Thursday, June 23, 2011

LƯU HIỂU BA & TÁC PHẨM




Ấn bản tiếng Pháp: La Philosophie du porc et autres essais.
Tác giả: Liu Xiaobo – Nhà xuất bản Gallimard ấn hành năm 2011

Lưu Hiểu Ba là một nhân vật rất nổi danh trên thế giới ngày nay, đặc biệt kể từ lúc ông được cấp phát giải thưởng Nobel Hòa bình năm 2010 vừa qua. Và cũng giống như trường hợp của bà Aung San Suu Ky người Miến Điện và của nhà bác học Andrei Sakharov người Nga trước đây vì bị chính quyền nước mình ngăn cản, nên đã không thể có mặt trong buổi lễ Trao giải tại thủ đô Oslo của vương quốc Na Uy, ông Lưu Hiểu Ba vì đang bị giam giữ trong tù tại Trung quốc, nên cũng đã vắng mặt trong dịp này. Sự kiện này lại càng khiến công luận khắp thế giới chú ý, và cũng là một điều gây bất lợi cho uy tín của giới lãnh đạo chính quyền Bắc kinh.

Mới đây, vào đầu năm 2011 nhà xuất bản Gallimard ở Pháp đã cho ấn hành một cuốn sách gồm nhiều bài tiểu luận của ông Lưu viết trong vài chục năm gần đây, với nhan đề thật tức cười ngộ nghĩnh lấy từ tiêu đề của một bài tiểu luận, đó là : "Triết lý con heo” như đã được ghi nguyên văn tiếng Pháp ở trên. Sách dày trên 500 trang với Bài tựa ngắn của Cựu Tổng thống Vaclav Havel ở Tiệp khắc. Và bài Giới thiệu khá chi tiết dài 30 trang của chuyên gia nổi tiếng về Trung quốc là Jean-Philippe Béja đích thân tuyển lựa và dịch các bài tiểu luận thật đặc sắc của một nhân vật được học giới Trung hoa gọi là "con hắc mã"của văn đàn Trung quốc hiện đại (dark horse = heima).


Bài viết đầu tiên này nhằm giới thiệu tóm lược những nét chính yếu trong cuốn sách giá trị này với độc giả người Việt. Trong các bài tiếp theo, người viết sẽ trình bày chi tiết hơn về một số quan điểm của tác giả họ Lưu, với những lập luận mà chúng ta có thể sử dụng như là những gợi ý cho sự trao đổi thảo luận giữa người Việt chúng ta.

I – Sơ lược tiểu sử của tác giả Lưu Hiểu Ba

Lưu Hiểu Ba sinh năm 1955 trong một tỉnh thuộc miền đông bắc Trung quốc. Cha của ông là một giáo sư tại đại học sư phạm ở địa phương. Năm lên 14 tuổi, Lưu theo cha mẹ đến các miền quê tại khu vực Nội Mông trong thời kỳ cách mạng văn hóa đày ải giới trí thức. Không được đến trường học, Lưu đã tìm cách đọc tất cả sách báo mình bắt gặp. Vào năm 1973 lúc ở tuổi 18, Lưu được điều động về các làng xã để"học tập cách thức phục vụ nhân dân ”.


Năm 1977, sau khi Mao Trạch Đông từ trần, Lưu được trúng tuyển vào đại học và tốt nghiệp năm 1982 với chuyên môn về văn học Trung quốc. Sau đó, Lưu được nhận vào học tại đại học sư phạm Bắc kinh để thi bằng cao học và cuối cùng ông đã được cấp văn bằng tiến sĩ văn chương tại đây vào năm 1988 ở tuổi 33.

Các bạn hữu cho biết là trong thời gian dài theo học ở Bắc kinh, Lưu ít chú ý đến sinh họat chính trị, mà tập trung vào việc nghiên cứu văn học, ông đặc biệt chú ý đến quan điểm của nhà văn Kafka ở Âu châu vào hồi đầu thế kỷ XX. Năm 1986, Lưu đã gây chấn động trên văn đàn Trung quốc với bài báo phê bình văn học với nhan đề : "Khủng hỏang ! Văn học thời kỳ mới đang lâm vào cuộc khủng hỏang". Trong bài này, Lưu phê phán thẳng thừng sự thiếu vắng sáng tạo của các nhà văn Trung quốc, mặc dầu lúc đó họ đang được ca tụng vì đã có những cố gắng vượt thóat khỏi tình trạng kềm kẹp dưới thời Mao Trạch Đông. Quan điểm phê phán triệt để này có thể coi như có tính cách đột phá tương tự như hào khí khai phóng sôi nổi khắp nơi ở Trung quốc của"Phong trào Ngũ Tứ"bột phát vào năm 1919 sau thế chiến thứ nhất ( May 4th Movement).


Với danh tiếng đó, Lưu được nhiều đại học trong nước cũng như ngọai quốc mời đến diễn thuyết hay dậy học. Năm 1989, lúc đang làm việc ở đại học Columbia, New York, Lưu đã cắt ngang việc giảng dậy để về nước tiếp sức với giới sinh viên đang sôi nổi đòi phải cải cách dân chủ. Và ngay sau vụ đàn áp đẫm máu Thiên An Môn vào đầu tháng Sáu, Lưu đã bị bắt giữ.

Trong khi ở tù, thì Lưu bị người vợ đòi phải ly dị. Hậu quả của việc ly dị này là Lưu bị mất sổ hộ khẩu, mất cả quyền cư trú hợp pháp ở Bắc kinh lúc ông được trả tự do vào năm 1991. Mà ông cũng không còn được ký tên thật của mình trên các bài báo, hay sách do mình viết nữa. Vì thế mà cuộc sống trở thành hết sức bấp bênh, đến độ nghẹt thở. Nhưng vào năm 2000 trở đi, nhờ sự phát triển của Internet, họ Lưu đã có thể sáng tác hết sức mạnh bạo, mau chóng với sức lan tỏa rộng rãi cùng khắp. Ông thường xuyên bị công an theo dõi và bị làm khó dễ sách nhiễu dọa nạt đủ bề. Tuy vậy, Lưu vẫn kiên trì theo đuổi cuộc tranh đấu cho dân chủ, tự do và nhân quyền của mình.


Sự đóng góp lớn của ông trong việc sọan thảo bản văn "Linh bát Hiến chương"(08 Charter) được nhiều nhân vật trí thức và nhà họat động có tên tuổi ở Trung quốc ký và công bố vào năm 2008, nhân kỷ niệm lần thứ 60 ngày công bố Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (1948 – 2008), đã khiến cho ông lại bị công an bắt giữ lần nữa và đem ra tòa án xét xử vào cuối năm 2009, và tòa đã đưa ra bản án xử phạt họ Lưu 11 năm tù giam với tội danh rất mơ hồ là :"Xúi giục lật đổ chính quyền nhà nước". Vụ đàn áp thô bạo này đã bị công luận thế giới chỉ trích mãnh liệt và nhiều nhân vật nổi danh trong nước cũng như quốc tế đã lên tiếng đòi trả tự do cho Lưu Hiểu Ba.


Và tiếp theo việc họ Lưu được cấp phát Giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 2010 vừa qua lại càng làm cho tên tuổi của ông được mọi người nhắc nhở tới. Đây là một sự kiện mà chính quyền Bắc kinh dù đã sử dụng mọi đòn phép chính trị bá đạo, thì cũng chẳng làm sao có thể ngăn cản hay bưng bít được nữa.


II – Giới thiệu tóm lược cuốn sách "Triết lý con heo"

Cuốn sách này là một tuyển tập các bài viết tiêu biểu của Lưu Hiểu Ba trong nhiều năm, mà có mấy bài viết mới nhất vào năm 2007 – 2008. Các bài này được sắp xếp trong 8 phần, mà ta có thể liệt kê ra mấy đề mục đáng chú ý như sau:

A/ Văn học: "Khủng hỏang! Văn học của thời kỳ mới đã lâm vào tình trạng khủng hỏang" (trang 57 – 87)
B/ Suy nghĩ triết học và chính trị ( trang 91 – 231).
Đặc biệt mục : "Triết lý con heo"(trang 147 – 177) tiêu đề này được chọn để làm nhan đề cho cả cuốn sách.
C/ Hệ thống chính trị và đời sống chính trị (trang 235 – 331)
Đặc biệt mục : "Nỗi băn khoăn về ý thức hệ của Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo ( trang 319 – 331)
D/ Những bài viết về một số sự việc cụ thể ( trang 355 – 413)
Đặc biệt mục : "Tuyên ngôn của những nông dân muốn đòi lại ruộng đất” ( trang 391 – 401).

Nói chung, tác giả họ Lưu đề cập đến nhiều lãnh vực, từ phê bình văn học đến suy nghĩ triết học về chính trị, và nhất là bày tỏ quan điểm dứt khóat về vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền và công lý xã hội. Các bài viết này biểu lộ sự hiểu biết sâu sắc của tác giả qua lối nhận định và phân tích sự kiện cụ thể với một nhãn quan bao quát, thông thóang và một lập trường kiên định tự tin vững vàng. Ta sẽ có dịp thảo luận chi tiết hơn trong các bài viết tiếp theo liên quan tới một số đề tài có tính cách căn bản trong một xã hội còn đang bị kềm kẹp bởi chế độ độc tài cộng sản, ở Trung quốc cũng như ở Việt Nam hiện nay.

