Vũ Khắc Khoan
THẦN THÁP RÙA
truyện ngắn
Năm loạn đầu hậu bán thế
kỷ thứ hai mươi dương lịch, có người
trẻ tuổi họ Đỗ bán ruộng bỏ vùng quê lên
Kẻ Chợ trọ học.
Đỗ vốn thuộc lớp trung nông,
thường sống bằng lợi tức ít mẫu hương
hỏa cha mẹ mất sớm để lại.
Vì quen nếp sống thanh đạm, gia dĩ
lại sống một mình nên ít lo sinh kế, hằng ngày thường
hay đọc sách, da dẻ trắng trẻo xanh xao, mình gầy
vóc hạc. Lại luôn luôn mục kích sự tàn bạo của
đám phú nông mà tâm sự ù ê lộ ra ở đôi mày hay nhíu,
miệng có cười, cũng héo hắt không vui. Tính vốn
ít nói, trong chốn giao du lại cố tình giữ trọn cái
nghĩa nước nhạt của người nước
Lỗ, cho nên lắm khi cả ngày không lên tiếng một câu,
hàng tháng biếng bước chân ra khỏi cổng. Họa
hoằn thao thao bất tuyệt, là lúc đối diện một
người hiểu biết. Những lúc đó, Đỗ
thường ngửa mặt lên trời mà than thời thế
hoặc tác sắc đập bàn luận đàm quốc sự
đến bỏ cả cơm. Tuổi đã lớn nhưng
Đỗ vẫn sống một mình, không nghĩ tới việc
vợ con. Con gái trong vùng có trêu ghẹo ngỏ tình thì đỏ
mặt ngoảnh đi. Người trong họ đôi khi gợi
việc trăm năm mối lái mà không tiếp chuyện.
Lên đến Kẻ Chợ, Đỗ ngồi
dạy học ở phường hang Bạc, tạm yên
sinh kế để có thể tiếp tục học hành. Đất
Kẻ Chợ, nhà cửa như bát úp, người đi lại
ngoài đường đông hơn mắc cửi, mà Đỗ
vẫn giữ nguyên tính cũ, ngày một buổi đến
trường nghe giảng văn rồi về thẳng nhà,
đóng cửa đọc sách lạ. Bạn cùng trường
thấy lẻ loi, thỉnh thoảng rủ đi đánh cầu
nhẩy múa, Đỗ đều một mực từ chối.
Nhưng trong câu chuyện, nếu có ai đả động
đến thời cuộc, so sánh lý thuyết nọ với
lý thuyết kia, là lập tức sắm sắm bước
vào vòng thảo luận, nói hằng giờ không biết mỏi.
Hoặc nêu thuyết nhà Phật mà bác bỏ định đề
Cơ Đốc. Hoặc đề cao tư tưởng của
Văn sĩ Pascal mà đánh đổ lý luận vô thần.
Hoặc chủ trương giai cấp đấu tranh những
mưu mô tư bản, Hoặc lập luận tự do cá
nhân để chống với độc tài đoàn thể.
Có ai rụt rè nói đến giá trị nội tại của
nghệ thuật ắt Đỗ phải lớn tiếng
thích nghĩa nhân sinh. Nhưng nếu có người muốn
hạ văn chương xuống ngang hàng một “đồ
thực dụng” thời Đỗ lại chép miệng thở
dài nhắc đến quan niệm nghệ thuật của
Kant.
Giọng Đỗ trầm bổng như
tiếng trúc tiếng tơ, khi mau khi chậm, khi thoảng
nhẹ tựa cơn gió mùa hạ, khi thiết tha như tiếng
đục trạm của người rũa ngọc. Bạn
bè ai nghe cũng thấy thích tai, cho là lạ, phục Đỗ
học rộng, biết nhiều.
Tựu trung cũng chẳng hiểu Đỗ
ra sao.
Một hôm, có người hiếu kỳ gần
nửa đêm, đập cửa nhà Đỗ, đòi chất
vấn.
-
Hiện nay thiên hạ chia đôi,
không trắng thời đen, mà nghe ông nói thì thật không biết
là đen hay trắng .
Đỗ ngẫm nghĩ hồi lâu, thủng
thằng trả lời :
-
Tại sao anh cứ bắt
buộc là đen hay trắng ? Mặt trăng vòm trời
khi khuyết, khi tròn. Áng sáng mùa thu trong như ngọc mà thật
ra lại hợp bảy màu. Lá cây phong bên bãi lúc xanh, lúc đỏ.
Chân lý ở đời không đơn giản như bụng
dạ trẻ con. Tai sao lại cứ bắt buộc là đen
hay trắng ?
-
Mùa xuân, mùa hạ thì lá xanh, mùa
thu, mùa đông thì lá úa đỏ. Áng sáng tuy hợp bảy màu
nhưng chính mắt chỉ nhìn thấy một. Trăng có
tuần trăng khuyết, trăng tròn. Chân lý tuy phức tạp
nhưng không hẳn là nhờ nhờ, không màu sắc. Nay đang
đêm đến đập cửa nhà ông, là có ý thành. Xin
cho nghe những lời tâm sự.
Đỗ lặng thinh không trả lời.
