Tang lễ cố hoạ sĩ Thái Tuấn chắc chắn sẽ có rất nhiều “anh em cũ” đến tiễn đưa “lão làng” về nơi an nghỉ cuối cùng. Nguyễn Nghiệp Nhượng nói với tôi như thế trước khi tôi từ Lộc Ninh về Sài Gòn .Tôi hiểu “anh em cũ” có nghĩa là những anh em hoạt động trong lãnh vực văn học nghệ thuật trước năm 1975 ở miền Nam, chứ chẳng riêng gì ở Sài Gòn. Hoạ sĩ Thái Tuấn đã trở thành một trong số vài nghệ sĩ nhiều tuổi nhất còn sống ở thành phố này. Ông trở thành “cây đại thụ”, cũng như những hàng cây cổ thụ mà từ khi những người Bắc di cư vào Nam năm1954, đã nhìn thấy trên những con đường đẹp nhất “đô thành” thời bấy giờ.
Xin đọc tiếp bài của Văn Quang: Những người “anh em cũ” trong tang lễ cố Họa Sĩ Thái Tuấn
Vào
những ngày cuối năm, có hai tin vui về hội hoạ. Một ông ở bên Tây về
Việt Nam triển lãm. Còn một ông ở Việt Nam lại đi Mỹ triển lãm.
Ông thứ nhất chính là lão hoạ sĩ Thái Tuấn, năm nay 88 tuổi rồi, ông đã di chuyển sang Paris từ sau năm 1975. Giữa năm nay, ông lừng lững trở về Việt Nam, và như tôi đã có dịp tường trình với bạn đọc trong một số trước, ông “quyết tâm” sáng tác để có thể ra mắt những tác phẩm mới nhất vào dịp cuối năm này. Ông đã đạt được ước mong đó. Triển lãm Thái Tuấn được mang tên “Về Nguồn”, từ ngày 9 đến 21 tháng 12 -2006, tại Phòng tranh Tự Do đường Hồ Tùng Mậu Sài Gòn.
Ông thứ nhất chính là lão hoạ sĩ Thái Tuấn, năm nay 88 tuổi rồi, ông đã di chuyển sang Paris từ sau năm 1975. Giữa năm nay, ông lừng lững trở về Việt Nam, và như tôi đã có dịp tường trình với bạn đọc trong một số trước, ông “quyết tâm” sáng tác để có thể ra mắt những tác phẩm mới nhất vào dịp cuối năm này. Ông đã đạt được ước mong đó. Triển lãm Thái Tuấn được mang tên “Về Nguồn”, từ ngày 9 đến 21 tháng 12 -2006, tại Phòng tranh Tự Do đường Hồ Tùng Mậu Sài Gòn.
Xin đọc tiếp bài của Nhà Văn Văn Quang: Triển Lãm Tranh Thái Tuấn
Thái Tuấn tên thật là Nguyễn Xuân Công,
sinh ngày 11-9-1918 tại phố Hàng Bông Thợ Nhuộm, Hà Nội – trong một gia
đình công chức khá giả – đồng tuế và đồng môn với họa sĩ Nguyễn Tư
Nghiêm. Anh có vào học trường Mỹ Nghệ Gia Định, và theo lớp dự bị tại
trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội, cùng khóa với Phan Tại, Đặng thế Phong,
khoảng 1938-1940, rồi bỏ dở.
Thời
chiến tranh chống Pháp, Thái Tuấn về sống ở quê ngoại Thanh Hóa, vẽ
tranh cổ động, quảng cáo và quan hệ với nhiều nhà văn kháng chiến như
Thanh Châu, Quang Dũng, Hồ Dzếnh, Nguyễn Tuân. Sau hiệp định Genève
1954, anh di cư thẳng từ Thanh Hóa vào Sài Gòn, sống vào nghề vẽ quảng
cáo và trang trí. Mãi đến khoảng 1956-1957 anh mới thật sự vẽ tranh sơn
dầu nghệ thuật và dùng bút danh Thái Tuấn. Cùng với các họa sĩ di cư
khác : Ngọc Dũng, Duy Thanh, Tạ Tỵ, Thái Tuấn đã góp phần xây dựng nền
hội họa hiện đại tại Sài Gòn, được xem như có tham vọng làm thủ đô một
nền văn hóa mới. Bốn họa sĩ nói trên đều là nhà văn, nhà thơ ; riêng
Thái Tuấn thường viết lý luận về hội họa và mỹ thuật trên các báo Sáng
Tạo, Bách Khoa, và Văn, thịnh hành lúc đó ; bài viết của anh ít tính
cách kỹ thuật và chuyên môn, nên nhẹ nhàng, cởi mở và phổ quát, giúp
nhiều độc giả làm quen với hội họa, là một ngành nghệ thuật mới đối với
đại chúng. Những bài viết kết hợp với tác phẩm hội họa đẹp và dễ hiểu,
tạo cho Thái Tuấn một uy tín : anh tham gia hội đồng giám khảo ở nhiều
giải thưởng và phòng tranh. Những cuộc triển lãm cá nhân 1958, 1970,
1973 được dư luận đánh giá cao – về nghệ thuật và thương mãi.
