NGƯỜI
ĐÃ CHẾT
NHƯNG
CHƯA HẾT CHUYỆN
Sau
khi Giáo-Hoàng
Gioan PhaoLồ II
qua đời (ngày 2-4-2005, có một
số vấn-đề đã
nảy sinh ra.
Chúng tôi xin lần-lượt
ghi lại để rộng
đường dư-luận.
Tân
Giáo-Hoàng
Benedict XVI đã kịch-liệt
công-kích thuyết
tiến-hóa
(evolution) mà cố Giáo-Hoàng
John Paul II đã
tuyên-bố năm
1996 rằng nó không
phải chỉ là một
giả-thuyết.
Subject:
Intelligent
Design Not
Science, Vatican
Says
Date: Fri, 18 Nov 2005 13:33:47 -0800
Intelligent Design Not Science, Vatican Says
November 18, 2005
VATICAN CITY -- The Vatican's chief astronomer said Friday that Intelligent Design Theory isn't science and doesn't belong in science classrooms, the latest high-ranking Roman Catholic official to enter the evolution debate in the United States.
The Rev. George Coyne, the Jesuit director of the Vatican Observatory, said placing intelligent design theory alongside that of evolution in school programs was "wrong" and was akin to mixing apples with oranges.
"Intelligent design isn't science even though it pretends to be," the ANSA news agency quoted Coyne as saying on the sidelines of a conference in Florence. "If you want to teach it in schools, intelligent design should be taught when religion or cultural history is taught, not science."
His comments were in line with his previous statements on "intelligent design" -- whose supporters hold that the universe is so complex that it must have been created by a higher power.
Proponents of intelligent design are seeking to get public schools in the United States to teach it as part of the science curriculum. Critics say intelligent design is merely creationism -- a literal reading of the Bible's story of creation - camouflaged in scientific language, and they say it does not belong in science curriculum.
In a June article in the British Catholic magazine The Tablet, Coyne reaffirmed God's role in creation, but said science explains the history of the universe.
"If they respect the results of modern science, and indeed the best of modern biblical research, religious believers must move away from the notion of a dictator God or a designer God, a Newtonian God who made the universe as a watch that ticks along regularly."
Rather, he argued, God should be seen more as an encouraging parent.
"God in his infinite freedom continuously creates a world that reflects that freedom at all levels of the evolutionary process to greater and greater complexity," he wrote. "He is not continually intervening, but rather allows, participates, loves."
The Vatican Observatory, which Coyne heads, is one of the oldest astronomical research institutions in the world. It is based in the papal summer residence at Castel Gandolfo south of Rome.
Last week, Pope Benedict XVI waded indirectly into the evolution debate by saying the universe was made by an "intelligent project" and criticizing those who in the name of science say its creation was without direction or order.
Questions about the Vatican's position on evolution were raised in July by Austrian Cardinal Christoph Schoenborn. evolution were raised in July by Austrian Cardinal Christoph Schoenborn.
In a New York Times column, Schoenborn seemed to back intelligent design and dismissed a 1996 statement by Pope John Paul II that evolution was "more than just a hypothesis." Schoenborn said the late pope's statement was "rather vague and unimportant."
http://www.nbc4.tv/technology/5356705/detail.html
Date: Fri, 18 Nov 2005 13:33:47 -0800
Intelligent Design Not Science, Vatican Says
November 18, 2005
VATICAN CITY -- The Vatican's chief astronomer said Friday that Intelligent Design Theory isn't science and doesn't belong in science classrooms, the latest high-ranking Roman Catholic official to enter the evolution debate in the United States.
The Rev. George Coyne, the Jesuit director of the Vatican Observatory, said placing intelligent design theory alongside that of evolution in school programs was "wrong" and was akin to mixing apples with oranges.
"Intelligent design isn't science even though it pretends to be," the ANSA news agency quoted Coyne as saying on the sidelines of a conference in Florence. "If you want to teach it in schools, intelligent design should be taught when religion or cultural history is taught, not science."
His comments were in line with his previous statements on "intelligent design" -- whose supporters hold that the universe is so complex that it must have been created by a higher power.
Proponents of intelligent design are seeking to get public schools in the United States to teach it as part of the science curriculum. Critics say intelligent design is merely creationism -- a literal reading of the Bible's story of creation - camouflaged in scientific language, and they say it does not belong in science curriculum.
In a June article in the British Catholic magazine The Tablet, Coyne reaffirmed God's role in creation, but said science explains the history of the universe.
"If they respect the results of modern science, and indeed the best of modern biblical research, religious believers must move away from the notion of a dictator God or a designer God, a Newtonian God who made the universe as a watch that ticks along regularly."
Rather, he argued, God should be seen more as an encouraging parent.
"God in his infinite freedom continuously creates a world that reflects that freedom at all levels of the evolutionary process to greater and greater complexity," he wrote. "He is not continually intervening, but rather allows, participates, loves."
The Vatican Observatory, which Coyne heads, is one of the oldest astronomical research institutions in the world. It is based in the papal summer residence at Castel Gandolfo south of Rome.
Last week, Pope Benedict XVI waded indirectly into the evolution debate by saying the universe was made by an "intelligent project" and criticizing those who in the name of science say its creation was without direction or order.
Questions about the Vatican's position on evolution were raised in July by Austrian Cardinal Christoph Schoenborn. evolution were raised in July by Austrian Cardinal Christoph Schoenborn.
In a New York Times column, Schoenborn seemed to back intelligent design and dismissed a 1996 statement by Pope John Paul II that evolution was "more than just a hypothesis." Schoenborn said the late pope's statement was "rather vague and unimportant."
http://www.nbc4.tv/technology/5356705/detail.html
Ông
Trương Tiến Đạt (cựu Thượng-Nghị-Sĩ Việt-Nam
Cộng-Hòa) đã gửi điện-thư
lên Giáo Hoàng
Benedict XVI (Đồng
kính gửi: Các
Ki-tô-hữu chân
chính), nội-dung:
Xin
đừng phong thánh cho Gio-an
Phao-lô II
1.
