ngã của sóng gió thê lương.
Biển giả dối lắm. Giả dối như những con người từng khoe
là nhân đạo, từng khoe là chiến thắng. Họ chiến thắng gì và
chiến thắng ở đâu? Ừ, thì cứ cho là họ chiến thắng như
họ khoe đi nữa nhưng thật sự trong tình cảm và lý trí người
dân trên mảnh đất bị họ chiếm đoạt kia, họ hoàn toàn chiến
bại. Nếu không, sao bao người phải bỏ họ mà đi ? Bởi họ,chính
họ. Họ chứ không phải biển. Họ là nguyên nhân của sự chia
lià.Họ là nguyên nhân của những cái chết đau thương tức
tưởi. Càng nghĩ, Nhung càng cảm thấy nỗi đau lớn qúa. Bên
cạnh nỗi nhớ thương cha mẹ,ý nghi về những kỷ niệm thân yêu
bỗng chốc trở thành qúa khứ làm Nhung như người bị rơi vào
khoảng chân không. Dù có chuẩn bị tinh thần cách nào đi nữa,
Nhung cũng vẫn không thể chấp nhận mau chóng một đổi thay
mất mát to lớn quá trong đời. Bây giờ, Nhung mới hiểu rằng
tại sao lúc trước nhiều người đã bước xuống tàu rồi mà
bỏ cuộc. Rằng tại sao ngày 30/4 có những con tàu đã ra đến
hải phận quốc tế mà sau đó lại trở lại nơi họ nhổ neo. Và
chính Nhung, nàng đã mất bao nhiêu tiền bạc, công sức để chỉ
mong cuộc vượt trốn thành công. Nay, những giờ phút kinh hoàng
nguy hiểm đã qua và con tàu đang tiến về miền đất hứa thì
cớ sao lòng nàng lại không vui ? Nhung sắp gặp lại Lâm rồi
mà. Trước khi đi, Nhung vẽ cho mình bao nhiêu là hình ảnh mộng
mơ hạnh phúc khi vượt thoát. Chẳng phải là Nhung từng ước
mong được Lâm ôm chầm lấy bằng hai cánh tay thương yêu của
chàng và Nhung sẽ khóc trong lòng chàng cho thỏa niềm thương nhớ
đó sao? Chẳng phải là ai cũng ôm mộng ra đi, dù biết rằng
đi như thế cái chết rình rập và có thể đến với họ bất
cứ lúc nào đó sao? Những ý nghĩ miên man mâu thuẫn cứ thi
nhau chiếm trọn tâm hồn Nhung. Nàng cảm thấy buồn vui lẫn
lộn. Nghĩ đến sự tàn bạo của những con người CS Nhung lại
thầm cảm ơn Thượng Đế đã đưa con tàu ra khỏi hải phận
Việt nam, đã đưa nàng rời xa quê hương khốn khổ. Niềm vui
dù to lớn thật nhưng vẫn không đủ làm tan đi bao xúc cảm
buồn đau của kẻ phải rời bỏ những gì thân yêu nhất. Chưa bao
giờ Nhung thấy thấm thía về ý nghĩa của hai chữ QUÊ HƯƠNG
như lúc này. Cũng như gia đình, quê hương là một thực thể
hiện hữu mà ai cũng có từ lúc chào đời. Vì thế, những
hình ảnh gia đình, quê hương đã thấm vào dòng máu, hoà tan
trong hơi thở và gắn bó với tâm hồn. Có xa quê mới thấy
quê hương là một nơi chốn con người đặt bao tình cảm thiêng
liêng và thương nhớ khôn nguôi. Bởi thế nên qua bao nhiêu
thế hệ, các bậc anh hùng liệt nữ trong lịch sử VN đã chẳng
ngại ngần hy sinh cả mạng sống mình cho quê hương đó sao. Thế
mà từ nay, với Nhung, quê hương chỉ còn trong trí nhớ vì đã
xa cách ngàn trùng. Nhung biết là mình đã có cái may vượt
thoát khỏi gông cùm cộng sản. Đúng. Trên một phương diện nào
đó và chỉ ở một phương diện nào đó thôi, nàng đã vượt
thoát. Nhưng cùng một lúc, nàng chìm đắm và không thể vượt
thoát đươc sự tù đày của dằn vặt nhớ thương.
Một vệt sóng dài nối cái đuôi tàu với miền xa tắp rồi
chìm trên mặt biển. Cuối vệt sóng đó là quê hương. Quê
hương mỗi lúc một xa và mịt mùng trong màu xanh của trời, của
biển. Lòng ngổn ngang mâu thuẫn, Nhung thấy xót xa thương
những người không may mắn còn ở lại và thương cả kẻ may
mắn đã ra đi. Càng nghĩ, càng buồn. Nhung ngôì bất động,
dựa lưng vào thành tàu, hai cánh tay vòng lại ôm lấy hai đầu
gối như cố giữ lại chút hình ảnh cuối cùng. Nàng vẫn nhìn
thẳng nhưng không còn thấy rõ màu tươi xanh của biển trời
trước mặt. Mắt Nhung lại mờ đi. Hình như những dòng nước
mắt lại âm thầm chảy dài trên má và Nhung lại cảm thấy mằn
mặn ở một góc môi.
Ngô Minh Hằng.

No comments: