LTS :Chào mừng tác phẩm TÌM HIỂU ĐỜI SỐNG AN LẠC của học giả Tiểu Đệ NGUYỄN PHÚ THỨđã hoàn thành, sách dày trên 800 trang, chia làm 2 quyển Thượng và Hạ. Đây là, quyển sách có nhiều bài liên quan đến Đời Sống An Lạc của Đạo Phật, cho nên Ông dùng bút hiệu Tiểu Đệ.Trân trọng giới thiệu đến quý độc giả bốn phương và xin trích dẫn các bài Tết trong quyển sách này.
(Tân Mão từ 03-02-2011 đến 22-01-2012)
(Trích dẫn tác phẩm Tìm Hiểu Đời Sống An Lạc 2010 của Tiểu Đệ Nguyễn-Phú -Thứ)
Sau khi năm Canh Dần chấm dứt, thì đến năm Tân Mão được bàn giao từ giờ giao thừa bắt đầu giữa đêm thứ tư, 02-02-2011 để cầm tinh đến 24 giờ đêm 22-01-2012. Năm Tân Mão này thuộc hành Mộc và mạng Tùng Bách Mộc tức Gỗ cây tùng bách, năm này thuộc Âm, có can Tân thuộc mạng Kim và có chi Mão thuộc mạng Mộc. Căn cứ theo luật thuận hạp hay khắc kỵ của Ngũ Hành, thì năm này “Can khắc Chi” tức Trời khắc Ðất . Bởi vì: “ Mạng Kim = Tân khắc mạng Mộc = Mão (mạng Kim tức Trời được khắc xuất, mạng Mộc tức Ðất bị khắc nhập) . Do vậy, năm này xem như tổng quát rất xấu, bởi vì bị Trời khắc Ðất giống như các năm : Giáp Tuất (1994), Nhâm Ngọ (2002), Mậu Tý 2008 đã qua. Ðược biết năm Mão vừa qua là năm Kỷ Mão thuộc hành Thổ, nhằm ngày thứ ba, 16-02-1999 đến 04-02-2000.
Căn cứ theo Niên Lịch Cổ Truyền Á Ðông xuất hiện được minh định quảng bá từ năm thứ 61 của đời Hoàng Ðế bên Tàu, bắt đầu năm 2637 trước Công Nguyên, cho nên chúng ta lấy 2637 + 2011 = 4648, rồi đem chia cho 60 thì có kết quả Vận Niên Lục Giáp thứ 77 và số dư 28 năm bắt buộc rơi vào Vận Niên Lục Giáp thứ 78 bắt đầu từ năm 1984 cho đến năm 2043. Do vậy, năm Tân Mão 2011 này là năm thứ 28 của Vận Niên Lục Giáp 78.
Chữ Tết là do chữ Tiết mà ra, ở Việt Nam chúng ta, thời tiết miền Nam không được rõ ràng hơn miền Bắc, mặc dù cũng có bốn mùaá: Xuân, Hạ, Thu và Ðông, được tính mỗi mùa có 3 tháng trong năm dương lịch như sauá:
- Mùa Xuân bắt đầu ngày lập Xuân là ngày 5 tháng 2 đến ngày 6 tháng 5, giữa mùa Xuân, có ngày 21 tháng 3, thì đêm và ngày bằng nhau. Ðó là, ngày Xuân phân.
- Mùa Hạ tức Hè, bắt đầu lập Hạ là ngày 6 tháng 5 đến ngày 8 tháng 8, giữa mùa Hạ, có ngày 22 tháng 6, thì ngày dài nhứt trong năm. Ðó là, ngày Hạ Chí.
Vào mùa Hạ mỗi năm, các trường học thường đóng cửa một thời gian, để cho các Thầy Cô giáo, giáo sư cũng như học sinh, sinh viên nghỉ hè và cũng là mùa hoa phượng có bông nở rất đẹp.