Người kia bèn xích lại gần Đỗ
:
-
Mã Khắc Tư cầm bút mà
thiên hạ phân đôi. Một đàng tư bản đè xuống.
Một đàng vô sản vùng lên. Tấn tuồng Hán Sở
tranh hùng thuở xưa lại diễn. Chúng ta thật đã
sa vào cái thế trên đe dưới búa, ý ông thế nào ?
Đỗ bỗng hỏi :
-
Biết để làm gì?
-
Khôn cũng chết, dại cũng
chết. Vậy biết để sống.
-
Cầu an ư?
-
Ai mà không thích sống? Quan Công
chịu đau đưa tay cho Hoa-Đà cắt thịt cũng
là thích sống. Tần Thủy Hoàng dựng Vạn lý Trường
thành mà lúc gần chết cũng còn tìm thuốc trường
sinh. Tìm mà bỏ chết, đó là thường tình của
con người.
-
Vậy đầu hàng đi.
-
Hán hay Sở ?
-
Tư bản đè xuống
mà hùa theo là tư cách tiểu nhân. Vô sản vùng lên, nếu
nhập vào, ắt mất tự do.
-
Vậy cứ khoanh tay hay sao
?
Đỗ chưa kịp trả lời, người
kia đã nói tiếp :
-
Tôi thường nghe mỗi
khi thời thế chuyển xoay là có thuết lạ ra đời.
Xưa thì Tô Tần bàn kế Hợp tung, Mạnh Tử luận
“Dân vi quý”. Gần đây có người Đăng Thục
mưu việc duy nhất tư tưởng Đông Tây, Hồ
Hữu Tường băn khoăn muốn vượt Mác xít.
Ông vẫn được tiếng là người nói giỏi,
tất phải có ý định. Xin cho nghe.
Đỗ cúi đầu, người kia không
chịu mà rằng :
-
Hay định học lối
vô vi của Lão Tử, không làm để khỏi thất bại,
không tụ, để khỏi phân ly?
Đỗ bèn thở dài mà rằng:
-
Vô vi làm sao được? Ở
cái bình diện nhân sinh tương đối này thì làm sao mà
thể hiện được cái nghĩa tuyệt đối
của một chữ Vô? Vô đấy mà cũng là Hữu đấy.
Hữu đấy mà lại là Vô. Khó lắm thay!
-
Không vô vi tất phải làm,
vậy làm gì?
Đỗ bỗng đổi giọng :
-
Ông đã đọc sách Luận
ngữ chưa?
-
Đọc rồi.
-
Tất biết chuyện Tăng-
Điểm!
-
Xin nghe!
-
Nhân Tử Lộ, Tăng Điểm,
Nhiễm Cầu, Công Tôn Hoa ngồi hầu, Phu Tử hỏi
rằng Khi các ngươi bình cư thường nói : “Chẳng
ai biết đến ta mà dùng ta”. Nếu như có người
biết mà dùng thì các ngươi định làm sao? Tử Lộ
ước có nghìn cỗ xe lớn, ở vào thế yếu
mà chống thyết mạnh, Nhiễm Cầu bàn đấn
một chương trình kinh tế ba năm cho dân no đủ.
Công Tôn Hoa thì nghĩ đến việc “mặc áo huyền đoan,
đội mũ chương phủ” vào nhà Tôn Miếu mà giúp
việc Lễ.
-
Còn Điểm thì sao?
-
Tăng Điểm lúc ấy
đang gảy cái đàn sắt, tiếng đàn thong thả
và hòa nhã, bỏ đàn xuống, đứng dậy mà thưa
rằng: Chí tôi khác hẳn ba anh kia. Đến cuối mùa xuân,
áo mùa xuân đã may xong, năm sáu người trạc độ
hai mươi tuổi, sáu bảy đứa trẻ con rủ
nhau đi tắm sông Nghi, hóng gió nền Vũ vu, rồi hát
mà về. Phu Tử thở dài mà than rằng :”Ta cũng thích
như Điểm vậy !”
Người kia tròn mắt nhìn Đỗ:
-
Tôi vẫn chưa hiểu.
-
Có gì mà không hiểu?
-
Vậy ý ông có thế thôi ư?
-
Hãy tạm hiểu là như vậy.
Rồi Đỗ lẳng lặng sắp đồ
pha trà, căn vặn thế nào cũng không nói. Một lúc
sau nhớ tới lệnh giới nghiêm, người kia bỏ
ra về. Hôm sau kể lại chuyện, cũng chẳng ai
hiểu Đỗ dụng ý nói gì.
Cuộc sống nơi Kẻ Chợ vốn
đắt đỏ, số người tị - loạn càng
ngày càng đông, việc mưu sinh trở nên chật vật.
Thiên hạ mải kiếm gạo, dần dà không còn ai bàn tán
tới Đỗ. Thản - hoặc, có nhắc đến,
cũng cho là viển vông, vu khoát.
