Từ Anh Khóa, Thầy Đồ
Đến Ông Quan
Tiêu
đề “Từ Anh Khóa, Thầy Đồ, Đến Ông Quan” là câu tóm lược tiến trình sự nghiệp
của người học trò theo học chữ Nho thời phong kiến.
Thời đó, ở nước
ta, chữ Nho là văn tự chính thức của tất cả các hoạt động trong xã hội, từ lãnh
vực hành chánh, giáo dục, luật pháp, truyền thông, cho đến tôn giáo, văn học, kiến
trúc, mỹ thuật và giao tiếp. Chữ Nho, còn gọi là Hán tự, là chữ Hán, là chữ An
Nam, là chữ mà mọi người phải dùng tới. Trên các giấy tờ giao ước viết bằng chữ
Nho, các bên liên quan cho dù không biết chữ cũng phải lăn tay điểm chỉ vào. Vì
thế, thông thạo chữ Nho dù chỉ mới ở mức độ biết đọc biết viết đã là chuyện
tốt. Huống hồ thông thạo chữ Nho tới mức độ mở miệng ra là ngọc nhả châu phun,
vung tay lên là rồng bay phượng múa, thì quả thật là tuyệt vời, đương nhiên
được mọi người chung quanh quí trọng. Người trong nước, ai ai cũng thi đua nhau
cho con em theo học chữ Nho. Học để thông
thạo chữ nghĩa, để thi
đậu đi làm quan, trước là nở mặt
nở mày, rạng rỡ tông môn, sau là giúp vua an dân trị quốc.
I. Việc truyền bá chữ Nho vào Giao Châu.
Vai trò của Sĩ Nhiếp.
Chữ Nho truyền
vào nước ta từ đời Hán. Người có công lớn trong việc truyền bá chữ Nho tại Giao
Châu là Sĩ Nhiếp, nên được đời sau tôn là Nam Giao Học Tổ, được nhà Trần phong
làm phúc thần, tước vị là Gia Ứng Thiện Cảm Linh Vũ Đại Vương. Sĩ Nhiếp là
người Thương Ngô, tổ 6 đời gốc người nước Lỗ (Sơn Đông), cha là Sĩ Tứ làm Thái
Thú Nhật Nam nên lúc nhỏ theo cha ở thành Tây Quyển (phía bắc Huế), rồi sang
Kinh sư (Lạc Dương) du học, được cử là Hiếu Liêm, trước bổ làm chức quan Lệnh
Hàm Dương, rồi đến đời Hán Hiến Đế chuyển làm Thái Thú Giao Chỉ. Gặp lúc thiên
hạ đại loạn, Lưu Biểu ở Kinh Châu sai Lại Cung sang kiêm tính Giao Châu. Sĩ
Nhiếp bèn cùng Thái thú Thương Ngô là Ngô Cự đánh đuổi Lại Cung, nhân đó vua
Hán cho Sĩ Nhiếp làm An Viễn Tướng quân, thống lĩnh binh mã 7 quận, tước phong
Long Độ Đình Hầu. Sĩ Nhiếp chia các em đi làm Thái Thú các quận Nam Hải, Hợp
Phố, Cửu Chân, còn tự mình kiêm lĩnh hai quận Thương Ngô và Giao Chỉ. Khi nước
Tàu chia ba, Sĩ Nhiếp theo về Đông Ngô. Ngô chủ Tôn Quyền cử Bộ Chất làm Thứ Sử
Giao Châu, nhưng Sĩ Nhiếp không cho Bộ Chất đến nơi trấn nhậm, buộc lòng nhà
Ngô phải phong cho Sĩ Nhiếp làm Long Biên Hầu, Đệ nhất Thiên Tướng Quân, lĩnh
Giao Châu Thái Thú (1). Sĩ Nhiếp thọ 90 tuổi, cai trị Giao Châu trong 48 năm, đã
gia công mở mang việc học chữ Nho và truyền bá nếp sống phương bắc, làm cho
vùng Lĩnh Nam Hán hóa đậm đà. Sau khi Sĩ Nhiếp chết, con là Sĩ Huy lên thay.
Nhà Ngô sai Lữ Đại sang đánh, Sĩ Huy xin hàng. Ngô chủ Tôn Hạo bèn chia Giao
Châu làm hai là Giao Châu và Quảng Châu.
Tiến cử và Thi cử.
Các triều đại Tấn,
Tống (Nam Bắc triều), Tề, Lương, Trần vẫn theo lề lối tuyển dụng cũ của nhà
Hán, tức là giao cho các quan địa phương tiến cử người hiền tài ra làm việc,
chia làm các hạng hiếu liêm (cử nhân) và mậu tài (tú tài). Đến đời Tùy, vua Tùy
Dạng Đế bắt đầu mở khoa thi để tuyển chọn người ra làm quan. Nhưng phải đến đời
Đường việc thi cử mới có quy củ.
Người trúng
tuyển được chia làm ba loại: sinh đồ, cống cử, và chế cử. Sinh đồ là các học sinh
đã tốt nghiệp các trường ở Kinh sư hay châu quận, nay trúng tuyển kỳ thi sát
hạch ở Tòa Thượng Thư tại tỉnh. Cống cử là những người không theo học ở các Học
(quán), các (học) Hiệu, chỉ thi đỗ sát hạch ở châu quận, nay trúng tuyển kỳ thi
tại Tòa Thượng Thư. Cống cử còn được gọi là hương cống. Chế cử là những người
trúng tuyển kỳ thi đặc biệt do vua đích thân ra đề bài.
Từ cuối đời
Đường sang đời Tống, danh xưng chế cử được đổi thành tiến sĩ, chia làm tiến sĩ
cập đệ và tiến sĩ xuất thân (2). Việc học chữ Nho lúc này tại Giao Châu rất phổ
cập. Sĩ tử Giao Châu gốc bản địa thành đạt mỗi ngày một nhiều nên năm 845, vua
Đường hạn chế số người Nam thi khoa Tiến sĩ không được quá 8 người, khoa Minh
kinh không đuợc quá 10 người (3).
Quá trình hình thành tiếng Hán Việt.
Nhà Đường dấy
nghiệp từ Thái Nguyên, đóng đô ở Trường An, quan lại bổ nhiệm sang Giao Châu
phần lớn là người Quan Nội (Thiểm Tây), nên người Giao Châu được học chữ Hán
phát âm theo phương ngữ Trường An. Từ nhà Tống trở đi, Giao Châu độc lập, và vẫn
dùng chữ Nho làm văn tự chính thức. Nhưng người Việt không còn học chữ Nho trực
tiếp với người Tàu nữa. Bởi vậy, tại Trung Quốc, trải qua các triều Tống,
Nguyên, Minh, Thanh, trung tâm chính trị và văn hóa của Trung Quốc chuyển dần
về phía đông rồi lên phía bắc, đời sống văn hóa xã hội nhiều mặt mang đậm dấu
ấn Mông Cổ và Mãn Châu, nên nghĩa chữ và tiếng nói đổi khác đi, trong lúc đó,
người Việt vẫn tiếp tục học chữ Nho với lối phát âm theo phương ngữ Trường An
đời Đường. Đó là quá trình hình thành tiếng Hán Việt. Với tiếng Hán Việt, người
Việt và người Tàu có thể bút đàm với nhau, nhưng người Việt đọc lên hoặc nói ra
thì người Tàu không hiểu được. Cũng cùng một lý do này mà các bài thơ Đường đọc
theo âm Hán Việt nghe rất xuôi tai, còn đọc theo âm quan thoại nhiều khi lại
khổ độc, vi phạm luật bằng trắc.
