Cập nhật: 13:13 GMT - thứ tư, 11 tháng 7, 2012
Cuốn 'cẩm nang' cho
chiến lược phát triển Việt Nam kèm cảnh báo về hậu quả của đường lối
hiện tại của Việt Nam mà các giáo sư Havard trao tận tay Thủ Tướng
Nguyễn Tấn Dũng đến nay vẫn bị bỏ qua và không được công bố trước công
chúng.
Hai năm sau khi nhậm chức, vào năm 2008, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tìm đến Trường Kennedy thuộc Đại Học Harvard
để tham vấn về một chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn 2011-
2020 qua “Chương Trình Châu Á” của Đại học này.Cuộc gặp gỡ được báo chí trong nước ca ngợi là cởi mở, thẳng thắn và mang lại nhiều hi vọng phát triển cho Việt Nam.
Tuy nhiên cho đến ngày hôm nay, trước thực trạng kinh tế xã hội Việt Nam, nhiều ý kiến cho rằng những chiến lược cùng các lời cảnh báo mà nhóm nghiên cứu gồm các vị David Dapice, Dwight Perkins, Nguyễn Xuân Thành, Vũ Thành Tự Anh, Huỳnh Thế Du, Jonathan R. Pincus, Anthony Saich, Benjamin H. Wilkinson đưa ra đã bị phớt lờ.
Các nhóm đặc quyền
Bốn năm trước, nhóm giáo sư Harvard đã cảnh báo trước hậu quả từ sự trục lợi của các nhóm đặc quyền có ảnh hưởng chính trị lớn đang biến của công thành của riêng khiến chất lượng đầu tư công vào các Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) không hiệu quả, làm mất đi nguồn lực vươn lên của Việt Nam trong lúc nền kinh tế lẫn người dân vẫn phải chịu gánh nặng kinh phí.“Sự ưu ái của Nhà Nước đối với các công ty dựa vào các mối quan hệ chính trị hơn là kết quả thành công trong kinh doanh”.
“Các doanh nghiệp này vẫn được hỗ trợ vốn dù thua lỗ liên tiếp và chậm chạp trong việc nâng cao chất lượng kinh doanh vì tầm nhìn hẹp và không phải hoạt động trong môi trường cạnh tranh.”
"Nhà Nước sẽ trở nên “quá tải” trong vai trò quản lí của mình."
Bốn năm sau, Việt Nam chìm ngập trong các vụ tai tiếng từ sự đổ bể của các doanh nghiệp nhà nước với thiệt hại lên đến hàng trăm ngàn tỉ, gấp nhiều lần gói hỗ trợ doanh nghiệp của Chính phủ trong năm 2012.
Tiến sĩ Nguyễn Đình Cung – Viện Nghiên cứu Kinh tế Trung Ương nhận xét về doanh nghiệp nhà nước là “Lời ăn, lỗ cũng ăn và dân chịu.”
“Các nhóm đặc quyền này sẽ tiếp tục ngăn cản Việt Nam trong công cuộc cải cách, ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh và hạn chế kết quả tăng trưởng của Việt Nam,” nhóm nghiên cứu Harvard viết.
Quản lí yếu kém
“Hệ thống quản lí yếu kém đã luôn là nguyên nhân dẫn đến các nguồn đầu tư được sử dụng không đúng lúc, đúng nơi.”
“Lạm phát là kết quả từ những chính sách sai lầm
của chính phủ, chủ yếu xuất phát từ yếu kém trong điều hành kinh tế vĩ
mô và hoạt động đầu tư công kém hiệu quả.” – Trích dẫn tập tài liệu.
Với quyền lực tập trung chủ yếu vào các nhóm đặc
quyền nói trên, tập tài liệu đã cảnh báo Nhà Nước sẽ trở nên “quá tải”
trong vai trò quản lí của mình.
Sự quá tải này tạo cơ hội cho doanh nghiệp nhà
nước thả sức phớt lờ chủ trương của Nhà Nước yêu cầu họ tập trung vào
những ngành chiến lược và thay vào đó, mở rộng hoạt động kinh doanh sang
nhiều lĩnh vực, đồng thời tạo ra các công ty độc quyền trong nước để
ngăn chặn cạnh tranh từ công ty nước ngoài.
