HUYỀN THOẠI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
NGUYỄN THIÊN THỤ
LTS. Bài này đã đăng số trước, nay có thêm tài liệu xin bổ túc cho đầy đủ.
Lịch sử đảng Cộng sản Việt Nam viết rằng
ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành dùng tên giả là Văn Ba xuống tàu Amiral
Latouche-Tréville xin làm phụ bếp. Tất Thành tuyên bố rằng ông ra đi tìm
đường cứu nước. (HCM,I)Trong quyển " Kể Chuyện Về Đời Hoạt Động của Bác Hồ" Trần Dân Tiên tự biện rằng “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta" (HCM, X, 7)..
I. BUỔI RA ĐI
Theo lời Trần Dân Tiên, cậu Ba lên tàu gặp ban giám đốc xin làm phụ bếp.
Cậu Ba khó thể làm điều này được. Lúc bấy giờ tại Việt Nam, người trên
18 tuổi phải có căn cước. Cậu Ba có thể có hai căn cước. Một căn cước
thật, và một căn cước giả để tiện cho những hành vi mớ ám. Căn cước mang
tên Văn Ba là căn cước giả. Căn cước này cấp tại đâu? Có hai ý kiến là
cấp tại Saigon hoặc tại Phan Thiết. Phan Thiết có trường Dục Thanh, có
hãng Liên Thành, có Trương Gia Mô là bạn của Nguyễn Sinh Sắc. Khoảng
1922, họ đã đi Trung Quốc, sang dự triển lãm tại Pháp.
Mặc dầu công ty Liên Thành thành lập mới được một hai năm, trong khoảng 1910, tại Phan Thiết có lẽ đã hình thành một tổ chức xã hội đen làm giấy tờ giả, đưa di dân lậu. Có thể do nơi đây quen biết này nọ mà làm được căn cước giả. Có thể tại đây, công ty Liên Thành móc nối với một tổ chức đưa dân di cư lậu sang châu Âu.Hội nghị về Nguyễn Tất Thành tại Phan Thiết đã theo ý kiến cho rằng căn cước này có thể do quen biết giữa Hồ Tá Bang và viên công sứ Pháp Denier làm tại Phan Thiết (HCM, IX,). Nếu do công sứ cấp thì là căn cước thật, không lẽ quan công sứ Pháp lại làm như thế ư?Hoặc do Hồ Tá Bang mua chuộc nhân viên tòa Công sứ Pháp tại đây?
Theo thiển kiến, người ta làm điều phi pháp thì hại cho bản thân và gia đình, thành thử không ai dám làm. Thời loạn, pháp luật và đạo đức đồi trụy, con người vì tiền mà làm điều xằng bậy như thời buổi này tại Việt Nam. Lúc bấy giờ, những người như Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang không dại gì làm việc ấy, nhất là chẳng lợi gì đối với một Tất Thành không xu dính túi. Chúng ta không loại trừ cái tổ chức làm giấy tờ giả, đưa người đi lậu ở Phan Thiết có thể là chân rết của một tổ chức lớn, mà trung tâm có lẽ ở Sàigon, Khánh Hội.
Mang
tên giả, căn cước giả ắt là đi lậu. Đã đi chui, đi lậu thì làm sao
chường mặt ra với các nhân viên trong tàu, làm sao có thể làm phụ bếp
như lời bác nói! Không lẽ tụi Pháp nó không xét giấy tờ?Không lẽ tụi
Pháp đễ dãi hơn công an Việt Cộng sao? Mặc dầu công ty Liên Thành thành lập mới được một hai năm, trong khoảng 1910, tại Phan Thiết có lẽ đã hình thành một tổ chức xã hội đen làm giấy tờ giả, đưa di dân lậu. Có thể do nơi đây quen biết này nọ mà làm được căn cước giả. Có thể tại đây, công ty Liên Thành móc nối với một tổ chức đưa dân di cư lậu sang châu Âu.Hội nghị về Nguyễn Tất Thành tại Phan Thiết đã theo ý kiến cho rằng căn cước này có thể do quen biết giữa Hồ Tá Bang và viên công sứ Pháp Denier làm tại Phan Thiết (HCM, IX,). Nếu do công sứ cấp thì là căn cước thật, không lẽ quan công sứ Pháp lại làm như thế ư?Hoặc do Hồ Tá Bang mua chuộc nhân viên tòa Công sứ Pháp tại đây?
Theo thiển kiến, người ta làm điều phi pháp thì hại cho bản thân và gia đình, thành thử không ai dám làm. Thời loạn, pháp luật và đạo đức đồi trụy, con người vì tiền mà làm điều xằng bậy như thời buổi này tại Việt Nam. Lúc bấy giờ, những người như Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang không dại gì làm việc ấy, nhất là chẳng lợi gì đối với một Tất Thành không xu dính túi. Chúng ta không loại trừ cái tổ chức làm giấy tờ giả, đưa người đi lậu ở Phan Thiết có thể là chân rết của một tổ chức lớn, mà trung tâm có lẽ ở Sàigon, Khánh Hội.
Bởi vậy, Nguyễn Xuân Tới cho rằng bác đã đi theo đường dây xuất cảnh lậu như một đoạn trong phim xã hội đen:"Một cái giỏ từ trên boong tàu thả xuống, Thành ngồi trên cái giỏ ấy và lập tức được kéo lên" (Nguyễn Xuân Tới. HCM, XVIII).
II. NGUYỄN TẤT THÀNH, DI DÂN LẬU
Cậu Ba đã mô tả công việc khá nặng nhọc vì dưới bếp rất nóng và trong
hầm rất rét. Nhất là khi vừa phải vác một bao nặng vừa leo lên những bậc
thang trong khi tàu tròng trành. ...
Một lần, dọc đường, anh Ba suýt chết đuối. Biển nổi sóng. Làn sóng to như những quả núi chồm lên đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba đi lên đi xuống từ bếp đến hầm. Không thể vác những rỗ rau lên vai vì tàu tròng trành, anh phải buộc rỗ rau vào dây sắt để kéo đi, chuyến thứ hai một ngọn sóng lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống biển mọi vật trên sàn tàu. Cả những rổ rau và anh Ba nữa. Anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết.(HCM, X,)
Một lần, dọc đường, anh Ba suýt chết đuối. Biển nổi sóng. Làn sóng to như những quả núi chồm lên đổ xuống. Hầu hết mọi người say sóng. Như mọi ngày, anh Ba đi lên đi xuống từ bếp đến hầm. Không thể vác những rỗ rau lên vai vì tàu tròng trành, anh phải buộc rỗ rau vào dây sắt để kéo đi, chuyến thứ hai một ngọn sóng lớn thình lình phủ lên sàn tàu và cuốn xuống biển mọi vật trên sàn tàu. Cả những rổ rau và anh Ba nữa. Anh bị đẩy vào giữa cột buồm và dây xích, nhờ vậy mà thoát chết.(HCM, X,)
Đa số người đi tàu bị say sóng nằm rệp, chỉ có những người quen đi biển
thì không sao. Cậu Ba đi biển ngày đầu mà vẫn đi lại bình thường thì
thiệt là giỏi.Những tàu nhỏ có
thể bị sóng dâng lên cao rồi đổ xuống tàu, còn tàu nhà binh, hoặc tàu chạy đường trường chở khách,
chở hàng mấy nghìn tấn, êm như ru, không bao giờ bị sóng phủ
lên. Như vậy thì ai dám đi du lịch? Điều này rõ ràng là bác giàu tưởng
tượng. Bác muốn tô vẽ cuộc ra đi gian nan của cậu Ba mà hóa ra nói láo. Dù đi tàu nhỏ có thể bị sóng phủ lên tàu, nhưng nhiệm vụ phụ bếp thì phải ở tầng dưới, là nơi bếp núc. . Làm sao cậu phải bưng các rổ
rau, cá, thịt từ kho hàng tức gầm tàu lên boong tàu? Hàng ngày cậu Ba
phải đi từ bếp đến hầm, cậu không thể vác những rổ rau vì tàu chòng
chành. Cậu phải buộc rổ rau vào dây xích mà kéo đi. Rỗ rau nặng làm sao
kéo lên được qua những bậc thang trong tàu? Sóng đổ vào tàu, mọi thứ đều
bị kéo xuống biển, làm sao cậu Ba thoát chết? Nhờ phép lạ chăng?
Mỗi ngày có một người dọn dẹp đồ đạc.
Những người phục vụ, sau khi dọn chỗ khách ăn, phải dọn bát đĩa bỏ tất
cả chén bát và thức ăn lẫn lộn vào trong một cái thang điện đưa xuống
bếp. Lúc bấy giờ người dọn dẹp phải để đồ đạc riêng một bên, bát đĩa để
riêng một bên để người ta đem đi rửa. Khi đến lượt anh Ba, anh làm rất
cẩn thận. Đáng lẽ vứt thức ăn thừa vào một cái thùng, đôi khi còn cả
phần tư con gà, những miếng bít-tết to tướng v.v. thì anh giữ gìn sạch
sẽ và đưa lại cho nhà bếp. Chú ý đến việc này, ông già Ét-cốp–phi–e hỏi
anh: "Tại sao anh không quẳng thức ăn thừa vào thùng, như những người
kia?"
"Không nên vứt đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy."(HCM, X)
"Không nên vứt đi. Ông có thể cho người nghèo những thứ ấy."(HCM, X)
Chúng ta cần phân biệt làm kinh doanh và từ thiện là hai việc khác nhau. Ở Tây phương không có việc nhà hàng đem đồ ăn cho người nghèo. Việc này đã có những hội đoàn từ thiện phụ trách. Có những nhà thờ lo việc ăn ngủ cho những người nghèo. Chính phủ cũng lo về an sinh xã hội. Ở đâu cũng vậy, nhập gia tùy tục, làm việc cho người phải theo luật lệ của người. Đồ ăn đã đổ vào thùng rác thì dơ dáy, mất vệ sinh, không thể đem rửa sạch rồi bán lại cho khách hàng. Người Âu Mỹ trọng vệ sinh, không như bên ta, gà toi đem chôn còn đào lên để ăn. Nếu luật cấm, mà cậu Ba còn đem vào bếp ắt bị đuổi ngay. Cậu Ba có thực sự làm bồi nhà hàng không, sao chẳng biết luật lệ nhà hàng Âu Mỹ?