Thái Tuấn đến với sơn dầu ở tuổi bốn mươi, nên tranh anh ít sắc cạnh, khai phá, mà giàu chất hoài niệm và tính văn học, tạo không gian thoáng rộng, u hoài, thi vị. Đề tài, ưu tiên là phụ nữ trong nhan sắc, dáng dấp, cử chỉ, y phục thuần túy Việt Nam trên nền màu sắc dịu nhẹ, dung dị mà tế nhị.
Nhan sắc ở đây chủ yếu không
phải chỉ là nữ sắc mà là một thoáng đẹp giữa trần gian. Thái Tuấn vẽ nét
đẹp của phụ nữ hơn là phụ nữ đẹp, người đàn bà hóa thân làm vẻ đẹp
trong tranh, diễm ảo mà hư ảo, một thoáng hồng nhan, như một lời thơ.
Họa sĩ Đinh Cường, tâm giao và thâm giao với anh từ non nửa thế kỷ, đã
có lần nhận xét Thái Tuấn biến bức tranh thành một cấu trúc tiềm ẩn (1).
Anh chỉ vẽ tiếng hát chứ không vẽ người mẫu, mà vẫn nhìn ra (ca sĩ) ;
anh thường tâm sự : vẽ người mà không vẽ người. Vẽ như không vẽ mới
đã...
Vẽ phụ nữ, Thái Tuấn quan
tâm đến mái tóc, đôi khi mái tóc vận hành cấu trúc bức tranh, như bức
Cội Nguồn, 1970 ; nhưng mái tóc trong tranh còn là một trời thu tạnh mơ
say hương nồng. Anh có bức chân dung thiếu nữ, 1964, đặt tên bằng tiếng
Pháp « Tes Yeux » (Mắt Em) , nhắc câu thơ mắt em là một dòng sông ; 1974
bức Bông Hồng Bạch, là hồn của bông hường trong hơi phiêu bạt, như một
lẵng hoa vắng cả bông hoa / un bouquet absent de fleurs, theo một ý của
Mallarmé.
Đến với hội họa ở tuổi
bốn mươi, trải qua nhiều kinh nghiệm văn chương, Thái Tuấn để lại nhiều
họa phẩm phảng phất chất văn học – có khi là một bài hát, như Dư Âm, hay
Dòng sông cũ (vẫn xuôi niềm thương… )
Tiếng
Pháp gọi họa sĩ làartiste-peintre ; ở Thái Tuấn, chất artiste nhiều hơn
chất peintre, anh là nghệ sĩ hơn là họa nhân, anh là thi sĩ vẽ tranh,
gọi anh là họa sĩ - thi nhân, như một Vương Duy thời Đường, có lẽ đúng.
Trong mỗi họa sĩ, có một nghệ sĩ và một nghệ nhân : nghệ nhân lấy bức
tranh làm đối tượng, nghệ sĩ lấy Cái Đẹp làm cứu cánh. Mà chữ Đẹp viết
hoa là cõi Vô Cùng. Từ đó mỗi bức tranh Thái Tuấn dù đã hoàn tất và toàn
bích, vẫn còn, vẫn là nỗi chờ mong – thiếu vắng. Đó là cách đọc những
khoảng mông mênh trong tranh Thái Tuấn, những trời thu xanh ngắt, quạnh
vắng chiều sông, nắng chia nửa bãi, để mộng tàn lây, nhớ nhà châm điếu
thuốc… một không gian tư lự, u hoài và mơ ước trong mùa xuân chưa đi,
mùa thu chưa đến. Đời Thái Tuấn là một bức tranh duy nhất và dở dang. Vẽ
hoài mãi vẫn chưa xong một vạt trăng tơ, một tà nắng lụa.
Giới
phê bình thường nhận xét : tranh hiện đại, tây phương của Thái Tuấn vẫn
giàu chất Á Đông và dân tộc. Thật ra anh không mấy chủ tâm vào truyền
thống, trường phái hay dân tộc tính, thậm chí trong thời kỳ sáng tác dồi
dào nhất, những năm 1960-1970, anh còn hờ hững với dân tộc, định hình
trong biên giới và lịch sử. Sau này, 1984, ra nước ngoài, ở tuổi xế
chiều, anh mới hoài vọng về cảnh nông thôn và nông dân Bắc Bộ hồi đầu
thế kỷ trước. Và đề tài quê hương mới rõ nét như một ám ảnh.