- Mùa Thu bắt đầu ngày lập Thu là ngày 8 tháng 8 đến ngày 8 tháng 11, giữa mùa Thu có, ngày 23 tháng 9, thì đêm và ngày bằng nhau, giống như ngày 21 tháng 3 mùa Xuân vậy. Ðó là, ngày Thu phân. Ðối với mủa Thu mỗi năm, ở các nước Âu Châu, những chiếc lá đổi màu từ xanh sang vàng, rồ từ từ rơi rụng trông rất đẹp mắt, tuy nhiên, nếu so sánh với nước Gia Nã Ðại (Canada), thì thua xa, bởi cái màu đỏ thẫm ở xứ Bắc Mỹ Châu này.
- Mùa Ðông bắt đầu ngày lập Ðông là ngày 8 tháng 11 đến ngày 5 tháng 2, giữa mùa Ðông, có ngày 22 tháng 12 là ngày ngắn nhứt trong năm. Ðó là, ngày Ðông Chí.
Nhưng đối với quý ông bà sống ở nông thôn ngày xưa, thường phân chia bốn mùa trong năm rất giản dị, là chia đều mỗi mùa 3 tháng, tính theo âm lịch như sauá:
- Mùa Xuân bắt đầu mùng một Tết của tháng Giêng cho đến cuối tháng ba.
- Mùa Hạ từ đầu tháng tư đến cuối tháng sáu.
- Mùa Thu từ đầu tháng bảy đến cuối tháng chín.
- Mùa Ðông từ đầu tháng mười đến cuối tháng chạp (tháng 12).
Trong khi đó, ở Âu Châu, nhứt là là nước Pháp, cũng phân chia 4 mùa cho mỗi năm, xin trich dẫn như sauá:
- Mùa Xuân bắt đầu từ 20-3 đến 20-6
- Mùa Hạ bắt đầu từ 21-6 đến 22-9
- Mùa Thu bắt đầu từ 23-9 đến 21-12
- Mùa Ðông bắt đầu 22-12 đến 19-3
Trong dân gian Việt Nam chúng ta, thói thuờng tính theo âm lich, cho nên những câu ca dao có liên quan đến các tháng và các mùa trồng trọt của nhà nông hết sức trung thực, đúng lúc, xin đơn cử trích dẫn nhu sauá:
Tháng Chạp là tháng trồng Khoai (1)
Tháng Giêng trồng Ðậu (2)
Tháng Hai trồng Cà
Tháng Ba cày vỡ ruộng ra
Tháng Tư làm Mạ, mưa sa đầy đồng
(1) Tháng Chạp tức tháng 12 cũng là tháng ăn chơi, vì nhà nông sau vụ lúa, thì lo trồng hoa màu phụ như trồng : Khoai, Ðậu, Cà, Bắp... để sau khi ăn Tết, cho đến cuối tháng Hai đầu tháng Ba mới lo cày bỏ hoa màu phụ và lo trồng vụ lúa chánh.
(2) Tháng Giêng tức tháng 1.
Hoặc là :
Tháng Giêng ăn Tết ở nhà
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè
Tháng Tư đong Ðậu nấu chè
Ăn Tết Ðoan Ngọ trơ về tháng Năm
Tháng Sáu buôn nhẫn, bán Trâm
Tháng Bảy ngày rằm xá tội vong nhân
Tháng Tám chơi đèn kéo quân
Trở về tháng Chín chung chân buôn hồng
Tháng Mười buôn thóc bán bông
Tháng Một (3) , tháng Chạp nên công hoàn thành
(3) Tháng Một chúng ta phải hiểu là tháng Mười Một, để cho câu này có 8 chữ đúng luật theo thể thơ Lục Bát.
Nếu viếtá:Tháng Mười Một, tháng Chạp nên công hoàn thành thì nó có 9 chữ, thì sai luật theo thể thơ Lục Bát?.