II. Việc thi cử trong thời kỳ trước nhà Nguyễn.
Các triều đại buổi đầu của Giao Châu tự chủ
Đinh, Lê, Lý, không tổ chức việc học việc thi để tuyển dụng người làm việc
nhà nước, mà sở cậy giới tăng lữ sử dụng chữ Nho làm văn tự chính thức trong
việc cai trị dân chúng và giao thiệp với người Tàu. Mãi đến đời Lý Thánh Tông
mới dựng Văn miếu vào năm 1070, và đời Lý Nhân Tông mới mở khoa thi Nho học Tam
trường vào năm 1075 để chọn người Minh kinh bác học, và xây Quốc tử giám vào
năm 1076 để con em các hoàng thân quốc thích đến học tập. Sau đó, mỗi khi cần
người, nhà Lý mới mở khoa thi, như năm 1086 để kén người vào Hàn lâm viện, năm
1165 thi Thái học sinh để tuyển người ra làm quan ở các trấn, năm 1185 và năm
1193 để kén người vào Thị học (hầu vua học), và năm 1195 thi Tam giáo cho xuất
thân (ra làm quan). Ngoài ra còn có các kỳ thi Hình luật, Thư toán để kén lại
điển (2,4).
Đời Trần và đời Hồ, việc học hành và
thi cử đã tương đối được tổ chức hoàn bị. Buổi đầu chỉ ở Kinh sư có Quốc học
viện. Đến cuối đời Trần, Lê Quý Ly tổ chức ở các lộ, châu, phủ, các nhà Học,
nhà Hiệu do các Đốc học và Giáo thụ trông nom. Năm 1232, đời Trần Thái Tông, mở
khoa thi Thái Học sinh, người đỗ chia ra Tam giáp: đệ nhất giáp, đệ nhị giáp,
và đệ tam giáp. Năm 1247 lấy 3 người đỗ đệ nhất giáp làm Tam khôi: Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Năm 1256
mở khoa
thi Thái Học sinh, phân biệt Kinh
(châu thổ sông Hồng) và
Trại (Thanh Nghệ). Đến khoa thi năm 1274 đời Trần Thánh Tông thì việc
phân biệt Kinh Trại này được bãi bỏ. Năm 1304 đời Trần Anh Tông, định phép thi
Thái Học sinh 4 trường: trường 1 thi Ám tả, Kinh nghĩa, trường 2 thi Thi Phú,
trường 3 thi Chiếu, Chế, Biểu, trường 4 thi Đối sách. Mạc Đỉnh Chi đỗ Trạng
nguyên khoa này. Tam khôi được đưa ra Long môn và Phụng thành dạo chơi, sau đó,
Trạng nguyên được bổ chức Thái Học sinh, Bảng nhãn chức Chi hậu bổ thư, Thám
hoa chức Hiệu thư.
Năm 1396 đời
Trần Thuận Tông, Tể Tướng Lê Quý Ly định phép thi Cử nhân 4 trường: trường 1
thi Kinh nghĩa, trường 2 thi Thi Phú, trường 3 thi Chiếu, Chế, Biểu, trường 4
thi Sách vấn, hỏi về Kinh, Sử và Thời vụ. Kể từ đây, thi lấy Cử nhân gọi là thi
Hương, thi lấy Thái Học sinh gọi là thi Hội, trúng tuyển thi Hương rồi mới đuợc
thi Hội, trúng tuyển thi Hội mới được vào Ngự thí, tức là thi Đình. Thi Đình
chỉ làm một bài Sách vấn để sắp hạng
Tam khôi, Tam giáp. Lại định
lệ năm trước thi
Hương, năm sau thi Hội và thi
Đình. Năm 1400 đời Hồ Quý Ly, mở khoa thi Thái Học sinh. Nguyễn Trãi đỗ khoa
này. Năm 1405, đời Hồ Hán Thương, mở khoa thi Cử nhân 5 trường, có thêm 2 môn
thi Viết và Toán ở trường 5.
Triều Hậu Lê, buổi đầu đại định, việc
trị an bề bộn nên thi cử còn giản lược. Năm 1429, đời Lê Thái Tổ, mở khoa thi
Hoành từ, cho sĩ dân và quan viên từ tứ phẩm trở xuống được ứng thí để kén
người, tùy tài bổ dụng. Trong khoa này, Thừa chỉ Nguyễn Trãi được cử làm Giám
thí, dưới quyền Thượng thư Lê Văn Linh giữ chức Đề điệu (5). Năm 1434, đời Lê
Thái Tông, định phép thi 4 trường, lại định lệ 6 năm một khoa, năm trước thi
Hương, năm sau thi Hội, người trúng tuyển gọi là Tiến sĩ xuất thân. Năm 1442
bắt đầu dựng bia đá khắc tên Tiến sĩ. Năm 1448, những người trúng tuyển Đình
thí được chia làm Cập đệ, Chánh bảng và Phụ bảng. Năm 1462 đời Lê Thánh Tông,
đặt ra lệ Bảo kết Hương thí, ai đi thi phải đến bản quán đăng ký, danh
sách trúng tuyển được chuyển về
Lễ nghi viện duyệt xét, chỉ những ai được bản quán bảo kết thực sự đức hạnh mới
được cho dự Hội thí. Năm 1466, định lại 3 năm một khoa, ban mũ áo, đãi ăn yến,
cho vinh quy bái tổ. Năm 1475, vẫn đời Lê Thánh Tông, thi Hương đổi gọi là thi
Cống sĩ, Cử nhân gọi là Hương cống, Tú tài gọi là sinh đồ. Năm 1484, Trạng
nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa cải gọi là Tiến sĩ Cập đệ, Chánh bảng là Tiến sĩ
Xuất thân, Phụ bảng là Đồng Tiến sĩ Xuất thân.
Triều Mạc rất trọng khoa cử. Nói chung
việc thi cử vẫn theo lệ cũ nhà Lê. Chỉ duy năm 1565, đời Mạc Mậu Hợp, kỳ đệ tứ
khoa Tiến sĩ xẩy ra chuyện có bài Phú làm bằng chữ nôm. Nguyễn Hiển Tích vào
trường 4 không làm được bài, cao hứng xoay qua viết bài phú Lưu Hầu bằng quốc
âm rất hay, và vẫn được lấy đỗ (6). Cũng dưới triều Mạc, Dương Văn An là người
Thuận Hóa đầu tiên đỗ Tiến sĩ. Lại nữa, khoảng đầu thế kỷ 17, lúc nhà Mạc đã
chạy lên Cao Bằng, đời Mạc Kính Cung, có Nguyễn Thị Du cải nam trang thi đỗ
Trạng nguyên (7).
Đời Lê Trung Hưng, buổi đầu chỉ mở các
Chế khoa tại Thanh Hoa song song với các khoa Tiến sĩ của nhà Mạc ở Đông Kinh.
Sau khi diệt xong nhà Mạc thì việc học hành thi cử ở Đàng Ngoài lại được tổ
chức theo lệ cũ. Về sau, từ đời Bảo Thái
trở đi, đặt phép Huyện khảo để
lấy Thứ thông, chuyển lên hai Ty Thừa Hiến duyệt khảo lại để lấy Sảo thông, sĩ
tử phải nộp 5 tiền để trả phí tổn trường thi, gọi là tiền minh kinh. Sảo thông
đỗ tam trường thì gọi là Sảo thông Sinh đồ, đỗ tứ trường thì gọi là Nhất cử
Hương cống. Đến năm 1750, đời Lê Hiển Tông, Thự phủ Đỗ Thế Giai đặt lệ nộp 3
quan tiền, gọi là tiền thông kinh, thì được thi Hương không phải khảo hạch,
khiến nẩy sinh tệ đoan “sinh đồ ba quan”,
lái buôn không biết chữ cũng nộp tiền
rồi thuê người đi thi hộ, trẻ con 10 tuổi cũng
thi đỗ sinh đồ.