Tiếp theo đây, người viết xin giới thiệu riêng về mục"Triết lý con heo” được tác giả trình bày trong 30 trang sách, và tiêu đề của bài này lại được nhà xuất bản lấy làm nhan đề chung cho tòan thể cuốn sách.


III – Triết lý con heo

Bài này được viết vào năm 2000, tức là 11 năm sau biến cố thảm sát Thiên An Môn ngày 4 tháng sáu năm 1989, mà tác giả lấy làm cột mốc cho sự đàn áp tàn bạo do giới lãnh đạo đảng cộng sản thực hiện nhằm dập tắt mọi ý chí vươn lên của lớp người yêu nước tiến bộ, đặc biệt là giới sinh viên trong công cuộc bảo vệ tự do, dân chủ và nhân quyền cho người dân Trung quốc.

Tác giả nhấn mạnh đến sự đồng lõa, thỏa hiệp của giới trí thức với chủ trương mê hoặc ru ngủ của nhà cầm quyền đương thời qua các chiêu bài "phải bảo vệ sự ổn định xã hội”, "phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu, "trở về với gốc rễ cội nguồn của văn minh Trung quốc"… để mà bỏ qua những đòi hỏi về tự do, công bằng xã hôi và phẩm giá của người công dân.

Ông thẳng thắn tố cáo tình trạng "tồi dở, tầm thường” (médiocrité) cả ở trong chính quyền, lẫn trong giới trí thức ưu tú của xã hội. Với giọng văn thật mạnh mẽ độc đáo, họ Lưu ghi nhận rằng: "Giới trí thức đang bị tha hóa vì cam tâm lãnh nhận những ân huệ vật chất và các tiện nghi thỏai mái do nhà nước cung ứng cho để đổi lại với sự im lặng làm ngơ trước sự nhũng lạm thối nát, sự đàn áp cướp bóc của cán bộ nhà nước đối với đa số quần chúng dân oan…”

Rõ ràng là đã có sự "bán linh hồn cho quỷ dữ', sự "tự ý ngoan ngõan đi vào cái chuồng heo” (porcherie) để được vỗ béo, yên thân mà quên đi cái nhiệm vụ phải luôn luôn thức tỉnh để cảnh giác công luận trước những sa đọa tàn bạo của nhà nước chuyên chính độc tài, phải bênh vực đa số quần chúng nạn nhân của sự áp bức bóc lột ở khắp nơi.

Dưới các tiểu đề mục như: "Sự yếu đuối của người bị trị đã sản xuất ra những người cầm quyền tồi dở” ( la faiblesse des gouvernés produit des gouvernants médiocres) và "Sự tồi dở nhất lọat đã phá vỡ tất cả" (La médiocrité homogénéisée a tout écrasé), họ Lưu đã thẳng thắn nêu ra cái sự nhục nhã của giới trí thức ưu tú (élites) là đã hèn kém cam tâm phủ phục trước những kẻ lãnh đạo tồi dở tầm thường hiện nay. Ông phát biểu dứt khóat : "Trên mảnh đất này, sự cao cả của tâm hồn và sự uyên bác thông tuệ không còn chỗ đứng nữa" (Sur cette terre, la grandeur d ‘âme et l’érudition n’ont pas leur place)

Vì bài mở đầu này có giới hạn, nên người viết sẽ trình bày chi tiết rõ ràng hơn trong các bài sau, khi thảo luận về từng vấn đề riêng biệt.

Nhân tiện, tác giả cũng xin ghi nhận sự biết ơn đối với anh chị Nguyễn Văn Tánh và Bạch Nhật cư ngụ tại Bruxelles Belgique đã cho đọc cuốn sách giá trị này, nhân chuyến anh chị đến tham dự cuộc Hội Ngộ do tạp chí Diễn Đàn Giáo Dân tổ chức tại miền Nam California vào mấy ngày đầu tháng Sáu năm 2011 vừa qua.

Costa Mesa, Trung tuần tháng Sáu 2011


LS. Đòan Thanh Liêm

BÀI THƠ TRỮ TÌNH CỦA LƯU HIỂU BA

Lời giới thiệu của dịch giả Nguyễn Huệ Chi:
Dịch giả Bùi Xuân Bách ở Boston có gửi một bài thơ chữ Hán của ông Lưu Hiểu Ba đến nhờ tôi dịch nhằm sử dụng vào một comment nào đó. Tuy phải dịch gấp để đáp ứng kịp yêu cầu của ông, tôi nghĩ, nếu bài thơ này được đăng trên BVN hẳn cũng có ích.

