Nguyễn Mạnh Côn, đem tâm tình viết lịch sử
Nguyễn Mạnh Trinh.
Nguyễn Mạnh Côn.Những tác phẩm như Đem
Tâm Tình Viết Lịch Sử, Lạc Đường Vào Lịch Sử,Mối Tình Mầu Hoa Đào,…biểu
lộ tâm cảm băn khoăn của một lớp tuổi trẻ thanh niên của những thập niên
1940,1950 trong ý hướng muốn đi tìm một con đường chỉ đạo cho công cuộc giải
phóng quê hương tìm độc lập tự do cho dân tộc và đất nước. Có những lựa chọn ý
thức hệ của những trí thức tiểu tư sản, từ Võ Nguyên Giáp đến Hồ Hữu Tường, từ
Vũ Khắc Khoan đến Lê Quang Luật, từ Nghiêm Xuân Hồng đến Nguyễn Mạnh Côn…
Nguyễn Mạnh Côn đã mang vào văn chương những ý
thức chính trị. Những kinh nghiệm thực của cuộc đời ông được mang ra viết để
thành những cống hiến cho thế hệ đi sau. Ông sinh năm 1920, là thế hệ lớn lên và
trưởng thành trong một bối cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước. Năm 1930, cuộc
khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng đã bắt đầu cho một thời kỳ khủng bố trắng
của Thực dân Pháp. Lúc đó, cao trào tranh đấu đòi độc lập tự do đang ở tột đỉnh.
Sau đó là thời kỳ suy vi của Đế quốc Pháp. Đức Quốc xã chiếm chính quốc Pháp và
dựng lên chính phủ bù nhìn thỏa hiệp của thống chế Petain. Ở Đông dương chinh
quyền thuộc địa đu giây giữa hai chính phủ một lưu vong và một ở chính quốc và
sau đó bị quân Nhật đảo chánh.Thế giới chiến tranh lần thứ hai vừa chấm dứt và
manh nha trên thế giới một cuộc chiến tranh lạnh tiếp theo.Việt Nam, khi trước
là thuộc địa Pháp sau bị Nhật đảo chính rồi bị chia làm hai vùng chiếm đóng của
quân Anh ở miền Nam và quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa ở miền Bắc vào tước vũ khí
của quân đội Nhật. Quân Anh vào miền Nam mang theo quân Pháp chiếm giữ các thành
phố lớn rồi như vết dầu loang bành trướng các vùng chiếm đóng. Ở miền Bắc, quân
Tàu vào và với nhiều đổi chác rút ra để quân Pháp đổ bộ lên Hải Phòng vào Hà Nội.
Chính phủ liên hiệp gồm Việt Cộng sản và các
đảng phái quốc gia tuy kết hợp với nhau trong mục tiêu chống Pháp nhưng ở bên
trong là những cuộc đảng tranh đẫm máu và khốc liệt. Nguyễn Mạnh Côn là một nhân
chứng, là một đại diện của Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội trong quốc hội liên
hiệp đầu tiên. Ông đã có nhiều kinh nghiệm chua chát. Và tạo thành chất liệu
thực tế cho sáng tác.