Ở Đàng Trong,
sau khi Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ Thuận Hóa năm 1558, qui chế học hành thi
cử thay đổi khác hẳn Đàng Ngoài. Đến năm
1775, chúa Trịnh đưa quân đánh chiếm Phú Xuân và năm sau ra lệnh cho Phạm Ngô
Cầu tổ chức thi Hương tại Thuận Hóa theo qui chế khoa cử Đàng Ngoài, nhưng chỉ
mới tiến hành khảo hạch ở huyện đã thấy sĩ tử không ai hưởng ứng. Tiếp đến,
quân Tây sơn kéo ra đánh chiếm Phú Xuân năm 1786, Đàng Trong loạn lạc kéo dài,
việc học hành thi cử bị đình đốn.
Nhà Tây Sơn chỉ chú trọng vũ công. Tuy
vậy, trong địa bàn cai trị của mình, Quang Trung biết trọng dụng các nho sĩ Bắc
Hà do khoa mục xuất thân. Năm 1789, mở khoa thi Tuấn tài ở Nghệ An, chỉ thi 2
kỳ: chế nghĩa và văn sách. Người thi đỗ gọi là Tuấn sĩ. Khoa này do La sơn Phu
tử làm Đề điệu, và bài thi thuần dùng tiếng Nôm. Đây là một tiến bộ lớn mặc dù
đề thi còn dùng Hán tự.
III. Qui chế thi cử chữ Nho dưới triều Nguyễn.
Việc thi cử chữ
Nho dưới triều Nguyễn có thể chia làm 3 giai đoạn:
-
Thời kỳ các chúa Nguyễn ở Đàng Trong;
-
Thời kỳ các vua Nguyễn trên toàn bộ đất nước thống
nhất;
-
Thời kỳ Pháp thuộc tại các xứ Bảo hộ Trung Bắc Kỳ.
Thời kỳ các chúa Nguyễn ở Đàng Trong.
Từ năm 1632, cứ
5 năm một lần, các chúa Nguyễn cho mở Xuân thiên Quận thí tại các dinh trấn,
thí sinh làm trong một
ngày một bài thơ, một bài văn,
người thi đỗ được gọi là Nhiêu học, được tuyển dụng làm Huấn đạo. Ngoài ra còn
có kỳ thi viết chữ tốt gọi là Hoa văn tự thể để chọn người làm thư lại ở các ty
Xá sai, Tướng thần lại và Lệnh sử. Cứ 9 năm một lần, các chúa Nguyễn cho mở Thu
vi Hội thí tại phủ chúa, thi trong 3 ngày, trãi qua 3 trường: trường 1 làm
3 bài
tứ lục, trường 2 làm
thơ
phú, trường 3 làm văn sách, người
trúng tuyển chia làm 3 hạng: hạng giáp gọi là Hương cống, bổ dụng làm Tri phủ,
Tri huyện, hạng ất gọi là Sinh đồ, bổ dụng làm Huấn đạo, hạng bính cũng gọi là
Sinh đồ, bổ dụng làm Lễ sinh. Về sau, năm 1646, Nguyễn Phước Lan cải gọi Thu vi
Hội thí là khoa Chính đồ, định lệ 6 năm một khoa, trúng tuyển hạng giáp thì gọi
là Giám sinh, còn các hạng ất, bính thì vẫn gọi là sinh đồ. Năm 1691, Nguyễn
Phước Chu lập Văn Miếu ở làng Triều sơn. Năm 1695, sau kỳ thi Chính đồ, Nguyễn
Phước Chu mở thêm tại sân phủ chúa 2 khoa mới là thi Văn thức và thi Tam ty, có
thể xem như là hình thức thi Đình đầu tiên ở Đàng Trong (8). Nguyễn Phước Khoát
định lại lệ 3 năm một khoa quận thí, và về sau bỏ việc thi ở quận, chỉ tổ chức
thi Hội nhưng tăng lên 4 trưòng: trường 1 làm 3 bài tứ lục, thi đỗ cho làm Nhiêu
học tuyển trường, trường 2 thi thơ phú, trường 3 làm 2 bài kinh nghĩa, thi đỗ
cho làm Nhiêu học trúng tuyển, trường 4 làm 1 bài văn sách, thi đỗ được gọi là
Hương cống, bổ dụng làm Tri phủ, Tri huyện, Huấn đạo (9). Nói chung, các chúa
Nguyễn không vụ hình thức, chỉ nhắm việc thực tiển là tuyển chọn người giỏi để
dùng. Thí dụ Nguyễn Phước Tần không mở một khoa Chính đồ nào cả, mà cũng không
lấy một người Nhiêu học. Ngược lại, chúa đã đặt ra khoa Thám phỏng, chỉ thi
trong một ngày, hỏi về việc binh, tình trạng quốc dân, việc vua Lê chúa Trịnh,
v.v., người trúng tuyển được bổ dụng vào làm việc ở các ty Xá sai, Tướng Thần
lại, hay Lệnh sử, là những tổ chức tương đương với các ty Đô, Thừa, Hiến ở Đàng
Ngoài.
Thời kỳ các vua Nguyễn.
Gia Long thống
nhất đất nước, dự tính cứ 3 năm một lần mở các khoa thi Hương, thi Hội, nhưng
mãi đến năm 1807 mới mở khoa thi Hương đầu tiên. Phép thi chia làm 4 trường:
trường 1 thi Kinh Truyện, trường 2 thi Chiếu Chế Biểu, trường 3 thi Thi Phú,
trường 4 thi Sách vấn. Đỗ trường trước mới được vào trường sau, đỗ 3 trường gọi
là Sinh đồ, đỗ cả 4 trường gọi là Hương cống. Lúc bấy giờ trong nước có 6
trường thi: Nghệ An, Thanh Hoa, Kinh Bắc, Sơn Nam, Sơn Tây và Hải Dương. Năm
sau 1808, Gia Long xây Văn miếu tại làng An ninh, gần Long Hồ, cách chùa Thiên
Mụ khoảng nửa kilômét. Khoa thi Huương tiếp theo, mở năm 1813, đặt thêm 3
trường thi Quảng Đức (Huế), Thăng Long (Hà Nội), và Gia Định (Sài Gòn), nhưng
lại bãi bỏ 2 trường Kinh Bắc và Sơn Tây. Sĩ tử hai nơi này hiệp thí ở
trườngThăng Long. Năm 1819, trường Quảng Đức cải gọi là trường Trực Lệ. Năm
1821, Minh Mạng năm thứ 2, mở ân khoa. Năm sau, 1822, mở Hội thí ân khoa. Đây
là khoa thi Hội đầu tiên của triều Nguyễn. Định lệ các Hương cống và Giám sinh
thì làm bài quyển mực, Thư lại và Đằng tả thì làm bài quyển son (4). Sau kỳ
Điện thí, những người trúng tuyển được phân làm 2 hạng: Tiến sĩ và Đồng Tiến sĩ
xuất thân, được ban áo mão, trâm, vải vóc, được đãi yến, và được cấp cờ, biển
vinh qui. Năm 1825, Minh Mạng thứ sáu, định lệ 3 năm mở khoa thi một lần, Hương
thí thi vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, Hội thí thi vào các năm Thìn Tuất, Sửu,
Mùi. Lại cải gọi Hương cống làm Cử nhân, Sinh đồ làm Tú tài. Sĩ tử muốn đi thi
phải qua kỳ khảo hạch ở Phủ Huyện do các quan Huấn đạo, Giáo thụ phụ trách. Người
học trò qua được khảo hạch thì gọi là Khóa sinh. Tiếp theo, anh Khóa còn phải trúng tuyển kỳ phúc
hạch tại tỉnh nhà do quan Đốc học chủ khảo nhiên hậu mới được gọi là Thí sinh,
có quyền nộp quyển đi thi Hương. Khoa thi Hương năm này, mỗi trường thi được
vua ban một tấm bài Phụng Chỉ, và một lá cờ Khâm Sai. Trường thi Trực Lệ được