Lưu Hiểu Ba (trái) và vợ là Lưu Hà, tháng 10, 2002. (Hình: STR/AFP/Getty Images)

Nhận được bản dịch, ông Bách gửi tiếp cho vài bài khác và khuyến khích tôi dịch thêm. Tôi cố gắng và chật vật làm điều đó trong điều kiện thiếu bất kỳ một từ điển chuyên ngữ nào ở đây. Cuối cùng, với sự tận tình giúp đỡ tra cứu gián tiếp của ông Bách, công việc làm thêm ngoài dự kiến trong chương trình đến nước Mỹ lần này cũng tạm hoàn thành với không ít hứng thú.

Bởi lẽ, việc chú tâm dịch chỉ một vài bài thơ của Lưu Hiểu Ba bỗng giúp tôi nhận chân ra một điều: Các ngài ở Trung Nam Hải cố tình không hiểu giá trị của giải Nobel Hòa Bình dành cho ông Lưu là điều hoàn toàn không lạ. Dẫu cho miệng họ nói “hài hòa” lem lẻm nhưng tay họ lúc nào cũng lăm lăm khẩu súng chĩa ra biển Ðông, tàu chiến họ hung hăng gây sự với láng giềng hết từ Nam đến Bắc, và còn cố ý bênh che cho những tay đồ tể đàn em giết lén bà con thân thích; mắt họ lom lom canh chừng Tây Tạng, Tân Cương, Ðài Loan và nhiều khu vực khác đang có nguy cơ bất ổn...

Ðiều đó chứng tỏ những gì đã được “lập trình” từ lâu trong tiềm thức họ, xét cho cùng vẫn là sản phẩm kế thừa từ thời Hoàng đế họ Mao hoặc mấy mươi năm trước nữa - bao giờ mà chẳng ám ảnh rặt có mấy chữ bá chủ thiên hạ về cả quyền lực và tiền tài. Bá chủ bằng súng đạn, bằng dùi cui điện, bằng đồng tiền dự trữ tung ra mua vét đất đai và khoáng sản của vô số nước, và cả bằng hàng loạt sản phẩm công nghiệp giá rẻ bán đi khắp mọi nơi, trong đó một bộ phận rất kém chất lượng, thậm chí hết sức độc hại là dành cho các nước lân bang và ngay cả dân chúng nước họ.

Họ đang lo giở những trò bài tẩy đối phó với dân - cũng đang truyền cho đôi ba nhúm đồ đệ đó đây những ngón nghề tuyệt kỹ ấy - thì tâm hồn làm sao với tới tầm vóc trái tim nhân bản của con người tự do Lưu Hiểu Ba trong cảnh tù đày. Nói như danh sĩ Việt Nam Cao Bá Quát trong bài thơ Vịnh cái gông dài (Trường giang thiên) khi ông ngồi trong ngục Thừa Phủ năm 1841: “Gông dài, gông dài, mày biết ta chăng? Ta không có gì hợp với mày cả. Mày hiểu thế nào được ai phải ai trái! Mày chẳng qua chỉ là cái máy làm nhục người đời mà thôi...”


Khát vọng xa chạy cao bay (1) - Tặng vợ
Ném quách những tuẫn nạn cứ chập chờn trong trí
Anh thèm khát được nằm xuống dưới chân em
Ðó là khi đã gạt ra ngoài
nghĩa vụ duy nhất vấn vít mình với cái chết
Cũng là khi lòng anh như gương sáng
Hạnh phúc giữ bền lâu
Ngón chân em không tách lìa ra (2)
Một con mèo đến kề bên cọ thân sau của nó
Cứ tưởng anh muốn đuổi nó giùm em
Nó quay đầu
Hướng về anh vươn những chiếc móng sắc
Nơi đáy sâu đôi mắt xanh lè
Tưởng như có cả một nhà ngục
Nếu anh cứ mờ mắt bước qua
Thậm chí mới chỉ dợm một bước
Sẽ biến ngay thành một con cá.
(Nguồn: Bauxite Việt Nam)

Lưu Hiểu Ba, 12.8.1999

(Nguyễn Huệ Chi dịch)

Chú thích:

(1) Mấy chữ “xa chạy cao bay” chúng tôi mượn từ bản dịch trên trang mạng 360 plus, có chỉnh sửa cho đúng với thành ngữ xưa nay.
(2) Ngón chân em không tách lìa ra: Theo dịch giả Bùi Xuân Bách, có lẽ tác giả dùng biểu tượng này để chỉ trạng thái người phụ nữ chưa đến lúc hưng phấn cao độ. Ngày xưa phụ nữ bó chân, các ngón dính sát với nhau, chỉ đến lúc thật hưng phấn mới tõe hết ra.