Nhưng từ cái đêm nhắc tới lời
Phu Tử, Đỗ lại thêm phần thắc mắc. Đỗ
nghĩ rằng cả bốn môn đồ Phu Tử đều
có lý. Vì sở thích Tăng Điểm chính là cái đích chung
của thiên hạ. Nhưng muôn tới được đó,
tất phải hoàn thành cái cách Nhiễm Cầu, mưu việc
Tử Lộ và tề chỉnh cho thiên hạ một thứ
lễ nghi như ý Công Tôn Hoa. Bốn ước vọng tựu
trung là cả một quốc sách có trình tự rõ ràng. Đỗ
thán phục cổ nhân nhưng cũng thầm trách cổ nhân
chỉ bày cái đích mà chẳng vẽ ra phương tiện.
Thật tình ai mà thích mặc áo mùa xuân và tắm
mát sông Nghi ? Nhưng trong cơn đại loạn này, tìm đâu
ra được một Tử Lộ, một Nhiễm Cầu
và nhất là một Công Tôn Hoa?...
Tiếng guốc ngoại ô lần tới họp
chợ sáng Bắc Qua, đã nhiều lần làm Đỗ
giật mình thấy mình bó gối thâu đêm bên ấm trà tàn
bã.
Càng suy nghĩ, càng thấy tối. Đỗ
ngày một héo mòn. Người chủ trọ ái ngại, muốn
lựa lời khuyên giải mà cũng chẳng biết nói gì.
Ngày nguyên tiêu năm mão, có mở chợ hoa.
Thiên hạ tạm quên lo nghĩ, mặc áo mới, đổ
ra đường, nam, phụ, lão, ấu, lũ lượt
kéo tới ven hồ Hoàn Kiếm.
Muốn thêm vui, viên thị trưởng họ
Thẩm ra lệnh kéo lưới bắt Rùa ở hồ lên
để người Kẻ Chợ có dịp nhìn tận mặt
con vật tương truyền giật kiếm cứu quốc
của vua Lê. Người hiếu kỳ xem Rùa có tới hàng
vạn. Không khí tưng bừng, đây đó đèn treo hoa kết.
Người chủ trọ thấy Đỗ
vẫn âm thầm một mình trên gác trọ, bèn thúc dục
ra phố. Bắt đầu còn từ chối, sau nể lời,
Đỗ miễn cưỡng vuốt tóc, khoác áo ra đường.
Khi tới nơi, ttrời đã ngả chiều,
người chơi hội chỉ còn lác đác. Vì lâu không
ra chỗ thoáng, Đỗ tinh thần sảng khoái, bèn bước
vào một tửu quán, chọn chỗ khuất gọi rượu
ngắm hồ.
Lúc bấy giờ, gió đông thổi lộng,
sóng hồ bệp bềnh, trăng rằm lên ngôi, sương
mỏng buông xuống ướt cả cỏ non. Đối
cảnh mà cảm khái, mềm môi, uống mãi, lúc đứng
lên mới biết đã say. Đỗ chập chững ven
hồ mà bước. Một lát sau thấy mình dừng lại
trước Rùa, bèn dương mắt mà ngắm. Rùa to bằng
cái nia, đầu cổ sần sùi, bốn chân bị trói.
Đỗ đứng lặng nhìn Rùa. Rùa cũng
vương cổ nhìn Đỗ. Dưới ánh trăng
nguyên tiêu, Đỗ chợt thấy mắt Rùa như mờ
lệ.
Nhân còn say, Đỗ hỏi :
-
Cũng biết thùy lệ ư
?
Rùa gật đầu, vươn cổ ra
nhìn hồ. Nước hồ trong xanh dưới ánh trăng
xanh. Đáy hồ rêu cũng xanh. Đỗ nhìn quanh không thấy
có ai, bèn sắn tay áo cởi trói cho Rùa. Rùa dụi đầu
vào tay Đỗ, Đỗ thấy mát dợi lòng tay. Bèn vỗ
vào mai Rùa mà rằng :
-
Thôi đi đi, từ nay nên
cẩn thận.
Rùa choài mình xuống nước. Mai Rùa
lấp loáng phút chốc biến mất.
Đỗ nhìn theo hồi lâu rồi cũng
trở về.
Đêm hôm đó, Đỗ chằn chọc,
không nhắm mắt. Định đọc sách, thì tâm thần
phiêu diêu bất định, chữ múa trước mắt,
nghĩa sách thoảng xuôi như cơn gió mùa xuân.
Đỗ bèn vùng dậy, mở toang cửa
sổ. Trăng tỏa đầy gác học. Trăng soi sáng
bốn bề ngập sách. Sách ở bàn, ở tủ, từng
chồng, từng tập, ở cả đầu giường.
Quyển mở xem vội vài trang, quyển khép kín im lìm một
xó tường. Mã Khắc Tư ôm ấp Lão Tử. Sartre nằm
cạnh tập kinh Tân Ước. Bao nhiêu suy nghĩ, bao nhiêu
cố gắng, bấy nhiêu cây mốc cắm dọc con đường
tư tưởng tự nẻo xa xôi, rắn vườn
Eden chưa từng bò sát cho đến bây giờ... Tựu
trung, Chân Lý vẫn chập chờn như đom đóm lập
lòe giữ bãi tha ma. Sách lặng lẽ lên bụi. Bụi sách
lung lay ánh trăng nguyên tiêu. Đỗ bỗng thấy ngộp
thở mà quay đi. Và dụt dè hỏi rằng :
-
Thế ra mỗi
người là một thế sống tùy thời mà biến
hóa khôn lường.m Thế Chiến Quốc, Thế Xuân
Thu... Thế sống mạnh Tử và thế sống Khổng
Khưu. Mà nào ai đã khuyên nhủ được ai ? Hỡi
ơi ! Ta vỡ lòng trong mốc bụi dĩ vãng, nhớn lên
cùng tập giấy mủn, nhìn thế cục xoay vần bằng
con mắt cố nhân. Nay lại định giải quyết
hiện tại bằng phương quá khứ ! Còn vỗ
ngực trách ai nữa ?