đổi tên là trường thi Thừa Thiên (Trường Thừa), trường thi Thăng Long đổi tên
là trường thi Hà Nội (Trường Hà), trường thi Sơn Nam đổi tên là trường thi Nam
Định (Trường Nam). Trong khoa thi Hội lần này, (năm 1826), Phan Thanh Giản,
người An Thạnh, Vĩnh Bình, đỗ Đệ Tam giáp Tiến sĩ, là người Nam Kỳ đầu tiên đậu
đại khoa. Từ khoa Hội thí năm 1829, vẫn đời Minh Mạng, bài thi được chấm điểm
và phân hạng theo phân số: được 10 hay 9 phân là ưu hạng, được 8 hay 7 phân là
ưu thứ hạng, được 6 hay 5 phân là bình hạng, được 4 hay 3 phân là bình thứ
hạng, được 2 hay 1 phân là thứ hạng, không được 1 phân là liệt, tức là bị loại
ngay. Những người đỗ cả 3 kỳ và được 10 phân trở lên được sắp vào Chánh bảng để
vào Đình thí. Những người đỗ cả 3 kỳ với phân số từ 4 đến 9, và những người đỗ
được 2 kỳ nhưng được 10 phân trở lên thì được xếp vào Phó bảng. Phó bảng cũng
được kể là Đại khoa, nhưng không phải là hàng giáp đệ. Năm 1843, đời Thiệu Trị,
trường Thừa Thiên được kiến thiết bằng gạch ngói với quy mô lớn tại phường Ninh
Bắc để làm nơi thi Hương và thi Hội, và để làm mẫu cho các tỉnh xây cất lại
trường thi. Đến năm sau Hội thí (1844), định lệ cho các Giáo thụ và Huấn đạo do
Cử nhân xuất chính, và các Giám sinh và Tú tài xuất thân được dự Hội thí. Năm
1850, niên hiệu Tự Đức thứ 3, mở thêm trường thi Bình Định. Lại chia việc phê
điểm làm 6 hạng: ưu, ưu thứ, bình, bình thứ, thứ, thứ thứ, và định lệ trở lại
thi Hương thi Hội gồm 4 trường. Về Hương thí, đỗ trường 3 là Tú tài, đỗ trường
4 là Cử nhân. Về Hội thí, đỗ 4 trường thì được vào Đình thí. Nếu bài đối sách
được 4 phân trở lên thì đỗ giáp đệ. Nếu 3 phân trở xuống là Phó bảng. Cuối đời
Tự Đức, năm 1876, lại cải đổi chỉ thi 3 trường. Đến năm 1884, Kiến Phúc nguyên
niên, lại định lệ người nào trúng cả 3 trường mà quyển thi có ưu, bình thì cho
yết bảng ngay, số còn lại thì chia vi vào thi lại cả 3 trường trong 3 ngày để
phúc khảo. Lại định thêm lệ “nhất Cử tam Tú”, cứ một Cử nhân thì lấy thêm 3 Tú
tài.
Buổi đầu thời Pháp thuộc tại Bắc và Trung
Kỳ.
Người Pháp đánh
Gia Định năm 1859 và chiếm trọn Nam Kỳ năm 1867, từ đó việc học hành thi cử chữ
Nho ở xứ thuộc địa Nam Kỳ bị bãi bõ. Trên lãnh thổ 2 xứ bảo hộ Bắc Kỳ và Trung
Kỳ, sau hòa ước Patenôtre năm 1884, Nhà Nguyễn vẫn tiếp tục mở các khoa thi
Hương thi Hội theo thể lệ cũ. Tuy nhiên người Pháp dần dà đưa vào một số thay
đổi như có thêm môn nhiệm ý thi chữ Pháp (dịch Pháp văn ra quốc ngữ). Sự can
thiệp của người Pháp có phần mạnh mẽ và lộ liễu ở Bắc Kỳ hơn ở Trung Kỳ. Trường
thi Hà Nội bị bãi bỏ năm 1886, sĩ tử Hà Nội phải vào thi chung với Nam Định tại
trường mới được cải danh là trường thi Hà Nam. Tổng Trú sứ Paulin Vial gợi ý ra
đề mục trường 1 là “ Phép xã giao đối với bạn hữu và người ngoại quốc”, và đề
mục trường 3 là “Thí sinh nghĩ gì về đương triều và cuộc khởi nghĩa của Văn
thân?” để dọ dẫm dư luận sĩ tử Bắc Kỳ (10). Năm 1903, Thống sứ Bắc Kỳ Luce tư
cho Công sứ các tỉnh yêu cầu các Đốc học loại bớt thí sinh trong danh sách. Năm
1906, Thống sứ Groleau sức cho Đốc học các tỉnh, tùy tỉnh lớn tỉnh nhỏ, mỗi
tỉnh không được lấy quá 500, 600 người đi thi.Vụ này đã gây nên cuộc biểu tình
của hơn 2000 thí sinh trước cổng trường thi Hà Nam, và mào đầu cho phong trào
xuất dương du học. Đến năm 1907, Duy Tân nguyên niên, đặt thêm bộ Học ở Huế.
Việc thi cử trước đây thuộc Tân Hưng Ty bộ Lễ, từ nay thuộc bộ Học. Khoa thi
năm 1909 có cải cách lớn là ngoài Kinh Truyện, Bắc Nam Sử, Thi Phú, không còn
thi Chiếu Chế Biểu mà thi 2 đề Luận, một đề chữ Nho và một đề quốc ngữ. Điểm
phê từ 0 đến 20, được 10 điểm trở lên là trúng bảng. Nếu có tình nguyện thi chữ
Pháp thì thi thêm 1 trường riêng, cũng phê điểm từ 0 đến 20, nhưng chỉ lấy hàng
số lẻ các điểm thi trên 10 cộng chung vào sổ điểm các trường kia. Trường 1 và
trường 2 phải đủ 10 điểm trở lên mới được thi trường trên. Những quyển thi mà 3
trường được từ 40 điểm trở lên, cùng những quyển thi 3 trường được tối thiểu 30
điểm cộng thêm số lẻ của bài thi chữ Pháp được từ 40 điểm trở lên, thảy đều
được chấm đậu vào trường phúc hạch. Vào phúc hạch thì làm 1 đạo Văn sách, 1 bài
Phú và 1 bài Luận quốc ngữ. Được từ 7 điểm trở lên thì đỗ Cử Nhân. Tổng cộng
các trường được từ 30 đến 39 điểm thì được xếp vào hàng Tú tài để theo thứ tự
được lấy đỗ theo lệ nhất Cử tam Tú. Từ khoa thi này, sĩ tử phải không quá 50
tuổi mới được đi thi, ngoại trừ các hạng Tú tài xuất thân, Giám sinh, Tôn sinh,
Ấm sinh, không hạn chế tuổi. Đến năm 1912 thì hạn tuổi được đi thi giảm còn 40
tuổi trở xuống, và 2 môn Thi Phú bị đình bãi. Riêng trường thi Hà Nam thì chỉ
còn thi 3 trường với rất nhiều cải đổi mới: trường 1 thi Văn sách gồm các môn
Luân lý, Văn chương, Nam sử, Đông Dương Chính trị hay Nam triều Luật lệ, trường
2 thi quốc ngữ về Văn chương, Toán pháp, Sử Điạ và Cách trí, trường phúc hạch
thi Luận chữ Nho 1 đề và Luận quốc ngữ 1 đề. Năm 1915, niên hiệu Duy Tân thứ 9, môn Pháp văn trở
thành môn thi bắt buộc. Khoa Ất Mão năm 1915 này là khoa thi chữ Nho cuối cùng
ở Bắc Kỳ. Năm 1918, niên hiệu Khải Định thứ 3, tại trường thi Thừa Thiên có
thêm môn Toán Đo lường. Khoa Mậu Ngọ năm 1918 này là khoa thi chữ Nho cuối cùng
ở Trung Kỳ.