Ông đã
phản bội
Thiên Chúa.
2.
Ông đã
phản bội
và hạ
nhục Chúa Giê-su.
3.
Ông đã phá
hoại Đức
Tin Công Giáo.
4.
Ông đã
lừa dối
cả nhân
loại.
5.
Ông đã ngang
nhiên rao
giảng
những giáo
điều
của Sa-tăng.
6.
Ông đã
cứu Hồ
Chí Minh về
Thiên Đàng?
7.
Ông có thể là
kẻ sát nhân.
Kết
luận: Phong Thánh
cho Kẻ Gian
Ác?
Điện
thư này được viết bằng Anh-ngữ và
Việt-ngữ, được góp nhặt bởi Trương
Tiến Đạt,
cựu Nghị Sĩ VNCH, Luật Sư
Toà Thượng Thẩm Saigon;
Email address: dattientruong@hotmail.com;
Website: http://truongtiendat.atspace.com;
hoặc Website: www.thewarningtrumpet.com.
"Xin các Ki-tô-hữu
chân chính hãy
tiếp tay
phổ biến
sâu rộng.
Muốn đọc
các Điện
Thư khác
hoặc đọc
phần Anh
ngữ xin
mở một
trong các Website
vừa kể" (lời
ông Trương Tiến
Đạt).
Cố
Giáo-Hoàng
John Paul II bị
truất-phế
(tài-liệu
lịch-sử về vụ giải-thể cộng-sản Ba-Lan)
1/
Trong bài
“Giáo-Hoàng John
Paull II và
sự sụp
đổ
của
cộng-sản
tại Ba Lan”, người viết đã tóm kê
một số diễn-biến
lịch-sử
liên-quan, và
nhấn
mạnh
rằng tự
chúng giải-thích
tại sao
cộng-sản
Ba-Lan sụp
đổ,
xin ghi thêm chi-tiết như sau:
1970: Kinh-tế, huyết-mạch chính của Liên-Xô
bắt đầu trì-trệ.
Tại
Ba-Lan, có Lech Walesa
cùng các công-nhân khác tại cơ-xưởng đóng tàu Gdansk
(công-xưởng quan-trọng nên cũng mang tên xưởng
tàu Lenin)
đòi lập công-đoàn tự-do (không quốc-doanh),
tham-gia Ủy-Ban Tổ-Chức một cuộc Đình-Công
lớn nhất từ trước (ít nhất 80 công-nhân
bị giết) nên bị chính-quyền cộng-sản
bỏ tù (trở thành anh-hùng chống-Cộng; bị
cấm làm việc; bí-mật tổ-chức Công-Đoàn
Tự-Do Pomerania;
thành-lập Tổ-Chức Chống-Cộng Ba-Lan; lại
bị cầm tù).
1971: Liên-Xô bớt căng-thẳng
với Hoa-Cộng; đồng-thời Tổng-Bí-Thư Leonid
Brezhnev
mở các cuộc đàm-phán với Hoa-Kỳ.
1972:
Tổng-Thống Hoa-Kỳ Richard
Nixon viếng Mạc-Tư-Khoa; hai bên ký thỏa-ước
hạn-chế vũ-khí chiến-lược (SALT-1), mở
đầu thời-kỳ hết
căng-thẳng.
1973:
Chiến-tranh Việt-Nam chấm dứt, chấm
dứt đụng-độ quân-sự giữa hai Khối;
Brezhnev viếng Tây-Đức
vào
tháng 5, viếng Hoa
Kỳ vào tháng 6.
Lê Xuân Nhuận bắt
đầu tấn-công điệp-báo vào 2 nước
cộng-sản Ba-Lan
và Hung-Gia-Lợi,
từ tháng 9 (tuyển-dụng đuợc nhiều cán-bộ
tình-báo và quân-sự cao-cấp tại 2 nước này làm
việc cho CIA).
1974:
Tổng-Thống Nixon
lại viếng Liên-Xô.
Gorbachev đắc-cử vào
Xô-Viết Tối-Cao.
Breznev
nhượng-bộ Hoa-Kỳ (triển
hạn thỏa-ước SALT-1, cải-thiện sinh-môi,
nới rộng thương-mại, v.v...) để hưởng
quy-chế tối-huệ-quốc.
Một
số nước trong số 15 quốc-gia trực-thuộc
Liên-Xô bắt đầu đòi tự-trị.
1975: Kinh-tế
Liên-Xô bắt đầu khủng-hoảng
trầm-trọng, nhất là vì chạy đua không-gian
với Hoa-Kỳ, ảnh-hưởng xấu trên mọi lãnh-vực.
Liên-Xô và Hoa-Kỳ hợp-tác thám-hiểm không-gian.
1978:
Mikhail Gorbachev
(thuộc
thế-hệ mới, sinh sau Cách-Mạng 1917) từ
Ủy-Ban Trung-Ương đắc-cử vào Bí-Thư-Đoàn
Xô-Viết Tối-Cao của Liên-Bang Xô-Viết (Liên-Xô),
mang theo các kế-hoạch cải-cách của mình đã
thực-hiện tốt tại cấp địa-phương
từ năm 1970, và tiếp-tục việc đổi
mới về chính-sách và nhân-sự vào các năm tiếp
theo.
Walesa
cùng các đồng bạn lập nhiều công-đoàn
tự-do tại nhiều nơi.
Hồng-Y Karol Wojtyla
được bầu làm Giáo-Hoàng ngày 16-10,
lấy danh-hiệu là John
Paul II.
1979:
Brezhnev ký
thỏa-ước SALT-2 với tổng-thống Hoa-Kỳ Jimmy
Carter vào tháng 6.