Đỗ thở dài nhìn xuống đường.
“ Đường xanh bóng trăng. . . .”
Đường rộng rãi, thênh thang mà vắng
ngắt.
Đỗ cảm thấy hoang mang như người
lên đường mất bạn đồng hành. Tự cởi,
tự do nhưng lại thầm nghĩ :
-
Thế ra ta chỉ
một mình ?
-
Tại sao ta lại một
mình, còn em ?
Đỗ bàng hoàng quay lại, nheo mắt không
tin. Vì đúng là có một người đứng trước
mặt Đỗ: một người thiếu phụ, thướt
tha, mặt trắng, mắt trong, da mịn, tóc mun chảy
như suối xuống vai, áo màu rêu mát lạnh.
-
Nàng là ai ?
Câu hỏi tắt ngấm trong hơi
thở ấm dan. Hai vòng tay thơm ngát đã vòng quanh cổ
Đỗ. Trăng sáng, môi ướt mọng chín mùi, gió xuân
lọt căn gác. Đỗ dợn ngùi mà mê đi.
Cuối canh tư, Đỗ bừng tỉnh.
Hàng xóm gọi nhau ơi ới thổi cơm. Gà gáy cuối
phố. Cửa sổ vẫn rộng mở. Trăng sế
vàng khè. Nhìn quanh vắng ngắt, duy hương vương
lại, giường chiếu xô lệch, sách vở đạp
xuống đất, Đỗ mới tin là chuyện thực.
Bèn đóng kín cửa để ủ hương thừa,
ngẩn ngơ, ủ rũ suốt cả ngày, không biết
làm gì.
Đêm nàng lại đến. Hỏi tung tích,
chỉ mỉm cười mà không nói. Gạn dò thì nhẹ đáp :
-
Đêm xuân ngắn ngủi,
hỏi làm gì ? Đến với chàng thế này chưa đủ
sao ?
Đỗ không chịu, định căn vặn
đến điều thì hai vòng tay mát dịu đã quàng nơi
cổ. Đỗ không cưỡng được mà mê đi.
Lại cũng như đêm trước, gà
hàng xóm bắt đầu gáy, Đỗ lại sực tỉnh
một mình.
Từ đó, đêm nào cũng tới. Đỗ
bỏ cả sách, ăn uống thất thường, suốt
ngày phờ phạc, sắm nắm đợi náng từ lúc
lên đèn. Có lúc nhớ tới cái không khí « giàn dưa lất
phất » của Bồ Tùng Linh, Đỗ rùng mình nghi là
ma quái, nhưng lần đầu gần đàn bà, gia dĩ
môi nàng ấm quá, da nàng mịn màng, cho nên định hỏi
lại thôi, có ngờ cũng không cự tuyệt. Trăm
nghìn câu hỏi, áp má người ngọc, Đỗ lại
mê đi mà quên bẵng.
Người chủ trọ quen tính, cũng
không lấy làm lạ, cho Đỗ bơ phờ bởi, quá
chăm học, chỉ biết ái ngại lắc đầu.
Cứ như thế, thoắt đã nở
mùa hoa phượng. Cuộc tình duyên lặng lẻ giữa
hai người kéo dài cả một vụ xuân. Một đêm,
nàng đến mà ngồi yên, nét buồn in trên vẻ mặt.
Đỗ có nắm tay, cũng gượng gạo mỉm
cười nhưng không dấu nỗi ưu tư. Định
hỏi, nàng đã thỏ thẻ bên tai :
-
Đã đến lúc xa
nhau rồi đấy !
Đỗ không tin mà cãi :
-
Xa làm sao được ?
Mà ai bắt xa nhau ?
Nàng ngồi yên một lát rồi mới nói,
giọng như đượm lệ :
-
Chàng với em vốn có
tiền duyên, chàng còn nhớ ngày hội nguyên tiêu ?
Đỗ gật, Nàng nói tiếp :
-
Em vì mải vui hôm đó
nên sa cơ mắc lưới. Chàng vì lòng hào hiệp mà cởi
trói cho em. Thụ ơn nặng cùng chàng nên mới có ngày
nay.
Đỗ thốt nhiên nhớ lại, giật
mình :
-
Vậy ra nàng là. . . .
-
Em vốn là loài Rùa, tu đã
trọn kiếp, nhất là có công với Đất Nước
này nên được Thiên đình giao cho cai quản ngôi tháp
giữa hồ Hoàn Kiếm.
-
Nàng nói sao ? Nàng có công
với Đất Nước này ?
-
Chàng đọc sách nhiều,
quên việc xây thành Cổ Loa rồi sao ?
-
Trời ơi Thần
Kim Quy !
-
Là em đó . . .