IV. Thập niên đăng hỏa.
Trước kia, người
Tàu truyền bá chữ Nho vào Giao Châu là để dân ta biết đọc biết viết mà giao
tiếp với họ, giúp họ trong công việc cai trị và khai hóa dân bản xứ. Dần dà
người Tàu mở mang việc học hành, tổ chức việc thi cử, để tuyển chọn người thừa
hành, giúp việc cho chính quyền đô hộ, và cả cho chính quốc. Ngoại trừ giới
tăng lữ học chữ Nho để đọc kinh đọc kệ, đối với những người khác, học chữ Nho là
để được tuyển dụng ra làm việc nhà nước. Kịp đến khi Giao Châu dựng cờ tự chủ
thì chữ Nho vẫn là văn tự chính thức, việc học hành thi cử vẫn na ná như trước
kia, vẫn ít nhiều mô phỏng khuôn mẩu của Trung Quốc, và tinh thần giới nho sĩ
thì trước sau như một, từ Lý Trần đến Lê Nguyễn, vẫn là ra sức mở mang tri thức
và trau dồi phẩm hạnh để thực hiện 3 mộng tưởng lớn trong đời: “ Đỗ Tiến sĩ,
Làm Thượng thư, và Đi Sứ”.
Mười năm đèn
sách quả đã chứa đựng không biết bao nhiêu là công tình. Công là công lao bản
thân dùi mài kinh sử, là công lao gia đình chạy tiền chạy gạo, là công lao thầy
học roi đòn dạy dỗ. Tình là tình nghĩa cha mẹ hy sinh lạc thú bản thân để nuôi
nấng, chăm sóc, khuyến khích con cái cố học thành tài, là tình nghĩa họ hàng,
làng nước tôn trọng người học trò hôm nay còn hàn vi nhưng mai kia có thể làm
rạng danh tông môn, hương đảng, là tình nghĩa người vợ tao khang biết xem nhẹ
tình chăn gối để thúc dục chồng thức khuya dậy sớm, nấu sử sôi kinh, ngõ hầu “mai kia chồng chiếm bảng vàng, võng anh đi
trước võng nàng theo sau”.
Tiến trình thập
niên đăng hỏa bắt đầu khi đứa trẻ lên 5, lên 7, bằng lễ Khai tâm tại gia hoặc
lễ Nhập môn ở trường học. Nếu đứa trẻ học vỡ lòng tại nhà với cha anh hay với
thầy đồ nuôi trong nhà thì trước hết phải ăn mặc chỉnh tề để làm lễ yết cáo
Thánh sư, lễ khấn cáo gia tiên, và lễ bái lạy thầy học, xong rồi bắt đầu buổi
học đầu tiên, thường là học thuộc lòng mấy chữ trong Tam tự kinh. Nếu đứa trẻ
theo học một trường tư thục của thầy đồ thì cha mẹ dắt con đến nhà thầy với một
mâm lễ trầu cau xôi gà để làm lễ Nhập môn. Nếu làng có Văn chỉ thì thầy đồ sẽ
cùng cha mẹ đứa trẻ đưa mâm lễ vật ra đấy để cho đứa trẻ bái yết Thánh sư, rồi
mới trở lại trường làm lễ bái sư, và cho đứa trẻ bắt đầu bài học vỡ lòng.
Chương trình học là chương trình ấu học
và tiểu tập. Sách học buổi đầu là Tam tự kinh, Ấu học ngũ ngôn thi. Tập
viết chữ thì khởi đầu tập đồ trên bảng gỗ bằng bút tre nhúng nước, tiếp đến
dùng bút lông tô mực theo chữ son viết sẵn trên giấy, rồi tập viết phóng, viết buông, viết chữ hàng đôi, hàng ba. Đến 7 tuổi học Sử, Truyện, Luận
ngữ. Đến 9, 10 tuổi học làm câu đối và thơ văn, và tập viết ám tả. Cậu học trò
nhỏ còn được rèn luyện phẩm hạnh, phép tắc, biết lẽ phải trái, biết kính trên
nhường dưới, thông suốt đạo tam cương, ngũ thường. Học giỏi thì được thưởng
giấy mực, bị phê liệt thì phải quét nhà, ăn roi vọt hoặc luồn khố.
Khi được từ 11
đến 14 tuổi, cậu bé theo chương trình
trung tập, vẫn tại trường thầy đồ trong làng, hay tại trường các quan Huấn
đạo, Giáo thụ ở phủ huyện. Sách học gồm Tứ Thư, Ngũ Kinh, Bắc sử, Nam sử, Bách
gia chư tử (11), Đường Tống bát đại gia (12). Hàng ngày đọc và nghe giảng nghĩa
sách, tập viết chữ hàng sáu, hàng tám. Hàng tuần học làm văn: đối thơ 7 chữ,
đối phú 8 chữ, kinh nghĩa, văn sách, chiếu, biểu. Học trò lấy đầu đề đem về nhà
làm bài, hôm sau nộp. Thầy chấm xong, lựa các đoạn hay, bài hay, đưa ra bình văn.
Khoảng 15, 16
tuổi trở lên, nếu học giỏi thì lên tỉnh theo chương trình đại tập ở trường quan Đốc học, hay các trường tư của
các quan cư tang hay hưu trí, để luyện thi Hương. Năm 1825, đời Minh Mạng, định
lệ khóa tập làm văn tiến hành hàng tháng ở nhà Học vào các ngày 3, 9, 17, 25,
chiếu theo đầu bài 4 kỳ thi Hương, có yết bảng để khuyến khích. Trước mỗi kỳ
thi Hương lại có tổ chức thi thử, làm bài ngay tại trường. Lúc này, người học
trò trẻ tuổi đã tạm đủ kiến thức nên được cho đi thi khảo. Trúng tuyển thi khảo
thì được gọi là Khóa sinh, được miễn sưu dịch và được đi thi hạch để ghi tên
vào danh sách những người có đủ khả năng thi Hương chuyển đệ về bộ Lễ. Trúng
tuyển thi hạch thì là Thí sinh, nhưng tùy theo tuổi tác vẫn được mọi người
chung quanh gọi là anh Khóa, thầy Khóa, hay ông Khóa, ngoại trừ người thi hạch
đỗ đầu thì được gọi là ông Đầu xứ.