Quả thực, vụ tai tiếng Vinalines và Vinashin và
mức lạm phát lên đến 22% năm ngoái được giới quan sát cho là sự cao trào
của trạng thái quá tải và yếu kém trong công tác quản lí.
“Quản lí yếu kém đồng thời cũng giúp người giàu
tránh không phải trả những khoản thuế ... Khi nguồn thu quan trọng của
ngân sách bị xói mòn thì nhà nước sẽ không đủ tiền tài trợ cho chi tiêu
công”
“Sự tự do hóa tài chính cũng xảy ra quá sớm
trong khi hệ thống tài chính được thiết kế không thích hợp và chưa rõ
ràng. Điều này tạo cơ hội cho hiện tượng đầu cơ và tạo các bong bóng tài
sản.” – Nhóm giáo sư Havard cảnh báo.
Trên thực tế, sự vỡ bong bóng của thị trường
chứng khoán Việt Nam đóng góp bởi các giao dịch nội gián và hiện tượng
đầu cơ đã chứng minh những cảnh báo này là đúng.
Nghị Quyết số 11 được Chính Phủ đưa ra nhằm
“chữa cháy” dường như đã quá muộn màng, khi các báo cáo năm 2012 cho
thấy nền kinh tế Việt Nam đang đối mặt với khối
Bấm
nợ xấu khổng lồ trong bối cảnh doanh nghiệp thay nhau phá sản và hiểm họa tiềm tàng từ những món nợ khủng từ các doanh nghiệp nhà nước.
Khủng hoảng giáo dục
"Sự thất bại của ngành giáo dục không những kìm hãm sự phát triển của quốc gia mà còn duy trì sự bất công bằng trong xã hội"
Nhóm giáo sư Harvard viết: ”Các quốc gia cạnh
tranh trên cơ sở lao động rẻ không thể vượt qua mức thu nhập trung bình
thấp. Các quốc gia này phải chật vật để có được một tỉ lệ lợi nhuận mỏng
manh trong khi thị trường thế giới ngày càng trở nên tinh vi, thâm dụng
vốn và công nghệ hơn.”
Thật vậy, trong suốt những năm gần đây, giới
quan sát đang cho rằng lao động giá rẻ hiện tại đang là nguyên nhân
khiến Việt Nam phải đối mặt với “bẫy thu nhập trung bình”, khi nền kinh
tế bị kìm hãm bởi mức thu nhập thấp của người dân.
Tuy nhiên chất lượng giáo dục đứng vào bậc thấp
nhất so với các nước đang phát triển đồng khu vực hiện sẽ không đủ giúp
Việt Nam sản sinh ra những lao động chất lượng cao hơn để thay đổi điều
ấy.
“Số lượng, chất lượng giảng viên hết sức hạn chế
và hơn phân nửa sinh viên ra trường tại Việt Nam không được làm đúng
ngành đào tạo."
“Một điều đáng ngạc nhiên hơn, đó là tỉ lệ ngân
sách dành cho giáo dục trong GDP của Việt Nam là khá cao so với các nước
trong khu vực. Vậy tiền đi đâu ? Phải chăng đã bị “nuốt chửng” bởi cơ
chế hiện nay ?”
“Dưới hệ thống quản trị hiện tại, các trường đã
không có đủ quyền tự chủ để chuyên môn hóa sâu, cạnh tranh trên cơ sở
chất lượng phù hợp như cầu thị trường”
“Với một hệ thống quản trị như vậy, đổ thêm tiền
vào chỉ là giải pháp tình thế, mà không giải quyết được những vấn đề cơ
bản nhất của giáo dục Việt Nam” – Trích dẫn tập tài liệu.
Thiếu công bằng
Tập tài liệu đã chỉ ra thất bại của Chính phủ Việt Nam trong việc duy trì một xã hội công bằng.
Nhóm giáo sư Havard cho rằng, mức độ tiếp cận
với nền giáo dục của người giàu nghèo vẫn còn cách rất xa nhau, và sự
thất bại của ngành giáo dục không những kìm hãm sự phát triển của quốc
gia mà còn duy trì sự bất công bằng trong xã hội.
Tập tài liệu cũng đã nhắm đến những bất công trong vấn đề đất đai.