Brezhnev (không thông-qua Bộ Chính-Trị Đảng mà
tự-ý) can-thiệp vào Afghanistan vào tháng 12, nên bị Hoa
Kỳ cấm vận lúa gạo, khiến Liên-Xô
suy-yếu thêm.
1979: Gorbachev
vào Bộ Chính-Trị Trung-Ương Đảng,
coi về Tổ-Chức (Nhân-Sự), có đầu óc phóng-khoáng,
lãnh-hội tinh-hoa sinh-hoạt chính-trị Tây-Phương
(cầm đầu phái-đoàn đi Tây-Đức
năm 1975, đi Canada
hội-đàm với thủ-tướng Pierre Trudeau
năm 1983, đi Anh
gặp nữ-thủ-tướng Margaret Thatcher
năm 1984), chú-trọng nâng-đỡ thế-hệ
trẻ.
Giáo-Hoàng
John Paul II về
thăm Ba-Lan lần đầu tiên vào tháng 6.
Tiếp theo, GH JPII qua thăm Hoa-Kỳ
lần đầu tiên vào tháng 10 (gặp Tổng-Thống Carter
vào ngày 6), sau khi biết có bàn tay Hoa-Kỳ nhúng vào Ba-Lan.
1980:
Thời-gian này, Liên-Xô
bị khủng-hoảng nội-bộ:
Thủ-Tướng Alexey Kosygin
lủng-củng với Bí-Thư Thứ Nhất Brezhnev
từ lâu, nay phải từ-chức vào năm 1980; Brezhnev
bệnh nặng rồi chết vào năm 1982, Andropov
lên thay rồi chết vào năm 1984, Chernancho
lên thay rồi cũng chết vào năm 1985.
Các nước trong Liên-Bang
Xô-Viết (ngoại-trừ
Nga-Xô) bắt
đầu tuyên-bố độc-lập.
Hoa-Kỳ
ngưng chở ngũ-cốc qua Liên-Xô, tẩy chay Olympic
tổ-chức tại Mạc-Tư-Khoa.
Lech
Walesa, vốn bị sa-thải vì đòi tăng lương
vào năm 1976, luôn được công-nhân tranh-đấu
đòi tái-dụng ông, leo tường nhảy vào xưởng
tàu Gdansk đang
bị công-nhân đình-công chiếm-giữ, được
bầu làm thủ-lãnh
Công-Đoàn
Pomerania, từ nay mang tên Solidarnosc
tức “Đoàn-Kết”.
Công-đoàn tranh-đấu bất-bạo-động,
ra đời trong bối-cảnh khủng-hoảng
nội-bộ của các xã-hội rập khuôn Xô-Viết,
đạo-đức suy-đồi, mức sống
xuống dốc, chính-quyền
Ba-Lan gặp phải khó-khăn kinh-tế hơn 10 năm
qua. Có các giới khác kể
cả sinh-viên và trí-thức
cùng tham-gia. Nhờ Đài Phát-Thanh VOA, Âu-Châu
Tự-Do cổ-vũ cùng các màn lưới
rỉ tai, sách, báo, truyền-đơn, công-đoàn
dần-dà trở thành phong-trào chính-trị
chống-Cộng lan khắp Ba-Lan và các nước đồng-cảnh
xung quanh. Các cuộc
đình-công phản-kháng gây đình-trệ cho sinh-hoạt
chung; nhà cầm quyền phải nhượng-bộ,
chấp-thuận quyền đình-công và lập công-đoàn
tự-do, từ ngày 31 tháng 8.
1981:
Cựu Thống-Đốc California Ronald
Reagan (nhân-vật chống-Cộng tích-cực)
nhậm-chức Tổng-Thống Hoa-Kỳ.
Vatican
có đủ uy-tín và ngân-khoản yểm-trợ cho Ba-Lan
nổi dậy (đại-đa-số dân Ba-Lan là tín-đồ
Ky-Tô-Giáo có sẵn tinh-thần chống-Cộng) – nếu
không bị Liên-Xô sử-dụng quân-lực có sẵn
tại Vác-Xô-Vi của Ba-Lan mà đàn-áp -
nhưng nếu thắng rồi thì... tính sao đây (đơn-độc
nằm ngoài cả Khối Cộng-Sản lẫn
Thế-Giới Tự-Do)? Hiển-nhiên,
Vatican không thể đơn-phương gánh-vác mãi, nên
đành phải "giao" Ba-Lan chống-Cộng cho
Hoa-Kỳ đang lãnh-đạo Thế-Giới Tự-Do.
Xin nhắc:
Từ năm 1867, Quốc-Hội Hoa-Kỳ đã
cấm sử-dụng ngân-sách quốc-gia để điều-hành
một Tòa Đại-Sứ tại Vatican.
Trong Thế-Chiến II, Tổng-Thống Franklin Roosevelt
phải rút Đại-Diện Của Tổng-Thống
Mỹ từ Vatican về. Sau
Thế-Chiến II, trong Chiến-Tranh Lạnh, đã có
nỗ-lực hằng nhiều thập-niên thiết-lập
bang-giao giữa Hoa-Kỳ với Vatican, nhưng bị các Tôn-Giáo
khác cản-trở, vì ngại Vatican xen lấn vào nội-tình
nước Mỹ, vi-phạm nguyên-tắc "Ngăn-Cách
Giữa Giáo-Quyền với Chính-Quyền".
Ngày 3 Jul 1969, Tổng-Thống Richard Nixon quyết-định
không cần cử một Đại-Sứ thường-trực
ở Vatican, mà chỉ phái các Đại-Diện
Tổng-Thống đến gặp Giáo-Hoàng những khi nào
cần.
Nay thì cả
Hoa-Kỳ lẫn Vatican đều cần hợp-tác với
nhau để loại-trừ cộng-sản, bắt đầu
từ Ba-Lan.