Đến ngày Vua
xuống chiếu mở khoa thi, anh Khóa sửa soạn lều chõng lên đường. Hành trang gồm
có bộ gọng lều và cuộn vải sơn (hoặc giấy dầu) để căng mái che mưa nắng, cái
chõng tre và chiếc chiếu để ngồi làm bài, cái yên gỗ để kê quyển lên trên mà
viết, cái ống quyển để cất quyển thi, cái bầu be để chứa nước uống, cái tráp
sơn để đựng nghiên bút, giấy mực, các thứ lặt vặt như dao kéo, dùi nhọn và chỉ
giấy xe tẩm sáp để phòng khi phải đóng quyển mới, vài cây đèn sáp, mồi lửa bùi
nhùi, vàng mã và một ít thức ăn làm sẵn. Trước kỳ thi 3, 4 tuần, thí sinh phải
nộp cho quan Đốc học 3 quyển thi, trên mặt quyển có ghi rõ tên họ, niên canh,
quê quán, và cung khai tam đại. Nếu được vào phúc hạch thì quyển thứ tư sẽ đệ
nộp sau. Trước ngày lên đường, bà con họ hàng thường đến thăm và giúp đỡ tiền
lộ phí. Trừ những người may mắn ở gần trường thi, đa số sĩ tử phải đi xa, hoặc
đi bộ, hoặc đi thuyền, có khi cả nửa tháng trời mới tới nơi thi. Con em nhà
giàu đi thi có người nhà đi theo mang hộ lều chõng, con em nhà nghèo phải tự
mang lấy. Mỗi lần đi thi là mỗi lần tốn kém,“nhị
niên tử tam ngưu” (6), nào tiền
ăn, tiền nhà trọ, tiền đò giang, tiền thù tạc, kéo dài hơn cả tháng trời.
Trường thi gồm
có: Khu Thí sinh chia làm 4 vi giáp ất tả hữu, khoa nào quá đông thí sinh thì
mỗi vi lại chia thành 2 phân vi nhất nhì, chính giữa khu là nhà Thập đạo; Khu
Khảo quan chia làm Nội trường dành cho các Sơ khảo, Phúc khảo, Giám khảo, Giám
sát Ngự sử nội trường cùng các lại viên, và Ngoại trường dành cho Chánh Phó Chủ
khảo, Phân khảo cùng Giám sát Ngự sử ngoại trường và lại phòng; và Khu Đề tuyển
(12) nằm giữa Nội trường và Ngoại trường. Trước ngày thi 6, 7 hôm, quan Đốc học
chuyển quyển thi đến trường thi. Trước ngày thi 3, 4 hôm, các Khảo quan tiến
trường và ăn ở luôn trong trường cho đến khi thi cử xong xuôi. Đề tuyển ngoại
trường đóng dấu Diện lên mặt quyển thi, Đề tuyển nội trường đóng dấu Giáp phùng
lên giữa trang 2 và trang 3. Các Đề tuyển chia thí sinh ra làm 4 vi, đôn đốc
lại phòng đóng sổ ghi số hiệu các quyển thi, và rọc phách, rồi lập danh sách
thí sinh từng vi để kịp trước ngày thi 1 hôm treo bảng Yết danh cùng bảng
Trường quy (13) trước cửa mỗi vi.
Đến ngày thi, từ
đầu canh ba, sĩ tử tụ họp ở cửa trường để nghe điểm danh. Nghe gọi đến tên, thí
sinh dạ to rồi mang lều chiếu tiến vào cổng trường để lính kiểm soát, xong nhận
quyển và tiến vào vi tìm chỗ cắm lều ngồi làm bài thi. Đến trưa thì cầm quyển
lên nhà Thập đạo xin dấu Nhật trung. Nếu cánh quyển (quyển thi bị tì ố phải
thay quyển thi mới) thì phải mang theo cả quyển cũ lên nhà Thập đạo để xin đóng
dấu Giáp phùng vào quyển mới. Làm bài xong, đếm số tẩy xóa ghi vào khoản Cộng
quyển nội rồi đem nộp quyển cho Đề tuyển ở nhà Thậo đạo. Bấy giờ người thí sinh
mới dọn dẹp đồ đạc, nhổ lều ra về, chờ kết quả. Nếu trúng tuyển thì được vào
thi trường kế tiếp, mọi chuyện lại diễn tiến y như lần trước, chỉ duy số lượng
thí sinh thì giảm xuống hơn nửa phần. Nếu trót lọt cả 3 trường, nghĩa là tổng
số điểm từ 40 trở lên thì được vào phúc hạch (14). Trước ngày thi phúc hạch 1
hôm, thí sinh phải đến trường nộp 1 quyển thi mới cho Đề tuyển. Lúc này vào
được trường 4, thí sinh còn rất ít, mà khoa danh cũng đã gần kề, không Cử thì
cũng Tú.
Thí sinh vào
phúc hạch thì làm 1 đạo Văn sách, 1 bài Phú, và 1 bài Luận quốc ngữ. Được từ 7
điểm trở lên thì đỗ Cữ Nhân. Thí sinh vào phúc hạch không đỗ được Cử Nhân, và
thí sinh đã thi 3 trường có tổng số điểm từ 30 đến 39, tất cả được xếp vào hàng
Tú Tài để theo thứ tự lấy đỗ theo lệ nhất
Cử tam Tú. Việc công bố danh tánh các ông Cử Nhân tân khoa được diễn ra ở
cổng trước trường thi và gọi là lễ xướng danh. Sau đó, trường cho yết bảng Cử
Nhân (Hổ bảng) ở cửa vi Giáp và bảng Tú Tài (Mai bảng) ở cửa vi Ất. Người đỗ
đầu cử nhân được dân
chúng gọi là Thủ khoa hoặc Giải nguyên. Các Cử
Nhân được ân tứ mũ áo, vải vóc, tiền bạc, và được ban yến Lộc minh. Trước khi
dự tiệc, các vị tân khoa làm lễ bái vọng nhà vua và lễ bái tạ các khảo quan tại
Thí viện, hoặc tại Hành cung, hoặc tại dinh Tổng Đốc. Sau đó, mỗi vị được quan
Tổng Đốc tặng 1 cái lọng xanh để vinh quy bái tổ. Về tới bản quán, vị tân khoa
vào chào quan huyện sở tại rồi được hương lý và thân thuộc rước về làng làm lễ
bái tổ ở từ đường, bái tạ Thành hoàng và Thánh sư ở đình miếu, và dự tiệc khao
vọng. Khao vọng là chuyện không thể thiếu. Tục ngữ có câu: “Vô vọng bất thành quan”.Vị tân khoa được mọi người trọng vọng gọi
là quan Cử. Thế là anh Khóa đã trở thành ông Quan, cho bõ công tình mười năm
đèn sách, và khỏi phụ lòng kỳ vọng của người vợ tấm cám đã “chẳng tham ruộng cả ao liền, tham vì cái bút cái nghiên anh đồ”.
V. Tiến vi Quan, thoái vi Sư.
Quan Cử có thể
tiếp tục dùi mài kinh sử để năm sau lều chõng đi thi Hội, hoặc nằm chờ sắc chỉ
bổ dụng làm quan, thông thường là Huấn đạo, Giáo thụ ở phủ huyện, hay chức Hành
tẩu ở Lục Bộ, vào hàng thất, bát phẩm, với hàm Hàn Lâm viện Đãi Chiếu, hoặc
Cung Phụng (15). Trừ những trường hợp đặc biệt, hoạn lộ của người đỗ Cử nhân
thường được gọi là Hương khoa Huyện lệnh,
nghĩa là chỉ làm đến Tri huyện Tri phủ là cùng. Phải đi thi Hội thi Đình để đậu
Đại khoa, nhiên hậu mới làm tới Đại thần.
Trước kia, vào
đời Lê, những người đỗ Tiến sĩ được chia làm Cập đệ, Chánh bảng, và Phụ bảng.