-
Còn chuyện thanh gươm
Lê Lợi ?
-
Cũng là tại
em !
Đỗ cúi đầu suy nghĩ, giây lâu mới
nói lên lời :
-
Nhưng tại sao lại
phải xa nhau ?
Nàng thổn thức trả lời :
-
Em đi lại với
chàng, không dấu nổi tai mắt Thiên Đình mà mang tội
phải đầy sang Động Đình Hồ. Em lén đi
giây lát để chàng biết chuyện, mai sớm đã phải
lên đường.
Đỗ ôm lấy vai nàng :
-
Chậm lại ít bữa
được chăng ?
-
Lệnh Thiên Đình không
thể trì hoãn. Vả công sai áp giải đã chực sẵn
từ sáng. . . . Mới lại đằng nào chẳng phải
xa nhau ?
Đỗ ngùi ngùi gặng hỏi :
-
Xa nhau mãi ư ?
-
Sớm lắm cũng
khoảng hai năm. Còn chậm, thật chưa biết đến
bao giờ.
Nói rồi, hai người nhìn nhau thổn
thức. Ve kêu ran ngoài đường khắp các cành cây. Sao
từng ngôi lấp lánh vòm trời. Nàng chợt đứng
dậy, nhưng Đỗ bàng hoàng nắm áo, nhất định
không chịu chia tay. Nàng đành nuốt lệ nói sẵng :
-
Xa nhau ít lâu rồi lại
gặp, Chàng sao nặng tình quá thế !
Đỗ rằng :
-
Bây giờ mới biết
thế sao ?
Biết Đỗ giận, nàng vội nhích
lại gần :
-
Nói đùa chàng đấy
. . . Thật tình biết chàng từ lâu, ngay từ khi chưa
gặp . . .
-
Thật hay đùa nữa ?
-
Thật đấy !
Ngày ngày ven hồ mà đi nghe giảng văn, ai mà không thấy ?
Lại những trắng đêm đọc sách, vẻ ưu
tư của chàng, gợn cả sóng hồ. Em vốn cũng
nặng tình với số phận Đất Nước, làm
gì mà không để ý ?
Đỗ vội hỏi :
-
Ở đây rồi sẽ
ra sao, có thể biết trước được không ?
Nàng cười mà không trả lời.
Đỗ lại gặng hỏi, thì nàng đáp :
-
Biết làm sao được ?
-
Cạnh nàng chắc cũng
có vbàn luận nhiều đến thời cuộc, nỡ nào
lại còn giấu nhau ?
-
Thân còn không tiếc, giấu
chàng làm gì việc ấy ?
Đỗ tần ngần mà rằng :
-
Tôi tưởng đã có
định trước . . .
-
Định hẳn làm
sao được ?
-
Thế sao lại có việc
Lê Lợi đào được kiếm thần ?
-
Đào được
kiếm thần thì ai đào mà chả được ?
Thiên Đình thật ra có biệt nhỡn riêng ai ? Chỉ
sợ không sử dụng nổi kiếm thần mà thôi !
. . .
Đỗ không tin :
-
Nếu có kiếm thần
trong tay thì còn sợ gì nữa ?
Nàng liền nói tiếp :
-
Trước kia em cũng
lầm tưởng như chàng cho nên mới hủy công tu
luyện mà ra công giúp đỡ Thục Vương. Ấy
thế mà rồi cũng hỏng cả . . . Nỏ thần
dù màu nhiệm, nếp xoáy Loa thành có hiểm trở nhưng
người đứng đầu không vững tay sử dụng
thì đại sự vẫn không thành . . . Nhân sự thật
thật là phức tạp. Tính trước làm sao được
mối oan tình Trọng Thủy, Mỵ Châu ? Cho nên Thiên Đình
dù có biết trước thời cơ cũng không lý nổi
nhân sự. Lê Lợi, Quang Trung chẳng qua chỉ là những
người ý thành, tâm chính, hiểu thời, nổi dậy
mà thiên hạ phải bình, có thế thôi !
Nàng bặt lời, cúi đầu ngẫm
nghĩ. Đỗ cũng cảm thấy xáo trộn trong tâm
mà yên lặng không lời . . . Trên trời, sao từng ngôi tắt
ngấm. Rì rào ngọn gió bắt đầu kể lể riêng
tây đây đó, từng lá từng cành. . .
Giọng người thần nữ Kim Quy
lại thổn thức cất lên :
-
Trước kia vì đại
sự mà giận Mỵ Châu, bây giờ thật mới hiểu
nàng.
-
Sao ?
-
Lại còn phải hỏi
ư ?
-
Có bằng Mỵ Châu,
Trọng Thủy không ?
-
So sánh làm sao được ?
-
Nếu muốn thử
thách, liệu có dám làm như Mỵ Châu không ?
-
Có lẽ cũng không giữ
nổi lòng đâu !
Đỗ dụt dè :
-
Ngộ . . . muốn xin
chiếc kiếm Lam Sơn thì sao ?
-
Em được lệnh
trên mà lấy lại kiếm thần nhưng lại không giữ
. . .
-
Ai giữ ?
-
Chính Lê Lợi ! . .
. Nhưng chàng muốn được kiếm để làm
gì ?