Lưu Hiểu Ba, sĩ phu thời đại mới
Minh Đức


Năm 1989, khi vụ biểu tình tại Thiên An Môn của sinh viên Trung Quốc bị quân đội bắn vào, nhiều nhà báo, chính trị gia trên thế giới lên tiếng lên án vụ đàn áp này . Trong số các nhà báo Tây phương lên án Trung Quốc vi phạm nhân quyền thì có nhà báo bình luận rằng vụ bắn vào sinh viên sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến xã hội Trung Quốc vì văn hóa Trung Quốc có truyền thống trọng kẻ sĩ, nghĩa là những người trí thức. Một chính quyền bắn vào kẻ sĩ thì chính quyền đó sẽ bị người dân nhìn với con mắt ác cảm và sẽ sinh ra những sự chống đối về lâu về dài. Ký giả đó không nhìn sự việc với các giá trị của xã hội Tây phương mà dùng giá trị của văn hóa Trung Hoa để đánh giá vụ đàn áp Thiên An Môn.

Hai mươi năm qua, phong trào dân chủ tại Trung Quốc vẫn tồn tại và phát triển với các khuôn mặt đã từng tham gia cuộc biểu tình tại Thiên An Môn cho thấy lời tiên đoán của ký giả Tây phương kia là đúng. Lưu Hiểu Ba là một trong những người đó và những hoạt động của Lưu Hiểu Ba tượng trưng cho sự tranh đấu bền bỉ của sĩ phu Trung Hoa thời nay.

Cuộc đời của Lưu Hiểu Ba là sự tranh đấu liên tục cùng vớI tù đầy từ sau vụ biểu tình ở Thiên An Môn. Sau vụ biểu tình tại Thiên An Môn, Lưu Hiểu Ba bị tù hai năm từ 1989 cho đến 1991. Bốn năm sau, 1995, Lưu Hiểu Ba lại vào tù sáu tháng vì các hoạt động liên quan đến nhân quyền, dân chủ. Vài tháng sau đó, Lưu Hiểu Ba lại bị bắt đi cải tạo ba năm từ 1996 đến 1999 mới được tha về. Đến năm 2008, Lưu Hiểu Ba tham gia trong việc viết ra Hiến Chương 08, tuyên bố đòi hỏi dân chủ cho Trung Quốc và bị kết án tù mười một năm từ 2009 cho đến năm 2020.

Người ký giả Tây phương nói rằng giới sĩ phu đóng vai trò quan trọng trong xã hội Trung Hoa quả là am tường về lịch sử, văn hóa Trung Hoa. Nền văn minh Trung Hoa được sinh ra mà không có tôn giáo nào đi kèm. Tại Tây phương thì Thiên Chúa Giáo đưa ra các tiêu chuẩn đạo đức để mọi người noi theo. Nền văn minh Ấn Độ thì có đạo Bà La Môn, nền văn minh Ả Rập thì có Hồi giáo dạy cho dân ăn ở cho có đạo đức. Còn tại Trung Hoa thì chính các Nho sĩ, tức là các sĩ phu làm công việc giáo dục cho dân ăn ở cho có đạo đức. Họ làm công việc mà các tu sĩ của các nền văn minh khác làm. Chính các tôn giáo ở các nền văn minh khác nhau và Nho giáo tại Trung Hoa đã thuần hóa quyền lực của các bậc vua chúa. Các nhà Nho đề ra tiêu chuẩn đạo đức cho nhà vua và đòi hỏi từ thiên tử cho đến thứ dân đều phải lấy tu thân làm gốc.

Gọi Lưu Hiểu Ba là con người của thời đại mới là vì Lưu Hiểu Ba đang tham gia vào việc hình thành một chế độ chính trị mới cho Trung Quốc. Trung Quốc trải qua một sự thay đổi chế độ chính trị vào cuối đời Chiến Quốc. Tần Thủy Hoàng gồm thâu sáu nước, thống nhất Trung Quốc và không cai trị theo lối chế độ phong kiến trước đó. Trước đó nhà vua cắt đất phong cho con cháu, họ hàng để thành các tiểu quốc phục tùng sự cai trị của nhà vua.

Chế độ này đưa đến việc các tiểu quốc thôn tính lẫn nhau. Tần Thủy Hoàng không cắt đất phong cho con cháu để cùng nhau cai trị Trung Quốc mà dùng quan lại do vua cắt cử đến các tỉnh để cai trị. Các quan lại này không nhất thiết là họ hàng nhà vua mà là bất cứ ai có tài năng. Như vậy nhà vua tập trung hết quyền hành vào tay mình và không còn nạn các tiểu quốc không vâng lời thôn tính lẫn nhau. Đây là chế độ quân chủ. Quân là vua, quân chủ là chế độ vua làm chủ. Không còn là chế độ phong kiến, phong hầu, kiến địa (phong hầu, cắt đắ) của thời trước nữa .