III. ĐỜI SỐNG DI DÂN BẤT HỢP PHÁP
Cậu Ba là di dân lậu cũng như người Việt bây giờ bán nhà cửa để đi lao động, nhưng sự thật là họ bị các tổ chức buôn người lừa đảo. Điểm tương đồng giữa họ và cậu Ba ngày xưa là nhắm tới Pháp và Anh. Ở Anh, cậu Ba rất khổ.
Về mùa đông lạnh, mỗi buổi sáng trước khi
đi làm, ông để một việc gạch vào lò bếp của khách sạn. Chiều đến, ông
lấy viên gạch ra, bọc nó vào trong những tờ báo cũ, để xuống nệm cho đỡ
rét. (HCM, X, tr.21)
Ngày nào cậu Ba cũng bỏ một viên gạch vào lò bếp mà không ai biết ư? Lò
bếp hầm một ngày thì viên gạch nóng mấy trăm, mấy ngàn độ? Nếu viên gạch
đỏ lên thì không tài nào bỏ lên tờ báo mà cầm hay ôm được vì tờ báo sẽ
cháy. Và lại nóng như thế, giường nệm sẽ cháy. Người Âu Mỹ sợ cháy, đề
phòng lửa rất cẩn mật, sao cậu Ba lại làm như vậy? Khách sạn lẽ nào
không có ai vô ra và không thấy cậu Ba làm việc sai trái này? Nếu gạch
nóng vừa thôi thì chẳng có tác dụng vào lúc lạnh dưới 20-40 độ âm. Nói
và viết như vậy có ích gì? Không lẽ "bác" khoe nghèo ư? Bác là người đi
tiên phong trong trường phái Ba Giai Tú Xuất sản sinh ra những chuyện
đuốc sống Lê Văn Tám, La Văn Cầu lấp lỗ châu mai...
Có lẽ cậu Ba là di dân lậu, sau khi đến bờ là ở nhà người ta làm gia
nhân. Sau này cậu Ba gia nhập các băng đảng, trong đó có đảng Xã hội và
đảng Cộng sản, được họ cấp các giấy tờ cần thiết. Còn các lần trước, cậu
Ba e đi chui như đoạn văn sau đây của "bác" viết khi "bác" lên tàu
Nga:
“Theo lời thuyền trưởng, đồng chí đi tàu… không có giấy phép?”“Đúng, tôi bí mật.”
“Và đồng chí cũng không có giấy tờ gì cả?”
Không.”(HCM X), tr.33)
Luật sư Nguyễn Văn Chức cho biết năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đuợc CS Pháp thuê mướn đi rải truyền đơn. Bị mật thám Pháp truy nã, y được đảng CS Pháp bố trí cho sang Đức, rồi từ Đức đáp xe lửa đi Mạc Tư Khoa. Giấy thông hành của y (số 1829, đề ngày 16/06/1925 đóng dấu toà đại sứ Nga tại Bá Linh) ghi : Chen Wang, sinh ngày 15/01/1895 tại Đông Dương, làm nghề thợ ảnh. (Nguyên văn : Chen Wang né le 15 Janvier 1895 à Indochine, profession : photographe.(HCM, CXXXII)
Dựa vào cộng sản quốc tế, từ đây cậu Ba có giấy tờ đi đó đi đây, sang Mạc Tư Khoa học tập các thủ đoạn tuyên truyền và khủng bố.
IV. MẶT NẠ YÊU NƯỚC CHỐNG PHÁP
Đảng cộng sản vẽ nên một Nguyễn Tất Thành yêu nuớc, ghét thực dân Pháp. Trong cuốn Hồ Chủ Tịch, Trường Chinh còn khẳng định : “vì Người phát giác trường học của Pháp chỉ nhằm đào tạo tay sai cho đế quốc, cho nên Người đã bỏ ra đi tìm đường cứu nước”.
Các danh nhân Việt Cộng cũng theo thế mà ca.
Lịch sử cộng đảng ghi :
Ngày
5-6-1911, trên con tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin, từ bến cảng Nhà Rồng,
thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Tất Thành rời
Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước.. . Về mục đích ra đi của mình, năm
1923 Người đã trả lời một nhà báo Nga rằng: “Khi tôi độ mười ba tuổi,
lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Tôi rất
muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng
sau những chữ ấy”(HCM I)
Đây là hai bức
thư trong văn khố Pháp, đề ngày 15 tháng 9 năm 1911. Một bức gửi cho
Tổng thống Pháp, một bức gửi cho Bộ trưởng bộ Thuộc địa Pháp.
Marseille le 15 Septembre 1911
Monsieur le Président de la République
J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’Ecole Coloniale comme interne.
Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Trévile” pour ma substance.Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m’instruire. Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’Instruction.
Je suis originaire de la province de Nghê An, en Annam.
En attendant une réponse que j’espère favorable, agréez, Monsieur Le Président, l’assurance de ma reconnaissance anticipée.
Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. Nguyễn Sinh Huy (sous docteur ès- lettres). Etudiant Francais, quốc ngữ, caractère chinois.
1. Bức thư gửi tổng thống Pháp:
Marseille le 15 Septembre 1911
Monsieur le Président de la République
J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’Ecole Coloniale comme interne.
Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Trévile” pour ma substance.Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m’instruire. Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l’Instruction.
Je suis originaire de la province de Nghê An, en Annam.