Viết tác phẩm “1945. Lạc Đường Vào
Lịch Sử” ông giãi bày:”tuổi trẻ nào cũng có nhiều phen sai lầm, tội lỗi và hoài
nghi hối hận. Từ năm 1958 bắt đầu viết truyện này cho đến năm nay tôi vẫn theo
đuổi một ước vọng là làm thế nào cho các bạn thanh niên hiện đại tin chắc rằng
tuổi trẻ của chúng tôi không có gì hơn tuổi trẻ của các bạn. Chúng tôi có thể là
những anh hùng: anh hùng lạc đường một cách bất đắc dĩ. Và chúng tôi chỉ có
nhiều đau khổ. Nhưng đau khổ, sẽ đến như đã đến, với tất cả,Cuốn truyện này là
bằng chứng,sự chịu đựng của chúng tôi. Bây giờ đến lượt các bạn…”
Viết một tác phẩm khác ”Đem Tâm Tình Viết Lịch
Sử”,với những hồi ức đã có , đã sống, ông nhìn lại đoạn đường đã qua với nỗi
ngậm ngùi nhưng vẫn có nhiều hy vọng:
“Lòng hỏi lòng, tôi thấy
mình như con ngựa mệt mỏi dọc theo lối mòn kháng chiến quanh co, nay ra đến con
đường mới vừa thẳng vừa rộng, thốt nhiên đâm sợ. Sợ, nhưng cũng có mừng ; đàn
ngựa trẻ đương phóng lên nước kiệu…Tôi linh cảm Việt Cộng lại đương nhầm, nhầm ở
chỗ đánh giá anh em ta quá thấp..”
Lúc đó, trong hoàn cảnh đặc biệt của đất nước,
cũng có nhiều cố gắng để tìm một con đường thực hiện công cuộc giải phóng dân
tộc, xây dựng đất nước đúng đắn nhất . Một thế hệ muốn tìm những kim chỉ nam
hành động. Có người chọn chủ nghỉa Mác, dùng đấu tranh giai cấp theo sự hướng
dẫn của Cộng Đảng Đệ Tam Quốc Tế Nga Xô Viết. Nhưng với Nguyễn Mạnh Côn ông đã
chọn con đường khác, tạo một ý thức hệ đối đầu với tư tưởng của Karl Marx. Và có
lẽ trong suốt cả cuộc đời ông, ông vẫn thao thức trong ý định đi tìm một con
đường tốt đẹp nhất cho dân tộc. Sự xa lánh ý thức hệ Mác –Lênin có lẽ từ suy
nghĩ tinh tế để có một nhận thức chính xác. Chống Marx và vượt Marx…
Với bút hiệu Nguyễn Kiên Trung ông đã viết,
suy nghĩ và tâm sự của mình, dưới hình thức những lá thư gửi cho bạn đang sống ở
Pháp. Tác giả thú thực đã hoàn tất xong tác phẩm khá lâu nhưng thật khó khăn khi
viết bài tựa để mang toàn bộ tác phẩm đi in. Ông muốn bài tựa ấy phải là một bài
tựa đầy tình cảm nhưng khi viết xong thì tình cảm đã lắng xuống đến nỗi không có
đến một rung động nhỏ. Và ông đã khám phá rằng vấn đề không thu hẹp trong vấn đề
văn nghệ hay kỹ thuật, vấn đề bao quát cả một niềm hy vọng tha thiết của quốc
dân năm 1945, cả một cuộc phản bội của Mặt Trận Việt Minh, với không biết bao
nhiêu người sống quằn quại, không biết bao nhiêu người chết thảm thê vì sự phản
bội ấy. Và ông không viết được bài tựa ấy cũng là hợp lý, bởi lẽ nào mang chút
tình cảm vụn vặt của mình làm mào đầu để khởi đi một giai đoạn lịch sử cao quý ,
hùng vĩ của cả dân tộc…
Nội dung của “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử” là
những tâm sự của một chiến sĩ đang tranh đấu trực diện trong công cuộc giải
phóng đòi tự do độc lập cho đất nước trong những bức thư viết ở những thời điểm
quan trọng của lịch sử Việt Nam. Những không gian và thời gian như Hà Nội ngày 3
tháng 9 năm 1945, như Hà Nội, nội thành, Liên khu 1 , ngày 26 tháng 12 năm 1946,
như Hà Đông ngày 3 tháng 2 năm 1947, như Phú Thọ ngày 29 tháng 11 năm 1952, như
Hải phòng ngày 19 tháng 7 năm 1954, là những cột mốc đáng nhớ của một thời đại
đầy biến động Việt Nam.
