Các bản đồ về bộ não trong lớp học về Thiền tại Hội Thiền Tánh không Paris, Noisy le Grand, 7/6/2011. RFI/Trọng Thành
Những phát triển mới trong nghiên cứu khoa học về bộ não và
nhất là các kỹ thuật đo lường và chụp ảnh những hoạt động của não cho
phép một số nhà tu hành đặt mình vào vị trí đối tượng nghiên cứu của
khoa học thần kinh.
Chúng tôi có duyên được gặp Thiền sư Thích Thông Triệt, thiền chủ Thiền viện Tánh không (Hoa Kỳ) nhân dịp ông qua Pháp giảng dậy. Thiền sư Thích Thông Triệt là người đã rất nhiều năm đeo đuổi ước vọng dùng các hiểu biết khoa học để soi sáng quá trình tu tập. Thiền sư là soạn giả cuốn sách « Thiền dưới ánh sáng khoa học », ấn hành năm 2010 (sách được dịch qua Pháp ngữ với tựa đề "Zen sous l'éclairage de la science" và Anh ngữ "Zen in the light of science”).
Cuốn sách này mô tả lại các thực nghiệm với các máy đo điện não đồ và cộng hưởng từ, mà các nhà não học thuộc trường đại học Tubingen (Đức) tiến hành trong vòng 5 năm (2006-2010) trên đối tượng là bản thân Thiền sư và các Thiền sinh theo học kỹ thuật Thiền Tánh Không.
Trước khi
ông lên máy bay trở về Hoa Kỳ, chúng tôi có dịp được gặp Thiền sư Thích
Thông Triệt tại thiền đường Hội thiền Tánh không Paris (Association
Méditation Sùnyatà). Sau đây là những lời giải thích mà Thiền sư đã dành
cho chúng tôi về chủ đề này.
RFI : Xin kính chào Thiền sư. Hôm nay có dịp được Thiền sư cho phép gặp mặt và nhận lời nói chuyện với Đài, và qua Đài chuyển tiếng nói đến những thính giả, những người Việt Nam, hoặc những người nghe và hiểu tiếng Việt, để biết được con đường tu hành của đạo Phật dưới sự soi sáng của khoa học thần kinh hiện đại. Cụ thể là tu tập theo pháp môn « Thiền » và những tác động của nó đến đời sống hàng ngày của mình, và để nó giúp mình giải quyết các vấn đề khó khăn, mà nhiều người tự bản thân còn lúng túng chưa biết giải quyết ra sao trước những trở ngại tinh thần, tâm lý, sức khỏe bệnh tật. Theo Thiền sư, pháp môn Thiền có thể đem lại những gì cho những người bình thường bị rơi vào trạng thái như vậy ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Trước hết, chúng tôi cám ơn anh Trọng Thành, đại diện cho Đài phát thanh Quốc tế Pháp đặt câu hỏi. Chúng tôi xin trả lời rằng, Thiền là do Đức Phật Thích Ca, Ngài đã tự tu và tự mình kinh nghiệm được những gì mà Ngài đã khắc khoải trước đó. Sau đó, Ngài đã thành tựu. Ngài dạy lại, và pháp môn Ngài dạy lại đó thực sự là pháp môn tu Thiền. Mà Thiền của Đức Phật nhắm làm sao giúp con người điều chỉnh lại nhận thức của mình. Vì chính nhận thức đó đưa đến cho con người khổ não, trầm luân, hay là giải thoát.
Thành ra, khi hướng dẫn người thực hành Thiền, chúng tôi nhắm khai triển những phần nào mà làm cho con người được hài hòa thân tâm của mình, và phát huy được trí tuệ tâm linh của chính mình. Cho nên phần đó, chúng tôi thường dẫn chứng bằng « Pháp » mà Đức Phật đã thành tựu được. Đó là pháp thở. Từ nơi pháp thở đó, chúng ta có khả năng điều chỉnh lại được sự rối loạn bên trong não bộ của chúng ta. Phần đó sẽ được giải thích hơn, nếu mà người đọc có nhu cầu.
Tìm ra cơ chế để « vọng tưởng » không xuất hiện
RFI : Thưa Thiền sư, Thiền sư có thể giải thích vì sao Thiền sư đã đi tìm những cơ sở khoa học và đặc biệt là cơ sở về bộ não con người để mà phối hợp với các biện pháp trong đạo Phật, do Phật truyền lại ? Vì sao Thiền sư quyết định làm như vậy ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi. Nếu không biết chức năng của các bộ phận trong não bộ của mình, mà cứ thực hành thì một ngày nào đó sẽ bị bệnh tâm thể.