Vatican thì cần
Hoa-Kỳ, vì chỉ Hoa-Kỳ mới có đủ sức
đương-đầu với Mạc-Tư-Khoa và Vác-Xô-Vi,
có tài chuyển hàng bí-mật
vào giúp Ba-Lan; và cần "cố-vấn"
kỹ-thuật hoạt-động khuynh-đảo, vốn
là sở-trường của CIA (nếu không thì bị Công-An
Ba-Lan phá vỡ, vì địch đã cài người vào,
kể cả khá nhiều giáo-sĩ làm mật-báo-viên –
Bản-thân Giáo-Hoàng John Paul II ở Vatican cũng bị
một số giáo-sĩ kề-cận rình mò), nhưng e thành-công
thì Mỹ hưởng lợi nhiều hơn ở chính quê-hương
của mình, nên GH JPII đòi Mỹ trước hết
phải lập bang-giao với Vatican. Hoa-Kỳ thì cần có thêm tiếng nói
của GH John Paul II đối với giáo-hội Ba-Lan,
một trong các giới mà CIA nhắm vào (trong đó có người
của Lê Xuân Nhuận từ năm 1973, đã len-lỏi vào,
và đã nắm được cả viên Thứ-Trưởng
Quốc-Phòng, và ít nhất là một đại-tá thành-viên
trong Bộ Tồng-Tham-Mưu của cộng-sản Ba-Lan),
vì Ba-Lan là nước mạnh nhất trong Khối Vác-Xô-Vi
tức Cộng-Sản Đông-Âu (Đại-Diện
của TT Reagan là đại-tướng Vernon Walters, nguyên
Phó Giám-Đốc CIA, thảo-luận chi-tiết với GH
JPII vào ngày 18 tháng 10, và còn lui tới hằng chục
lần sau; Đặc-Sứ Hoa-Kỳ đến tiếp vào
ngày 9 tháng 11; sau đó, vào ngày 7 tháng 12 năm 1983, TT Reagan
bổ-nhiệm ông William Wilson làm Đại-Sứ
Hoa-Kỳ đầu tiên bên cạnh GH JPII).
Tổng-Giám-Mục Pio Laghi đại-diện thường-trực
của GH tại Washington DC. Hai
bên tiếp-xúc với nhau hằng ngày.
Thế là đã có
sự hợp-tác giữa Vatican và Hoa-Kỳ, với lời
thuyết-giảng đạo-đức của GH John Paul II
và các hành-động thực-tế của TT Ronald Reagan.
1982:
Cộng-đồng quốc-tế phản-đối
việc Cộng-đảng Ba-Lan đàn-áp, giải-tán công-đoàn
Đoàn-Kết và
bắt Walesa vào
cuối năm qua.
Đáp
lại, Tổng-Thống Reagan
cấm vận kinh-tế Ba-Lan, và CIA
chính-thức viện-trợ tài-chính và
trang-thiết-bị (hàng
tấn máy in, máy sắp chữ, máy photocopy, máy Fax [lần
đầu nhập vào Ba-Lan], máy truyền tin, điện
thoại, máy thu thanh có làn sóng ngắn, video, máy viễn ký,
máy điện toán, v.v) cho
các hoạt-động bí-mật của công-đoàn Đoàn-Kết,
từ nay hòa lẫn vào với nhân-dân.
Ngày 7 tháng 6, TT Reagan
gặp riêng GH JPII
tại Vatican, trong lúc Ngoại-Trưởng Alexander Haig
và Cố-Vấn An-Ninh Quốc-Gia William Clark
gặp riêng các Hồng-Y phụ-tá của GH.
TT Reagan
thách-thức Liên-Xô chạy đua vũ-trang, trong cuộc
"chiến-tranh giữa các vì sao" (SDI), việc quá
tốn kém khiến Liên-Xô phải phá sản; thúc-đẩy
cải-cách ở cả Hung-Gia-Lợi lẫn
Tiệp-Khắc; viện-trợ tài-chánh cho các nước
thuộc Khối Vác-Xô-Vi với điều-kiện
nới lỏng chính-trị và nhân-quyền; can-thiệp vào
hầu hết các nước cộng-sản gần xa; nhúng
tay vào cả Nicaragua, Afghanistan, Mozambique, và Angola.
1985:
Gorbachev đắc-cử
Tổng-Bí-Thư Liên-Xô ngày 11 tháng 3, chủ-trương
Perestroika (cải-cách
kinh-tế và xã-hội, cho phép tư-hữu và ngoại-thương)
cùng với Glasnost
(cởi-mở tư-duy, cho
phép tự-do ngôn-luận, phóng-thích tù chính-trị và
đối-lập); mưu-cầu quan-hệ và
giao-thương với Tây-Phương; "Tư-Duy
Mới" của ông
được
Tây-Phương hoan-nghênh.
Do
đó, Hung-Gia-Lợi
bắt đầu phát-động phong-trào giải-thể
“Minh Ước Vác Xô Vi” (Warsaw Pact=tổ-chức
liên-quân Liên-Xô đặt tại Ba-Lan, có sức, và đã
từng xuất-phát tấn-công các nước khác, kể
cả Hung-Gia-Lợi) và chuyển qua dân-chủ
đa-đảng cùng kinh-tế
thị-trường.
1986:
Một số (trong
số 15) quốc-gia thành-viên Liên-Xô bắt đầu
từ-khước ảnh-hưởng của Liên-Xô:
Kazakhstan vào năm 1986
(rồi Azerbaijan, Armenia, ngay cả Nga, vào năm 1987;
rồi Georgia, Ukraine; Uzbekistan, Lithuania, Latvia, Estonia, vào năm
1989).
TBT Gorbachev gặp Tổng-Thống Hoa-Kỳ Reagan vào ngày 11 tháng 10, đàm-phán về việc giảm-thiểu vũ-khí và lực-lượng hạt nhân tại Âu-Châu (sau đó ký-kết thỏa-ước INF).