En attendant une réponse que j’espère favorable, agréez, Monsieur Le Président, l’assurance de ma reconnaissance anticipée.
Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. Nguyễn Sinh Huy (sous docteur ès- lettres). Etudiant Francais, quốc ngữ, caractère chinois.
Dưới đây là bản dịch:
Marseilles
Ngày 15 tháng Chín năm 1911
Thưa Ngài Tổng thống!
Tôi xin hân hạnh yêu cầu Ngài giúp đỡ cho tôi được vào học nội trú tại Trường Thuộc địa.
Hiện nay, để nuôi thân, tôi đang làm việc cho công ty Chargeurs Réunis (Tàu Amiral Latouche – Tréville). Tôi hoàn toàn không còn nguồn lực nào và rất thiết tha muốn có học vấn. Tôi muốn trở nên có ích cho nước Pháp trong quan hệ với đồng bào tôi và đồng thời mong muốn đồng bào tôi thu lợi được từ học hành.
Quê tôi ở tỉnh Nghệ An, Trung Kỳ. Với hy vọng rằng Ngài sẽ phúc đáp theo hướng thuận lợi đề nghị của tôi, tôi xin Ngài Tổng thống nhận sự biết ơn sâu sắc của tôi.
Nguyễn Tất Thành
Sinh tại Vinh, 1892
Con trai của Ông Nguyễn Sinh Huy (tiến sĩ văn chương)
Học sinh tiếng Pháp và chữ nho
2. Bức thư gửi Bộ trưởng bộ Thuộc địa
Marseille le15 Septembre 1911
À Monsieur le Ministre des Colonies
Monsieur le Ministre
J'ai l'honneur de solliciter de votre bienveillance la faveur d'être admis à suivre les cours de l ' École Coloniale comme interne .
Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis pour ma substance à soi de l'Amiral Latouche Tréville.
Je suis entièrement dénué de ressources et avide de m' instruire . Je désirerais devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de l' instruction .
Je suis originaire de la province de Nghê-an, en Annam.
En attendant votre réponse que j ' espère favorable, agréez, Monsieur le Ministre , mes plus respectueuses hommages et l ' assurance de ma reconnaissance anticipée .
Nguyễn-tất Thành,
né à Vinh, en 1892 ,fils de Mr Nguyễn sinh Huy, sous docteur es-lettre
Étudiant Francais , quốc ngữ, caractère chinois
(HCM, CXXXV)
Bản dịch
Marseille ngày 15 tháng chín 1911
Kính gởi ông Bộ Trưởng bộ Thuộc Ðịa
Kính thưa ông Bộ Trưởng ,
Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng tốt của ông ban đặc ân cho tôi được nhận vào nội trú trường Thuộc địa.
Tôi hiện làm công nhân trong công ty Chargeurs Réunis để mưu sinh ( trên tàu Amiral Latouche-Tréville) .
Tôi hoàn toàn không có tài sản và khao khát được học hỏi. Tôi mong ước trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời có thể làm cho họ hưởng được lợi ích về học vấn.
Tôi gốc tỉnh Nghệ An, xứ An Nam .
Trong lúc chờ đợi sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, xin ông Bộ Trưởng nhận nơi đây lòng tôn kính và tri ân trước của tôi.
Nguyễn Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892 , con của ông Nguyễn sinh Huy, Phó Bảng. Học sinh pháp văn, quốc ngữ, chữ hán. (HCM, CXXXV)
Kính gởi ông Bộ Trưởng bộ Thuộc Ðịa
Kính thưa ông Bộ Trưởng ,
Tôi xin trân trọng thỉnh nguyện lòng tốt của ông ban đặc ân cho tôi được nhận vào nội trú trường Thuộc địa.
Tôi hiện làm công nhân trong công ty Chargeurs Réunis để mưu sinh ( trên tàu Amiral Latouche-Tréville) .
Tôi hoàn toàn không có tài sản và khao khát được học hỏi. Tôi mong ước trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời có thể làm cho họ hưởng được lợi ích về học vấn.
Tôi gốc tỉnh Nghệ An, xứ An Nam .
Trong lúc chờ đợi sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, xin ông Bộ Trưởng nhận nơi đây lòng tôn kính và tri ân trước của tôi.
Nguyễn Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892 , con của ông Nguyễn sinh Huy, Phó Bảng. Học sinh pháp văn, quốc ngữ, chữ hán. (HCM, CXXXV)
Hai bức thư này có điểm giống nhau cùng bày tỏ lòng mong muốn làm tay sai cho Pháp với lời văn hoa là ước mong trở nên hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào tôi, đồng thời làm thế nào cho họ hưởng được ích lợi của nền học vấn: (HCM CXX; , HCM XVI)
Vũ Ngự Chiêu trả lời phỏng vấn của Hợp Lưu số 106 năm 2009 như sau: Ðầu tháng 2/1983, khi làm việc trên kho tài liệu trường Ecole coloniale, tức học hiệu huấn luyện các viên chức thuộc địa Pháp, trên đường Oudinot, quận 7, Paris, tôi vô tình khám phá ra nhiều hồ sơ học viên người Việt tại học hiệu này, như Bùi Quang Chiêu, Ðèo Văn Long, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, Lê Văn Miễn, v.. v... tổng cộng khoảng 97 người (CAOM (Aix), Ecole Coloniale, cartons 27, 33 & Registers). Mục đích của tôi là tìm hiểu về những viên chức thuộc địa Pháp cùng thế hệ Tây học Việt Nam đầu tiên (ngoài những người tốt nghiệp các lớp huấn luyện ở các tu viện như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, v.. v...) để dùng cho chương Biến đổi văn hóa và xã hội của luận án Tiến sĩ.
