Tại
sao tôi lại bỏ công viết về đề tài nầy trong khi từ hàng chục thế kỷ
nay, bao nhiêu triết gia, nhà lý luận, nhà khoa học đã hao tốn công sức
mà chẳng đi đến đâu; bao nhiêu cuộc chém giết đẫm máu từ thế hệ nầy qua
thế hệ khác trên mọi mảnh đất của quả địa cầu nầy vẫn chưa giải quyết
được gì?
Câu
trả lời là, tôi cần viết lại để trước hết hệ thống hóa những gì trong
đầu, để dễ cho tôi suy nghĩ, lý luận và đúc kết những kiến thức đã thu
nhập được. Chắc chắn bài này không có tham vọng thuyết phục ai hết. Tôi
đoán biết rằng số người có cùng cách nhìn giống hay tương tự với tôi rất
nhỏ, trong khi số người có thể sẽ cảm thấy bị xúc phạm khi đọc những gì
tôi viết là rất lớn, và rất nhiều những người nầy hiện đang là bạn bè,
thân quyến, láng giềng, đồng nghiệp của tôi. Phải nhìn nhận đây là điều làm tôi lưỡng lự nhất khi thảo luận về đề tài nầy.
Trong
nhiều bài viết, tôi thường lấy Thiên Chúa giáo (Christianity) làm thí
dụ khi nói về những tôn giáo tin vào sự hiện hữu của một "Đấng Tối Cao".
Lý do duy nhất là vì Thiên Chúa giáo là một tôn giáo lớn, quen thuộc
với nhiều người, kể cả tôi, trong xã hội phương Đông lẫn phương Tây. Tôi
ít nhắc đến Hồi giáo (Islam) tuy Hồi giáo cũng là một tôn giáo lớn và
tin ở một Thượng đế Độc tôn, lý do là vì kiến thức của tôi về Hồi giáo
ít ỏi so với về Thiên Chúa giáo.
Dữ
kiện trình bày ở đây phần lớn đi từ kiến thức "phổ thông", cộng với quá
trình nghiên cứu qua sách vở và Internet. Nếu cần tìm hiểu thêm, bạn
đọc hãy vào Google tìm những chữ như "theism", "atheism", "agnosticism",
"creationism", "evolution", v.v. Trong đó ta sẽ tìm thấy rất nhiều bài
viết thảo luận về những tư tưởng tương tự nhưng nội dung chi tiết, thâm
sâu, bao quát hơn nữa.
Vài định nghĩa
Thuyết vô thần (atheism) là gì?
Theo một định nghĩa, người theo thuyết vô thần "không tin ở sự hiện hữu
của Thượng đế". Việc "không tin" nầy phải đi từ một sự quyết định và
lựa chọn hẳn hoi của người đó. Nếu một người vì chưa hề nghe biết đến
khái niệm của Thượng đế là gì nên không tin ở sự hiện hữu của Thượng đế
thì, theo định nghĩa nầy, người đó không phải là vô thần.
Theo
một định nghĩa khác, người vô thần "tin rằng không có Thượng đế". Sự
khác nhau giữa hai quan điểm nầy tuy nhỏ nhưng rất quan trọng. Quan điểm
"tin rằng không có Thượng đế" là triệt để và khẳng định hơn quan điểm
"không tin ở sự hiện hữu của Thượng đế". Tuy nhiên, theo luận lý học thì
người xác quyết một điều phải có trách nhiệm đưa ra bằng chứng để minh
chứng điều đó, trong khi người phủ nhận một điều không có trách nhiệm
đó.
Có
người theo phái vô thần vì họ không thấy bằng chứng nào về sự hiện hữu
của Thượng đế cả. Có người theo phái vô thần vì họ thấy rằng khái niệm
"Thượng đế" trong những tôn giáo lớn kể trên rất tự mâu thuẫn
(self-contradictory) và trái nghịch với phép luận lý (illogical). Và có
người không cần dựa vào lý luận, sách vở gì cả; họ thấy thuyết vô thần
chỉ là một điều hiển nhiên, tự nhiên, không có gì cần để bàn cãi.