Ngày
nay nhiều người đòi hỏi bản sắc dân tộc trong nghệ thuật, với những
luận điệu có khi thô sơ. Để lý luận được khách quan, ta thử đối chiếu
với một đề tài tương tợ : nghệ thuật và tôn giáo. Nhà văn công giáo
thuần thành Jacques Maritain trong sách Nghệ Thuật và Kinh Viện đã nhắc
nhở các nghệ sĩ, đại khái : nếu anh dùng nghệ thuật để phụng vụ đức tin,
hay dùng tín ngưỡng để phục vụ nghệ thuật, thì hoặc là anh làm hỏng
tranh, hoặc là anh làm rối đạo. Chuyển lý luận ấy sang chuyện dân tộc,
cũng vậy thôi. Maritain càng nói rõ : trên lý thuyết nghệ thuật là siêu
thời gian và siêu không gian, supra tempus, supra locum.(2) Nhưng trong
thực tế, nghệ thuật do đề tài và cội rễ, thuộc một thời đại và một xứ
sở. Những tác phẩm toàn cầu nhất, nhân đạo nhất đều mang rõ rệt dấu ấn
của tổ quốc.
Về Thái Tuấn, Đinh Cường còn lưu ý: anh là người ngoan đạo nhưng không thấy anh đi nhà thờ. Màu sắc dân tộc e cũng cùng một cội nguồn, là những tình cảm đã nhập vào anh, ẩn sâu trong tiềm thức. Khi vẽ tự động ra.
Do đó mà Thái Tuấn vẽ cái gì rồi nó cũng ra dân tộc; vì suốt đời anh chỉ vẽ thuần một giấc mơ. Con người làm chủ, kiểm soát, điều khiển được tư tưởng, thậm chí tình cảm, nhưng không ai làm chủ được giấc mơ. Giấc mơ là cái gì không thể chia chác, và cũng không thể tái lập. Nhưng dường như các nghệ sĩ có khả năng sống lại, và làm sống lại trong một bức tranh.
Nếu ai cho tôi một từ, chỉ một từ thôi trong tiếng Việt để mô tả tranh Thái Tuấn, tôi sẽ xin chữ « thơ mộng », thơ của tuổi thơ và mộng làm bươm bướm. Nếu là tiếng hán việt, tôi sẽ dùng chữ « hoài vọng » ; hoài những bến xuân xưa và vọng về Miền Đẹp bồng đảo xa khơi.
Tranh
Thái Tuấn là miền, là niềm an tịnh vô biên. Mỗi bức tranh Thái Tuấn là
một tâm cảnh dạt dào tâm cảm, một thời khắc im lặng dặt dìu âm hưởng.
Nhưng hôm nay, chiều nay, giờ này , niềm lặng im bổng òa vỡ thành tiếng khóc
Đặng Tiến
Orléans, 20/10/2005, viết lại 26-9-2007
Ghi chú:
(1) Đinh Cường, Thái Tuấn Cội Nguồn, báo Ngày Nay (Mỹ) số 354, ngày 01/11/1996.
(2)Jacques
Maritain, Art et Scholastique, báo Les Lettres, tháng 9-10, 1919, in
lại 1935, trang 115 va 130, nxb Louis Rougart, Paris
Thư tịch:
Thái Tuấn, Câu Chuyện Hội Họa, nxb Cảo Thơm, 1967, Sài Gòn.
Thái
Tuấn, Tuyển Tập Tranh và tiểu luận, nxb Vaala, 1996, California. (Có
phụ lục phần phê bình, giới thiệu của nhiều tác giả khác).
Thái Tuấn, Nguồn Mỹ Cảm, tạp chí Văn, số 93, 1967, Sài Gòn.
Thái Tuấn, trả lời phỏng vấn Huỳnh Hữu Ủy, tạp chí Văn, số 199, 1972, Sài Gòn.
Huỳnh Hữu Ủy, Bóng dáng Thái Tuấn giữa nền nghệ thuật hiện đại, tạp chí Thế Kỷ 21, số Xuân Bính Tý, 1996, California.
Phan thị Đỗ Quyên : Xem tuyển tập tranh và tiểu luận Thái Tuấn, tạp chí Thế Kỷ 21, số 91, tháng 11/1996, California.
Thiếu Nữ 1993 Thiếu Nữ 1995
Orleans 1996
Tự Họa 1994
No comments:
Post a Comment