RFI : Thiền sư có thể cho một ví dụ để những người đang tập, hay quan tâm đến chuyện này có thể dễ hiểu. Tức là, khi tập thiền sai lạc thì bị mắc những bệnh gì ?
Chúng tôi có duyên được gặp Thiền sư Thích Thông Triệt, thiền chủ Thiền viện Tánh không (Hoa Kỳ) nhân dịp ông qua Pháp giảng dậy. Thiền sư Thích Thông Triệt là người đã rất nhiều năm đeo đuổi ước vọng dùng các hiểu biết khoa học để soi sáng quá trình tu tập. Thiền sư là soạn giả cuốn sách « Thiền dưới ánh sáng khoa học », ấn hành năm 2010 (sách được dịch qua Pháp ngữ với tựa đề "Zen sous l'éclairage de la science" và Anh ngữ "Zen in the light of science”).
Cuốn sách này mô tả lại các thực nghiệm với các máy đo điện não đồ và cộng hưởng từ, mà các nhà não học thuộc trường đại học Tubingen (Đức) tiến hành trong vòng 5 năm (2006-2010) trên đối tượng là bản thân Thiền sư và các Thiền sinh theo học kỹ thuật Thiền Tánh Không.
RFI : Xin kính chào Thiền sư. Hôm nay có dịp được Thiền sư cho phép gặp mặt và nhận lời nói chuyện với Đài, và qua Đài chuyển tiếng nói đến những thính giả, những người Việt Nam, hoặc những người nghe và hiểu tiếng Việt, để biết được con đường tu hành của đạo Phật dưới sự soi sáng của khoa học thần kinh hiện đại. Cụ thể là tu tập theo pháp môn « Thiền » và những tác động của nó đến đời sống hàng ngày của mình, và để nó giúp mình giải quyết các vấn đề khó khăn, mà nhiều người tự bản thân còn lúng túng chưa biết giải quyết ra sao trước những trở ngại tinh thần, tâm lý, sức khỏe bệnh tật. Theo Thiền sư, pháp môn Thiền có thể đem lại những gì cho những người bình thường bị rơi vào trạng thái như vậy ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Trước hết, chúng tôi cám ơn anh Trọng Thành, đại diện cho Đài phát thanh Quốc tế Pháp đặt câu hỏi. Chúng tôi xin trả lời rằng, Thiền là do Đức Phật Thích Ca, Ngài đã tự tu và tự mình kinh nghiệm được những gì mà Ngài đã khắc khoải trước đó. Sau đó, Ngài đã thành tựu. Ngài dạy lại, và pháp môn Ngài dạy lại đó thực sự là pháp môn tu Thiền. Mà Thiền của Đức Phật nhắm làm sao giúp con người điều chỉnh lại nhận thức của mình. Vì chính nhận thức đó đưa đến cho con người khổ não, trầm luân, hay là giải thoát.
Thành ra, khi hướng dẫn người thực hành Thiền, chúng tôi nhắm khai triển những phần nào mà làm cho con người được hài hòa thân tâm của mình, và phát huy được trí tuệ tâm linh của chính mình. Cho nên phần đó, chúng tôi thường dẫn chứng bằng « Pháp » mà Đức Phật đã thành tựu được. Đó là pháp thở. Từ nơi pháp thở đó, chúng ta có khả năng điều chỉnh lại được sự rối loạn bên trong não bộ của chúng ta. Phần đó sẽ được giải thích hơn, nếu mà người đọc có nhu cầu.
Tìm ra cơ chế để « vọng tưởng » không xuất hiện
RFI : Thưa Thiền sư, Thiền sư có thể giải thích vì sao Thiền sư đã đi tìm những cơ sở khoa học và đặc biệt là cơ sở về bộ não con người để mà phối hợp với các biện pháp trong đạo Phật, do Phật truyền lại ? Vì sao Thiền sư quyết định làm như vậy ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Điều này nói ra nó hơi
dài. Nhưng nếu mà em muốn nghe, thì chúng tôi sẽ nói ra. Ngày nay, Thiền
thật sự là một môn tu cũ rồi, nhưng mà nó lại trở nên mới. Lý do là,
Thiền đã có trên thế gian này hơn 2.500 năm rồi. Tức là sau khi Đức Phật
thành đạo, bằng Thiền. Ngài dạy lại các phương pháp của ngài cũng bằng
Thiền.
Nhưng mà vì nó khó quá, nên người này chế ra phương pháp này, người
kia chế ra phương pháp kia. Mục đích để làm cho tâm mình nó yên lặng
thôi. Thành ra, những cái chế đó ấy, các sáng tạo, sáng chế đó làm cho
Thiền càng thêm rối bời thêm ra. Mỗi người làm theo ý mình, rốt cuộc nó
loạn ra. Có cả triệu (phương pháp), chứ không phải ngàn đâu. Trải qua 25
thế kỷ rồi, người thực hành Thiền rất khó khăn. Đứng trước rừng Thiền,
một cánh rừng già dày đặc, muốn vô làm sao vô đây.