Thật vô tình, tìm thấy tập hồ sơ xin nhập học nhưng không được chấp nhận của Nguyễn Tất Thành, tức HCM sau này, cùng một người bồi khác được chủ Pháp mang về Paris. Ngoài hai lá thư viết tay gửi Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Thuộc Ðịa, đề ngày 15/9/1911 tại Marseille, còn thêm ba tài liệu của Hội đồng quản trị trường. Trong biên khảo tam ngữ Một ngôi trường khác cho Nguyễn Tất Thành (Paris: 1983) tôi đã trình bày khá rõ: Người mà chúng ta biết như HCM sau này đã rời nước không vì muốn tìm đường cứu nước, mà chỉ vì những tao ngộ bản thân (cha bị cách chức, tống giam, nên phải bỏ học nửa chừng, v.. v...). Từ cổng hậu đóng kín của trường Thuộc Ðịa, HCM sẽ tìm thấy cánh cửa mở rộng của Ðại Học Phương Ðông của Liên Sô Nga 12 năm sau.(HCM, LXXXIV)
William J. Duiker trong tác phẩm của ông cũng xác nhận Lá thư Nguyễn Tất Thành xin vào học trường thuộc địa (1911).
Hai bức thư này đã được nhiều người biết . Năm 1991, trong tập Vàng
Trong Lửa, Trần Văn Giàu và Trần Bạch Ðằng đã nhắc đến tập sách nhỏ này,
nhưng không nêu tên tác giả Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh. Năm 1993,
Trần Quốc Vượng cũng hé một chút tia sáng về là đơn của Nguyễn Tất
Thành.
Về phía Pháp Mỹ cũng nhiều người như hai sử gia Pháp là Hémery ,
Brocheux, tuyên bố họ đã khám phá ra tài liệu này trước Nguyễn Thế Anh
và Vũ Ngự Chiêu nhưng họ giấu đi vì họ thiên cộng. Họ còn tỏ ra trù dập,
ghét bỏ Vũ Ngự Chiêu!
Còn William A. Williams và các người Mỹ khác thì kính trọng HCM, không
dám xúc phạm sự thật hiển nhiên và trần truồng mà chà đạp đặc tính khách
quan và khoa học của nhà sử học ! (HCM CXXXIV).
Rất buồn đi đọc những hàng trên của Vũ Ngự Chiêu. Nước ta chậm tiến.
Chúng ta kém về khoa học kỹ thuật đã đành mà cũng yếu về khoa học nhân
văn. Chính người Âu Mỹ dạy ta phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội,
trong đó hai điểm quan trọng là khách quan và chính xác. Người Á châu
chúng ta đa số trí tuệ kém mà tâm địa gian xảo, tàn ác. Chúng ta bất
hạnh tuy sống vào thế kỷ XX mà thật ra vẫn sống trong " thời đại đổ đểu
". Không ngờ người Âu Mỹ cũng vậy! Thực dân Pháp luôn mơ tưởng tái chiếm
Nam Kỳ mà người cộng sản Pháp cũng vậy. Cộng sản Á Châu che giấu sự
thật mà cộng sản Âu Mỹ cũng vậy. Bà Trần Thị Hồng Sương đã nhận định như
sau về J. Paul Sartre một triết gia lớn của nước Pháp và thế giới đã
thốt ra những lời tự tố cáo tâm lý gian xảo, hèn nhát của ông và đám
cộng sản Pháp sau sự kiện Khrushchev tố cáo tội ác của Stalin như sau:
Đảng CS Liên Xô lần thứ XX lên án “tệ sùng bái cá nhân” cùng với những sai lầm nghiêm trọng của Stalin đã làm sững sờ những người “khuynh tả không cộng sản” còn mơ hồ về những thực tế ở bên kia “bức màn sắt” khiến Sartre bàng hoàng, nhưng Sartre đã làm chuyện sai lầm là muốn che giấu với ngụy biện là sợ những người liên quan chưa đủ tinh thần để tiếp nhận thất bại vỡ mộng đổi đời, trong khi Liên Xô đã công bố cho quốc dân tức là những người dân Liên Xô vốn chịu ảnh hưởng nặng nề hơn bất kỳ ai! Ông Sartre nói: “Phải biết điều gì người ta muốn đến chỗ nào người ta muốn đi, muốn thực hiện những cải cách, không nên công bố rộng, mà phải thực hiện một cách tuần tự”.Theo Sartre, Khrouchtchev đang làm việc sai lầm là phát hiện chân lý cho đám đông chưa sẵn sàng tiếp nhận.(Trần Thị Hồng Sương. HCM, LXXXIV)
Chỉ J. Paul Sartre và đám cộng sản cuồng tín và gian xảo là muốn bưng
tai bịt mắt còn dân Việt Nam cụ thể như nhóm Nhân Văn Giai Phẩm rất phấn
khởi khi nghe tin Khrushchev lột mặt nạ Stalin.
