Alan Phan - Viết từ một đám tang
Alan Phan
Vừa qua tôi được chứng kiến một chuyện đau lòng: một đám tang của một người
trẻ ở Thanh Hóa. Người chết là một người đàn ông còn trẻ, Anh 39 tuổi – (tôi xin
dùng chữ hoa để gọi Anh. Vừa thể hiện tấm lòng thương cảm, xót xa của tôi với
hoàn cảnh của Anh; vừa “tiễn đưa Anh về với đất qua những dòng này, dù không
khóc nỉ non nhưng tôi cũng đang đứt từng khúc ruột” – như cách nói của Nam
Cao trong “Điếu Văn”). Anh có mẹ già, vợ và 2 con còn nhỏ dại.
Quê anh là một vùng quê thuần nông như bao làng quê khác ở xứ Thanh. Mang tên
Phú Điền nhưng nó chẳng có gì là “phú” cả. Vẫn nghèo hèn, lạc hậu, âm u…; vẫn
những tiếng kêu của ếch nhái, của chão chuộc khi đêm về làm buổi đêm thêm u
tịch, thê lương. Người dân trong làng bây giờ vẫn như các làng quê khác là chỉ
toàn người già, con trẻ; con gái đẹp bỏ làng mà đi hết…
Quê Anh nghèo nên như bao thanh niên khác, Anh phải bỏ lại mẹ già con dại ở
lại cho người vợ trẻ chăm sóc, khăn gói quả mướp từ Thanh Hóa vào tận Bình Dương
kiếm sống. Công việc của Anh là dùng hóa chất để sơn đồ gỗ, đơn giản nhưng độc
hại. Thương mẹ già con dại, Anh làm việc ngày đêm. Nào tăng ca, nào làm thêm
giờ… bất chấp công việc rất độc hại. Làm việc vất vả như thế nhưng cũng như bao
người lao động tha phương cầu thực khác, điều kiện ăn ở của Anh thật tồi tệ. Căn
phòng trọ ổ chuột tồi tàn, nóng nực; những bữa ăn thiếu chất…là những điều Anh
phải đối diện hàng ngày. Mà thực ra, Anh đã phải đối diện những điều tồi tệ này
gần chục năm rồi. Anh dự kiến là tháng Tư này là về quê sinh sống. Tháng Tư
không thành, lại tính sang tháng Bảy này. Ai ngờ…
Trưa một ngày đầu tháng Bảy vừa qua, sau khi tắm rửa, Anh lên giường đi ngủ.
Đến chiều tối khi mọi người cùng xóm trọ đi làm về thì đã thấy Anh mất rồi. Anh
ra đi không lời trăn trối, không người thân bên cạnh. Đau xót là Anh ra đi vì bị
đột quỵ do làm việc quá sức, điều kiện ăn ở khó khăn. Đau xót hơn nữa là những
nguyên nhân này đa số là do chủ quan - chính chúng ta tự gây ra.
Nếu kinh tế không quá khó khăn, nếu vùng quê Anh có nhiều nhà máy xí nghiệp,
nếu ở quê Anh cũng có thể dễ dàng kiếm được việc làm để nuôi mẹ già con dại v.v…
thì Anh đã không phải đi tha phương cầu thực, để rồi phải đón nhận một kết cục
đau lòng như thế. Dĩ nhiên để có nhà máy xí nghiệp, có điều kiện phát triển bản
thân… là rất khó nhưng không đến mức là không thể. Phụ thuộc phần lớn vào chúng
ta. Nếu cơ chế mở, thành phần kinh tế tư nhân cũng bình đẳng như thành phần kinh
tế nhà nước, nếu chúng ta không ấu trĩ khư khư đi những lối mòn mà nhân loại đã
đi hàng trăm năm trước (ý của TS Alan Phan)… thì tình hình đất nước
chắc sẽ khác. Lúc đó mỗi người dân sẽ được là chính mình, sẽ có một môi trường
tự do để cho mỗi công dân có thể phát huy hết khả năng của mình, phát triển đến
giới hạn có thể của mỗi người tùy theo khả năng như thế nào mà thôi (ý của
tiểu thuyết siêu kinh điển Suối Nguồn). Báo chí Mỹ khi so sánh sự khác biệt
giữa TQ và Mỹ có một điểm đáng chú ý thế này: người Mỹ được tự do phát huy hết
khả năng của mình còn người TQ phải phụ thuộc vào lề thói, truyền thống… Kết quả
là người Mỹ có được những kì tài hoặc quái tài làm thay đổi TG như Bill Gates,
Steve Jobs… còn người TQ thì không tìm thấy có ai như vậy. Và người ta kết luận
rằng, nếu nước Mỹ vẫn giữ được sự tự do thực sự: tự do ngôn luận và đa nguyên
chinh trị; sự sáng tạo luôn được coi trọng tuyệt đối thì nước Mỹ sẽ luôn dẫn đầu
và hiển nhiên là TQ không thể đuổi được. Sự so sánh này cũng tựa như là so Việt
Nam chúng ta với Mỹ vậy. Nói đâu xa, nếu GS Ngô Bảo Châu mà không làm việc ở
nước ngoài thì anh sẽ không bao giờ giải được Bổ đề Langlands như chúng ta biết.