Ngày 3 tháng 9 năm 1945 tại Hà Nội , Việt minh
cướp chính quyền hớt tay trên các đảng phái quốc gia. Ngày 26 tháng 12 năm 1946
ở Hà Nội , trong nội ô thành phố ,Tự Vệ Thành đã nổ súng đánh Pháp bắt đầu cho
cuộc kháng chiến giành độc lập.Ngày 3 tháng 2 năm 1947 ở Hà Đông, Đảng Cộng Sản
Việt Nam chính thức thành lập và cuộc đảng tranh đẫm máu và gay gắt nhất đã tạo
những vết thương đau đớn cho dân tộc. Ngày 29 tháng 11 năm 1952 tại Phú Thọ là
ngày bắt đầu cuộc cải cách ruộng đất và đấu tố để thực hiện đấu tranh giai cấp.
Ngày 19 tháng 7 năm 1954 tại Hải Phòng là ngày bắt đầu chia đôi đết nước ở vĩ
tuyến 17 theo hiệp ước Genève.
Từ thời điểm ấy, Nguyễn Kiên Trung kể cho bạn
đọc nghe về cuộc đời của mình và thế hệ mình theo ngõ đẩy đưa của thời cuộc. Và
từ đó như tấm gương phản chiếu thấy được sự bội phản lường lọc của những người
Cộng sản Việt Nam.Với kỹ thuật tranh đấu được huấn luyện từ hệ thống Cộng Sản
thế giới, họ áp dụng vào thực tế và đã thành công trong việc nắm giữ chính quyền
và thực hiện chính sách vô sản chuyên chính.
Tác giả “Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử” đã “trút
ngay lên mặt giấy một sự cần thiết phaỉ gào thét, phải nức nở cho số phận những
người bạn tôi sắp phải chết, ngoài kia, bên trên vĩ tuyến Bắc 17 độ. Nói là bạn,
nhưng chỉ có một số nhỏ là bạn của tôi thật, còn nhiều người mới quen biết sơ
qua trên con đường kháng chiến, nhiều người chưa hề được gặp mặt, nhiều người
tôi đáng tôn lên là bậc thầy, Phan Khôi, Đào Duy Anh,Văn Cao, Trần Dần, Hoàng
Cầm , Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường,, những người áy sắp bị Việt
Cộng mang ra xử án…
Họ , như Phan Khôi, Đào Duy
Anh, Hoàng Cầm chưa hề bao giờ là những người Cộng sản. Nhưng cùng nhau , họ đã
chống lại Việt Cộng. Điều cần biết, đối với tôi, là trong hàng ngũ duy vật, một
sự nứt nẻ trầm trọng đã được xác nhận. Một điều cần biết nữa, là thực tế đang
chứng minh rằng những con người ấy, vốn dĩ Cộng Sản hay chỉ đầu hàng hoặc thỏa
hiệp với Việt Cộng, cuộc tranh đấu của họ gần đây là cuộc tranh đấu tiểu tư sản.
Dưới bất kỳ một nhãn hiệu chính trị nào do họ tự nhận lấy hoặc bị kẻ khác gắn
cho họ, họ quả thật là những người tiểu tư sản , trí thức tiểu tư sản.Những
người trí thức tiểu tư sản trong hòa bình và vì lý tưởng dám liều mình chống lại
cường quyền và bạo lực, đó là câu kết cho cuốn “ Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử”, câu
kết tôi muốn viết mà trước kia không dám viết, e ngại rằng chưa đủ bằng chứng
cho chúng ta tin cậy.thì bây giờ, những nhà trí thức của Hà Nội , của Hồ Gươm,
và của Hồ Tây không bao giờ phai nhòa trong tâm tưởng kẻ lưu vong, những nhà trí
thức anh dũng ấy, bằng tai nạn của họ đã cho phép chúng ta nói một lời quyết
định..”
“Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử” được viết
cách nay nửa thế kỷ và xem ra tới bây giờ, vẫn còn nhiều suy nghĩ đáng chú ý.
Lịch sử đã bị chế độ hiện hữu bôi xóa và những bài học để thế hệ sau hiểu
biết chứa đầy những giả trá. Từ năm 1945, tới nay không xa, khoảng cách lịch sử
vẫn còn gần để nhận thức, thế mà đã có nhiều sai lạc.
Thậm chí, có những người được gọi là trí
thức như Đặng Tiến, cũng viết phê bình văn học, cũng là người tự cho mình là
người thông hiểu văn chương lịch sử, mà trong một buổi phỏng vấn của Đài BBC
gần đây đã bóp méo lịch sử, ca tụng Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp, với việc
giết hại những chiến sĩ thuộc các đảng phái quốc gia. Thậm chí, ông ta còn cho
rằng Đảng Cộng Sản đã phải chiến đấu với thực dân Pháp, quân phiệt Nhật, Quốc
dân Đảng Tàu và các đảng phái quốc gia theo chân quân Tàu Tưởng. Ông ta gom gọn
làm một các lực lượng quốc gia với cái nhãn hiệu là theo chân quân Tàu. Nếu
Đặng Tiến đã đọc sách và viết phê bình về hai mươi năm văn học miền Nam thì
chắc phải đọc “ Đem Tâm Tình Viết Lịch Sử” Không hiểu ông ta có gặt hái được
suy nghĩ nào chính xác hơn không sau khi đọc tác phẩm này ?
Một tác phẩm khác “1945, Lạc Đường Vào Lịch Sử”
cũng lấy thời gian và không gian của những năm bắt đầu cuộc kháng chiến chống
Pháp với các nhân vật bị đẩy vào cuộc một cách bất đắc dĩ. Họ hoạt động trong
những sự sắp xếp của các thế lực quốc tế thông qua các đơn vị tình báo của các
cường quốc liên hệ đến tình hình htời sự Việt Nam. có nhiều nguyên ủy để họ tham
gia chính trị. Có thể vì bị lôi kéo vì tình cảm như Tuyết Lan, như Quang , như
Trọng. Có thể vì thi hành những công tác tình báo như Tôn Xương Linh nhân viên
OSS của Mỹ mang bí số SA 141 hay ông Tiến , một lãnh tụ quốc gia, cha của Tuyết
Lan mang bí số SA 72. những nhân vật ấy có đặc tính cá tính riêng, như Trọng là
một người con trong gia đình quan lại với suy nghĩ và hành động đặc sệt tiểu tư
sản, như Tôn Xương Linh, người Tàu nhưng mang dòng máu của một quan đại thần
triều Nguyễn lưu vong Việt và có suy tư của người Việt Nam bị đẩy vào trong một
vai trò tình báo quốc tế thành viên của phái đoàn OSS của đại tá Patti. Từ hoàn
cảnh cá nhân riêng đến cảnh ngộ chung của dân tộc, mọi nhân vật đã đi vào trong
những con đường bị làm tay sai cho các thế lực ẩn mặt của các siêu cường. Có thể
họ có tâm tính của cách mạng lãng mạn như Trọng nhưng họ cũng có thể có cái máu
lạnh lùng vô hồn vô cảm của Lâm Trọng Ngà, một chỉ huy công an Cộng sản. Những
nhân vật ấy , trong những khúc quanh khốc liệt của lịch sử đã được mô tả với tư
cách chứng nhân cho một thời kỳ mang nhiều bí ẩn và những hiện tượng khó có thể
giải thích nhưng đã xảy ra.