Trái ngược với thuyết vô thần là thuyết hữu thần (theism).
Theo định nghĩa, một người hữu thần tin rằng Thượng đế hiện hữu. Trong
khi người vô thần đều có cái nhìn giống nhau ở điểm cho rằng "Thượng đế
không hiện hữu", phái hữu thần phân chia ra nhiều tập hợp khác nhau gọi
là tôn giáo. Mỗi tôn giáo có một Thượng đế, một kinh thánh, một chế độ
quản trị tín đồ, v.v. khác nhau (và hầu như không có tôn giáo nào đồng ý
với tôn giáo khác về những vấn đề trên).
Nói
chung, Thượng đế trong nhiều tôn giáo được coi là đấng Tối cao tuyệt
đối. Theo Thiên Chúa giáo, Thượng đế là toàn năng (omnipotent), hiện
diện khắp nơi (omnipresent) và toàn trí (omniscient). Mỗi tôn giáo cũng
có kinh sách khác nhau chứa đựng những lời Thượng đế dạy. Trong Thiên
Chúa giáo có Kinh Thánh, Hồi Giáo có Koran, v.v [1] .
Nói
đến thuyết hữu thần và vô thần thì phải nói đến thuyết bất khả tri
(agnosticism). Danh từ "bất khả tri" được Thomas Huxley nêu lên năm
1889. Theo gốc chữ Hy Lạp, từ nầy có nghĩa là "không có - kiến thức"
("a-gnosis"). Người theo phái bất khả tri cho rằng cả hai quan điểm
"Thượng đế chắc chắn hiện hữu" và "Thượng đế chắc chắn không hiện hữu"
đều vô căn cứ và vô giá trị vì chưa hề, và có thể sẽ không bao giờ, có
bằng chứng cụ thể xác nhận được điều nầy.
Một
người theo thuyết bất khả tri tin rằng con người không thể nào biết rõ
về tất cả tính chất, cấu tạo, cách vận hành, v.v. của thế giới siêu
nhiên; và do đó cũng không thể biết rõ là có Thượng đế hay không. Mặt
khác, người theo phái bất khả tri cũng sẽ không ngần ngại thừa nhận giá
trị của bất cứ sự kiện nào nếu có bằng cớ minh chứng rõ ràng bằng phương
pháp khoa học thực nghiệm.
Ngôn
ngữ không bao giờ chính xác 100%. Từ ngữ có thể mang nhiều nghĩa khác
nhau. Có người dùng những định nghĩa trên một cách rộng rãi hơn người
khác. Vì vậy khi thảo luận với một người tự xưng là "hữu thần", "vô
thần" hay "bất khả tri", cần biết người ấy xác định rõ ràng những từ đó
mang nghĩa gì. Có người hiểu "bất khả tri" là người lưỡng lự (có nghĩa
là không biết bên nào đúng bên nào sai) giữa thuyết vô thần và hữu thần.
Có người cho chữ "vô thần" có nghĩa là không tin ở Thượng đế cũng như
bất cứ hiện tượng siêu nhiên nào (thí dụ như linh hồn, luật quả báo, đầu
thai, tái sinh, v.v.). Có người tự cho mình là "vô thần" nhưng vẫn nhìn
nhận những hiện tượng siêu nhiên kể
trên.
Chủ thuyết nào?
Theo
những định nghĩa trên, chắc chắn tôi không phải thuộc phái hữu thần.
Tôi không tin ở sự hiện hữu của Thượng đế, đặc biệt là một Thượng đế
được nhân cách hóa (có nghĩa là có tất cả những biệt tính từ hình dáng
đến tâm lý của con người, thí dụ như trong Thiên Chúa giáo).
Thay
vì tin ở sự hiện hữu của Thượng đế như một nhân trạng (a personality
god), tôi tin rằng có những định luật bao quát chi phối, điều khiển, vận
hành, ảnh hưởng (và có thể tạo lập ra) tất cả mọi vật, mọi thứ trong
tất cả mọi vũ trụ (kể cả những vũ trụ mà con người có thể không nhận
thức được). Những định luật nầy lớn hơn, rộng hơn và thâm sâu hơn tất cả
những định luật trong ngành vật lý mà khoa học ngày nay đã phát hiện.