Trở lại năm con Mèo, nếu chúng ta lần tay tính lại những năm Mèo đã qua và những năm Mèo sắp tới, sẽ thấy các năm như sau : 1951 - 1963 - 1975 - 1999 - 2011 - 2023 - 2035 - 2047 - 2059.... Nếu chúng ta để ý sẽ thấy các năm có cùng số tận cùng, thì có Can giống nhau, ví như :
1951 - 2011 (Số tận cùng là 1 cho nên có cùng CAN là Tân)
1963 - 2023 (Số tận cùng là 3 cho nên có cùng CAN là Quí)
1975 - 2035 (Số tận cùng là 5 cho nên có cùng CAN là Ất)
1999 - 2059 (Số tận cùng là 9 cho nên có cùng CAN là Kỷ)
Do vậy, để biết cách tính Can của mỗi tuổi, chúng ta chỉ cần để ý số tận cùng năm tuổi sanh đó để tính theo bảng kê trong Thập Thiên Can như sau :
Số tận cùng năm sanh | Can gì |
0 | Canh |
1 | Tân |
2 | Nhâm |
3 | Quý |
4 | Giáp |
5 | Ất |
6 | Bính |
7 | Ðinh |
8 | Mậu |
9 | Kỷ |
Ðó là, bảng kê tính Thập Thiên Can tức 10 thân Trời là : Giáp, Ất, Bính, Ðinh , Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm và Quý. Khi tính tuổi năm sanh là Can gì xong rồi, thì chúng ta lần lượt tính tuổi năm sanh đó kết hợp với Thập Nhị Ðịa Chi tức 12 nhánh Ðất là : Tý, Sửu Dần Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất và Hợi gì ?
Hơn nữa, chúng ta để ý sẽ thấy : Không thể bất cứ Can và Chi gì kết hợp với nhau hết được. Bởi vì, chúng ta không bao giờ thấy tuổi : Nhâm Sửu, Nhâm Mão, Nhâm Tỵ, Nhâm Mùi, Nhâm Dậu, Nhâm Hợi hoặc trái lại là : Quý Tý, Quý Dần, Quý Thìn, Quý Ngọ, Quý Thân và Quý Tuất bao giờ. Do vậy, sự kết hợp giữa Can và Chi phải có từng cặp cùng Dương hoặc cùng Âm thì mới kết hợp được.
Nhân đây, xin trích dẫn Thập Thiên Can tính theo Dương và Âm như sau : Giáp (Dương), Ất (Âm), Bính (Dương), Ðinh (Âm), Mậu (Dương), Kỷ (Âm), Canh (Dương), Tân (Âm), Nhâm (Dương) và Quý (Âm).
Và đối với Thập Nhị Ðịa Chi tính theo Dương và Âm, xin trích dẫn như sau : TÝ (Dương), SỬU (Âm), DẦN (Dương), Mẹo = Mão (Âm), THÌN (Dương), T (Âm), NGọ (Dương), MÙI (Âm), THÂN (Dương), DậU (Âm), tuất (Dương) và Hợi (Âm).
Khi chúng ta biết tuổi thuộc Can Chi có Dương Âm như thế nào tức là biết Cành và Gốc của tuổi đó mà thôi. Do vậy, không thể ngừng ở đây, bởi vì tuổi của chúng ta còn có Ngũ Hành là : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ, cho nên chúng ta phải tìm hiểu, xem tuổi của chúng ta có Mạng thuộc Hành gì nữa, cho nên chúng ta còn phải tìm ra phương cách tính Mạng, bởi vì mỗi người đều có số mạng, mặc dù có cùng số tuổi , nhưng Ngày, Giờ sanh Tháng đẻ lại khác nhau. Hơn nữa, chúng ta còn có cái quả tốt hay xấu xa xưa hoặc có chúng ta hay Ông Bà, Cha Mẹ nữa, có thấu hiểu hết những bí ẩn của cuộc đời, thì mới biết về con người của chúng ta như thế nào?