Viết về những chặng đường mà tác giả đã sống ,
Nguyễn Mạnh Côn mang những kinh nghiệm của chính bản thân để gửi một thông điệp
cho các thế hệ sau về những lỗi lầm của những người đi trước đã tạo ra những hậu
quả về sau nghiêm trọng. Cái lạnh lùng vô cảm của những người theo chủ nghĩa
Cộng sản duy vật có thể giúp họ chiến thắng trong đoản kỳ nhưng sẽ là cội nguồn
thất bại về sau trong trường kỳ.
Khi miền Nam Việt Nam bị sup đổ vào năm 1975,
Nguyễn Mạnh Côn bị chế độ hiện hữu trả thù , bắt giam và ông chết trong tù sau
khi bị hành hạ vô cùng dã man về cả tinh thần lẫn vật chất. Khi chống lại chế độ
Cộng sản , ông là một người tiên đoán khá chính xác sự sụp đổ của chế độ ấy
nhưng đáng tiếc là ông không còn sống để chứng kiến sự suọ đổ ấy trên toàn thế
giới. Suốt cuộc đời ông, mải miết đi tìm con đường lý thuyết làm chủ đạo cho
công cuộc tranh đấu từ những kinh nghiệm của mình. Chủ nghĩa Cộng sản không thể
chấp nhận được vì với biện chứng pháp con người không còn là một con người nhân
bản nữa mà chỉ là một phương tiện để vận động cho một mục đích không tưởng .
Một tác phẩm khác của Nguyễn Mạnh Côn cũng
gây được sự chú ý của văn giới. Đó là “ Kỳ Hoa Tử”, câu chuyện tình của một cô
gái người Nhật Bản yêu một chàng trai Việt Nam đang lưu lạc ở Trung Hoa. Kỳ Hoa
Tử theo người yêu về Việt Nam trong lúc đang có cuộc kháng chiến chống Pháp. Bề
ngoài thì tất cả lực lượng quốc dân đều tham gia vào cuộc chiến giành độc lập tự
do cho đất nước nhưng thật sự bên trong thì những người đi theo chủ nghĩa của
những người quốc tế vô sản đang nắm quyền lực và dùng đủ mọi phương cách để thực
hiện cuộc cách mạng đấu tranh giai cấp. Trong âm mưu ấy , họ phải quét sạch
những người mà họ cho rằng sẽ làm trở ngại cho công việc mà họ đang thực
hiện.Một chướng ngại cản đường ấy là Hồ Tùng Mậu và quyết định phải giải quyết
bằng mọi giá. Họ kết tội phản động và tạo dựng những chứng cớ buộc tội. Một nhân
chứng dùng để vu khống và kết tội là chàng trai yêu nước đó. Là một đảng viên
trung kiên, chàng không thể nào trái lệnh dù biết rằng công việc ấy không hớp
lý và vô đạo đức. Kỳ Hoa Tử thấy những hành vi như vậy và tình cảm thay đổi
theo. Thế là cuộc tình bị tan vỡ . hai người xa nhau với tất cả nỗi đớn đau.
Những tâm tình lãng mạn thơ mộng đã được thay thế bằng những tình cảm hận thù
. Và, kết cuộc là tang tóc , đổ vỡ, chia ly…
Viết Kỳ Hoa Tử , ông cũng dùng những sự thực
trải qua trong đời để tạo cho câu chuyện kể có sự sinh động và hợp lý.Tuy có
lúc mang suy nghĩ chủ quan của mình vào trong sự kiện làm cho truyện chậm lại
nhưng lại chuyên chở được những trao gửi kèm theo.
Nguyễn Mạnh Côn là người có sở học rộng nên ông
hay tìm kiếm những đề tài gây bất ngờ cho độc giả.Ông viết huyền truyện phối hợp
vời truyện giả tưởng để đào sâu vào cõi tâm linh con người.