Những định luật khoa học ngày nay chỉ là những trường hợp riêng của
những định luật vũ trụ, và chỉ "đúng" trong một số môi trường giới hạn.
Những định luật vũ trụ, hay những "huyền lực" nầy áp dụng vào vạn vật
trong vũ trụ một cách bất
di
bất dịch, không có cá tính, không có tình cảm, không có nhân cách; hay
nói cách khác là không hề giống như bất cứ Thượng đế của bất cứ tôn giáo
nào.
Với
quan niệm trên, tôi cũng không thuộc phái vô thần chính thống. Richard
Dawkins (sinh năm 1941) là một trong những tác giả tiên phong nổi tiếng
của chủ thuyết vô thần hiện nay. Ông cho rằng những ai, mặc dù không tin
ở sự hiện hữu của Thượng đế nhưng lại tin vào những hiện tượng "siêu
nhiên" thí dụ như linh hồn, nghiệp lực (Karma), có thế giới khác ngoài
thế giới vật chất, sự tái sinh, đồng bóng, ma ám, dĩa bay, người hành
tinh, v.v. đều không thuộc vào trường phái của ông. Tôi rất ái mộ
Dawkins với lối lý luận cứng rắn của ông, nhưng không đồng ý với ông ở
chỗ phủ nhận tất cả những hiện tượng "siêu nhiên" kể trên.
Theo
tôi, "siêu nhiên" là những hiện tượng thiên nhiên mà khoa học hiện tại
không hay chưa thể giải thích được. Trong lịch sử nhân loại có biết bao
nhiêu hiện tượng "siêu nhiên" đã biến thành kiến thức phổ thông về
"thiên nhiên" theo sự phát triển của khoa học. Phủ nhận đồng loạt các
hiện tượng siêu nhiên như một tập thể chung có lẽ là một thái độ vội
vàng. Với sự tiến hóa của khoa học, biết đâu các hiện tượng nầy sẽ trở
thành kiến thức phổ thông một ngày nào đó trong tương lai.
Một vài nhận định
Tôi
tôn trọng tín ngưỡng (belief) và đức tin (faith) của người khác. Ai
cũng có quyền tin ở một điều gì đó một cách vô điều kiện. Họ không cần
phải biện hộ cũng như không cần chứng minh với ai khác về niềm tin của
họ là "đúng" hay "hợp lý". Nhưng lòng tin không phải là khoa học. Hầu hết lòng tin hữu thần đều phát sinh trước khi khoa học thực nghiệm thành hình.
Ngày nay hầu hết, nếu không phải là tất cả, những đức tin nầy đều không
được chấp nhận khi được kiểm nghiệm bởi phương cách khoa học. Cố tình
gán ép những phát hiện khoa học với đức tin để bênh vực giá trị của lý
thuyết hữu thần - thí dụ như chủ thuyết Thiết kế Thông minh (Intelligent
Design) -
chỉ
là một cách ngụy biện rất phổ biến ngày nay.
Dưới đây là vài nhận định thêm của tôi về vấn đề nầy.
1. Thượng đế không tạo ra con người mà ngược lại chính con người tạo ra Thượng đế.
Trước
hết, ai cũng phải công nhận là con người hơn các loài thú ở chỗ nhờ sự
tiến hóa của bộ óc, con người có thể dự tính cho tương lai xa và suy tư
về những khái niệm trừu tượng.