Do vậy, muốn tìm hiểu phương pháp tính Mạng thuộc Hành gì ? và phải thực hiện như thế nào? Xin trích dẫn theo phương thức các bậc tướng số xa xưa, đã rút kinh nghiệm để tính Mạng thuộc Hành gì ? như sau :
Như chúng ta đã biết, cứ 60 năm, thì kết thành một chu kỳ có Lục Giáp, cho nên gọi chung là Vận Niên Lục Giáp. Vậy, nếu chúng ta muốn tính Mạng, thì chúng ta phải đặt con Giáp đứng đầu để tính, xin trích dẫn như bài thơ dưới đây :
Giáp Tý :
Ngân - Ðăng - Gíá - Bích - Câu
(Kim) - (Hõa) - (Mộc) - (Thổ) - (Kim)
Giáp TUất :
Yên - Mãn - Tự - Chung - Lâu
(Hỏa) - (Thủy) - (Thổ) - (Kim) - (Mộc)
Giáp Thân :
Hán - Ðịa - Siêu - Sài - Thấp
(Thủy) - (Thổ) - (Hỏa) - (Mộc) - (Thủy)
Nên nhớ : Bài thơ tính Mạng ở trên chỉ tính Mạng có ba con Giáp là : Giáp Tý, Giáp Tuất và Giáp Thân. Vậy muốn tính thêm ba con Giáp nữa để được sáu con Giáp phải làm thế nào? Chúng ta để ý sẽ thấy, trong sáu con Giáp, nó có từng cặp giống nhau về Mạng, xin trích dẫn sau đây : Giáp Tý giống Giáp Ngọ - Giáp Tuất giống Giáp Thìn và Giáp Thân giống Giáp Dần.
Ngoài ra, chúng ta thấy bài thơ tính Mạng chỉ có 5 chữ, nhưng phải tính với Thập Thiên Can tức có 10 Can. Do vậy, mỗi chữ phải tính 2 Can từng cặp với nhau : Giáp Ất, Bính Ðinh, Mậu Kỷ, Canh Tân và Nhâm Quý. Khi hết Nhâm Quý thì luân chuyển trở lại Giáp Ất như bảng kê dưới đây :
Giáp Tý = Giáp Ngọ :
Ngân - Ðăng - Gíá - Bích - Câu
银 汉 架 碧 钩
(Kim) - (Hõa) - (Mộc) - (Thổ) - (Kim)
Giáp Tý | GIÁP NGọ | ||||
Thứ tự | Can Chi | Hành | Thứ tự | Can Chi | Hành |
1 | Giáp Tý | KIM | 31 | Giáp Ngọ | KIM |
2 | Ất Sửu | KIM | 32 | Ất Mùi | KIM |
3 | Bính Dần | HỎA | 33 | Bính Thân | HỎA |
4 | Ðinh Mão | HỎA | 34 | Ðinh Dậu | HỎA |
5 | Mậu Thìn | MộC | 35 | Mậu Tuất | MộC |
6 | Kỷ Tỵ | MộC | 36 | Kỷ Hợi | MộC |
7 | Canh Ngọ | Thổ | 37 | Canh Tý | Thổ |
8 | Tân Mùi | Thổ | 38 | Tân Sửu | Thổ |
9 | Nhâm Thân | KIM | 39 | Nhâm Dần | KIM |
10 | Quý Dậu | KIM | 40 | Quý Mão | KIM |
Giáp Tuất = Giáp Thìn :
Yên - Mãn - Tự - Chung - Lâu
烟 满 自 钟 楼
(Hỏa) - (Thủy) - (Thổ) - (Kim) - (Mộc)
Giáp Tuất | GIÁP Thìn | ||||
Thứ tự | Can Chi | Hành | Thứ tự | Can Chi | Hành |
11 | Giáp Tuất | HỎA | 41 | Giáp Thìn | HỎA |
12 | Ất Hợi | HỎA | 42 | Ất Tỵ | HỎA |