“Truyện Ba Người Lính Nhảy Dù Lâm Nạn” là một
truyện khoa học giả tưởng mà tác giả đặt trên căn bản của thuyết tương đối của
Einstein về kích thước thứ tư của không gian. Ông giải thích theo lập luận của
ông:”cái nhầm của cổ nhân coi vạn vật chỉ có bề dài, bề rộng, bề sâu, tức là chỉ
có ba kích thước mà không biết rằng sở dĩ người ta chỉ trông thấy ba kích thước
ấy là nhờ có ánh sáng. Tùy sức ánh sáng đi nhanh hay chậm, tùy con đường từ ta
đến cảnh vật xa hay gần mà ta tức khắc trông thấy vạn vật hay chỉ trông thấy dần
dần.. Cảnh vật chung quanh ta tưởng rằng nhất định như thế mà thật ra có thể đổi
khác ( thấy không khác vì vận tốc ánh sáng ở cõi ta là một hằng số không đổi).
Einstein đã biết rằng khi một vật di động càng nhanh càng tới gần tốc độ của ánh
sáng thì thời gian và không gian hỗ tương ảnh hưởng vào nhau sẽ uốn cong lại
chung quanh cái vật di động kia. Sự uốn cong này chính là cái kích thước thứ
tư..”
Nhân vật trong truyện là bác sĩ Mai , nữ trợ tá
Kiên Trinh và hạ sĩ Khang thuộc binh chủng nhảy dù trong một phi vụ ở gần biên
giới Trung Hoa thì máy bay bị bắn hạ và đâm nhào xuống đất. Trong giây phút ấy
họ bị bất tỉnh và tình cờ lọt vào một vùng không gian năng lực phi thường với
vận tốc cao gần với tốc độ của ánh sáng. Và như vậy họ lọt vào vũ trụ có kích
thước thứ tư. Ở nơi chốn này họ gặp Lưu Thần và Nguyễn Triệu của truyện tích từ
ngàn năm xưa cũng vì một cơn bão có tốc độ khủng khiếp thổi tới và cùng lạc
vào vũ trụ có không gian bốn chiều như ba người lính nhảy dù này. Và chốn này
có thể gọi là Thiên Thai, với thời gian đứng im bất động và cảnh sắc thì có nét
của miên viễn nên rất tuyệt vời. Ở đây có những bộ máy kỳ diệu có thể điều chỉnh
tốc độ ánh sáng để đưa con người vào quá khứ hay tương lai.
Bác sĩ Mai và nữ trợ tá Kiên Trinh muốn ở lại
Thiên Thai trong khi hạ sĩ Khang thì muốn trở về qúa khứ. Anh trở lại thế kỷ thứ
18 ở thành Thăng Long và tình cờ cứu sống Vua Quang Trung. Sau Khang giúp Vua
Quang Trung đánh quân Tàu đòi lại Lưỡng Quảng hai tỉnh.Với kiến thức của thế kỷ
20 đối đầu với quân tàu ở thế kỷ 18 nên Khang đã giúp vua Quang Trung chiến
thắng. Nhưng quân dân Tàu áp dụng tiêu thổ kháng chiến cũng như du kích chiến
nên chiến thắng không toàn vẹn và Khang thấy rằng tham vọng đất đai là mù quáng.
Khi tỉnh dậy, thì Khang mới biết rằng chỉ trong
giây phút ở vũ trụ của không gian bốn chiều nhưng là mấy đời sống ở trần thế..
Kiên Trinh cũng có lúc tìm về dương trần nhưng vô cùng đau khổ khi biết người
chồng là hạ sĩ Khang đã lấy công chúa Ngọc Chân em công chúa Ngọc Hân. Bác sĩ
Mai thì nhớ quê hương, tưởng vọng về những nơi chốn của Hà Nội đất Bắc xưa. Cả
ba người lính nhảy dù này sống lạc lõng bên lề cuộc sống.