Nhưng sự hình thành chế độ quân chủ chưa hoàn thiện được khởi đầu dưới chế độ nhà Tần. Sau khi nhà Tần sụp đổ vì quá tàn ác, hà khắc, nhà Hán tiếp tục hoàn thiện chế độ quân chủ mà Tần Thủy Hoàng đặt ra. Nhà Hán dùng Nho giáo làm tư tưởng chủ đạo nên đã thuần hóa quyền lực nhà nước, làm cho chính quyền trở nên khoan dung với dân hơn, không khắt khe, tàn ác như thời nhà Tần. Nho giáo tuy dạy dân trung thành với vua nhưng cũng đề cao đức nhân, nghĩa là lòng thương người, mà cả nhà vua cũng phải tôn trọng. Chế độ quân chủ này tồn tại y như vậy hàng ngàn năm từ năm 206 trước Công Nguyên cho đến khi nhà Thanh bị Tôn Dật Tiên làm cuộc Cách Mạng Tân Hợi, 1911, mớI chấm dứt.

Sau cuộc Cách Mạng Tân Hợi, Tôn Dật Tiên định thành lập chế độ cộng hòa nhưng rồi xảy ra tranh chấp Quốc Cộng đưa đến phe Cộng Sản thắng. Sau đó tại Hoa Lục và Đài Loan theo hai chế độ chính trị khác nhau. Mao Trạch Đông và những người cộng sản Trung Quốc tin rằng chế độ mình dựng nên sẽ là chế độ tiến bộ nhất, chế độ cuối cùng của loài người. Nhưng ngày nay chế độ mà Mao dựng lên đã phải thay đổi. Nhiều chính sách thời Mao ngày nay bị xóa bỏ. Như vậy chế độ chính trị mới tại Trung Quốc vẫn còn đang quá trình thành hình, nó chưa ngừng ở chỗ Mao cầm quyền, nó chưa đi đến chỗ hoàn thiện.

Những đòi hỏi về nhân quyền, các tiêu chuẩn về nhân quyền, tự do, dân chủ mà Lưu Hiểu Ba đưa ra trong bản Hiến Chương 08 chính là các biện pháp làm thuần hóa quyền lực của nhà nước. Các đòi hỏi phải có sự phân quyền trong chính quyền là để cho các viên chức chính quyền có đủ quyền lực để làm việc công nhưng không có quá nhiều quyền để đi đến chỗ bị lạm dụng, đàn áp dân, gây ra đau khổ cho dân.


Sĩ phu nghĩa là người dân có đi học, nghĩa là trí thức nhưng trong văn hóa Trung Quốc, sĩ phu cũng đi liền với các tiêu chuẩn đạo đức và cách hành xử theo đạo Nho. Sĩ phu là người đọc sách, không phải là loại người dùng đao kiếm nhưng không để ai dùng sức mạnh uy hiếp mình. Vì thế thái độ “Bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” (nghèo hèn không làm đổi chí, uy vũ không làm khuất phục) là thái độ thường thấy nơi sĩ phu. Việc Lưu Hiểu Ba không sợ tù đày, từ 1989 cho đến nay, ông liên tục vào tù ra khám, rồi bị quản chế cho thấy người sĩ phu uy vũ bất năng khuất luôn luôn tồn tại trong xã hội Trung Quốc.

Tuy không dùng sức mạnh gươm đao, nhưng người trí thức Nho giáo có ảnh hưởng đến xã hội và chính quyền vì họ là người có kiến thức, họ đề ra được cách thức tổ chức xã hội mà người dân sống hòa thuận, tốt đẹp hơn là cách cai trị bằng bạo lực. Điều này không riêng gì văn minh Trung Quốc và tại các nền văn minh khác qui luật này cũng xảy ra. Vì thế mà Napoléon Bonaparte, một người tuy giỏi cầm quân nhưng cũng phải nói: “Trong sự tranh đấu giữa ngòi bút và lưỡi gươm, lúc đầu lưỡi gươm thắng nhưng về lâu về dài thì ngòi bút sẽ thắng”. Ngòi bút thì không thể dùng đấu với gươm nhưng ngòi bút tượng trưng cho sự hiểu biết về cách tổ chức xã hội cho có qui củ, cho có luật lệ.

Chế độ đảng trị tại Trung Quốc tập trung quá nhiều quyền lực vào tay nhà nước trong khi luật lệ thì không được nhà nước tôn trọng. Lưu Hiểu Ba và những người tranh đấu cho dân chủ đang hoàn thiện một nước Trung Hoa mới, vớI chính quyền được phân quyền để giảm bớt sự lạm quyền, người dân phải được bảo vệ không bị nhà cầm quyền lạm dụng quyền lực mà hà hiếp. Những người này trong tay họ chỉ có ngòi bút mà thôi. Về lâu về dài, ngòi bút sẽ thắng.
www.rfanews.org/vietbbs/viewtopic.php?p=3270&sid.