Còn mới đây chỉ riêng chuyện bình thường là chữa bệnh nhưng nhiều người có tiền
lại sang Singapore, Thái… làm chúng ta thất thoát hàng năm khoảng 1 tỷ USD. Khi
được hỏi rằng tại sao lại không chữa ở nhà thì có người trả lời: sang nước ngoài
thì trình độ của họ vẫn vậy, có khi không cao hơn mình bao nhiêu nhưng chúng tôi
vẫn sang vì ở đó chúng tôi mới được coi là… người, còn ở VN thì…
(Vienamnet)! Xin miễn phải bình luận!
Ước gì Việt Nam chúng ta có một môi trường tự do thực sự, để lúc đó mỗi công
dân chúng ta được “là người đích thực”, để khi nói về con người “ta
phải trân trọng, chứ sao lại thương hại” (Goorki), phải dùng chữ hoa
“NGƯỜI” khi nói về con người. Mà những điều này sao lại quá xa xôi đến mức chúng
ta phải ước nhỉ? Nhân loại tiến bộ đã đấu tranh không ngừng nghỉ trong suốt
triều dài lịch sử và nhiều nơi đã dành được sự tự do thực sự cho dân tộc mình.
Với riêng VN chúng ta, qua quá trình phát triển, bằng sự hội nhập quốc tế, chúng
ta đã hiểu kết quả và ý nghĩa của các cuộc cách mạng, đó chính là một xã hội tự
do thực sự: đa nguyên chính trị, tự do ngôn luận. Thế nhưng sao bây giờ chúng ta
vẫn chưa có điều đó? Để mỗi người dân chúng ta vẫn “chưa là con người đích
thực”, kéo theo đất nước vẫn còn nghèo nàn lạc hậu. Để thay đổi thì cũng
không phải là quá khó khăn nhưng chúng ta vẫn không thay đổi? Tại sao khi nhận
thấy những điều này mà chúng ta vẫn chấp nhận? “Ơn trên cũng bắt đầu sốt
ruột với sự thụ động, ì trệ của chúng ta” (TS Alan Phan). Để rồi đất nước
khó khăn vẫn cứ mãi khó khăn. Và tình hình khó khăn này không biết bao giờ mới
chấm dứt?
Rồi sẽ còn bao người phải đi tha phương cầu thực nơi đất khách? Với nhiều
người trong số những người này có thể họ không bị chết sớm như Anh nhưng nếu họ
sống thì họ cũng chỉ sống với nghĩa là tồn tại. Nếu VN không có quá nhiều quyết
sách sai lầm thì bây giờ chúng ta sẽ phát triển đến mức mà chúng ta có thể là
(nói theo ý Suối Nguồn), chứ không đến mức khó khăn như bây giờ. Hãy coi như
chúng ta đã sai lầm và bây giờ phải sửa sai. Tuy nhiên những suy nghĩ ấu trĩ đã
ngăn cản sự thay đổi để sửa sai. Những lợi ích nhóm đã cản trở sự thay đổi. Bất
công là bọn nó thì giầu có, thuận lợi nhưng đại đa số người dân thì rất khổ cực.