Trong truyện , Nguyễn Mạnh Côn đã dùng rất nhiều
kiến thức về khoa học , về toán học, về lịch sử, về triết lý. Chính vì vậy,
thành ra tác phẩm đâm ra nặng nề, nửa biên khảo nửa tiểu thuyết. Vì chứa đựng
qúa nhiều chi tiết, dù rằng đã cố gắng dung hòa giữa khoa học và văn chương,
nhưng bố cục truyện hơi nặng nề và diễn biến câu chuyện cũng ít có chất tự
nhiên.
Nhà văn Nguyễn Mạnh Côn còn có tham vọng lập
thuyết, dùng văn chương để chuyên chở ý tưởng. Ông nghĩ về thuyết Tân Trung
dung, viết ”Mối Tình Mầu Hoa Đào” và ” Hòa Bình ..Nghĩ gì? Làm gì?”
“Mối Tình Mầu Hoa Đào” là truyện chàng thanh
niên đi tìm lý tưởng say mê như tìm một người yêu quàng khăn mầu hoa đào.Chàng
đi tìm mầu hoa đào trong mọi người và mọi cảnh. Thất vọng ngoài kháng chiến
chàng về vùng quốc gia, để rời khỏi đơn vị của người Pháp. Công việc tìm kiếm
vẫn tiếp tục.Chàng vào Nam , gặp người bạn trẻ, bàn luận chuyện lên đường. Những
câu đối thoại , như một chia sẻ giữa hai thế hệ để gợi ý về những hành trang
mang theo khi khởi sự đi vào con đường suy tưởng.
Mối tình mầu hoa đào tưởng chỉ giản đơn trong
biên giới của địa lý hay những phạm vi thực tế gợi ra từ đời thường. Nhưng
Chàng muốn đi xa ra khỏi những khuôn khổ chưa bao la ấy thành ra thất vọng và cô
đơn đã dần dần chiếm lĩnh tâm hồn. Ngôn ngữ, có khi để biểu tỏ ý tưởng nhưng sự
diễn dịch sai nên lời nói nhiều khi bị hiểu chệch hướng và không giúp gì cho
cuộc đối thoại để tìm chân lý. Có lúc Chàng nói chuyện với tiếng vọng, không
biết xuất xứ từ đâu để quên đi những rối loạn và cô đơn khi đối thoại với con
người. Nguyễn Mạnh Côn lập thuyết như Hồ Hữu Tường lập thuyết, có phải tận dụng
những kiến thức khoa học và toán học để mong lý giải một cách có hệ thống những
quy luật của cuộc sống hầu có thể áp dụng để tạo một đường hướng chủ đạo cho
cuộc sống. Xem ra, cũng chỉ là một cố công…
Viết “ Hòa Bình..Nghĩ Gì? Làm gì?” để phổ biến
lý thuyết Tân Trung Dung cũng là một cố công khác với những tượng hình lý thuyết
có vẻ nhiều chất lãng mạn mà ít chất thực tế. Đem một lý thuyết để áp dụng vào
thực tế Việt Nam khi chiến tranh vẫn còn ác liệt và hòa bình chỉ là những hình
tượng giả tạo, là một sửa soạn cho một cuộc chiến cuối cùng khốc liệt. Và ông
cũng chưa làm cho độc giả hiểu rõ rệt và mạch lạc lý thuyết Tân Trung Dung như
thế nào dù ông đã viết trong đoạn cuối của “ Hòa Bình… Nghĩ gì? Làm gì?”:” Như
vậy, bạn đọc dù không đọc được cả phần lý thuyết thì ít ra cũng kiểm chứng được
qua những căn bản về Trời, Đất, về Cha, Mẹ, về đào tạo lương thực, về cách kết
hợp lứa đôi và nuôi dạy con cái, về sự xây dựng sự nghiệp bằng cách trau dồi
kiến thức không ngưng nghỉ về nghệ thuật, khoa học và kỹ thuật, về suy tư triết
học và xây dựng tương lai..”