Vũ Ngự Chiêu kết luận:
Trong biên khảo tam ngữ Một ngôi trường khác cho
Nguyễn Tất Thành (Paris: 1983) tôi đã trình bày khá rõ: Người mà chúng
ta biết như HCM sau này đã rời nước không vì muốn tìm đường cứu nước, mà
chỉ vì những tao ngộ bản thân (cha bị cách chức, tống giam, nên phải bỏ
học nửa chừng, v.. v...). Từ cổng hậu đóng kín của trường Thuộc Ðịa,
HCM sẽ tìm thấy cánh cửa mở rộng của Ðại Học Phương Ðông của Liên Sô Nga
12 năm sau. (HCM CXXXIV)
Như vậy rõ ràng là ông Nguyễn Tất Thành nhiều lần cầu xin Pháp ban ân
cho ông và cha của ông nhưng bị Pháp từ chối. Tôi thiết nghĩ so sánh
Nguyễn Tất Thành với các ông Bùi Quang Chiêu, Ðèo Văn Long, Phan Kế
Toại, Trần Trọng Kim, Lê Văn Miễn thì trình độ học vấn của anh bồi tàu
nhỏ tuổi tất nhiên không bằng những tay trên. Hơn nữa, thân phụ của ông
lại là tội phạm, có thành tích đánh chết người thì làm sao mà Pháp chấp
thuận cho Nguyễn Tất Thành hưởng ơn huệ học trường Thuộc Địa. Lại nữa,
Nguyễn Tất Thành e chưa có bằng tiểu học thì làm sao vào trường Thuộc
Địa? Tại Việt Nam, trường Hậu Bổ là dành cho con các quan nhưng cũng đòi
hỏi trình độ cao. Tản Đà cũng đã rớt trường Hậu Bổ.
Thực tế trần trụi của cha con Nguyễn Sinh Sắc luôn mong muốn làm quan
nhưng Nguyễn Tất Thành bị bác đơn.xin vào trường Thuộc Địa.. Làm quan
phục vụ thực dân không được, cuối cùng ông chạy theo cộng sản cũng chỉ
vì danh lợi bản thân. Và việc ông "tìm đường cứu nước" chỉ là huyền
thoại của thuật tuyên truyền của cộng sản. Từ sự kiện này, chúng ta thấy
đảng cộng sản chuyên nghề đánh bóng và tạo hàng giả.
Ngoài hai lá thư trên, còn có những lá thư khác nữa.
Theo Sophie Quinn Judge, tháng 11 năm 1911, anh tìm cách gửi tiền về cho cha của mình từ Clayton . Lá thư mà chúng tôi đề cập ở đoạn trước là lá thư gửi từ New York vào tháng 12 năm 1912. Bức thư đó anh gửi đến toàn quyền Pháp tại Huế giải thích rằng anh muốn gửi một phần lương hàng tháng của mình cho cha nhưng hiện không biết ông đang ở đâu. Anh viết: ”Tôi không biết phải làm thế nào nữa, tôi chỉ hy vọng mong ngài giúp đỡ vì ngài là người quan bảo hộ nhiệt thành với đất nước chúng tôi” (SOPHIE QUINN JUDGE * THE MISSING YEARS . Hồ Chí Minh: Những năm tháng chưa được biết đến Sophie Quinn‐Judge. Diên Vỹ và Hoài An 191 Diễn đàn www.x‐cafevn.org . tr.39-40)
Sophie Quinn Judge cho biết chuyến dừng chân tại nước Mỹ của Hồ ở New York khi anh còn là một phụ bếp. Thời điểm đó là vào tháng 12 năm 1912, khi anh viết thư cho toàn quyền ở Huế để tìm cách gửi tiền cho cha mình. Mặc dù lá thư được dán tem gửi từ New York, Hồ lại ghi địa chỉ của mình là địa chỉ bưu điện tại Le Havre và nhận mình là một thuỷ thủ . (sđd,38)
Khuất Văn Nga cho biết có ba lá thư:
1.Ngày 31 tháng 10 năm 1911, Tất Thành gửi thư cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ chuyển giúp số tiền 15 đồng cho cha mà anh không có điều kiện gửi trực tiếp. Số tiền anh Ba dành dụm được khi làm phụ bếp - một cử chỉ rất đáng quan tâm về trách nhiệm và tình cảm thương mến với gia đình.
2- Ngày 05 tháng 12 năm 1912, Nguyễn Tất Thành gửi thư cho Khâm sứ Trung kỳ nhờ cho biết tình hình và địa chỉ của ông Sinh Huy, Tất Thành nói đã gửi cho cha 3 ngân phiếu, nhưng mới chỉ nhận được một lần trả lời.