Khi
đối diện với những hiện tượng thiên nhiên chung quanh mình như mưa bão,
sấm sét, núi lửa, động đất, lụt lội, thú dữ v.v..., con người thời tiền
sử phải rất hoang mang, sợ hãi. Với trình độ hiểu biết hạn hẹp về thiên
nhiên con người cảm thấy bất an và bất lực. Họ cần phải có lối thoát và
vì vậy đã "phát minh" ra khái niệm "thần linh" dính liền vào những hiện
tượng nầy để giải thích và trấn an mình. Từ đó họ có đủ các loại thần
linh như thần mưa, thần bão, thần sấm, thần sét, thần lửa, thần rắn,
thần cọp, v.v. Bằng cách tôn thờ và cúng tế, con người thượng cổ cảm
thấy rằng họ có thể mua chuộc được ân huệ và sự bảo vệ của những thần
linh, mong làm suy giảm
ít
nhiều những ảnh hưởng xấu của các hiện tượng trên đối với họ.
Tương
tự, con người từ thuở sơ khai đã phải đối diện với các hiện tượng thiên
nhiên mà kinh hãi nhất là sự chết. Một lần nữa con người cần có một lối
thoát và lối thoát nầy là khái niệm của sự sống sau khi chết. Bản năng
sinh tồn của con người không chấp nhận được sự hủy diệt của sự sống và
kết thúc tuyệt đối sau khi hiện tượng chết xảy ra. Và vì con người là
một loài thú sống tập thể nên trong những thế giới thực và siêu nhiên do
họ tự tạo ra nầy, con người cần phải có một con thú đầu đàn với đầy đủ
quyền năng và uy lực để hướng dẫn và bảo vệ. Từ đó, con thú đầu đàn cao
cả nhất của loài người được sinh ra với tên "Thượng đế".
Nói
một cách khác, xuất phát từ những cảm giác đơn độc trong thế giới bao
la, khi đối diện với đau khổ, nguy hiểm, tai ương mà không có lối thoát,
và nhất là từ nỗi cô đơn tột cùng khi phải đối diện với cái chết mà con
người cần có và cần tin rằng có một Thượng đế cũng như đủ hạng loại
thần linh khác.
2. Quan niệm "Thượng đế" cũng đã trải qua một quá trình tiến hóa
Hãy
tưởng tượng một người tiền sử đang đi trong rừng và bất ngờ bị một bầy
thú dữ rượt theo ăn thịt. May mắn thay, anh ta leo được lên một cành cây
cao nên tạm thời thoát chết. Trong khi ngồi trên cây run rẩy nhìn xuống
bầy thú dữ chực chờ dưới đất, anh nhận thấy rằng mình đang ở đường cùng
nên anh sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì miễn sao là có chút hy vọng sẽ
thoát khỏi cảnh nguy hiểm nầy. Anh sực nhớ đến những câu chuyện ai đó
trong bộ lạc kể về một vị thần nọ. Mặc dầu không tin lắm vào những câu
chuyện nầy, anh ta cũng bắt đầu khấn vái rằng nếu thần cứu anh khỏi bị
đám thú dữ lần nầy thì anh sẽ trả ơn, bằng cách sẽ dâng cúng con vật săn
được đầu tiên ngày
mai
chẳng hạn.
Có hai trường hợp xảy ra ở đây:
Trường hợp thứ nhất:
chẳng may anh vuột tay té xuống đất và bị đám thú dữ ăn thịt. Hết
chuyện. Không ai bao giờ biết đến việc anh ta đã cầu khẩn vị thần nọ để
cứu mạng nhưng vẫn chết.
Trường hợp thứ hai:
vì lý do gì đó mà đám thú dữ cuối cùng bỏ đi nên anh thoát nạn trở về.
Một trong những chuyện anh ta làm đầu tiên là kể lại cho những người
trong bộ lạc từng chi tiết về sự thoát hiểm của anh, trong đó có việc
"nhờ cầu khẩn mà đã được thần cứu mạng". Không bao lâu sau vị thần nọ sẽ
chính thức trở thành "thần cứu nạn" của cả bộ lạc và của cả những bộ
lạc lân cận khi họ nghe kể về chuyện nầy.