Có bao nhiêu số phận giống Anh nhưng bọn chúng không mảy may thương xót, bởi nếu
chúng nghĩ được chúng sẽ thay đổi. Thật đau xót vì sự vô cảm của chúng.
Bây giờ để đất nước phát triển phải cần nhiều thời gian, chúng ta biết điều
đó. Tuy nhiên điều chúng ta mong muốn và có thể sớm biến thành hiện thực là VN
là một xã hội dân chủ thực sự, để mỗi công dân được coi là một con người đích
thực. Lúc đó dù cuộc sống khó khăn nhưng chúng ta cũng sẽ vẫn vui vẻ. Chúng ta
không chấp nhận định hướng “cải cách kinh tế rồi mới dẫn đến cải cách chinh
trị” bới “cải cách kinh tế rồi mới dẫn đến cải cách chính trị là một
định hướng sai lầm” (bài viết trên BBC mới đây). “Ai không luyến tiếc
khi CNXH tan rã là người không có trái tim nhưng nếu ta vẫn muốn tồn tại CNXH là
người không có khối óc” (V. Putin). Và hơn nữa “tự do dân chủ đã trở
thành quyền phát triển, quyền sống chứ không đơn thuần là quyền chính trị
nữa” (Đối thoại với tương lai – Nguyễn Trần Bạt). “Chế độ dân chủ thực
sự” bây giờ là quyền sống, không đơn thuần là quyền chính trị – chúng ta
cần điều đó ngay lập tức, không một thế lực nào có thể khất lần được. Nếu thế
lực nào đó khất lần thì đó thì đó chính là kẻ thù của sự phát triển, kẻ thù của
mỗi người dân chúng ta. Thế lực đó cần phải được tiêu diệt ngay lập tức!
Anh à, từ đám tang của Anh nói về vấn đề bức xúc nhất của xã hội VN hiện nay,
Anh cho phép nhé. Với mong muốn góp một viên gạch nhỏ trên con đường phát triển
VN, để VN sớm thành nước dân chủ thực sự: đa nguyên chính trị, tự do ngôn luận.
Khi đó VN chắc chắn sẽ phát triển hơn, sẽ có ít người phải vất vả như Anh. Nếu
còn khó khăn thì chí ít lúc đó mỗi chúng ta cũng sẽ được coi là người đích thực,
khi đó sống mới là sống – cuộc sống đích thực. Chặng đường còn dài nhưng đó là
con đường tất yếu của Việt Nam! Việt Nam nhất định có ngày đó và ngày đó sẽ
không còn xa phải không Anh?
Cầu mong tâm hồn Anh siêu thoát. Vĩnh biệt Anh!
(Thanh Hóa – Hà Nội những ngày đầu tháng
7-2012)
Nợ xấu và mùa đông của suy thoái (phần 1)
26.07.2012
Xét về mặt vĩ mô, Việt Nam đã tạm thời vượt qua giai đoạn nguy
cấp nhất, khi hệ thống ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ hàng loạt.
Lãi suất liên ngân hàng là một chỉ dấu quan trọng của hệ thống. Tại thời điểm cuối quý 3, đầu quý 4 năm ngoái, lãi suất liên ngân hàng lên rất cao, có thời điểm tới hơn 40%. Đó là dấu hiệu của tình trạng mất thanh khoản nghiêm trọng tới mức có thể phá sản bất kỳ lúc nào của nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ.
Từ đầu năm trở lại đây, lãi suất liên ngân hàng đã giảm nhiều, hiện nay đã nằm ở mức một con số. Điều đó cho thấy mặc dù còn một số ngân hàng nhỏ vẫn trong vùng nguy hiểm, nhưng câu chuyện đổ vỡ hàng loạt có vẻ như đã được tạm thời loại bỏ.
Từ chỗ chênh vênh bên miệng núi lửa của khủng hoảng tài chính hồi nửa cuối năm ngoái, kinh tế Việt Nam đang đi dần vào một mùa đông lạnh giá của suy thoái toàn diện.