13 | Bính Tý | Thủy | 43 | Bính Ngọ | Thủy |
14 | Ðinh Sửu | Thủy | 44 | Ðinh Mùi | Thủy |
15 | Mậu Dần | Thổ | 45 | Mậu Thân | Thổ |
16 | Kỷ Mão | Thổ | 46 | Kỷ Dậu | Thổ |
17 | Canh Thìn | KIM | 47 | Canh Tuất | KIM |
18 | Tân Tỵ | KIM | 48 | Tân Hợi | KIM |
19 | Nhâm Ngọ | Mộc | 49 | Nhâm Tý | Mộc |
20 | Quý Mùi | Mộc | 50 | Quý Sửu | Mộc |
Giáp Thân = Giáp Dần :
Hán - Ðịa - Siêu - Sài - Thấp
汉 地 烧 柴 湿
(Thủy) - (Thổ) - (Hỏa) - (Mộc) - (Thủy)
Giáp Thân | GIÁP Dần | ||||
Thứ tự | Can Chi | Hành | Thứ tự | Can Chi | Hành |
21 | Giáp Thân | Thủy | 51 | Giáp Dần | Thủy |
22 | Ất Dậu | Thủy | 52 | Ất Mão | Thủy |
23 | Bính Tuất | Thổ | 53 | Bính Thìn | Thổ |
24 | Ðinh Hợi | Thổ | 54 | Ðinh Tỵ | Thổ |
25 | Mậu Tý | Hỏa | 55 | Mậu Ngọ | Hỏa |
26 | Kỷ Sửu | Hỏa | 56 | Kỷ Mùi | Hỏa |
27 | Canh Dần | Mộc | 57 | Canh Thân | Mộc |
28 | Tân Mão | Mộc | 58 | Tân Dậu | Mộc |
29 | Nhâm Thìn | Thủy | 59 | Nhâm Tuất | Thủy |
30 | Quý Tỵ | Thủy | 60 | Quý Hợi | Thủy |
Nếu chúng ta để ý và ghép nối số thứ tự liên tục sáu con Giáp đã dẫn thượng, sẽ có bảng Vân Niên Lục Giáp, xin trích dẫn (không ghi phần Ngũ Hành cho đơn giản) như sau :
01 02 03 04 05 06 07 08 09 10 | Giáp TýẤt Sửu Bính Dần Ðinh Mão Mậu Thìn Kỷ Tỵ Canh Ngọ Tân Mùi Nhâm Thân Quý Dậu | 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 | Giáp TuấtẤt Hợi Bính Tý Ðinh Sửu Mậu Dần Kỷ Mão Canh Thìn Tân Tỵ Nhâm Ngọ Quý Mùi | 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 | Giáp ThânẤt Dậu Bính Tuất Ðinh Hợi Mậu Tý Kỷ Sửu Canh Dần Tân Mão Nhâm Thìn Quý Tỵ
|
31 32 33 34 35 36 37 38 39 40 | Giáp NgọẤt Mùi Bính Thân Ðinh Dậu Mậu Tuất Kỷ Hợi Canh Tý Tân Sửu Nhâm Dần Quý Mão | 41 42 43 44 45 46 47 48 49 50 | Giáp ThìnẤt Tỵ Bính Ngọ Ðinh Mùi Mậu Thân Kỷ Dậu Canh Tuất Tân Hợi Nhâm Tý Quý Sửu | 51 52 53 54 55 56 57 58 59 60 | Giáp DầnẤt Mão Bính Thìn Ðinh Tỵ Mậu Ngọ Kỷ Mùi Canh Thân Tân Dậu Nhâm Tuất Quý Hợi
|
Như chúng ta đã thấy Mạng tức Hành có 5 loại, cho nên người ta thuờng nói Ngũ Hành là : Kim, Mộc, Thủy, Hỏa và Thổ dành cho tất cả số tuổi. Nếu phân tách từng cặp Hành một, thì chúng nó sẽ có Tương Sanh và Tương Khắc nhau, bởi vì mỗi Hành có đặc tính riêng, xin trích dẫn như sau :
1.- Những cặp hành được Tương Sanh :