Đây
chính là một hình thức "tuyển chọn trong thiên nhiên" (natural
selection) như được diễn tả bởi thuyết tiến hóa (evolution theory). Chỉ
có những dữ kiện hỗ trợ cho lòng tín ngưỡng của thần thánh mới được sống
còn để tăng trưởng. Những dữ kiện khác không thích hợp đều bị gạt bỏ và
quên lãng. Hơn nữa, con người luôn luôn có khuynh hướng chỉ nghe thấy
những gì họ muốn nghe thấy.
Vô
số những thí dụ tương tự có thể áp dụng cho lòng tin ở sự phù hộ của
Thượng đế. Chúng ta có khuynh hướng cho rằng con người ngày nay với nền
khoa học tiến triển vượt bực không thể còn lý luận một cách ngu muội như
con người tiền sử kia được. Nhưng trong thực tế thì con người ngày nay
cũng vẫn chỉ nghe thấy những gì họ muốn nghe thấy.
Nhìn
vào lịch sử của Thiên Chúa giáo chẳng hạn, chúng ta có thể thấy ngay
Thiên Chúa giáo ngày nay khác hẳn với Thiên Chúa giáo của thời kỳ đầu.
Từ quan niệm về một số luận đề cơ bản cho đến cách truyền bá tôn giáo,
cách dẫn dắt tín đồ v.v. trong 2000 năm chúng đã biến hóa rất nhiều để
thích ứng với hoàn cảnh xã hội mới, với khám phá của khoa học. Nếu không
có quá trình tiến hóa nầy, chắc Thiên Chúa giáo không còn giữ một vị
trí khá vững vàng trong môi trường chính trị cũng như nhân sinh của nhân
loại như ngày nay.
3. Có thể chứng minh được sự không-hiện-hữu của Thượng đế hay không?
Theo
tôi, nếu muốn chứng minh thuyết "Thượng đế không hiện hữu" là sai trái,
phái hữu thần chỉ cần tìm ra một bằng chứng là Thượng đế có hiện hữu.
Nhưng cho đến bây giờ, chưa ai từng đưa ra được một bằng chứng nào cho
thấy Thượng đế hiện hữu.
"Bằng
chứng" phải là một sự kiện hay hiện tượng có thể nhìn thấy hay đo lường
được bằng giác quan hay dụng cụ khoa học một cách rõ ràng. Những sự
kiện, hiện tượng nầy phải có thể được lặp lại tại nhiều nơi và nhiều
thời điểm khác nhau. Thí dụ trong môi trường sống bình thường trên trái
đất, bằng chứng về sự hiện hữu của trọng lực có thể được minh chứng và
được chấp nhận dễ dàng, bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, bởi bất cứ ai.
Viện vào "Kinh Thánh dạy như vậy" hay dựa trên "cảm giác", "linh cảm",
"cảm nhận", v.v. đều không được coi là bằng chứng vì những điều nầy chỉ
là chủ quan, không phải là khách quan.
Do
đó, ta có thể nói rằng vì chưa có ai chứng minh được thuyết "Thượng đế
không hiện hữu" là sai, cho nên thuyết nầy rất có thể đúng.
Hơn
nữa, phái hữu thần cũng không thể đòi hỏi phái vô thần phải đưa bằng
chứng ra là không có Thượng đế thì họ mới tin là Thượng đế không hiện
hữu. Lý do là vì phái hữu thần vẫn thường dùng cách lý luận nầy một cách
thuận lợi cho họ. Hãy lấy Thiên Chúa giáo làm thí dụ: Thiên Chúa giáo
không bao giờ chấp nhận sự hiện hữu của những vị Thượng đế của những tôn
giáo khác, như là Allah của Hồi giáo hay Brahman của Ấn Độ giáo. Vậy mà
tín đồ Thiên Chúa giáo có bao giờ đưa ra được bằng chứng là Allah và
Brahman không hiện hữu đâu?
Nói
chung là, từ đầu ta có thể thấy rằng thuyết vô thần ("không tin Thượng
đế hiện hữu") thuận lợi và dễ thuyết phục hơn thuyết hữu thần ("Thượng
đế hiện hữu") ở chỗ là người hữu thần cần phải đưa ra bằng chứng về sự
hiện hữu của Thượng đế. Trong khi đó, người vô thần không cần phải đưa
ra bằng chứng nào vì họ không khẳng định một điều gì cả.