Mùa đông của suy thoái
Lạm phát đã hạ nhiệt, tốc độ tăng giá tiêu dùng trong 6 tháng qua chỉ có 2.52% so với mức tăng 13.33% của 6 tháng đầu năm 2011 và 3.37% của 6 tháng đầu năm 2010. Điều này không lạ vì giữa tăng trưởng tín dụng và lạm phát có quan hệ nhân quả rất chặt chẽ với độ trễ khoảng 6 tới 8 tháng. Việc lạm phát thấp tại thời điểm này là kết quả của việc thắt chặt tiền tệ - tín dụng từ khoảng tháng 4 tới tháng 12 năm ngoái.
Lãi suất ngân hàng nhờ các quyết định hành chính liên tục kế tiếp nhau của Ngân hàng Nhà nước đã giảm về mức thấp đáng kể so với năm ngoái. Lãi suất huy động không kỳ hạn về còn 9% trong khi lãi suất huy động có kỳ hạn nằm ở mức 12% - 13% và lãi suất cho vay chính thức giảm còn khoảng 15% - 17%.
Do lãi suất tiền Đồng trong suốt năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012 rất cao so với tốc độ trượt giá đồng tiền và việc nhà nước siết chặt quản lý kinh doanh ngoại hối ngoài luồng, sức ép về tỷ giá lên VND trong giai đoạn vừa qua không lớn. Tiền Đồng cơ bản giữ được giá trị sau đợt phá giá mạnh hồi tháng 2 năm ngoái.
Sự ổn định này phần nhiều mang tính tình huống và giả tạo. Lạm phát sẽ lại bùng phát trở lại một khi tín dụng tăng trở lại giống như kịch bản hồi năm 2010: Năm 2008 gặp lạm phát cao tương tự năm 2011. Năm 2009 lạm phát giảm do hiệu ứng độ trễ của chính sách thắt chặt vào cuối năm 2008, giống như những gì đang diễn ra hiện nay. Năm 2010 lạm phát vụt lên trở lại ở mức hai con số sau khi chính sách tiền tệ - tín dụng được nới lỏng một phần.
Lãi suất giảm trong thời gian qua phần nhiều là do các biện pháp hành chính. Trên thực tế, lạm phát đã giảm rất mạnh và Ngân hàng Nhà nước đã bơm khá nhiều tiền vào hệ thống ngân hàng thương mại và dư địa tín dụng được mở toang từ đầu năm nhưng hệ thống ngân hàng thương mại (mất thanh khỏa mạnh và nợ xấu trên 10%) vẫn phải cạnh tranh quyết liệt để dành dật nguồn tiền gửi. Vì thế lãi suất huy động vẫn cao hơn rất nhiều so với lạm phát.
Câu chuyện tranh cãi về lãi suất thực dương hay âm, sau hơn 1 năm, vẫn đối mặt với câu trả lời từ thực tế là lãi suất thực vẫn còn dương, và dương rất nhiều. CPI tháng 5 và tháng 6 vừa qua so với cùng kỳ năm ngoái lần lượt là 8.34% và 6.9% trong khi lãi suất huy động trung bình vẫn còn ở mức hai con số. Điều này dẫn tới chuyện lãi suất cho vay có giảm nhưng còn xa mới nằm trong sức chịu đựng hợp lý của hệ thống doanh nghiệp.
Tương tự như thế, áp lực về tỷ giá hiện nay ở mức thấp là do trênh lệch về lãi suất gửi VND và USD quá cao. Ngay cả khi điều chỉnh yếu tố trượt giá, thì lãi suất thực – tức là lãi suất tiền Đồng trừ đi lạm phát của tiền Đồng - vẫn cao hơn nhiều so với USD. Tuy nhiên vì tỷ giá được giữ cố định cho nên người dân chỉ quan tâm đến lãi suất danh nghĩa: tiền Đồng không mất giá với USD, lãi suất tiền Đồng cao hơn từ 3 lần (hiện nay) tới 5 lần (như hồi năm 2011) so với lãi suất USD, vì thế không có lý do gì phải giữ USD. Mức trênh lệch quá lớn này đủ để bảo vệ người giữ tiền Đồng ngay cả khi tiền Đồng bị phá từ 5% (năm nay) tới 15% (năm ngoái). Đó là lý do lớn để đồng VND ổn định trong thời gian qua. Tuy nhiên, lòng tin này của người giữ tiền Đồng sẽ bị phá vỡ ngay khi lãi suất tiền Đồng giảm tới mức mà chênh lệch lãi suất VND và USD không còn đủ lớn để cho họ cảm giác an toàn nữa.