- Thổ sanh Kim ( Thổ bị sanh xuất, Kim được sanh nhập)
- Kim sanh Thủy ( Kim bị sanh xuất, Thủy được sanh nhập)
- Thủy sanh Mộc ( Thủy bị sanh xuất, Mộc được sanh nhập)
- Mộc sanh Hỏa ( Mộc bị sanh xuất, Hỏa được sanh nhập)
- Hỏa sanh Thổ ( Hỏa bị sanh xuất, Thổ được sanh nhập)
1.- Những cặp hành bị Tương Khắc :
Nhưng người ta cho rằng : Kim là (cái Búa) sẽ đốn được Mộc (Cây), Mộc (Cây sẽ trở thành Thổ (Ðất), Thổ (Ðất) sẽ ngăn chận được Thủy (nước), Thủy (nước) sẽ làm tắt được Hỏa (Lửa), Hỏa (Lửa) sẽ đốt cháy Kim cho nên có những cặp Tương Khắc như sau :
- Kim khắc Mộc (Kim được khắc xuất, Mộc bị khắc nhập)
- Mộc khắc Thổ (Mộc được khắc xuất, Thổ bị khắc nhập)
- Thổ khắc Thủy (Thổ được khắc xuất, Thủy bị khắc nhập)
- Thủy khắc Hỏa (Thủy được khắc xuất, Hỏa bị khắc nhập)
- Hỏa khắc Kim (Hỏa được khắc xuất, Kim bị khắc nhập)
Trở lại tuổi Mão (Mẹo), chúng ta thấy Mạng như sau :
- Kỷ Mão (1939 -1999 - 2059) có mạng Thổ
- Ðinh Mão (1927-1987 - 2047) có mạng Hỏa
- Ất Mão (1915-1975 - 2035) có mạng Thủy
- Quý Mão (1903-1963 - 2023) có mạng Kim
- Tân Mão (1981-1951 - 2011) có mạng Mộc
Trở lại năm Kỷ Mão năm nay thuộc con Mèo, con vật đứng vào hàng thứ tư trong Thập Nhị Ðiạ Chi tức 12 Chi của chu kỳ một con Giáp có 12 năm. Khi nói tên con Mèo nó có một đặc điểm khác thường hơn những con vật khác trong Thập Nhị Ðịa Chi, bởi vì nó có hai nghĩa đen (Mèo 4 chân) và bóng (Mèo 2 chân) ai cũng biết. Mèo là con vật nhỏ con, mình nhẹ, leo cây rất giỏi, lông mềm, có móng bén nhọn, có râu và thường được nuôi trong nhà để bắt Chuột rất tài tình, Mèo rất sợ nước và lạnh, cho nên ở nông thôn Việt Nam bên đêm, thường thấy Mèo vào bếp nằm khoanh trong tro để cho ấm nên mặt mũi lọ lem hoặc lén chui vào giường ngủ với trẻ em.
Trong khi ở các nước Âu Tây, Mèo được nuôi trong nhà cùng với Chó để làm kiểng cho vui cửa vui nhà, lại được có nơi ngủ có riêng và ăn uống đặc biệt hơn ở Việt Nam. Mèo có màu sắc lông khác nhau ví như : Mèo mun là mèo có sắc lông màu đen, Mèo mướp là mèo có sắc lông mốc, vằn màu hơi đen, Mèo tam thể là mèo có 3 sắc lông màu đen, trắng và vàng, Mèo vá là mèo có sắc lông màu đen và trắng xen kẻ nhau... Ngoài các loại Mèo nhà, còn thấy loại Mèo hoang, mèo rừng sống từng đàng.