TIN BIỂN ĐÔNG




TÓM LƯỢC CỦA TÒA SOẠN BKBDD

Trong tuần trước, Trung Quốc nói đổng rằng các nước thứ ba nên đứng ngoài vòng tranh chấp biển Đông. Nay thì Trung Quốc nói rõ yêu cầu Mỹ nên đứng ngoài sau khi vài yếu nhân Hoa Kỳ yêu cầu Mỹ can thiệp mạnh mẽ vấn đề biển Đông và ủng hộ các nước Đông Nam Á.

Trong tuần trước, Trung Quốc cũng như bao lần trước tuyên bố giải quyết bằng hòa bình, không dùng vũ lực trong tranh chấp biển đông, nhưng nay tờ báo của Trung Cộng lớn tiếng hăm dọa Việt Nam. Cũng xin thưa cùng quý độc giả, trước đây các tờ báo, các blog tư nhân và địa phương Trung Cộng đã từng hăm đánh Việt Nam.

Thái độ của nhà cầm quyền Việt Nam không rõ rệt. Phải chăng tất cả bọn họ đồng lòng chơi trò "thò lò hai mặt". Việc cấm dân chúng biểu tình chống Trung cộng trong ngày 19-6-2011 chứng tỏ Việt Cộng sợ Trung Cộng. Việt Cộng "hèn nhát với giặc nhưng tàn ác với nhân dân". Hoậc phe thân Trung Cộng thắng thế chăng?

Như vậy là Trung Cộng sẵn sàng dùng vũ lực, còn Việt Cộng thì quá hèn nhát, vì chúng cam phận nô lệ. Dù Việt Cộng cúi đầu thì Trung Cộng sẽ cưỡi cổ chúng như tục ngữ ta đã nói " Được đằng chân lân đàng đầu"! Trước tình trạng như vậy, nhân dân Việt Nam sẽ quyết tâm tranh đấu cho độc lập và tự do. Chúng ta đoàn kết chống cộng sản gian thamn tàn ác, phản dân hại nước, chúng ta không cô độc. cuộc chiến đấu vì độc lập, dân chủ và tự do của ta sẽ được toàn dân và toàn thế giới ủng hộ.


Trung Quốc yêu cầu Hoa Kỳ ngừng can dự vào tranh chấp Biển Đông

Tàu tuần hải 31 của Trung Quốc ở Biển Đông (DR)
Tàu tuần hải 31 của Trung Quốc ở Biển Đông (DR)
Thanh Phương

Theo hãng tin Reuters, hôm nay thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Thôi Thiên Khải vừa yêu cầu Hoa Kỳ nên rút ra khỏi tranh chấp chủ quyền Biển Đông, cho rằng sự can dự của Mỹ có thể khiến tình hình xấu đi. Ông Thôi Thiên Khải còn khẳng định rằng Trung Quốc rất lo ngại do những "hành động gây hấn thường xuyên của các bên khác trên Biển Đông".

Tuyên bố của thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Thôi Thiên Khải được đưa ra sau khi thượng nghị sĩ John McCain tại một cuộc hội thảo ở Washington hôm thứ hai vừa qua đã kêu gọi Hoa Kỳ giúp các nước Đông Nam Á tăng cường lực lượng trên biển để đối phó với những đòi hỏi chủ quyền « không có cơ sở vững chắc » của Trung Quốc trên Biển Đông.

Trong khi đó, theo hãng tin AP, các giới chức Philippines hôm nay cho rằng quân đội Mỹ có nghĩa vụ giúp bảo vệ binh lính, chiến hạm và phi cơ của Philippines chiếu theo Hiệp ước Tương trợ Phòng thủ ký năm 1951 giữa hai nước, nếu quân đội Philippines bị tấn công ở vùng quần đảo Trường Sa.

Chiếu theo hiệp ước Mỹ- Philippines 1951, nước này có nghĩa vụ giúp nước kia phòng thủ trong trường hợp bị một quốc gia khác tấn công trên lảnh thổ chính quốc hoặc trên vùng Thái Bình Dương. Nhưng vấn đề đang được đặt ra là hiệp ước này có thể được áp dụng trong trường hợp quân đội Philippines bị tấn công trên một vùng lãnh thổ đang tranh chấp với Trung Quốc và một số nước khác hay không.

Hãng tin AP cho biết, theo một tài liệu của Bộ Ngoại giao Philippines, do vùng Thái Bình Dương mà hiệp ước 1951 quy định bao gồm cả Biển Đông, nên Washington có nghĩa vụ giúp bảo vệ quân đội Philippines nếu họ bị tấn công ở khu vực Trường Sa. Nhưng đại sứ quán Mỹ ở Manila từ chối thảo luận về chi tiết của việc thi hành hiệp ước nói trên.