Chính bản thân tôi ngày xưa cũng vậy đấy. Chúng tôi đã thất bại khi
áp dụng các phương pháp cũ. Đó là người ta giảng sao mình làm theo vậy.
Nhưng rồi, có điều bật ra từ trong não chúng tôi, chúng tôi tự giải đáp
trong não mình. Tức là đừng có « nói thầm » ! Nói thầm hoài thì « vọng tưởng »
có hoài. Vì chủ trương của Thiền là dập tắt vọng tưởng, tức là những ý
nghĩ miên man trong đầu khởi lên lên. Người này chế ra cách này, người
kia chế ra cách kia để dập tắt vọng tưởng. Chúng tôi làm đủ hết mọi
cách, nhưng không làm sao dừng được những sự « nói thầm » trong đầu của chúng tôi. Thực sự lúc đó, chúng tôi không biết đó là sự « nói thầm », chúng tôi cho rằng, đó là « vọng tưởng » thôi. Nhưng rút cục chúng tôi nhận ra rằng : A ! Cái gọi là « vọng tưởng » chính là sự « nói thầm
» trong não mình đó. Bây giờ phải làm sao cho yên lặng cái đó đi thì
mới được. Từ đó chúng tôi thực tập bằng cách không nói thầm.
RFI : Xin cắt ngang ở đây để Thiền sư giúp giải thích : « nói thầm » thì những biểu hiện ra sao, và tác hại của nó như thế nào ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Khi nói thầm, đó là cơ chế của « tưởng ». Trong não bộ của mình, nó có một cơ chế … Nhưng hồi đó, chúng tôi không biết cơ chế não bộ. Từ trong đầu nó khởi lên cái « niệm
». Nói qua nói lại với nhau. Tức là mình nói qua nói lại với mình về
một chuyện gì đó do những hình ảnh trong tâm mình khởi lên. Mình chạy
theo hình ảnh đó để mình nói, nói rồi, tâm xúc cảm mình nó đi theo hình
ảnh đó. Thành ra nội tâm không bao giờ yên lặng được.
RFI : Cái nói thầm như Thiền sư nói có thể chuyển sang diễn đạt khác là đối thoại bên trong có đúng không ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi, từ chỗ nói
thầm ban đầu, rồi đối thoại thầm lặng bên trong không bao giờ dứt. Thành
ra, từ chuyện không có gì hết bắt đầu mình vẽ ra, mình sợ hãi, mình
phiền muộn, mình giận tức luôn nữa. Nhiều khi « nó » xúi mình
giết người ta đi, hay làm những chuyện tầm bậy, tầm bạ. Vì sự đối thoại
thầm lặng đó đấy. Khi chúng tôi phát hiện lối đó, chúng tôi áp dụng cách
không nói thầm
Kinh nghiệm tu tập trong trại cải tạo
RFI : Thiền sư phát hiện điều này vào thời điểm
nào và có phải là trước khi Thiền sư bước vào nghiên cứu não đồ và các
cấu trúc não liên quan đến quá trình Thiền ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi, lúc đó là vào năm 1982, khi
tôi ở ngoài Bắc, tại trại Thanh Liệt. Chúng tôi phát hiện được rằng : Ồ,
cái « niệm » (hay vọng tưởng) mà mình muốn dừng lại đó chính
là từ sự nói thầm, khi dừng sự nói thầm thì cái niệm dừng, cái vọng
tưởng dừng. Từ đó chúng tôi hiểu rằng không nói thầm thì dẹp tan các
vọng tưởng. Từ đó chúng tôi trở nên an tịnh nội tâm được. Từ đó chúng
tôi dụng công tu.
Hai năm đầu, từ năm 1975 đến năm 1977, chúng tôi « được »
người ta nói là già 80 tuổi, thực sự lúc đó chúng tôi chỉ hơn 40 tuổi
thôi. Chúng tôi không biết sao mình già mà mới có hai năm thôi. Rồi,
chúng tôi tiếp tục riết cho tới năm 1982, khi chúng tôi ra miền Bắc. Thì
chúng tôi nhận ra rằng : sự đối thoại thầm lặng hay sự nói thầm trong
não của chúng tôi nó đưa đến thân tâm tàn tạ.