Khi nói Mèo có bộ lông đen thì gọi là Mèo mun, tôi lại nhớ đến ngôn ngữ Việt Nam rất phong phú đáng tự hào, bởi vì :
- Mèo có bộ lông đen thì gọi là Mèo mun
- Chó có bộ lông đen thì gọi là Chó mực
- Gà hay Ngựa có bộ lông đen thì gọi là Gà ô hay Ngựa ô
hay là :
- Mực đen để viết liễn thì gọi Mực tàu
- Dầu đen để tráng đường gọi Dầu hắc
- Ðôi mắt đen là đôi mắt huyền....
Chúng ta cũng đã thấy những năm đã qua, ví như 1963 -1975 - 1987 - 1999 đất nước Việt Nam chúng ta thường có diễn biến quan trọng, không biết bước sang năm 2011 tương lai như thế nào? Hơn nữa, trong các kinh thơ, sấm giảng xa xưa, thì cũng có viết về năm con Mèo, xin trích dẫn như sau :
... Chuột sa chĩnh gạo nằm chơi,
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra,
Hùm gầm khắp nẻo gần xa,
Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời,
Rồng bay năm vẻ sáng ngời,
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng,
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng...
Sấm Trạng Trình (*)
(*) Ðối với Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) đã viết Sấm Giảng trên 5 thế kỷ kể từ khi Cụ sanh ra đời (1491-2011) làm sao đoán trúng năm nào là năm Mèo Cụ nói, chúng ta chỉ biết sau khi sự việc xảy ra mà thôi.
Hoặc làá:
... Mèo kêu nghe tiếng bi ai,
Quân thần phụ tử xiết chi ưu phiền,
Rồng bay xao xuyến nào yên,
Rắn bò giáp giới đảo điên dương trần,
Chừng nào có Ngựa, có Lân,
Có Qui, có Phụng, có Quân, có Thần...
Sư Vải Bán Khoai
Hay là :
... Năm Mẹo, tháng Mẹo chưa buồn,
Năm Mẹo, tháng Hợi lụy tuôn dầm dề,
Vậy mà chưa thấy ủ ê,
Trung ương Rồng lộn ê hề thây thi,
Mèo kêu riết tới ai bi,
Tới Gà về ổ dân thì bình an...
Hoặc làá:
... Mèo ngồi sợ Rắn xa đàng,
Dê thời ghét Khỉ, xóm làng sạch trơn,
Thập bát quốc làm hội đầu sơn,
Thăng thiên, độn thổ nhờ ơn Phật Trời ...
Ông Ba Thới
Trong khi đó sấm giảng của Ðức Huỳnh Giáo Chủ viết như sau :
... Mèo kêu ba tánh lao xao,
Ðến chừng Rồng Rắn, máu đào chỉn ghê,
Con Ngựa lại đá con Dê,
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao,
Khỉ kia cũng bị xáo xào,
Canh khuya Gà gáy máu đào mới ngưng ...
Ngoài ra, trong Kim Cổ Kỳ Quan trong bài Thừa Nhàn, Ông Ba Thới lại viết nhu sau :
... Mèo nọ no lại nằm co,
Mèo nằm rình Chuột còn lo đói lòng,
Chuột lang no chạy ra đồng,
Trâu ai thả đó mích lòng không lo,
Phải đem tiền bạc dằn kho,
Ruớc quan thầy kiện lại lo chuyện nầy...
(Trích Kim Cổ Kỳ Quan 171 : 61)
Xuyên qua những bài Kinh Thơ, Sấm giảng ở trên viết có liên quan đến năm Mèo là để chứng minh duy nhất là 12 con vật trong Thập Nhị Ðịa Chi cũng có trong Kinh Thơ, Sám Giảng, còn nội dung giải bày thi khó biết năm nào, tháng nào thực hành đúng với đất nước chúng ta, bởi vì Thiên Cơ Bất Khả Lậu.