Đỗ chợt dằn giọng :
-
Nhận trách nhiệm.
Mưu đại sự.
Dứt lời, gió đột nhiên tự bốn
phương ào ào đưa lại. Vòm trời đen kịt
nhằng nhịt ánh chớp. Căn gác rung lên cùng tiếng sấm
vang dậy.
Thần Kim Quy tái mặt vùng dậy :
-
Trời ơi !
Đỗ cũng hoảng hốt xô lại
định giơ tay đỡ, nhưng nàng đã rú lên :
-
Đừng, đừng
chạm vào em ! Em không còn là em nữa đâu !
Trước mắt Đỗ, thần Kim
Quy . . . lần lần lộ nguyên hình.
Đỗ thổn thức cố nói :
-
Đừng quên nhau . .
.
Ánh chớp sáng loáng mai rùa, long lanh ngấn lệ.
Thần Kim Quy gật đầu rồi từ từ bò
khuất vào giữa cơn bão gió đen kịt đêm tàn
xuân. Đỗ gục vào thành giường mà khóc cho
đến sáng.
Gần sáng, bão gió chưa tắt, mưa
đã dội xuống. Rồi vừ mưa vừa gió
suốt ba ngày ba đêm không lúc nào ngớt. Cây cổ thụ
Kẻ Chợ bật gốc có đến mấy trăm
thân, nhà Kẻ Chợ bay nóc có trên hàng nghìn chiếc.
Trời hửng nắng, thì cá hồ Hoàn
Kiếm chết nổi lềnh bềnh như bèo Nhật
bản. Thiên hạ hiếu kỳ rủ nhau đi xem
đông nghịt ven hồ, ai cũng lấy làm lạ. Duy có
Đỗ từ buổi đó thì thôi hẳn ra
đường, suốt ngày thơ thẩn trong phòng,
lắm lúc vật mình mà khóc, có đêm ôm gối tương
tư, như điên như dại. Lúc đầu còn có
bạn đến thăm, nhưng vì lãnh đạm không
tiếp, lâu dần chẳng còn ai lui tới.
Năm Mão qua đi mà trọn bốn mùa,
Đỗ không thôi thương nhớ. Một ngày trọng
Đông năm Thìn, Đỗ không đâu mà cảm thấy
bồn chồn, tâm linh xao động, dường như
có gì thúc bách. Bèn tung chăn đứng dậy, bách bộ
quanh phòng. Một lát, dừng bước trước
đống sách. Quen lệ cũ, đã định giơ
tay với một cuốn : gió bấc chợt lọt
kẽ song, phả vào mặt Đỗ một mùi tử khí
tự đống sách dâng lên. Nhìn kỹ, mốc xanh lốm
đốm khâm liệm đống sách đã tự bao
giờ. Nhằng nhịt, nhện đả giăng tơ,
tơ nhện hứng bụi tường tỏa trắng
một góc buồng. Tự đêm nguyên tiêu kỳ ngộ, có
lần nào Đỗ nén lòng đọc được
một trang ? Vả lại, cũng tự đêm ấy,
Đỗ bắt đầu thấy ngấy chữ
nghĩa cổ nhân . . .
Đỗ nhìn xuống bàn tay. Bàn tay vốn
xanh xao bỗng trở nên gân guốc. Như muốn
đập phá. Như muốn cấu xé. Thế rồi,
giữ lại cũng không kịp, hai bàn tay, mười
ngón chồm lên. Khi định thần, đống sách
đã nằm gọn trong lò sưởi góc phòng.
Cuộc phần thư bắt đầu.
Năm xưa, ngọc lửa phần
thư nhóm lên do một bàn tay ưa chuyện “khanh nho”.
Kẻ sĩ đời Tần nghẹn ngào, hằn
học, lời nguyền rủa vượt khỏi
Trường thành, sang sảng cập đến tai hậu
thế.
Giờ đây, lửa phần thư
lại do chính một kẻ sĩ tự ý gây lên. Lửa
không lan rộng mà âm ỷ xoáy hẳn vào bề sâu một
cơn khủng hoảng.
Đỗ nhập thiền, vừa
chừng kiến, vừa chịu cực hình một lễ
hỏa thiêu lạ lùng. Từng tờ một, quằn
quại để rồi siêu thoát, từng nguồn tư
tưởng, Christ từ từ ngược lại quãng
đường dẫn tới đỉnh Golgotha. Thích Ca
Mâu Ni lại gặp một gốc Bồ đề. Mã
Khắc Tư thủ thế trước Freud. Sartre
giật mình, ngơ ngẩn trong một thế ngõ cụt.
Rồi lần lượt He’gel, Lão Tử, Khổng
Khưu. . . Từng tờ một, thiêu dần từng
nỗi băn khoăn. Đỗ qua từng cơn cảm
giác tân kỳ. Có lúc xót xa như bị lột xác, có lúc
rợn người như thoáng bóng ma, nhiềukhi ê chề
như bị lăng trì. Dần dà thì tâm trí lâng lâng, ngũ
giác gấp phần minh mẫn. TƯởng như mang
nổi nghìn cân, mọc cánh mà bay ngang con hồng, con hộc,
vươn mình đuổi kịp ngực Ký, ngực
Kỳ.