TBT Gorbachev gặp Tổng-Thống Hoa-Kỳ Reagan vào ngày 11 tháng 10, đàm-phán về việc giảm-thiểu vũ-khí và lực-lượng hạt nhân tại Âu-Châu (sau đó ký-kết thỏa-ước INF).
Gorbachev
cho tự-do thông-tin.
Hằng loạt tù chính-trị Ba Lan được
trả tự-do.
Walesa
thiết-lập cơ-cấu công-đoàn Đoàn-Kết
hợp-pháp và công-khai.
1987:
Gorbachev phát-động
dân-chủ-hóa, cho phép bầu-cử
đa-ứng-viên và ứng-cử-viên ngoài-Đảng,
vào guồng máy chính-trị Xô-Viết.
1988:
Gorbachev triệt-để
đổi mới, rút quân Xô-Viết ra khỏi
Afghanistan vào tháng 2, giảm
bớt ảnh-hưởng của Đảng trong cơ-cấu
Nhà-Nước từ tháng 6, thành-lập
Quốc-Hội Đại-Biểu Nhân-Dân, cơ-cấu
lập-pháp cho phép tu-chính
Hiến-Pháp vào tháng 8; và
quan-trọng hơn hết là
công-bố từ-bỏ
chủ-thuyết bá-chủ của Breznev, cho
phép các nước trong Khối cộng-sản Đông-Âu
tự-quyền quyết-định mọi việc
nội-bộ của mình.
Việc này dẫn đến một
loạt các cuộc cách-mạng lật đổ các
chế-độ cộng-sản tại Đông-Âu
từ đó cho đến năm 1989.
Gorbachev
chủ-trương bất-can-thiệp
vào các vụ nổi dậy tại các nước chư-hầu.
Kinh-tế
Ba-Lan tồi-tệ nhất sau 8 năm liên-tiếp èo-ọp,
và Liên-Xô chấm dứt nâng-đỡ
chế-độ nhà-nước bù-nhìn Ba-Lan.
Cộng-sản nước này phải xin thương-thuyết
với Walesa, sau
nhiều đợt tranh-đấu quyết-liệt của
công-đoàn.
1989:
Gorbachev
tổ-chức bầu-cử quốc-hội kiểu mới,
cho bầu-cử tự-do
và cải-tổ tại khắp các nước trong Liên-Bang,
chấm
dứt chủ-nghĩa công-sản, vào tháng 3
và 4.
Đối ngoại, Gorbachev
đàm-phán với Tổng-Thống Geoge H. Bush,
đồng ý rút quân khỏi Afghanistan. Đối
nội, ông tổ-chức bầu-cử quốc-hội
kiểu mới khắp các nước trong Liên-Bang Xô-Viết
vào tháng 3 và 4, tạo cơ-hội hợp-pháp cho các
quốc-gia chư-hầu đồng loạt đứng lên
đòi Dân Chủ, Tự-Do.
Công-đoàn Đoàn-Kết
gặp thuận-lợi được hợp-thức-hóa,
có ứng-cử-viên chiếm đa-số trong
quốc-hội Ba-Lan.
Cộng-sản
Hung-Gia-Lợi bị
giải-thể vào ngày
23 tháng 10. Chính-phủ
không cộng-sản nước này mở
cửa biên-giới cho dân Đông-Đức chạy qua
tị-nạn từ
ngày 10 tháng 9.
Bức tường Bá-Linh được
khai-thông từ ngày 9
tháng 11.
Tiệp-Khắc dứt hẳn cộng-sản
vào ngày 29-12.
1990:
Quốc-Hội Đại-Biểu Nhân-Dân Liên-Xô
biểu-quyết chấm
dứt vai trò lãnh-đạo chính-quyền của Đảng
Cộng-Sản vào ngày 14-3.
Gorbachev được
bầu làm Tổng-Thống Liên-Bang Nga vào ngày
15-3. Ông được tặng giải thưởng
Nobel về Hòa Bình ngày 15-10. Bộ
bách-khoa từ-điển New “Encyclopaedia Britannica”
mệnh-danh Gorbachev
là “người khởi-xướng
duy-nhất và quan-trọng nhất
của một loạt các biến-cố cuối năm 1989
và trong năm 1990 thay-đổi
cơ-cấu chính-trị Âu-Châu
đồng-thời mở đầu giai-đoạn
kết-thúc của cuộc Chiến-Tranh Lạnh”.
Walesa
được
bầu làm
Tổng-Thống Ba-Lan vào
ngày 9 tháng 12.
Cộng-sản Ba-Lan bị giải-thể vào ngày 25-12 cùng
năm.
*
2/
Như
thế thì,
chậm
nhất là từ 1986, Gorbachev
của Liên-Bang
Xô-Viết
đã
khởi-sự
tự
giải-thể
chế-độ
cộng-sản
rồi, các
nước chư-hầu
đã lần-lượt
vứt bỏ
chủ-nghĩa
cộng-sản
rồi,
ngay chính Hung-Ga-Ri
là một nước
tương-đồng
cảnh-ngộ
với Ba-Lan mà
cũng đã
thoát ách
cộng-sản
từ tháng 10 năm
1989 rồi,
vả lại Nga-Xô
cũng đã
chuyển qua chính-thể
Tổng-Thống
dân-cử
từ đầu
năm (tháng 3)
năm 1990
rồi, mà
mãi
đến
cuối năm
(tháng 12) năm
1990 Ba-Lan
mới thật-sự chấm dứt
chế-độ
cộng-sản
của mình, thì
công-lao của Giáo-Hoàng
John Paul II, dù thật quả có góp phần về mặt tinh-thần,
nhưng đâu phải
là lớn-lao duy-nhất hàng đầu
mà xem như chỉ có một mình Ngài
đã
lật đổ được cộng-sản
tại quê-hương
mình, lại còn suy rộng là
nhờ đó mà
giải-thể
luôn cả
cộng-sản tận gốc Liên-Xô!