“Tại Việt Nam, quá trình chuyển đổi đất từ nông
nghiệp sang công nghiệp và đô thị đang làm một số người trong đó có các
quan chức giàu lên một cách nhanh chóng, trong khi khiến nhiều nông dân
trở nên thực sự vô sản.”
Nhóm giáo sư này cũng đã so sánh vấn đề tái tổ
chức đất nông nghiệp giữa Việt Nam với hai nước phát triển bậc nhất
trong khu vực là Hàn Quốc và Đài Loan:
“Trong quá trình tổ chức lại đất nông nghiệp ở
hai nước này, nông dân có thể bán lại đất của mình khi họ muốn với giá
công bằng chứ không bị cưỡng bức phải tái định cư và nhận tiền đền bù
thấp hơn giá trị thực”
Hai vụ bạo động tại Văn Giang và Tiên Lãng gần
tại Việt Nam đã chứng minh sự phớt lờ của chính phủ Việt Nam trước những
lời cảnh báo này, đồng thời cho thấy thực trạng bất công rõ rệt có xu
hướng tăng cao giữa người nông dân và người giàu trong đó có các nhóm
đặc quyền.
Cải cách cần thiết
Các giáo sư Harvard đã chỉ ra sáu lĩnh vực chính sách mà Việt Nam cần cải cách, dựa theo sự thành công của các nước Đông Á:
Giáo dục: Cần công
khai các ngân sách nhà nước dành cho giáo dục để tránh lãng phí và kém
hiệu quả. Tiến độ thực hiện cải cách giáo dục đại học phải được thúc đẩy
nhằm tận dụng lợi ích của đầu tư nước ngoài.
Cơ sở hạ tầng: Cần yêu
cầu EVN chấm dứt ngay hoạt động đầu cơ, không nằm trong ngành kinh
doanh chính nhằm tập trung vốn và nhân lực vào việc cung cấp năng lượng.
Hội đồng thẩm định đầu tư độc lập cần được đưa
ra nhằm tránh các hạng mục đầu tư kém hiệu quả bằng cách sử dụng các ý
kiến khách quan.
Minh bạch hóa các qui định về đất đai cần được tiến hành để đảm bảo một thị trường bất động sản công bằng và có tính cạnh tranh.
Các thành phố cần được đầu tư có hiệu quả để phục vụ cho mục đích dân sinh.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
Phân bổ nguồn lực giữa khu vực nhà nước và dân doanh dựa vào hiệu quả
trong khả năng sử dụng, đồng thời kết quả kiểm toán của tất cả các công
ty phải được thực hiện bởi những cơ quan kiểm toán độc lập.
"Sáu mảng chính cần cải cách: Giáo dục, Cơ sở hạ tầng, Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp, Hệ thống tài chính, Hiệu lực của Nhà Nước, Công bằng"
Hệ thống tài chính: Giảm lạm phát bằng cách nâng cao chất lượng quản lí vĩ mô và tăng cường hiệu quả đầu tư công.
Biến ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thành một ngân hàng độc lập về mặt tài chính, nhân sự, công cụ và mục tiêu.
Hiệu lực của Nhà Nước:
Loại bỏ những chính sách hoang đường không có khả năng thực hiện và hệ
thống tuyển dụng nhân sự dựa vào thâm niên, lòng trung thành và xuất
thân hiện nay để tuyển dụng người tài.
Khuyến khích tính phê phán trong nội bộ chính phủ và sự giám sát từ bên ngoài qua báo chí.
Theo đuổi định hướng cải cách một cách quyết
liệt, nhằm tránh những sai lầm của Đông Nam Á, tận dụng cơ hội hiên tại
và đáp ứng kỳ vọng của nhân dân về sự phát triển đất nước.
Công bằng: Cải thiện chất lượng giáo dục, y tế, khả năng sở hữu nhà cho người dân thành thị để tạo một xã hội công bằng thực sự.
Trợ cấp cho hoạt động đào tạo nghề để giúp người dân đứng vững trước các biến động thị trường.
Tiếp tục nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn để
tăng chất lượng sinh sống của đại bộ phận người dân Việt Nam cũng nhu
tăng năng suất và giá trị cho sản phẩm nông nghiệp.
No comments:
Post a Comment