Đến năm 1484, Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa cải gọi là Tiến sĩ Cập đệ,
Chánh bảng là Tiến sĩ Xuất thân, và Phụ bảng là Đồng Tiến sĩ Xuất thân. Sang
triều Nguyễn, mãi đến năm 1822, đời Minh Mạng mới mở khoa thi Hội đầu tiên, và
sau kỳ Điện thí, vì là ân khoa, những người trúng tuyển chỉ còn được phân làm 2
hạng Tiến sĩ và Đồng Tiến sĩ xuất thân. Từ khoa Hội thí năm 1829, bài thi Hội
được chấm theo phân số tính từ 1 đến 10. Không được 1 phân là liệt, bị loại
ngay. Đỗ cả 3 kỳ với tổng số điểm từ
10 phân trở lên được xếp vào
Chánh bảng. Đỗ cả 3 kỳ với phân số từ 4 đến 9, và đỗ 2 kỳ nhưng phân số được 10
phân trở lên thì được xếp vào Phó bảng, cũng được vào Đình thí, nhưng không
phải là hàng Giáp đệ (16). Trước kia, chỉ có Cử nhân chưa ra làm quan mới được
đi thi Hội. Từ khoa Hội thí năm 1884, đời Thiệu Trị, có định lệ cho Giáo thụ và
Huấn đạo do Cử nhân xuất chính, và các Giám sinh và Tú tài xuất thân được dự
thi Hội. Từ năm 1850, đời Tự Đức, định lại lệ thi Hội 4 trường, đỗ cả 4 trường
thì được vào Đình thí, nếu bài Đối sách được 4 phân trở lên thì đỗ Giáp đệ,
được 3 phân trở xuống là Phó bảng.
Như vậy, rõ ràng
có sự khác biệt giữa Phụ bảng đời Lê với Phó bảng đời Nguyễn. Phụ bảng đời Lê
vẫn thuộc hàng Giáp đệ. Phó bảng đời Nguyễn thời Minh Mạng là đỗ vớt Hội thí,
tuy được vào thi Đình, nhưng được xếp vào bảng riêng, không được truyền lô,
không dự vào hàng Giáp đệ. Phó bảng đời Nguyễn cuối triều Tự Đức được quyết
định trong kỳ thi Đình. Lại còn có vấn đề nhập nhằng trong ngôn ngữ dân gian về
danh vị “quan Bảng, cụ Bảng”. Quan
Bảng, Cụ Bảng đời Nguyễn là Phó bảng chứ không phải là Bảng nhãn đời Trần và Lê
sơ. Ngoài ra còn có sự khác biệt giữa “quan
nghè” của miền Bắc với “thầy nghè”
của vùng Huế. Quan nghè là người đỗ Tiến sĩ. Thầy nghè là Thừa phái ở Lục Bộ và
phủ huyện. Người đỗ Đại khoa sau khi vinh quy bái tổ là được bổ dụng ngay, Phó
bảng đi Tri huyện, hàng lục phẩm, Tiến sĩ đi Tri phủ, hàng ngũ phẩm, rồi từ đấy
hoạn lộ thênh thang, thường thường lên đến ngôi vị Đại thần đứng đầu một địa
phương (Tổng đốc) hay lương đống ở chốn triều miếu (Thượng thư).
Nhưng tiến trình
sự nghiệp của người theo học đạo Nho không phải duy nhất chỉ có mỗi một hướng
“tiến vi quan”. Thật vậy, tôn chỉ của đạo Nho không phải giản đơn là gắng học
để thi đỗ ra làm quan (17), mà chủ yếu là
học tập
đạo lý Thánh Hiền để rèn luyện
bản thân nên người vừa có kiến thức, vừa có đạo đức, để “tùy thời xuất xử”. Gặp
đời thịnh trị, lương tể minh quân, người theo học đạo Nho ra tay kinh bang tế
thế, giúp vua trị nước, biết xem nhẹ quyền lợi riêng tư để dốc lòng chăm lo
phúc lợi đại chúng. Nhà Nho hiển đạt “biết
lo trước cái lo của thiên hạ, và chỉ vui sau cái vui của thiên hạ” (tiên
thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Gặp đời suy đốn, tôi
nịnh vua hèn, người theo học đạo Nho “thoái vi sư”, nghĩa là lui về ở ẩn, cam
phận hàn nho, mở trường dạy học, rèn luyện môn đồ vun trồng nghĩa khí sĩ phu,
giữ gìn tiết tháo người quân tử, biết tôn trọng thầy, biết hiếu kính cha mẹ,
biết phép tắc lễ nghi, biết trước khi học văn phải lo học lễ, không xu phụ kẻ
quyền thế, không ruồng rẫy vợ tao khang, không bỏ rơi bạn nối khố thuở hàn vi,
và nhất là luôn luôn giữ mình theo chính đạo,“giàu sang không hoang dâm, nghèo hèn không đổi chí, uy vũ không chịu
khuất” (phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất).
Tiến vi quan có
nghĩa là ra làm việc với triều đình, thụ hưởng ơn vua lộc nước. Thoái vi sư là
lui về mở trường dạy học trò, đứng ngoài hệ thống triều chính. Bởi vậy, những
vị học quan phụ trách việc dạy học trò như Huấn đạo, Giáo thụ, Đốc học, Tư
nghiệp, Tế tửu, Phụ đạo, vẫn là những vị tiến vi quan. Mặt khác, những vị thoái
vi sư không nhất thiết là những ông quan từ nhiệm, mà bao gồm cả những ông quan
hưu trí, cư tang, những người học giỏi nhưng ở ẩn không đi thi, và những người
lận đận trường ốc. Có thể kể một vài vị thoái vi sư nổi tiếng: cáo quan như Chu
Văn An đời Trần, cáo lão như Nguyễn Bỉnh Khiêm đời Mạc, ẩn dật như La sơn phu
tử đời Tây sơn, hưu trí như Nguyễn Khuyến, cư tang như Nguyễn Đình Chiểu, lận
đận trường ốc như Trần Tế Xương đời Nguyễn. Ngoại trừ các vị Khoa bảng mở các
buổi bình văn theo chương trình đại tập, các vị thoái vi sư mở lớp dạy học trò
được người đời gọi là Thầy Đồ.
Thầy Đồ ngồi dạy
học tại tư gia các phú hộ, được nuôi cơm và cung ứng quần áo, hoặc có thể mở
trường tư tại nhà riêng. Thầy Đồ có thể có cùng lúc một số học trò có trình độ
khác nhau: học vỡ lòng, học chương trình ấu học, tiểu tập, hoặc trung tập. Thầy
Đồ thường chọn trong số học trò theo học một người lớn tuổi và học khá nhất làm
Trưởng Tràng, giúp đỡ Thầy Đồ trong việc trông nom kềm cặp các học trò học vỡ
lòng hoặc học kém. Thầy Đồ nào cũng có một cây roi mây dài để phạt học
trò. Bổng lộc của Thầy Đồ rất
khiêm tốn. Tiền học mỗi học trò trả cho Thầy Đồ mỗi năm chỉ 4, 5 quan tiền,
ngày tư ngày Tết thì tùy hỉ, con gà, dĩa xôi, chiếc bánh, be rượu, hậu bạc thế
nào cũng xong, chỉ cốt đủ lễ nghĩa. Bởi vậy, Thầy Đồ thường kiêm thêm nghề bốc
thuốc, và viết mướn đối liễn. Thầy Đồ nuôi nổi
thân mình đã là may, việc con
cái, nhà cửa đều trút hết lên vai bà Đồ. Tuy nghèo nhưng Thầy Đồ rất mực quan
tâm tới việc giữ gìn phẩm hạnh, vừa để xiển dương đạo lý Thánh Hiền, vừa để làm
mẩu mực cho học trò noi theo, vì vậy, Thầy Đồ rất được mọi người quý trọng.