RFI : Lúc đó, có thể nói là Thiền sư đang ở
trong trại cải tạo. Phải chăng điều kiện khắc nghiệt và khổ sở, cô lập
trong trại như vậy khiến Thiền sư rơi vào trạng thái này ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Không phải, lúc đó
chúng tôi ở trong trại cải tạo như vậy, nhưng lúc đó nó là điều kiện
thích hợp cho việc tu hành của chúng tôi, vì chúng tôi đâu có tiếp xúc
với bên ngoài nữa. Đó là một điều kiện thuận lợi cho việc tu Thiền của
mình thôi. Tu Thiền là để dừng vọng tưởng, nhưng lúc đó tôi không biết
đấy là gì. Khi mà tôi nhận ra được vọng tưởng là sự nói thầm, điểm mấu
chốt, thì chúng tôi thực hành để làm sao làm chủ được sự nói thầm đó.
Cho nên chúng tôi nói rằng, cái mà Thiền tông gọi là « diệt vọng » thì không đúng, mà mình phải làm chủ vọng tưởng mới được.
Từ khi chúng tôi áp dụng cách không nói thầm trong não, thì trở nên
một cậu thanh niên đẹp, trẻ, mà không phải là ông già 80 nữa. Bằng chứng
là khi ông cán bộ đưa chúng tôi về Hà Tây, thì chúng tôi thấy rằng,
những người kia như những con khỉ già, hốc hác. Ông cán bộ nói rằng,
trong số các anh đây, anh này này ở đây lâu mà sao lại hồng hào. Nghe
như thế, chúng tôi nói, à, như thế, chúng tôi thực hành đúng rồi đó.
Đúng như thế nào, cái « nước » gì giúp cho tôi, thì thực sự chưa biết được. Nhưng chúng tôi nghĩ rằng, phải có cái chất gì, cái « nước
» gì trong đầu chúng tôi tiết ra đó để làm cho tôi được trẻ, trong
sáng. Đấy là cái ý tưởng đầu tiên nó ghi trong đầu tôi là như thế.
Hiểu biết khoa học về não giúp cho thời gian tu tập được rút ngắn
RFI : Như thế là, bắt đầu từ cái kinh nghiệm đầu
tiên mà Thiền sư cảm nhận được vào thời điểm năm 1982, đấy là khởi điểm
mà Thiền sư tiếp tục đi về hướng nghiên cứu về quan hệ giữa bộ não và
quá trình Thiền. Thiền sư có thể nói một cách rất đơn giản để thính giả
bình thường có thể hiểu được là, nghiên cứu về não tạo điều kiện như thế
nào cho việc hiểu về cơ chế của Thiền ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Nếu hiểu biết về cơ chế
của não bộ, thì một là mình thực hành mà không sợ sai lạc. Thứ hai là
mình đốt được thời gian, thu ngắn được thời gian. Thay vì mình phải thực
hành để khắc chế vọng tưởng, hay làm cho vọng tưởng không khởi lên nữa,
thì mình không cần. Mình chỉ đi vào cơ chế là : không khởi niệm vọng
tưởng nữa.
Trong não bộ cần phân biệt hai vùng. Vùng phía trước và vùng phía sau. Vùng phía sau theo thuật ngữ Thiền gọi là cơ chế của « Tánh giác
». Mình đi vào cơ chế này mà thực hành thì lẹ hơn là vào cơ chế phía
trước. Ở phía trước, bên não phải là ý thức, bên trái là ý căn, ý trí
năng. Bộ phận đó là thuộc về « tâm đời », tâm của người phàm phu, cứ dính mắc chuyện này, chuyện kia đó.
Chúng tôi nói rằng, cho mày nằm yên đó đi, tao đi vào ngõ này thôi. Chúng tôi « pha » (tức « bỏ qua » – tiếng địa phương Nam Bộ) cái vùng phía trước và đi thẳng vào phía sau. Phía sau là cơ chế của « Tánh giác
». Đi thẳng vào vùng phía sau thì phải biết các đặc tính của nó, chức
năng của nó là gì. (Cơ chế đó) là biết mà không có lời nói thầm.
Cho nên bây giờ chúng tôi hướng dẫn Thiền, chúng tôi « pha »
(bỏ). Chúng tôi biết rằng chúng ta có cơ chế phía trước như vậy, mà cơ
chế này nó dính mắc, do những truyền thống nó ghi sâu đậm trong tâm
mình, những day rứt nội tâm của mình nó tiềm tàng trong đó, những đam mê
của mình nó tiềm tàng trong đó. Thế thì bây giờ một lúc làm sao mình
gạt được những cái tâm đó được. Cho nên chúng tôi nói, thôi (cái vùng
phía trước) cứ nằm yên đấy đi, chúng tôi hướng dẫn người thực hành đi
thẳng vào cơ chế của « Tánh giác ».