3- Ngày 16 tháng 4 năm 1915, Nguyễn Tất Thành thông qua Lãnh sự Anh ở Sài Gòn gửi Toàn quyền Đông Dương bức thư của anh tới cha anh là ông Sinh Huy. Chính quyền địa phương đã hỏi bà Thanh, ông Khiêm về tin tức nhưng chỉ biết cha Sinh Huy đã vào Nam từ cuối 1911 đến đầu năm 1912 làm ở đồn điền cao su ở Lộc Ninh, Thủ Dầu Một.(HCM CXXXV)
Theo Lữ Phương trong tác phẩm "Từ Nguyễn Tất Thành đến Hồ Chí Minh" xuất bản khoảng 2001-2002, thì Nguyễn Tất Thành sau khi gửi bức thư cho tổng thống Pháp ngày 15-9-1911 xin học trường Thuộc địa , ông theo tàu thủy lộ trình Marseille trở về Việt Nam , tại Saigon, ông còn gửi thư cho anh là Nguyễn Sinh Khiêm làm việc tại tòa Khâm sứ. Với Lữ Phương, ta thấy có ba bức thư:
1. Tại Sài Gòn, anh đã gửi thư cho anh là ông Cả Khiêm (Nguyễn Sinh Khâm hoặc Nguyễn Tất Đạt) lúc ấy đang giúp việc vặt tại Khâm sứ Trung Kỳ, nhờ vận động xin vào Ecole Coloniale. Ông Khiêm đã gửi thư lên Toàn quyền Albert Sarraut và thư này được chuyển về Khâm sứ Trung Kỳ. Và như mọi người có thể đoán, Khâm sứ Trung Kỳ đã trả lời Toàn quyền Đông dương, với lý do bác bỏ như sau: muốn vào Ecole Coloniale phải đang học ở thuộc địa, và chỉ những thanh niên xứng đáng trong hàng ngũ quan lại cao cấp mới được chọn (6)(HCM, XLII)
Cũng tài liệu trên, Lữ Phương đã đề cập đến việc Tất Thành gửi 15 đồng cho cha nhờ Khâm Sứ tại Huế chuyển giao:
2. Cũng tại Sài Gòn nhân chuyến về nước nói trên , cùng với việc gửi thư cho Nguyễn Sinh Khâm nhờ vận động vào Ecole Coloniale, ngày 31-10-1911, Nguyễn Tất Thành cũng đã gửi thư cho Khâm sứ Trung kỳ xin nhờ chuyển mandat 15 đồng (Đông Dương) cho cha, vì cha anh không thể nhận mandat trực tiếp được . (HCM, XLII)
3.Lữ Phương (theo D. Hémery: Daniel Hémery: “Jeunesse d’un colonisé, genèse d’un exil. Ho Chi Minh jusqu’en 1911”Sđd, Tài liệu 9, tr. 134) cho biết ngày 15-12-1912, khi qua Mỹ, thư gửi Khâm sứ Huế báo rằng trong ba cái mandat gửi cha, anh chỉ nhận được một thư trả lời, ấy là nhờ do lần ấy mandat đã được chính Khâm sứ chuyển trực tiếp. Lần này anh muốn gửi tiền hàng tháng cho cha, cũng nhờ Khâm sứ giúp đỡ và nhân đó xin Khâm sứ tìm việc làm cho cha nữa. Trong thư, có những đoạn lời lẽ như sau:
“Ôi! Hoàn cảnh của tôi gay go biết bao! Sống quá xa cha mẹ, rất hiếm nhận được tin tức của họ, muốn giúp đỡ họ mà không biết làm sao!
Thôi thúc bởi tình yêu của đứa con, tôi dám xin Ngài vui lòng thuận cho cha tôi một công việc như là thừa biện ở các Bộ hay Huấn đạo giáo thư (?) để, dưới tấm lòng nhân hậu cao cả của Ngài, ông ấy có được kế sinh nhai” (HCM, C)
Chúng ta cũng nên chú trọng đến bức thư mà Nguyễn Sinh Khiêm gửi cho Toàn quyền Albert Sarraut vào tháng 12 năm 1911, sau đó Toàn Quyền chuyển cho Khâm sứ Trung Kỳ bằng công văn số 263 , rồi Khâm Sứ Pháp tại Trung Kỳ phúc đáp công văn trên bằng công văn số R28 – 6971 (lưu tại CAOM – Pari) với trả lời như sau:muốn vào Ecole Coloniale phải đang học ở thuộc địa, và chỉ những thanh niên xứng đáng trong hàng ngũ quan lại cao cấp mới được chọn.(HCM, C).
Trong khi đó bản Thu Trang viết: “Phúc Công
văn số 263 chuyển đơn của Nguyễn Sinh Khiêm xin cho em là Nguyễn Tất
Thành vào Trường Thuộc địa, xin báo Ngài là ông chủ sự giáo dục Trung
Kỳ, được hỏi ý kiến đã cho biết người thanh niên này đã bắt đầu học
Trường Quốc học Huế, nay qua làm bồi ở Pháp, có thể tiếp tục học ở một
trường tại thuộc địa trước khi có tham vọng trở thành sinh viên ở Pháp”.
Nguồn trích:
- Thu Trang: Nguyễn ái Quốc ở Pari (1917- 1923), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.427- 428.(CXXXV)
Tại sao bản của Lữ Phương viết với nội dung bác bỏ mà tài liệu Thu Trang lại là chấp nhận? Phải chăng bản Thu Trang in tại Hà Nội cho nên đã bị Việt Cộng sửa chữa?
Qua sự kiện trên, chúng ta thấy như sau:
+1.Trước năm 1915, Nguyễn Sinh Khiêm làm việc cho Pháp tại tòa Khâm, Huế chứ không phải chống Pháp và bị tù như tài liệu cộng đảng.Hơn nữa Sinh Khiêm sinh được hai con sao lại bảo là Pháp chính thuốc độc nên vô tự như Sơn Tùng đã viết (CLIII)? Nhiều tài liệu cho biết Nguyễn Sinh Khiêm có nhà tại Hà Nội và Nghệ An chứ không phải là kẻ lang bạt.