VI. Kết Luận.
Trên tiến trình
sự nghiệp của người học chữ Nho trong xã hội phong kiến thời trước, Thầy Đồ là
vị trí trung gian giữa Anh Khóa và Ông Quan. Lúc còn trẻ, Anh Khóa “niên thiếu
công danh” thi đỗ, tức khắc trở thành Ông Quan. Anh Khóa trong lúc hăm hở dùi
mài kinh sử để tiến vi quan đã có lúc tạm làm Thầy Đồ. Lúc lớn tuổi, thi mãi
không đỗ, Anh Khóa trở thành Ông Khóa “lạc tri thiên mệnh” (vui biết mệnh
trời), cam lòng thoái vi sư, tiếp tục làm Thầy Đồ. Ông Quan rong ruỗi trên hoạn
lộ, gặp phải thời thế không thuận lợi, hoặc giả đến lúc lớn tuổi, ngựa nản chân
bon, bèn quyết chí thoái vi sư, cáo quan lui về dạy học, tuy không ai gọi là
Thầy Đồ, nhưng trong thực tế đúng là Thầy Đồ. Thành thử, Anh Khóa, Thầy Đồ, Ông
Quan, cả ba tạo thành cái thế chân vạc thành phần của một giai cấp xã hội gọi
là sĩ phu hay kẻ sĩ. Kẻ sĩ đứng đầu tứ dân trong xã hội cũ. Ở chốn triều miếu, kẻ
sĩ là chính cương chính sách, là mưu lược trị quốc an dân. Ở nơi hương đảng, kẻ
sĩ là mẩu mực đạo đức luân thường, là ngọn đuốc soi sáng chính đạo và hướng dẫn
công luận. Kẻ sĩ được từ Vua đến Dân quý trọng và nghe lời. Được vậy là vì kẻ
sĩ theo học đạo Nho. Kẻ sĩ là nhà Nho, chứ không giản đơn chỉ là người được đào
tạo để ra làm quan. Cho dù là hàn nho, hiển nho, hay ẩn nho, nhà Nho là người
theo học đạo Thánh Hiền từ tuổi ấu thơ, và suốt đời chăm chăm chú chú xiển
dương và truyền bá cái tinh hoa trong sách vở Thánh Hiền.
Ngày nay, nhân
loại đã bước qua khỏi thời kỳ phong kiến nông nghiệp, nhà Nho trở thành lỗi
thời. Tuy vậy, nhắc lại vài điểm chính yếu của tổ chức học hành thi cử chữ Nho
thời trước cũng là một việc hay, bởi lẽ trong vô số những điều mà người hôm nay
trích dẫn ra để phê phán người xưa vẫn có rất nhiều điều có thể bổ khuyết cho
việc đào luyện tư cách con người và hoàn thiện cấu trúc xã hội hôm nay và ngày
mai.
Tháng
tư, 2004
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Chú giải:
1.
Lý Tế Xuyên. Việt Điện U Linh Tập. Bản in lại từ báo
Nhân Dân Điện tử ngày 14/04/2002.
2.
Nguyễn Thị Chân Quỳnh. Khoa Cử Việt Nam. An Tiêm
xuất bản. Paris 2002.
3.
Lê Tắc. An Nam Chí Lược. Ủy Ban Phiên dịch Sử liệu Việt
Nam,
Viện Đại Học Huế, 1961.
4.
Phạm Đình Toái và Cao Xuân Dục. Quốc Triều Hương Khoa
Lục. Bản dịch của Hà Mai Phương, Mai Hiên xuất bản, Santa Clara, CA, 1980.
5.
Minh Vũ Hồ
Văn Châm. Vụ án văn học Lệ Chi Viên. Tập san Định Hướng số 27, Mùa Hè 2001.
Trung tâm Văn hóa Nguyễn Trường Tộ, 13G rue de l’Ill, 67116 Reichstett, France.
6.
Vũ Phương Đề. Công Dư Tiệp Ký. Bản dịch của Tô Nam
Nguyễn Đình Diệm, Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn 1961 & 1962.
7.
Nguyễn Thị Chân Quỳnh. Lối Xưa Xe Ngựa. An Tiêm xuất
bản. Paris
1995.
8.
Trần Gia Phụng. Thi cử tại Huế trước thời Quốc Học.
Giai phẩm Xuân Giáp Thân 2004 Quốc Học-Đồng Khánh Bắc California, CA, USA.
9.
Lê Trọng Ngoạn, Ngô Văn Ban, Nguyễn Công Lý. Lược Khảo
và Tra Cưú về Học chế - Quan chế ở Việt Nam từ 1945 về trước. Văn Hóa Thông
Tin, Hà Nội 1991.
10.
Vial Paulin. Nos premières années au Tonkin.
Voiron 1889.
11.
Tứ Thư là Đại Học, Luận Ngữ, Trung Dung, Mạnh Tử.
Ngũ Kinh là Dịch, Lễ, Thi, Thư,
Xuân Thu.
Bắc sử là sử Trung Quốc, Nam
sử là sử nước ta.
Bách gia chư
tử là gọi chung các học giả, triết gia liên hệ đến đời sống chính trị và văn
hóa Trung Quốc ngày trước: Mặc Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử, Lý Tư, Dương Tử, Lão
Tử, Trang Tử.
Đường Tống bát
đại gia là Hàn Dũ, Liễu Tôn Nguyên đời Đường; Âu Dương Tu, Vương An Thạch, Tô
Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Tăng Củng đời Tống.
12. Đề tuyển, còn gọi là
Đề điệu, thời Lê và Nguyễn sơ, là Chánh khảo. Từ năm 1828, đặt thêm các chức
Chánh Phó Chủ khảo, Đề tuyển chỉ phụ trách việc lập danh sách thí sinh, ghi số
hiệu, rọc phách, phát quyển, thu quyển, chứ không dự vào việc chấm thi.
13. Trường quy là những
luật lệ thi cử mà thí sinh phạm phải thì bị đánh hỏng và nhiều khi còn bị tù
tội: kỵ húy, khiếm tị, khiếm trang, khiếm đài, khiếm cung, bất túc, bất cập,
duệ bạch, bạch tự, di tự, đồ bất thành tự, tì ố, dấu nhật trung, dấu giáp
phùng, thiệp tích, cộng quyển nội, ngoại hàm.
14. Căn cứ vào thể lệ
cải cách của khoa thi năm 1909, việc thi cử bắt đầu thuộc thẩm quyền bộ Học.
Trước năm 1907, Duy Tân nguyên niên, là năm lập thêm bộ Học, việc thi cử do Tân
Hưng Ty bộ Lễ đảm trách.
15. Quan chế nhà Nguyễn
phân biệt rõ ràng chức, tước, phẩm, hàm. Thí dụ:
Chức: Huấn đạo,
Tri huyện, Lãnh binh, Án sát, Bố chính, Tiễu phủ sứ, Tổng đốc, Đô thống, Ngự
sử, Tế tửu, Thượng thư v.v.
Tước: Vương, Công
(Quốc công, Quận công, Huyện công), Hầu, Bá, Tử, Nam.
Phẩm: Từ Cửu phẩm
đến Chánh Nhất phẩm, chia ra Văn giai và Võ giai.
Hàm: Đãi chiếu,
Cung Phụng, Biên tu, Tu soạn, Thị độc, Thị giảng, Hồng lô tự khanh, Thái thường
tự khanh, Hiệp tá, Đông các, Võ hiển, Văn minh, Cần chánh v.v.
16.
Giáp đệ là Đệ nhất giáp, Đệ nhị giáp (còn gọi là Hoàng
giáp), và Đệ tam giáp. Triều Nguyễn không lấy Đệ nhất giáp đệ nhất danh, chỉ có
Đệ nhất giáp đệ nhị danh và Đệ nhất giáp đệ tam danh.
17.
Nguyễn Gia
Kiểng. Tổ Quốc Ăn Năn, Tác giả Xuất bản, Paris
2001. Nguyễn Gia Kiểng đã nặng lời khi đề cập đến thân phận kẻ sĩ vì lẫn lộn 士 (sĩ trong kẻ sĩ) với 仕 (sĩ là người làm quan) được viết có thêm bộ nhân đứng.
No comments:
Post a Comment