Chúng tôi dạy học trò, nhưng lúc đó chúng tôi dạy nhưng chưa chứng
minh được qua chụp hình não bộ. Phải đợi đến năm 2006, chúng tôi mời nhờ
các học trò của chúng tôi ở bên Đức, liên lạc với các nhà não học ở bên
Đức, hai ông Erb và Sitaram. Cho đến khi chụp hình não bộ được, thì
chúng tôi mới biết cụ thể các vùng đó nằm ở đâu. Bây giờ chúng tôi hướng
dẫn người thực hành Thiền đi thẳng vào cơ chế phía sau để làm sao làm
yên lặng được nội tâm mình, mà mình không mất nhiều thời gian.
Như hôm qua, chúng tôi giảng dạy ở Poitiers, toàn là những người mới
không, chưa bao giờ học Thiền. Cho họ vô, họ đi thẳng. Và họ thấy họ
điều khiển được trạng thái rối bời của tâm họ. Nên chúng tôi thấy rằng,
ngày nay, mình thực hành Thiền không mất nhiều thời gian. Ban đầu cần
phải chỉ cho họ biết các vùng cụ thể cái đã. Bởi người ta có kiến thức,
nó khác hơn Việt Nam mình. Tại Việt Nam, chúng tôi nghĩ rằng có nhiều
người đi học Thiền không có đủ kiến thức khoa học về bộ não.
Trong một cuốn sách, chúng tôi có viết rằng, sau này nếu được, trong
một trường trung học tại Việt Nam, ở lớp 10 nên cho học trò học Thiền để
có khái niệm, thì thực hành dễ hơn. Lớp 10 thì có kiến thức (…).
RFI : Thưa Thiền sư, vừa rồi Thiền sư có nói đến
buổi giảng tại Poitiers, trong vòng có hai ngày, người ta đã có thể có ý
thức về chuyện đó rồi ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Người ta làm được, chứ không phải có ý thức. Người ta làm được liền.
RFI : Cụ thể là làm được gì ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Thí dụ chúng tôi dạy họ
phương pháp thở, chỉ ở bước 1, bước 2 thôi. Những ý nghĩ trong đầu họ
dừng hết tất cả. Chúng tôi hỏi, các vị có nói thầm trong đầu không ? Trả
lời không có. Từ đó chúng tôi hướng dẫn họ thêm nữa. Chỉ có hai ngày
thôi, chúng tôi hướng dẫn họ về lý thuyết và thực hành, họ làm được,
khỏe khoắn, vui vẻ, điều chỉnh được bệnh tâm thể của họ. Thí dụ như,
bệnh huyết áp, tim mạch rối loạn.
Các bệnh cao huyết áp, cao máu mỡ và rối loạn nhịp tim
RFI : Thưa Thiền sư, có những bệnh gì, mà trong
quá trình Thiền sư giảng dạy, và hướng dẫn những người thực hành theo để
có thể chữa được bệnh đó một cách nhanh chóng và hiệu quả?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Bệnh tim mạch, thí dụ
như cao máu (cao huyết áp), cao máu mỡ, rối loạn nhịp tim, là nhanh
chóng có hiệu quả liền tức khắc. Khi hướng dẫn Thiền, chúng tôi cho họ
ghi lên bệnh của mình, nhưng không ghi tên của họ. Khi hết xong đưa cho
chúng tôi, chúng tôi xếp loại. Ví dụ như có người bị mất ngủ kinh niên.
Tôi mới giải thích, mất ngủ kinh niên là do trung tâm « giữ giờ
» trong não bộ nó bị rối loạn. Ví dụ như chúng tôi hướng dẫn một cô
nhìn bóng đen để điều chỉnh trung tâm giữ giờ đó. Khi nhìn bóng đen, cái
đường con mắt đi vô nó đi ngang qua hạch nhân điều chỉnh việc ngủ thức
của mình (tuyến tùng có hai tên gọi là "épiphyse" hay "glande pinéale"). Hạch nhân đó tiết ra chất melatonin.
RFI : Khi nghe Thiền sư mô tả quá trình chữa
bệnh như vậy, nghe Thiền sư giống như một bác sĩ tâm lý. Có câu hỏi đặt
ra là, giữa phương pháp Thiền theo đạo Phật và phương pháp chữa bệnh tâm
lý rất hiện đại như vậy có gì liên hệ với nhau cụ thể là trong trường
hợp kể trên ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Phật dạy phương pháp
nhìn ánh sáng. Ánh sáng này có thể là đèn hay nắng. Đường đi ánh sáng vô
đâu ? Nhìn ánh sáng nắng thì nó vô mắt mình vào võng mạc (rétine), đi
theo các đường chéo như hình như cái nón đó, rồi chạy lên đụng tuyến
tùng. Tuyến tùng nó mới tiết ra serotonin, hay là melatonin nữa. Từ
chất đó mà nó điều chỉnh bệnh mất ngủ hay bệnh trầm cảm. Như vậy, chúng
tôi kết hợp với khoa học để đối chiếu lại. À, Phật dậy trong kinh đó,
bây giờ hỏi vì sao nó điều chỉnh được ? Đó là nhờ những chất mà chúng
tôi gọi là các « nước sinh hóa học ».