Nguyễn Mạnh Côn(1920-1979) mất ngày 1 tháng 6
năm 1979 . Cộng sản đã hạ đòn thù và hành hạ ông cho tới lúc chết. nhà văn
Nguyễn Triệu Nam đã kể lại về cái chết của ông:
“Trước hết nhà văn của chúng ta đã không đáp ứng
đúng yêu cầu của Cách mạng(?) Anh chỉ ôn lược những việc đã làm. Kể lại nội dung
từng sáng tác. Chớ không tự lên án mọi hoạt động nói chung của mình. Có nghĩa là
anh không nhận tội. Một tên quản giáo nó hỏi anh:” Mày viết phản động đến như
vậy mà còn cho là không có tội ư? Vậy mày có biết rằng Cách Mạng chỉ giam giữ
mày một thời gian nào đó thôi rồi tha cho mày về hay không? Chứ giữ mày ở lại
làm cái gì cho tốn cơm tốn gạo” Vậy các ông muốn tôi phải làm cái gì đây?- Sẽ
có người hướng dẫn cho mày. Y nói xong là bỏ đi . Hôm sau có một tên làm dịch vụ
đả thông. Nom lạ hoắc. Không biết gã ta làm nghề ngỗng gì ở ngoài đời. Gã cầm
trên tay một bịch ni lông trong suốt. Cố ý giơ lên cho đối tượng nhìn thấy bên
trong có những gói mỏng nhỏ. Thì ra là thuốc phiện quết , cô lại như thế thuốc
cao. Chỉ nuốt chửng, xài đỡ khi thiếu bàn đèn. Gã lải nhải bên tai nhà văn một
chập lâu. Đại ý thuyết phục như vầy:”Anh nên thành khẩn viết một bài kiểm điểm
nhận mình có tội. Giờ ăn năn hối hận, hứa với Đảng sẽ đổi mới tư tưởng, sẽ
chuyển hướng sáng tác. Nếu anh chịu tuân hành nghiêm chỉnh pháp lệnh của nhà
nước thì chác chắn anh được trả tự do đúng thời hạn.Thuốc đây hãy xài tạm hầu
phục hồi sự minh mẫn cho trí óc. Đừng khí khái hão mà chuốc họa vào thân làm
khổ cho vợ con.Ngộ biến tòng quyền là cách xử lý khôn ngoan của người biết tùy
thời lựa thế mà sống, anh ơi! Gầy còm tong teo như anh chịu đòn sao thấu… Nguyễn
Mạnh Côn đã thẳng thắn trả lời: ”Ông cứ việc báo cáo lại với chúng nó về tất
cả những gì tôi nói.Tôi không tôn thờ cái chủ nghĩa Cộng sản mà tôi đã dí xuống
chân ấy được. Tôi không bẻ cong ngòi bút, tôi không làm văn nô được. Đừng hòng
dùng á phiện mà lung lạc tôi." Việc gì phải đến đã đến. Nhà văn của chúng ta
đã tự sát.
Bằng cách nào, không nghe rõ chi tiết. Chỉ biết,
trước ngày anh quyên sinh , anh gặp Trưởng Trại mà hỏi y:”Cách Mạng công bố
là chỉ giam tôi có thời hạn.Sao đã qúa hạn mà không thả? tên cai ngục cười
gằn và bảo:”Nói dễ nghe nhỉ? Mày ngoan cố quá, cứng đầu quá mà. Mày đã nhận
tội đâu mà đòi nhà nước tha cho mày."
Kẻ thù chưa
kịp hạ thủ thì anh đã chết rồi. Anh đã chết vinh và bảo toàn được tiết tháo và
danh dự của kẻ sĩ. Là một kẻ sĩ uy vũ bất năng khuất anh đã không” lạc đường vào
lịch sử” như một nhân vật của một truyện anh viết. Trái lại anh đã đi thẳng vào
lịch sử với tư cách của một chiến sĩ tiền phong chống Cộng trên mặt trận văn hóa.”
No comments:
Post a Comment