3/
Về điểm này, vào
dịp cựu-Tổng-Thống
Ronald Reagan
của Mỹ từ-trần,
chính cựu Tổng-Thống
Lech Walesa của
Ba-Lan đã phát-biểu,
tại xưởng tàu lịch-sử
Gdansk vào ngày
11-6-2004:
"Ba-Lan
có được Tự-Do
là nhờ Reagan...
Chính-sách của ông
là trợ-giúp các
phong-trào dân-chủ
ở Trung và Đông-Âu
trong thời-kỳ đen-tối
của cuộc chiến-tranh
lạnh... ông
đã hậu-thuẫn
chúng tôi ở Công-Đoàn
"Đoàn-Kết"
cũng như các
phong-trào đối-kháng
ở các nước khác
đằng sau Bức Màn
Sắt, đồng-thời
tăng-cường lực-lượng
quốc-phòng khiến
kinh-tế Liên-Xô
rơi xuống vực
thẳm... Reagan
là người đầu
tiên đã giúp
mang lại thời-đại
mới này cho Âu-Châu...
Ông đã yểm-trợ
cuộc chiến-đấu
của tôi".
4/ Mới có
chưa đầy
5 tháng sau khi Giáo-Hoàng
John Paul II
từ-trần,
Công-Đoàn
Đoàn-Kết
Ba-Lan
rầm-rộ
kỷ-niệm
25 năm
hoạt-động,
mà lãnh-tụ
Lech Walesa
của Phong-Trào
ấy trong
dịp ấy
không hề
nhắc đến
John Paul II
một
tiếng,
huống gì
kể công
của Ngài.
5/
Chưa
hết, kề ngày
kỷ-niệm
húy-nhật
đầu tiên
của Ngài
(02-4-2005 –
02-4-2006), ký-giả
Đỗ Phương
Thảo đã
phổ-biến
một bài
viết để
tưởng
nhớ
linh-mục Jerzy
Popieluszko, cũng
của Ba-Lan,
với
kết-luận
ghi rõ trên nhan
đề (không
rõ là của chính
Đỗ Phương
Thảo hay
của Matthew
Trần là người
chuyển
tiếp
bằng email)
rằng “Biến
cố cs Balan ám
sát Lm Lerzy
Popieluszko đã
đưa đến
sự TỰ ZO
cho Balan và
sự sụp
đỗ
khối
cọng sãn
SoViết”
From:
|
"Matthew
Tran"
|
Date:
|
Wed,
22 Mar
2006
12:32:51
-0800
(PST)
|
Subject:
|
[XomVangQld]
FOTO Cha
Jerzy
Popieluszko
Balan !!
// Bie^'n
co^' cs
Balan
a'm sa't
Lm Jerzy
Popieluszko
da~
du+a
de^'n su+.
TU+. ZO
cho
Balan va`
su+.
su.p
do^~ kho^'i
co.ng
sa~n
SoVie^'t.
|
6/
Cũng thế, linh-mục
Đinh Xuân Long đã
phổ-biến, trên
liên-mạng VNN, vào
ngày 28-3-2006, bài
viết "Tìm
Một Gandhi Hay
Một Jerzy Cho
Việt Nam"
với
nội-dung cũng đề-cao
cố linh-mục
Jerzy: "Cái
chết của cha đã
mang lại sức mạnh
và niềm tin cho công
nhân và dân tộc
Ba Lan",
và kết-luận:
"Từ đó, cũng
từ
ngôi mộ đầy uy
linh của cha, niềm
tin đã biến thành
sức mạnh.
CĐĐK càng thêm vững
mạnh dẫn tới sự
sụp đổ của chế-độ
cs Ba Lan."
7/
Như
thế nghĩa là, trong vụ
sụp đổ
của
cộng-sản
Ba-Lan, tuy Giáo-Hoàng
John Paul II cũng
có tích-cực góp phần
(dù chỉ
bằng cách
cầu-nguyện
và
ngấm-ngầm
ủng-hộ, chứ không hô lên hai
tiếng “Đoàn-Kết”
như người ta muốn khi Công-Đoàn
Đoàn-Kết
của Lech
Walesa và dân-chúng
Ba-Lan tiếp
đón và mong
cầu Ngài hô
theo), và tuy
Ba-Lan thoát ách
cộng-sản
sau nhiều nước
khác, nhưng có
một số người,
cho đến sau khi
Ngài chết, vẫn cứ
quả-quyết
rằng chính Ngài
mới là người
duy-nhất có toàn-năng
làm nên “công-trạng”
ấy.
Cái
ngôi-vị
vinh-quang cần được
xét lại ấy, chỉ
tồn-tại
có chưa đầy một năm
sau khi Ngài
chết, thì đến
dịp giỗ
đầu tiên
của Ngài (2 April 2006) đã bị người
ta đảo-chính,
bằng cách tước-đoạt
cái "công-trạng"
đã gán cho
Ngài, mà gán qua
cho (chỉ một mình) linh-mục
Jerzy Popieluszko.
Cố linh-mục
Jerzy đã
bị
cộng-sản
giết
chết vào ngày
19 của tháng
10 năm
1984, nhưng nay có
người lại
cố ý chọn dịp
chuẩn-bị kỷ-niệm
tháng
4 húy-nhật
đầu tiên
của cố
Giáo-Hoàng John
Paul II để tưởng-niệm
cố linh-mục Jerzy, nói là
chính
linh-mục này
mới là người
đã
đưa đến
sự Tự Do
cho Ba Lan và
sự sụp
đổ
của cả
khối
cộng sản
Xô Viết
(sic)!
Chúng
tôi sẽ
tiếp-tục
ghi nhận thêm...