Ðối với năm Mèo trong Ca dao, Thành Ngữ, Tục ngữ đã phổ biến sâu rộng trong dân gian, ngoài ra con Mèo là loại gia súc, nên nó thường liên quan đến thú vật trong nhà như : Chó, Chuột, Gà, Heo... Xin trích dẫn như sau : Mèo bắt Chuột, Chó giữ nhà - Như Mèo với Chó - Chửi Chó mắng Chó - Thắt cổ Mèo, treo cổ Chó - Mèo đến nhà thì khó, Chó đến nhà thì sang - Rình như Mèo rình Chuột - Mèo nhỏ bắt Chuột con - Mèo già lại thua gan Chuột lắt... (Thành ngữ, Tục ngữ).
Con Mèo mầy trèo cây cau
Hõi thăm chú Chuột đi đâu vắng nhà ,
Chú Chuột đi chợ đường xa,
Mua mắm, mua muối giỗ cha chú Mèo.
Mèo tha miếng thịt xôn xao,
Cọp tha con Lợn thì nào thấy chi.
Con Mèo xán vỡ nồi rang,
Con Chó chạy lại nó mang lấy đòn,
Con Mèo, con mẹo, con meo,
Muốn ăn thịt Chuột phải leo xà nhà.
Con Mèo, con Chó có lông,
Bụi tre có măt, nồi đồng có quai.
Con Mèo, con Chó có cũng không,
Ông tre có mắt, ngoài đồng không có ai...
(Ca Dao)
Ngoài ra, chúng ta còn thấy : Như Mèo thấy mỡ - Mèo nào từ mỡ - Tiu nghỉu như Mèo cụt tai - Mèo già hóa cáo - Mèo khen Mèo dài đuôi - Mèo cào không xé vách vôi - Mèo uống nước bể chẳng cạn... (Thành Ngữ).
Mèo khoe Mèo dài đuôi,
Chuột khoe nhỏ mình dễ chạy,
Mèo lành chẳng ở mã,
Ả nàng chẳng ở hàng cơm,
Mèo mả Gà đồng,
Chực sánh lông công phượng hoàng,
Mèo lành ai nỡ cắt tai,
Gái kia trồng rẫy khoe tài làm chi... (Tục ngữ)
Ðặc tính của con Mèo biết leo trèo rất giỏi, trái lại con Cọp thì không biết leo trèo, theo sách Kim Nam Thi Tập chú rằng : Thuở xưa Mèo và Cọp ở chung trong rừng sâu, Meèo là cậu của Cọp, Mèo thì biến nhác, Cọp thì siêng năng, đi săn thu vật mang về hang để ăn chung với nhau, Cọp không ngờ bữa nọ, Cọp đi vắng nhà, Mèo ở nhà ăn hết rồ nằm duỗi chân ra ngủ ngon lành, đến khi Cọp trở về thì bụng đói, phần không còn cái gì để ăn, nên Cọp tức giận bắt Mèo để ăn thịt. Mèo chạy đến một cây cao leo lên cây để lánh nạn, Cọp vì thân lớn lại nặng, nên không thể leo để bắt Mèo được, vì thế Cọp mới nói với Mèo, nếu bắt được Mèo thì sẽ ăn thịt kể cả cứt nữa cho hả giận. Từ đó, mỗi khi Mèo ỉa xong, thì lập tức giấu cứt là thế đó.
Hơn nữa, chúng ta còn thấy những cây có mang tên Mèo, xin trích dẫn như sau : Cây lưỡi Mèo - Cây Râu Mèo, Cây Bút Mèo, Cây Chàm Mèo, Nấm Mèo ....
Ðể tạm kết thúc bài nầy và nhân dịp bước sang năm Tân Mão (2011), kính chúc tất cả quý bà con đồng hương năm mới được Vạn Sự Tốt Ðẹp và An Khang Thịnh Ðạt mọi nhà.
Hàn Lâm NGUYỄN- PHÚ-THỨ
Mừng Xuân Tân Mão 2011
No comments:
Post a Comment