RFI : Thiền sư có thể nói về những cái bệnh mà
Thiền sư nói là Thiền chữa rất là tốt, ví dụ như các bệnh về mỡ máu, hay
bệnh tim mạch, … cụ thể như thế nào ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Phật dậy mình cách thở. Khi thở vô, mũi mình có hai cái que (tức là bộ phận "bulbes olfactifs"
hay hành khứu giác). (Thở vô) hai cái que đụng thẳng vô khu dưới đồi
của mình, là Hypothalamus. Mà Hypothalamus là trung tâm tâm lý, tình cảm
của mình đó. Rối loạn cũng nó, mà an ổn cũng nó, mà thánh thiện cũng nó
luôn. Bằng hít thở vô nó đụng vào hai que đó liền, bằng tín hiệu nó
đụng vào vùng dưới đồi liền. Đụng vô dưới đồi làm yên lặng nội tâm. Kế
bên dưới đồi có trung tâm sợ hãi và điều khiển xúc cảm của mình nữa.
RFI : Cái vùng này tên khoa học là gì ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Amygdala. Nếu tập thở
vô như vậy, nó đụng vào thần kinh đối giao cảm. Ở tận cùng của đầu dây
thần kinh đối giao cảm thì tiết ra chất acetylcholine. Mà chính cái
acetylcholine có vai trò điều khiển tim mạch. Một mặt nữa là thần kinh
đối giao cảm khi trở về đụng vào thần kinh sọ não, thì nó đụng vào một
hệ thần kinh khác, gọi là thần kinh phế vị, mà phế vị liên hệ đến phổi
với nội tạng, hay là cả gan nữa. Nhờ thế mà nó điều chỉnh lại. Thành ra
mình hít thở là mình tác động cùng một lúc vào ba hệ thống, đó là hệ
thần kinh đối giao cảm, hệ thần kinh phế vị, và cái thứ ba thông qua hệ
thần kinh đối giao cảm mà nó đụng được vào acetylcholine. Acetylcholine
có ở nhiều nơi lắm. Từ cuống não cũng có, từ Dưới đồi cũng có, từ vùng
thân thọ ở hai bên não bầu cũng có nữa. (…) Nhờ như thế mình mới ngừa được sốc ("strok",
tức tai biến mạch máu não), điều chỉnh được tim mạch, máu mỡ. Lý do là
acetylcholine khắc chế hai chất, đó là các chất (có thể) làm mình bị máu
mỡ, là norepinephrine với epinephrine (hay còn gọi là noradrenaline và
adrenaline).
RFI : Thiền sư nói như thế nghe như nếu ai đó có
ý muốn thực hành phương pháp thiền này thì dường như có khả năng chữa
được tất cả mọi bệnh. Nghe có vẻ như trong tầm tay mà không cần phải đi
bệnh viện, không cần đến hiệu thuốc ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng vậy, nhưng không
phải nó chữa được tất cả mọi bệnh đâu. Bệnh nào ra bệnh đó. Ví dụ như
bệnh cần có acetylcholine, thì thở theo lối để làm acetylcholine.
Ngày nay, từ rối loạn não bộ nó dẫn đến nhiều bệnh khác. Ví dụ như
bệnh trầm cảm, bệnh mất ký ức. Kể cả bệnh tiểu đường cũng do não bộ rối
loạn. Vấn đề thiền là để làm gì ? Là để điều chỉnh hệ thống hoạt động
của não bộ. Từ đó chúng tôi đưa ra phương pháp gọi là sự tương tác giữa
Tâm – Pháp – Não Bộ đối với Thân Tâm và Trí tuệ Tâm linh của con người.