LÊ
XUÂN NHUẬN
PHỤ
LỤC:
THƯ
CỦA LÊ XUÂN NHUẬN
GỬI
GIÁM-ĐỐC CƠ-QUAN TÌNH-BÁO TRUNG-ƯONG HOA-KỲ
Đang
viết tiếp
Đầu năm 2007, chúng tôi mới ghi nhận
thêm:
Mất
Đức Tin là bỏ Đạo, không thờ Chúa Giê-su
nữa. La-mã sẽ mất Đức Tin nghĩa là Vatican
sẽ bỏ Đạo, nghĩa là giới lãnh đạo
cao cấp nhất trong Giáo Hội Công Giáo sẽ mất Đức
Tin. Đây không phải là lần đầu có sự tiên
báo về sự mất đức tin này. Gần hai ngàn năm
trước Thánh Phao-lô cũng đã tiên báo 3 biến
cố quan trọng xảy ra tiếp theo nhau là 1) sự
bỏ đạo tập thể (« mass apostasy ») ;
2) sự ra đời của tên nguỵ-ki-tô mà ngài
gọi là « Đứa
vô đạo, kẻ hư đốn, tên vô-luật-pháp,
kẻ dám ngồi vào Thánh Điện của Thiên Chúa,
kẻ dám xưng minh là Thiên Chúa »; 3) Ngày tái
lâm của Chúa Giê-su tức Ngày Tận Thế (2 Thess. 2 :
1-4) Trong 3 biến cố quan trọng vừa kể,
biến cố đầu tiên là đề tài chúng ta đang
bàn đến ở đây. Đức Mẹ nói ở La-sa-let
rằng « La-mã sẽ mất Đức Tin ». Câu
hỏi ở đây là : La-mã đã mất Đức
Tin chưa ? Vatican đã bỏ Đạo chưa ? Tôi
đã trình bày đề tài này nhiều lần nhất là
trong Điện Thư Số 5 và Số 7, với những
bằng chứng rành rành trên giấy trắng mực đen.
Ở đây tôi chỉ xin nhắc lại sơ lược
vài nét chính. Đức Tin Công Giáo được xây
dựng trên một Nền Tảng gồm có một số
tín điều, trong đó, tín điều quan trọng
nhất là tín điều số 1 mà giáo dân tuyên xưng
trong Thánh Lễ mỗi Chúa Nhật là « Tôi
tin kính một Thiên Chúa là
Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất
muôn loài muôn vật hữu hình và vô hình ».
Thử hỏi : « Triều Đình Vatican còn tin như
vậy không ? » Trong số một tỷ giáo dân Công
giáo, có ai dám nghĩ rằng giới lãnh đạo Giáo
Hội KHÔNG còn tin như vậy nữa. Đây là bằng
chứng rành rành : ngày 28
tháng 10 năm 1965
hầu như toàn thể giới lãnh đạo Giáo
Hội Công Giáo, tại một phiên họp khoáng đại
của Công
Đồng Vatican II,
bằng 2221 phiếu chống lại 88 phiếu, đã
biểu quyết chấp thuận bản Tuyên
Xưng Đức Tin Mới
của Giáo Hội như sau :
« Tôi tin kính Chúa của Hồi Giáo là Thiên
Chúa, là đấng duy nhất,
hằng sống và hằng hữu, từ bi và toàn năng,
là Đấng Tạo Hoá đã tạo thành trời và
đất, cũng là đấng đã nói với loài người ».
Đó là mục 3 trong Tuyên Ngôn NOSTRA AETATE. Sau khi Đại
Hội Đồng biểu quyết, Giáo Hoàng Phao-lô
VI
đã lập tức ký tên ban hành cho toàn thể thế
giới. Một trong những lãnh tụ của Khối
Đa Số trong Công Đồng (Khối Liên Minh Âu Châu,
European Alliance) là Tổng Giám Mục Karol
Wojtyla
(Giáo Phận Cracow, Ba-lan) về sau trở thành Giáo Hoàng Gio-an
Phao-lô II, là người chủ chốt trong vụ vận
động đưa gìới lãnh đạo Giáo Hội
tới chỗ tuyên xưng đức
tin Hồi Giáo
như thế. Rồi 27 năm sau, một
mình
trong cương vị Giáo Hoàng, ngày 11
tháng 10 năm 1992,
ông đã ban hành Bộ
Luật Đức Tin Mới
tức Sách
Giáo Lý Mới
trong đó, lại một lần nữa, ông tuyên xưng đức
tin Hồi Giáo của ông nơi Điều 841.
Với Điều 841 này, ông còn đi xa hơn nữa :
sau khi tuyên xưng Allah
là « Đấng Tạo Hoá, là Thiên Chúa duy nhất và
từ bi »,
ông đã đặt nó lên Ngai Vinh Hiển để
« làm Quan Án phán xét loài người vào ngày tận
thế ». Như vậy, ông đã giơ chân đạp
vào mặt Chúa Giê-su, truất phế Chúa khỏi Ngai Vinh
Hiển mà Chúa sẽ ngồi để « phán xét
kẻ sống và kẻ chết » như Chúa đã tiên
báo
(Mát-thêu 25 : 31-46). Nếu còn đức tin Công Giáo, không
một ai có thể rao giảng một giáo điều như
Điều 841 Sách Giáo Lý Mới. Khi đặt Allah lên làm
Quan Án phán xét muôn dân, ông đã để lộ manh tâm
muốn tống mọi người xuống Hoả
Ngục chỉ để cho các tín đồ Hồi Giáo
được lên Thiên Đàng mà thôi. Bởi lẽ ai cũng
biết rằng nếu Allah làm Quan Án phán xét mọi người
vào Ngày Tận Thế, thì nó sẽ chỉ đặt các
tín đồ Hồi Giáo đứng bên hữu rồi cho
lên Thiên Đàng hết. Còn các tín đồ Thiên Chúa Giáo
hay Phật Giáo sẽ bị nó tống xuống Hoả
Ngục hết.