Ngọn lửa trong lò cũng qua cơn ngùn
ngụt, tới độ điều hòa. Đỗ
đắm mình trong hơi ấm của lửa. Giữa
tiết trọng đông mà không khí gian phòng gợi
đến nước sông Nghi và tấm áo mát của
thầy Tăng Điểm. Không
khí gợi đến hơi thở của . . .
-
Em đã về đây ...chàng
!
Lửa phần thư đã tắt. Trên đống
tro tàn của đống sách hỏa thiêu, người thần
nữ Kim Quy xuất hiện.
Đỗ bàng hoàng giơ tay chới với.
Nàng từ lò sưởi bước ra, hương thơm
ngây ngất quanh phòng.
-
Trời ! Ta mê hay
thật là nàng ?
Đỗ nắm chặt tay người thần
nữ. Yên lặng ngùi ngùi trong gian
phòng ấm áp.
Một lát sau, nàng nhẹ nhàng rút tay ra rồi
mỉm cười :
-
Đã quyết định rồi
sao ?
-
Sao lại hỏi thế ?
-
Thế sao lại đốt
sách ?
-
Đốt sách là quyết định
ư ?
-
Chàng chỉ còn một chút sản
nghiệp tinh thần, Hỏa thiêu đi là đã có ý định
rồi đó !
-
Không biết có ý định
gì, nhưng vì đốt sách mà gặp lại nhau, không quý
sao ?
-
Tại sao chàng biết đốt
sách thì gặp lại em ?
-
Căn vặn nhau mãi !
Nàng ngồi yên không nói. Đỗ gạn hỏi
thì nhìn Đỗ mà tủm tỉm cười. Bèn nắm lấy
tay, đùa mà dọa :
-
Không nói thì lại bắt chước
họ Thẩm, còn nhớ không ?
Nàng nghiêm nét mặt :
-
Cái dây của một viên thị
trưởng bằng sao được một mối tình
? Không cần trói cũng khó mà rời nhau . . .
Thấy Đỗ ngậm ngùi, nàng lại nói
tiếp :
-
Lần trước gặp
chàng vì tiền duyên. Cũng vì tiền duyên mà mang lụy tại
Động Đình Hồ. Nhưng vì mối tình của chàng
có nặng, sóng tình cập tới Thiên đình, nên em sớm được
trở lại với chàng . . .
Đỗ lộ vẻ mừng:
-
Có thể ở luôn với
nhau được không ?
Nàng rằng :
-
Sao lại không ? Nhưng còn
phải đợi . . . Số là, lại với chàng, em còn
một nhiệm vụ.
-
Sao ?
-
Chàng cứ yên, em xin nói. Trước
khi gặp em, chàng thường băn khoăn về thế
cuộc. Điều đó chân thành xuất tự tâm can, hiện
lên vẻ mặt, tất không giấu nổi Thiên đình.
Nhưng muốn mưu đại sự, một nỗi băn
khoăn tất nhiên chưa đủ. Cần phải có thời
. . . Mà xét kỹ thì thời đến rồi đó . . .
-
Xin nói rõ cho nghe . . .
-
Chàng còn nhớ khi chia tay bận
trước, chàng có gợi đến việc kiếm thần
. . .
-
Quên làm sao được ?
-
Chuyện có thể thành đấy.
. . Nhưng . . .chàng có hiểu tại sao em lại về đây,
giữa khi chàng đốt sách ?
-
Hiểu làm sao được
. . .
-
Thật tình nếu không có việc
đốt sách thì chẳng bao giờ lại được
gặp nhau.
-
Ồ ! . .
-
Vì . . . Thiên đình tuy để
ý tới chàng nhưng còn đợi chàng tự ý quyết định.
-
Vậy ra đốt sách là
quyết định hay sao ?
-
Chưa hẳn là thế, nhưng
ít ra cũng lộ một phần ý chí . . .
Đỗ vùng dậy, đi lại quanh phòng.
Người thần nữ yên lặng nhìn theo, đầu mày
cuối mắt lộ tình quyến luyến. Đêm lặng
lẽ xuống dần. Lòng người trẻ tuổi tơ
vò trăm mối.
Có cơn gió bấc lọt kẽ song. Đỗ
rùng mình tiến lại phía người thần nữ, người
nàng ấm như áo khinh cừu. Hai bàn tay run rẽ như
hai con sẻ, Đỗ hơi nhích ra xa, giọng cất lên
biểu lộ nỗi đắn đo đến cực độ.
-
Giờ đây xin ngồi yên để
nghe lời vàng ngọc. Nàng hãy giảng giải rõ ràng. Sau cùng
sẽ xin quyết định.
-
Xin hỏi lại chàng, tại
sao lại đốt sách ?
-
Cũng không hiểu tại
sao. Lúc biết thì lửa đã bén vào sách.
-
Thật ra thì cái việc phần
thư của chàng âm ỷ đã từ lâu. Từ lâu, từ
đêm đầu tiên gặp gỡ,chàng đã thấy bực
dọc với chữ nghĩa của người xưa .
. .
-
Xin nghe . . .
-
Chàng khổ tâm vì trong cái thế
tranh hùng Hán Sở, không biết đâu là nơi dụng võ. Một
đằng là mặt đe nẩy lửa. Một đằng
là kẻ có tiền, một đằng hoàn toàn tay trắng.