Tăng trưởng kinh tế, theo con số chính thức của Tổng cục Thống kê, cũng giảm trở về mức thấp nhất trong khoảng 10 năm trở lại đây. GDP của 6 tháng đầu năm nay tăng 4.38% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức thấp nhất trước đó là 4.46% vào Q2, 2009. Và điều này hợp lý bởi vì cuộc củng hoảng năm 2008-2009 diễn ra khi sức chịu của hệ thống doanh nghiệp còn tương đối tốt do có một thời gian dài tăng trưởng đều đặn và nhiều doanh nghiệp huy động được tài chính do phát hành cổ phiếu cho các nhà đầu tư để tạo thành cái đệm tiền mặt (cash cushion) cho doanh nghiệp khi tín dụng bị thắt chặt.
Trong giai đoạn hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp không còn được lợi thế này nữa và vì thế sức chịu đựng của họ kém hơn rất nhiều so với hồi 3 năm trước. (Còn tiếp)
Lãi suất liên ngân hàng là một chỉ dấu quan trọng của hệ thống. Tại thời điểm cuối quý 3, đầu quý 4 năm ngoái, lãi suất liên ngân hàng lên rất cao, có thời điểm tới hơn 40%. Đó là dấu hiệu của tình trạng mất thanh khoản nghiêm trọng tới mức có thể phá sản bất kỳ lúc nào của nhiều ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ.
Từ đầu năm trở lại đây, lãi suất liên ngân hàng đã giảm nhiều, hiện nay đã nằm ở mức một con số. Điều đó cho thấy mặc dù còn một số ngân hàng nhỏ vẫn trong vùng nguy hiểm, nhưng câu chuyện đổ vỡ hàng loạt có vẻ như đã được tạm thời loại bỏ.
Từ chỗ chênh vênh bên miệng núi lửa của khủng hoảng tài chính hồi nửa cuối năm ngoái, kinh tế Việt Nam đang đi dần vào một mùa đông lạnh giá của suy thoái toàn diện.
Mùa đông của suy thoái
Lạm phát đã hạ nhiệt, tốc độ tăng giá tiêu dùng trong 6 tháng qua chỉ có 2.52% so với mức tăng 13.33% của 6 tháng đầu năm 2011 và 3.37% của 6 tháng đầu năm 2010. Điều này không lạ vì giữa tăng trưởng tín dụng và lạm phát có quan hệ nhân quả rất chặt chẽ với độ trễ khoảng 6 tới 8 tháng. Việc lạm phát thấp tại thời điểm này là kết quả của việc thắt chặt tiền tệ - tín dụng từ khoảng tháng 4 tới tháng 12 năm ngoái.
Lãi suất ngân hàng nhờ các quyết định hành chính liên tục kế tiếp nhau của Ngân hàng Nhà nước đã giảm về mức thấp đáng kể so với năm ngoái. Lãi suất huy động không kỳ hạn về còn 9% trong khi lãi suất huy động có kỳ hạn nằm ở mức 12% - 13% và lãi suất cho vay chính thức giảm còn khoảng 15% - 17%.
Do lãi suất tiền Đồng trong suốt năm 2011 và 6 tháng đầu năm 2012 rất cao so với tốc độ trượt giá đồng tiền và việc nhà nước siết chặt quản lý kinh doanh ngoại hối ngoài luồng, sức ép về tỷ giá lên VND trong giai đoạn vừa qua không lớn. Tiền Đồng cơ bản giữ được giá trị sau đợt phá giá mạnh hồi tháng 2 năm ngoái.