+2. Nguyễn Tất Thành đã nhiều lần gửi thư cho chính quyền Pháp tại Pháp và tại Việt Nam và tòa lãnh sự Anh, như vậy là Nguyễn Tất Thành không trốn tránh, và giấu diếm hành tung.Gửi thư như vậy là có ý thân mật, tin tưởng, cầu cạnh chứ không phải căm thù thực dân, đế quốc nhất là Tất Thành xin học, xin nội trú, với lời lẽ tha thiết xin làm tay sai đắc lực cho Pháp!
+3. Nguyễn Sinh Khiêm làm việc tại tòa Khâm Huế ,tại sao Tất Thành không gửi thư và tiền cho anh mà lại gửi cho Lãnh sự Anh và khâm sứ Pháp? Lá thư gửi cho Sinh Khiêm là viết tại Saigon. Nhiều tài liệu cũng công nhận rằng anh Ba theo tàu của Pháp về Saigon (Lữ Phương, Khuất Văn Nga) nên mới có thư này. Tại sao Trần Dân Tiên lại nói Văn Ba không muốn về. Có việc gì bất tiện mà Tất Thành phải che đậy, giấu diếm?
Nguyễn Sinh Khiêm làm việc tại tòa Khâm sứ tất là ở tòa Khâm. Tại sao không không thư, gửi tiền cho anh mà cho quan tây? Quan tây tất biết hai cái thư của Nguyễn Tất Thành. và hiểu rõ gian ý của Nguyễn Tất Thành và họ sẽ cười cợt một Tất Thành gian mà không khôn ngoan!
Gửi thư như vậy là một mưu kế của kẻ khôn vặt. Vì xin học cho mình, và xin việc cho cha mà không được, nay Nguyễn Tất Thành nhắc đi nhắc lại để xin khéo. Cũng là một cách gợi lòng nhân đạo của các quan Tây mong họ cảm động lòng hiếu thảo và nỗi khốn khổ của Tất Thành mà ban cho Tất Thành và cha của Thành một vài ân huệ..
+4 .Nguyễn Tất Thành thấy lợi thì làm mà không nghĩ đến việc thiên hạ chê cười. Thông thường, gia đình phải liên lạc với nhau. Nếu không liên lạc được với cha thì liên lạc với anh em, chú bác, bạn bè hoặc họ hàng, tại sao lại đem chưyện gia đình, chuyện tiền bạc nói với quan Khâm Sứ, quan Toàn Quyền? Nguyễn Tất Thành muốn trèo đèo ư? Chuyện nhà đem nói với người làng là đã vô duyên, huống hồ lại gửi thư cho quan tây? . Từ 1911 đến 1915, Tất Thành làm trên tàu, chưa tham gia chính trị, không cần trốn tránh, tại sao không gửi thư hỏi thăm cha qua anh em, họ hàng?Tất Thành là người Việt Nam, là dân Nghệ An lại không hiểu rõ văn hóa Việt Nam hay sao? Anh không biết rằng hỏi những câu ngu ngốc như vậy sẽ bị người ta đốp chát mắng cho, đại loại như:
Mày là con sao lại không biết cha mày ở đâu? Mày là đồ bất hiếu! Sao mày không hỏi anh chị mày, chú bác mày? Không lẽ họ hàng nhà mày chết tiệt cả sao mà mày lại đi hỏi tao? Tao đâu có giữ cha mày trong đũng quần của tao mà mày hỏi?
+5. Thư của Nguyễn Tất Thành được quan Toàn quyền, Khâm sứ, Lãnh sự nhận, cho điều tra và trả lời. Ngày nay, thư của một người dân làm sao đến tay thủ tướng hay tổng bí thư? Thư gửi lên xã , quận là đã bị xé bỏ rồi. Nếu gửi đến thủ tướng, tổng bí thư thì cũng bị vứt thùng rác vì lãnh đạo còn phải giải quyết bao nhiêu việc quan trọng, đâu có thì giờ giải quyết những chuyện vớ vẩn của bọn dân đen! Không biết chừng, công an sẽ kêu chủ nhân bức thư lên làm việc, và mắng cho tội phản động, hỗn láo. Trong chế độ ta, dân quèn làm sao lại dám trực tiếp gửi thư lãnh đạo. Muốn thắc mắc, xin xỏ gì phải thông qua hệ thống hành chánh từ dưới lên trên, không được gửi thư cho lãnh đạo! Ai xui mày làm điều này?
Xem vậy, ta thấy tư cách và lương tâm của bọn thực dân khá hơn tư cách và lương tâm của " lãnh đạo ta" và " đảng ta".
Tóm lại, trong khoảng 1911 -1915, Nguyễn Tất Thành ra đi ngoại quốc là tìm sinh kế. Những lời cậu Ba nói là đi cứu nước, xin tội cho cha, đi học chỉ là khoa trương. Việc các ông Nguyễn Thế Anh, Vũ Ngự Chiêu tìm ra hai bức thư của Nguyễn Tất Thành xin học trường Thuộc Địa đã lột trần huyền thoại tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam. |
No comments:
Post a Comment