Nhập vào đâu cũng chỉ là kế nhất thời. Đứng
ở đâu cũng là mượn tạm đất đứng
. . .
Người thần nữ im lặng giây lâu,
rồi lại tiếp :
-
Lý ưng ra, chàng phải nhập
vào bọn người áo vải vì thật tình sản nghiệp
của chàng không một tấc đất cắm dùi. Nhưng
cái khổ của chàng lại là những uẩn khúc tâm tư,
nhằng nhịt, dọc ngang như thế bàn cờ . . .
-
Vậy đốt sách đi
. . .
-
Đốt được nhà
. . . nhưng đốt sao được sách ? Chàng còn nhớ
cuộc phần thư thuở ban đầu xây dãy Trường
thành ? Càng đốt sách, nghĩa của chữ lại càng
trong trẻo, dễ vút lên cao, dễ lan ra rộng . . . Họ
Tần đốt sách Khổng Khưu vậy mà cái lý Tam cương
của người nước Lỗ có bị hỏa thiêu
cùng sách ?
-
Thế là đốt sách . .
.
-
Là một chuyện
cần. Vì đối với chàng, đó là một hành vi quyết
định. Hành vi đó lại là một lời cầu
nguyện động đến Thiên đình. Và em đã được
phép trở lại với chàng, khi lửa phần thư đã
bắt đầu dịu ngọn. Chàng muốn thiêu hủy
đến không còn một tấc đất tư duy. Nhưng
kết cục, chàng lại thấy em, giữa đống
tro tàn. Em là của chàng. Cũng như đã từ lâu chàng là
của riêng em.
-
Nói vậy, hóa ra lại
là Vương Khải, Thạch Sùng ? Cái lẽ quyết
định là ở chỗ đó sao ?
-
Sao lại mơ hồ
đến thế, hở chàng ? Mặt trời sắp
mọc và mặt trời đang lặn, ánh sáng tuy bàng bạc
như nhau, nhưng sao lại vì cái thế bình minh khởi sắc
với ánh tà thoi thóp của lửa hoàng hôn ?
Đỗ cúi đầu suy nghĩ. Trong
tịch mịch của đêm đông, người con trai bắt
đầu giác ngộ. Giữa bãi chiến trường nhọn
hoắt đao gươm, Đỗ dần dần nhận
ra chỗ đứng của mình. Người thần nữ
đọc được ý nghĩ của chàng. Nàng bèn lên
tiếng :
-
Trong binh pháp,
thường nhắc đến thế bối thủy. Chàng
nhận thấy chưa ? Không tiến cũng chết. Mà
đứng yên lại càng chóng chết.
Đỗ ngước mắt nhìn nàng :
-
Không biết một mình
có làm nổi . . .
-
Sao lại một mình ?
Thời đã đến, ắt là cái thế chung cho phần
đông thiên hạ. Vả lại kiếm thần sẽ
giao phó tận tay, chàng ngần ngại ư ?
Đỗ đứng phắt dậy :
-
Thật ư ? Kiếm
thần . . .
-
Nhận kiếm thần
chính là nhận nhiệm vu.
Đỗ bồn chồn :
-
Vậy bao giờ ?
-
Hẹn chàng giữa đêm
trừ tịch, năm nay.
-
Ngay bây giờ không được
sao ?
-
Ngay bây giờ ư ?
Bây giờ. . . chàng ơi ! . . .
Giọng người thần nữ thiết
tha. Mắt nàng ngời sáng. Đỗ lạcvào một rừng
hoa lạ. Trong yên lặng của trời đất, niềm
giao hòa vượt khỏi nhung của da và hoa hồng tím thẫm
của môi, chơi vơi tới mãi nơi thượng từng
tĩnh khí.
Gà gáy sáng tự bao giờ.
Năm thìn, giữa đêm trừ tịch,
cầu Thê Húc tự nhiên xụp đổ. Người Kẻ
Chợ đi xin lộc đền Ngọc Sơn ngã xuống
hồ không biết bao nhiêu mà kể. Thiên hạ xôn xao. Có người
cho là Thần Rùa báo oán việc xưa. Có kẻ nghi là điềm
gở, tính việc bán nhà mà bỏ vào Nam.
Lúc sửa lại cầu, viên đốc công
thấy chân cầu tuy gẫy mà gỗ vẫn tốt nguyên.
Duy chỗ gẫy như có vật sắc phạt ngang, ngày đêm
rỉ nhực đỏ lòm như máu. Nói lại, ai cũng
cho là lạ. Kẻ bàn, người tán, không biết ra sao.
Có người biết Đỗ, tìm đến
nơi định hỏi. Nhưng cũng giữa đêm trừ
tịch, Đỗ đã bỏ kinh thành, biệt vô âm tín ./.
Vũ Khắc Khoan
1954
Kịch tác gia nhà văn Vũ Khắc Khoan từ
Hà Nội di cư vào Nam năm 1954. Là giáo sư văn
chương và kịch nghệ của các đại
học lớn như Sài Gòn, Huế, Vạn Hạnh, Đà
Lạt cho đến năm 1975.
No comments:
Post a Comment