Tôi
không rõ lối biện luận nầy có thể làm thuyết vô thần đáng tin cậy hơn
thuyết hữu thần hay không. Đến nay chúng ta có thể kết luận một cách
chắc chắn là thuyết hữu thần không thể khẳng định niềm tin về sự hiện
hữu của Thượng đế của họ là đã được minh chứng.
4. Làm sao giải thích được những hiện tượng "huyền bí", "phép lạ"?
Những
người theo phái hữu thần thường có khuynh hướng gọi những hiện tượng mà
khoa học không giải thích được là "huyền bí", là "phép lạ". Họ dùng sự
kiện nầy để qui ra rằng phải có một đấng thiêng liêng, đấng Tối cao,
Thượng đế.
Theo
tôi, bất cứ ở nơi đâu, ở thời điểm lịch sử nào cũng có nhiều sự kiện,
nhiều hiện tượng xảy ra mà nhà khoa học trong môi trường và thời điểm đó
không thể giải thích được. Có rất nhiều lý do mà lý do thông thường
nhất là vì mức độ hiểu biết của người quan sát chưa đủ để thấy, để hiểu,
để đo lường, để giải thích được những hiện tượng nầy.
Trong
lịch sử, có rất nhiều hiện tượng mà chúng ta ngày nay gọi là "thiên
nhiên" đã từng được tôn giáo cho là "huyền bí". Trong một thời gian dài
nhiều thiên niên kỷ những nền văn minh vĩ đại nhất của nhân loại như Ai
Cập, La Mã, Trung Hoa, In-ca đã tôn thờ thần Sấm, thần Sét, thần Mưa,
thần Gió, thần Mặt trời, thần Núi lửa, thần Đất, thần Sông, thần Biển,
thần Chiến tranh, thần Tình yêu, thần Sinh sản, thần Tiền tài, . v.v.
Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học kỹ thuật và ý thức xã hội hiện
đại, phần lớn chúng ta chỉ bật cười khi nghe kể về những niềm tin nầy.
Chúng ta tưởng rằng loài người đã vượt lên khỏi những khái niệm ấu trĩ
đó. Nhưng chúng ta có thật đã thay đổi
gì
lắm ở phương diện nầy hay không? Theo tôi thì không.. Trong Thiên Chúa
giáo chẳng hạn, tất cả những vị thần ngày xưa chỉ được thay thế bằng một
vị thần lớn nhất mà họ gọi là Thiên Chúa mà thôi. Đó là vì theo tôn
giáo nầy, "Thiên Chúa tạo ra và điều hành mọi vật", từ sấm, sét, gió,
mưa, mặt trời, núi lửa, v.v. đến cả tình yêu, văn hóa, nghệ thuật, v.v.
Hơn
nữa, theo tôi, đại đa số những cái gọi là "phép lạ" được diễn tả bởi
các tôn giáo đều rất mơ hồ và chủ quan. Những "phép lạ" nầy không hề
được kiểm nghiệm hay minh chứng bằng phương pháp khoa học và thường
không được công nhận bởi cả nhiều người trong chính tôn giáo đó. Đại đa
số những cái gọi là "phép lạ" chẳng qua chỉ là trường hợp tự kỷ ám thị
để thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của chính họ mà thôi.
Ngoài
ra, theo tôi, có rất nhiều trường hợp "phép lạ" chỉ là do sự giàn dựng
của con người vì lý do lợi nhuận. Ai cũng thấy được là mỗi khi có một
"phép lạ" hiện ra tại một thôn làng hẻo lánh thì tất cả những dịch vụ
giao thông, buôn bán, thương mại, địa ốc, v.v. của toàn khu vực thường
tăng vọt lên gấp bội lần trong một thời gian rất ngắn. Chính những lợi
ích tài chính khổng lồ nầy là động lực rất lớn khiến cho những người có
quyền lợi dính liền đến những "phép lạ" thường nỗ lực tích cực để bảo vệ
"giá trị thiêng liêng" của chúng. Và một trong những cách bảo vệ hữu
hiệu nhất là ngăn cản không để khoa học có cơ hội khám nghiệm kỹ càng để
xác nhận thực chất
của
những "phép lạ" nầy.