Giáo
Hoàng Gio-an Phao-lô II không những chỉ tuyên xưng đức
tin Hồi Giáo của mình nhiều lần bằng chữ
viết hiện còn rành rành trên giấy trắng mực
đen như thế, ông còn tuyên xưng đức tin
đó nhiều lần bằng cử chỉ và hành động
diễn ra trước mặt hàng tỷ người trên
khắp thế giới. Sau đây là mấy trường
hợp điển hình :
a). Ngày 14
tháng 5 năm 1999
trong dịp tiếp kiến một Phái Đoàn Hồi Giáo
từ I-rắc tới viếng thăm Vatican, khi được
phái đoàn trao tặng cuốn kinh
thánh Koran của Hồi Giáo,
Giáo Hoàng đã cúi
đầu cung kính đưa hai tay tiếp nhận rồi
cúi mình khòm lưng hôn cuốn sách này
là sách chửi rủa Thiên
Chúa Ba Ngôi
nặng lời, chửi rủa người Công Giáo
nặng lời, là cuốn sách hô hào các tìn đồ hãy
mai phục để “giết hết bọn ác ôn Công Giáo”
v.v.
b).
Ngày 6
tháng 5 năm 2001
Gio-an Phao-lô II lại có dịp tuyên xưng đức tin
Hồi Giáo của mình trong cuộc viếng thăm Syria. Ông
đã vào cầu
nguyện trong một ngôi chùa Hồi Giáo ở Thủ
Đô Damascus
là chùa Umayyad Mosque. Trước khi vào chùa, ông cũng
cởi giày để ở ngoài cửa như các tín đồ
khác. Rồi vào chùa cũng khoanh tay cầu nguyện như
các tín đồ khác. Hình ảnh Giáo Hoàng La-mã ôm
hôn kinh Koran
cũng như hình ảnh ông cởi
giày vào cầu nguyện trong chùa Umayyad
đã được các hãng truyền hình truyền đi
khắp thế giới. Thật là nhục nhã cho Chúa Giê-su
biết chừng nào.
c).
Ngày 12
tháng 3 năm 2000
tại Đại Thánh Đường Thánh Phê-rô ở
La-mã, Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II đã cùng các giới
chức cao cấp lãnh đạo Vatican quỳ trước
Thánh Giá đọc Bản
Thú Tội
nhan đề là “Memory
and Reconciliation:
The
Church and the Faults of the Past”
(“Hồi Niệm và Hoà Giải: Giáo
Hội và Những Lỗi Lầm trong Quá Khứ”).
Trong Bản Thú Tội này, Giáo Hoàng đã nặng lời kết
án Thập Tự Quân là “Lũ Sát Nhân” đã sát
hại hàng ngàn tín đồ Hồi Giáo trong những
“cuộc thánh chiến đẫm máu”.
Đúng là lời lẽ và luận điệu của
những phần tử Hồi Giáo coi Cơ-đốc-giáo
là kẻ thù không đội trời chung. Nếu không có
Thập Tự Quân thì ngày nay cả thế giới đã
và đang nằm dưới quyền sinh sát của
bọn Ayatollah
hay Imam
rồi. Khi kết án Thập Tự Quân, Giáo Hoàng đã
phản bội vong linh của 7 ngàn 500 chiến sĩ Công
Giáo đã hy sinh trong trận hải chiến tại
Vịnh Lepanto ngày 7 tháng 10 năm 1571. Trong trận này,
Thập Tự Quân đã đánh tan đại binh Hồi,
giết chết 30 ngàn quân, đập tan giấc mộng bá
chủ Âu Châu của chúng. Gọi là “Bản Thú Tội”,
nhưng thực chất chỉ là những lời “Tố
Cáo”. Giáo
Hoàng đã “tố cáo các tội ác của Giáo Hội
suốt hai ngàn năm qua”.
Ông đã đứng vào tư thế của kẻ thù
để tố cáo và kết án Giáo Hội, bởi
lẽ, theo Luật Hình Sự Tố Tụng của bất
kỳ quốc gia nào, một người chỉ có thể
thú tội của chính mình, chẳng có nước nào cho
phép người này “thú tội” của người khác
bao giờ. Nếu Giáo Hoàng Gregori XIII có phạm tội “đồng
lõa cố sát” trong vu
30 ngàn quân Hồi bị giết
thì
chỉ một mình ngài có thể “thú tội”. Giáo Hoàng
Gio-an Phao-lô II không có một tư cách nào để “thú
tội”
mà người khác đã phạm từ hơn 4 thế
kỷ trước.
Có
tin cho rắng trước khi chết, Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô
II đã chính
thức theo Hồi Giáo
và ra lệnh phải an
táng ông theo nghi thức Hồi Giáo.
Quả thực, chưa bao giờ người ta thấy quan
tài của một Giáo Hoàng mà đơn sơ mộc
mạc như quan tài của ông
(xin xem Website www.tinparis.net ,
Mục Chuyện Lạ). Dù sao, theo tinh thần của Giáo
Luật (Code of Canon Law) từ ngàn xưa, nhất là Điều
1258 Bộ Giáo Luật năm 1917, một tín đồ Công
Giáo mà công khai “tích cực phụ giúp hoặc tham dự”
vào nghi thức phụng vụ của một tôn giáo khác
thì coi như đã bỏ Đạo. Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô
II không những đã nhiều lần minh thị tuyên xưng
đức tin Hồi Giáo với những bằng chứng
còn rành rành trên giấy trắng mực đen, rồi
lại đã công khai vào chùa Hồi Giáo cầu kinh chung
với các tín đồ Hồi Giáo thì hiển nhiên
về phương diện pháp lý theo Giáo Luật, ông
đã chính thức bỏ Đạo. Ông đã mất
Đức Tin Công Giáo...
(lời
của ông Trương Tiến Đạt)
CHUYỆN
THỨ NĂM:
Giáo-Hoàng
Benedict XVI
(đang
viết tiếp)
LÊ
XUÂN NHUẬN
John
Paul II
No comments:
Post a Comment