Hiểu biết về cơ chế của bộ não giúp người tập Thiền tránh được các sai lầm
RFI : Vừa rồi Thiền sư giải thích với các thính
giả không biết gì về đạo Phật cả. Đối với những người đã đi xa hơn rồi,
bắt đầu bước vào, họ muốn đi cao hơn nhưng họ còn lúng túng giữa các
pháp môn khác nhau. Vậy Thiền sư có thể nói để riêng với những người đó
được không ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Thực sự cái thiền nó
khó, nhưng cũng không khó. Khó là như thế này : khó là vì người thực
hành không gặp một người đã kinh nghiệm thiền để hướng dẫn mình. (Nhiều
người không có kinh nghiệm) hướng dẫn theo sở ý của họ. Nếu theo như
vậy, có thể mắc bệnh tâm thể. Đấy là điều khó. Còn dễ là nếu biết được
chức năng của hai vùng não thì mình làm được hết. Mình cô lập vùng phía
trước hay là đi vô vùng phía sau. Nhưng nhận ra chức năng của mỗi vùng
là làm được. Muốn nhận ra được chức năng của mỗi vùng, phải có người có
hiểu biết về não bộ. Ngày nay, có người biết về não bộ (là các nhà khoa
học), nhưng họ không « thực hành » được. (…)
RFI : Tức là họ không phải là người sử dụng các hiểu
biết tâm linh để tác động vào các vùng mà họ biết về mặt giải phẫu và
mặt nghiên cứu, đúng không ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Lấy thí dụ như trong não bộ có một vùng rất hay gọi là vùng Wernicke (Vùng ngôn ngữ : hiểu, đọc, viết và ký ức ngôn ngữ).
RFI : Nó nằm ở đâu ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Nằm ở vùng Dưới não, khoa học gọi là vùng Ngôn ngữ thứ nhất. Nhưng các nhà khoa học đâu có biết cách « thực hành » được vùng đó. Điều đó khó. Còn mình, « người thực hành » thì biết, thực hành được, nhưng không biết chỗ nào để mà chỉ. Thành ra hai cái đó khác nhau.
RFI : Khi mình biết cách sử dụng khu vực này, thì có ý nghĩa gì ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Mình biết để đi cho lẹ,
thay vì đi lòng vòng. Đi vùng khác thì cũng được nhưng lâu hơn. Vì sao,
vì vùng này liên hệ đến vùng giữa não của mình nữa (vùng Gian não).
Điều quan trọng nhất là làm sao điều khiển được cuống dưới đồi.
RFI : Tức là vùng Wernicke điều khiển được vùng Dưới đồi ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Không, nó không điều khiển mà tác động vào thẳng.
RFI : Như vậy, những điều Thiền sư nói có phải
liên quan đến một hệ thống mà Thiền sư nói trong nghiên cứu của Thiền sư
với các nhà khoa học ở Đức, về hệ thống Viền não ? Phải chăng Thiền sư
muốn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của nó trong quá trình tu tập thiền ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng vậy, trong tu thiền, hệ thống Viền não rất quan trọng. Là vì toàn bộ « tâm » của con người nằm trong này.
RFI : Bình thường, mình gọi là « tâm » hay «
tinh thần », nếu mà không biết thì không hiểu nó nằm chỗ nào trong cơ
thể, nhưng nếu theo Thiền sư và các nhà khoa học cộng tác, sau khi
nghiên cứu, có thể chỉ ra vị trí của nó ?Thiền sư Thích Thông Triệt : Đúng rồi. Nếu không biết chức năng của các bộ phận trong não bộ của mình, mà cứ thực hành thì một ngày nào đó sẽ bị bệnh tâm thể.
RFI : Thiền sư có thể cho một ví dụ để những người đang tập, hay quan tâm đến chuyện này có thể dễ hiểu. Tức là, khi tập thiền sai lạc thì bị mắc những bệnh gì ?
Thiền sư Thích Thông Triệt : Người ta gọi là « tẩu hỏa nhập ma
» đó. Thứ nhất là mắc bệnh cao máu, cao máu mỡ, tiểu đường, đó là ba
thứ bệnh thông thường nhất mà mình dễ gặp. Rồi lần lần nó lên nữa là
bệnh trầm cảm, bệnh mất ký ức.
Do mình thực hành sai lạc. Mình thực hành miên mật, nhưng sai lạc.
Thay vì đừng tập trung tư tưởng vào đối tượng, thì mình cứ tập trung.
Bên não phải mình sử dụng này, tập trung như vậy là mình tác động vào hệ
giao cảm thần kinh. Mà đầu dây của các dây thần kinh giao cảm có tiết
ra một chất hóa học là norepinephrine (còn gọi là noradrenaline). Khi
chất này được tiết ra rồi thì nó đi theo máu, vô tuyến thượng thận, bắt
đầu đến phần ruột thượng thận (phần giữa của tuyến thượng thận/glande
médullosurrénale), thì nó tiết ra epinephrine (adrenaline). Nếu hai chất
này bị tiết ra mãi mãi, thì một là tim mạch bị rối loạn, đường máu cao,
và cuối cùng mất ký ức luôn. Do epinephrine trong tuyến thượng thận nó
tiết hoài thì tác động vào vỏ thượng thận thì ra cortisol. Mà cortisol
ra hoài thì mất ký ức (trí nhớ). Vì chất này theo máu lên não bó chặt tế
bào não vùng ký ức khiến chúng chết. Sự tương tác này chúng tôi gọi là
tương tác dây chuyền Tâm – Pháp – Não Bộ đối với Thân Tâm và Trí tuệ tâm
linh của con người là như thế.