5. Không tin ở Thượng đế thì làm sao sống một đời sống đạo đức được?
Theo
tôi thì phái hữu thần hiểu nghĩa chữ "đạo đức" khác với phái vô thần.
Thiên Chúa giáo chẳng hạn, tin rằng Thiên Chúa qua Kinh Thánh đặt ra
những luật lệ mà loài người phải tuân theo. Ai sống theo những gì Kinh
Thánh dạy là có đạo đức, ai làm ngược lại là vô đạo đức. Trong khi đó,
người vô thần dựa vào những gì con người cảm nhận một cách tự nhiên là
"đúng" mà gọi là "đạo đức" chớ không dựa vào những gì "Thiên Chúa" răn
họ phải làm.
Có
nhiều hành vi (thí dụ như yêu thương đồng loại, giúp đỡ người hoạn nạn,
không trộm cắp, không nói dối, v.v.) được cả người vô thần và hữu thần
đều cùng cho là "đạo đức" nhưng vì những lý do khác nhau. Người vô thần
không làm điều vô đạo vì họ cảm thấy những điều đó trái với lý lẽ sống
tự nhiên của con người, trong khi người hữu thần tuân thủ những điều răn
trong Kinh Thánh.
Theo
tôi, "đạo đức" là một hiện tượng tâm lý hoàn toàn độc lập với tôn giáo.
Hoặc vì từ cá tính bẩm sinh hoặc vì từ môi trường sinh sống hay cơ cấu
giáo dục, có những người thường đã có sẵn một mức độ "đạo đức" trong họ.
Những người nầy dù có theo một tôn giáo nào hay không, họ vẫn cảm thấy
từ đáy sâu của bản năng của họ những hành động "đạo đức" là "đúng".
Tương tự, có những người, trong một khía cạnh, một lãnh vực nào đó trong
đời sống, không có "đạo đức". Những người nầy không cảm thấy "sai" khi
họ làm những việc thiếu "đạo đức".
Nhiều
tôn giáo dựa sự trừng phạt để dạy con người về "đạo đức". Thí dụ điển
hình lại là trong Thiên Chúa giáo: những kẻ không làm theo lời Kinh
Thánh hay Thiên Chúa thì sẽ bị đốt cháy đời đời trong Hỏa ngục. Theo
tôi, sự đe dọa không phải lúc nào cũng là một phương cách hiệu quả để
giáo dục con người. Sự đe dọa có thể đem lại một cảm giác tội lỗi cho
con người chớ không thể làm họ trở thành thật sự "đạo đức" hơn.
Đe dọa bị trừng phạt có thể dùng để đè nén nhiều hành động "kém đạo đức"
nhưng không thể hoàn toàn cấm cản những hành động nầy xảy ra. Hàng ngày
trong xã hội xưa nay chúng ta đã và đang thấy có biết bao nhiêu người
tuy rất sùng
đạo nhưng vẫn cố tình vi phạm những qui luật "đạo đức" cơ bản nhất của
chính tôn giáo họ.
Tóm
lại, theo tôi, tôn giáo hay sự tin tưởng ở Thượng đế không phải là điều
kiện cần và đủ để sống một cuộc đời đạo đức như nhiều người theo phái
hữu thần thường phát biểu.
-----------------------------------------------
[1]
Tôi không đưa Phật giáo vào những tôn giáo hữu thần ở đây vì theo kinh
Phật, Thích Ca Mâu Ni chỉ cho mình là "Thầy" chỉ đường đi đến giác ngộ
chớ không bao giờ tự xưng là Thượng đế của loài người hay vũ trụ. Theo
tôi, phần lớn Phật giáo ngày nay đã bị biến thể trở thành một tôn giáo
mang dạng hữu thần và đầy những mê tín dị đoan nhảm nhí
No comments:
Post a Comment