Sự ổn định này phần nhiều mang tính tình huống và giả tạo. Lạm phát sẽ lại bùng phát trở lại một khi tín dụng tăng trở lại giống như kịch bản hồi năm 2010: Năm 2008 gặp lạm phát cao tương tự năm 2011. Năm 2009 lạm phát giảm do hiệu ứng độ trễ của chính sách thắt chặt vào cuối năm 2008, giống như những gì đang diễn ra hiện nay. Năm 2010 lạm phát vụt lên trở lại ở mức hai con số sau khi chính sách tiền tệ - tín dụng được nới lỏng một phần.
Lãi suất giảm trong thời gian qua phần nhiều là do các biện pháp hành chính. Trên thực tế, lạm phát đã giảm rất mạnh và Ngân hàng Nhà nước đã bơm khá nhiều tiền vào hệ thống ngân hàng thương mại và dư địa tín dụng được mở toang từ đầu năm nhưng hệ thống ngân hàng thương mại (mất thanh khỏa mạnh và nợ xấu trên 10%) vẫn phải cạnh tranh quyết liệt để dành dật nguồn tiền gửi. Vì thế lãi suất huy động vẫn cao hơn rất nhiều so với lạm phát.
Câu chuyện tranh cãi về lãi suất thực dương hay âm, sau hơn 1 năm, vẫn đối mặt với câu trả lời từ thực tế là lãi suất thực vẫn còn dương, và dương rất nhiều. CPI tháng 5 và tháng 6 vừa qua so với cùng kỳ năm ngoái lần lượt là 8.34% và 6.9% trong khi lãi suất huy động trung bình vẫn còn ở mức hai con số. Điều này dẫn tới chuyện lãi suất cho vay có giảm nhưng còn xa mới nằm trong sức chịu đựng hợp lý của hệ thống doanh nghiệp.
Tương tự như thế, áp lực về tỷ giá hiện nay ở mức thấp là do trênh lệch về lãi suất gửi VND và USD quá cao. Ngay cả khi điều chỉnh yếu tố trượt giá, thì lãi suất thực – tức là lãi suất tiền Đồng trừ đi lạm phát của tiền Đồng - vẫn cao hơn nhiều so với USD. Tuy nhiên vì tỷ giá được giữ cố định cho nên người dân chỉ quan tâm đến lãi suất danh nghĩa: tiền Đồng không mất giá với USD, lãi suất tiền Đồng cao hơn từ 3 lần (hiện nay) tới 5 lần (như hồi năm 2011) so với lãi suất USD, vì thế không có lý do gì phải giữ USD. Mức trênh lệch quá lớn này đủ để bảo vệ người giữ tiền Đồng ngay cả khi tiền Đồng bị phá từ 5% (năm nay) tới 15% (năm ngoái). Đó là lý do lớn để đồng VND ổn định trong thời gian qua. Tuy nhiên, lòng tin này của người giữ tiền Đồng sẽ bị phá vỡ ngay khi lãi suất tiền Đồng giảm tới mức mà chênh lệch lãi suất VND và USD không còn đủ lớn để cho họ cảm giác an toàn nữa.
Tăng trưởng kinh tế, theo con số chính thức của Tổng cục Thống kê, cũng giảm trở về mức thấp nhất trong khoảng 10 năm trở lại đây. GDP của 6 tháng đầu năm nay tăng 4.38% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức thấp nhất trước đó là 4.46% vào Q2, 2009. Và điều này hợp lý bởi vì cuộc củng hoảng năm 2008-2009 diễn ra khi sức chịu của hệ thống doanh nghiệp còn tương đối tốt do có một thời gian dài tăng trưởng đều đặn và nhiều doanh nghiệp huy động được tài chính do phát hành cổ phiếu cho các nhà đầu tư để tạo thành cái đệm tiền mặt (cash cushion) cho doanh nghiệp khi tín dụng bị thắt chặt.
Trong giai đoạn hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp không còn được lợi thế này nữa và vì thế sức chịu đựng của họ kém hơn rất nhiều so với hồi 3 năm trước. (Còn tiếp)
No comments:
Post a Comment