Điều cơ bản là acetylcholine được tiết ra thì norepinephrine bị dẹp.
(…) Khi mình yên lặng được thì hệ đối giao cảm hoạt động, các đầu dây
của hệ này sẽ tiết ra acetylcholine (…) giúp cho chúng ta được cân bằng
và hài hòa. Cái thuật ngữ của Thiền gọi là hài hòa, chính là mình hài
hòa được các chất sinh hóa học trong não bộ của mình.
RFI : Xin cảm tạ Thiền sư đã dành thời gian quý báu của Thiền sư giúp thính giả hiểu biểt hơn về Thiền.
http://www.viet.rfi.fr/cong-dong/20110608-nhung-loi-ich-cua-tap-thien-duoi-anh-sang-cua-khoa-hoc-ve-bo-naoChi tiết mới về người châu Mỹ đầu tiên
CỠ CHỮ
13.07.2012
Hai phúc trình
khoa học công bố trong tuần này tiết lộ những thông tin mới về những con
người đầu tiên định cư tại Tây Bán Cầu, lật đổ những gì vẫn được tin là
đúng cho tới bây giờ.
Phân tích DNA của các thổ dân châu Mỹ cho thấy tổ tiên của họ đến Tây Bán Cầu trong cuộc di dân duy nhất, băng qua một dãi đất nối liền Siberia với Alaska cách đây ít nhất 15 ngàn năm.
Tuy nhiên, một cuộc phân tích rộng rãi hơn, đăng trên tạp chí Nature, cho thấy thổ dân châu Mỹ đã đến đây định cư theo 3 đợt di dân.
Hậu duệ của đợt di dân thứ nhì và thứ ba vẫn lưu lại ở các vùng Bắc Cực, trong khi hậu duệ của đợt thứ nhất di chuyển tới điểm cực Nam của Nam Mỹ.
Những chứng cứ sớm nhất về sự hiện diện của những người châu Mỹ đầu tiên có niên đại cách đây 13 ngàn năm - gồm có đá hay xương mài nhọn, và các dụng cụ bằng ngà voi tìm thấy gần Clovis, bang New Mexico.
Kết quả một cuộc nghiên cứu mới được đăng trên tạp chí Science, đưa niên đại này lùi thêm hơn một nghìn năm.
Một toán khảo cổ quốc tế đã dùng bức xạ cácbon để định năm và thử DNA trên đầu nhọn các mũi tên bằng đá núi lửa, và phân người khô tìm thấy trong những hang động Paisley ở bang Oregon, để chứng minh rằng những người đến từ một nền văn hóa khác biệt và cổ xưa hơn Clovis, cũng đã lập cư tại châu Mỹ.
Phân tích DNA của các thổ dân châu Mỹ cho thấy tổ tiên của họ đến Tây Bán Cầu trong cuộc di dân duy nhất, băng qua một dãi đất nối liền Siberia với Alaska cách đây ít nhất 15 ngàn năm.
Tuy nhiên, một cuộc phân tích rộng rãi hơn, đăng trên tạp chí Nature, cho thấy thổ dân châu Mỹ đã đến đây định cư theo 3 đợt di dân.
Hậu duệ của đợt di dân thứ nhì và thứ ba vẫn lưu lại ở các vùng Bắc Cực, trong khi hậu duệ của đợt thứ nhất di chuyển tới điểm cực Nam của Nam Mỹ.
Những chứng cứ sớm nhất về sự hiện diện của những người châu Mỹ đầu tiên có niên đại cách đây 13 ngàn năm - gồm có đá hay xương mài nhọn, và các dụng cụ bằng ngà voi tìm thấy gần Clovis, bang New Mexico.
Kết quả một cuộc nghiên cứu mới được đăng trên tạp chí Science, đưa niên đại này lùi thêm hơn một nghìn năm.
Một toán khảo cổ quốc tế đã dùng bức xạ cácbon để định năm và thử DNA trên đầu nhọn các mũi tên bằng đá núi lửa, và phân người khô tìm thấy trong những hang động Paisley ở bang Oregon, để chứng minh rằng những người đến từ một nền văn hóa khác biệt và cổ xưa hơn Clovis, cũng đã lập cư tại châu Mỹ.
No comments:
Post a Comment