Trong bối cảnh căng thẳng trên Biển Đông gia tăng, một tờ báo của Hồng Kông hôm qua loan tin là chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc sẽ hoạt động thử trên biển vào ngày 1/7 tới, tức là sớm hơm dự kiến ban đầu. Tuy nhiên, theo kế hoạch, chiếc hàng không mẫu hạm này đến tháng 10 năm 2012 với chính thức đi vào hoạt động.

Chiếc tàu dài 300 mét này nguyên là một chiến hạm từ thời Liên Xô mà Trung Quốc đã mua lại của Ukraina vào năm 1998. Mãi đến đầu tháng 6 vừa qua, quân đội Trung Quốc mới chính thức công nhận sự hiện hữu của chiếc hàng không mẫu hạm, biểu tượng cho tham vọng của Bắc Kinh trên biển.

http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20110622-trung-quoc-yeu-cau-hoa-ky-ngung-can-du-vao-tranh-chap-bien-dong

Biển Đông: ASEAN cần Mỹ, Mỹ cần can dự
2011-06-22

Cuộc Hội thảo về An ninh ở Biển Đông diễn ra tại Washington trong hai ngày vừa qua có sự tham dự của hằng trăm người thuộc giới ngoại giao, học giả, nhà báo, của Trung Quốc, Việt Nam, Hoa Kỳ, Australia, Nhật Bản, Ấn Độ và một số quốc gia khác

RFA graphic map

Bản đồ biển Đông với vùng "Lưỡi Bò" của Trung Quốc áp đặt

Tất cả những người tham dự hội thảo trong hai ngày thứ hai và thứ ba đều là những chuyên viên thông thạo về Trung Quốc, Việt Nam, mối quan hệ giữa hai nước, và biển Đông cùng mối tranh chấp quốc tế ở nơi đó. Điểm đặc biệt của lần hội thảo này là hầu hết những thuyết trình viên, tất nhiên ngoại trừ Trung Quốc, đều có ý chỉ trích lập trường sai trái của Trung Quốc về vấn đề lãnh hải biển Đông. Đại diện của Trung Quốc tại buổi hội thảo là giáo sư Chu Hảo, hay Tô Hảo, Phó giám đốc trung tâm nghiên cứu quốc tế thuộc trường đại học ngoại giao ở Bắc Kinh. Vị giáo sư trẻ tuổi nêu quan điểm của Trung Quốc về lãnh hải biển Đông, cho là từ hằng trăm năm trước Trung Quốc đã có hạm đội tiến ra đại dương và đã lập đơn vị hành chánh ở trong vùng biển này, nghĩa là đã xác lập chủ quyền từ khi đó. Ông tỏ vẻ như ngạc nhiên, chẳng biêt có thật hay không, khi nói Việt Nam có phản ứng mạnh mẽ sau hành động của Trung Quốc khiến Bắc Kinh lo lắng.

Đại biểu Trung Quốc tại hội thảo Washington- RFA photo
Đại biểu Trung Quốc tại hội thảo Washington- RFA photo


“Ngạc nhiên và lo lắng”?

Vị giáo sư muốn nhắc đến những chuyến hải hành từ thời Minh Thành Tổ bên Tàu. Vị vua sáng lập nhà Minh là Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, truyền ngôi cho cháu nội là Chu Doãn Văn, làm vua đến 1402, niên hiệu là Kiến Văn. Nhưng người con thứ tư của Minh Thái tổ là Chu Lệ hay Chu Đệ đã cướp ngôi của cháu. Đó là Minh Thành tổ, lập ra thời Vĩnh Lạc từ 1402 đến 1424, và là người quyết định tấn công Việt Nam, tiêu diệt nhà Hồ vào năm 1407 khiến Việt Nam bị 10 năm Minh thuộc. Nhưng, khi cướp ngôi mà không chắc người cháu là vua Kiến Văn đã chết hay chưa, lại nghe đồn rằng Kiến Văn đã trốn xuống Đông Nam Á, Minh Thành tổ mới sai Tam Bảo Thái giám Trịnh Hoà làm Đô đốc giong thuyền ra biển để xuống Đông Nam Á nghe ngóng tình hình. Đây là một trong nhiều lý do khiến vị Đô đốc người Hồi tên là Mã Tam Bảo đóng tầu ra khơi, lần đầu vào năm 1405.

Năm đó, Nguyễn Trãi của ta mới 25 tuổi và ông Đô đốc này 34 tuổi. Nhưng Trịnh Hòa không tìm ra Kiến Văn, bèn xin lệnh đi biển xa để thăm dò địa lý và giao hiếu đến tận gần Trung đông. Nhưng sau bảy chuyến hải hành thì đến lúc quân nhà Minh bị Bình Định Vương Lê Lợi cùng Nguyễn Trãi của ta tiêu diệt tại Việt Nam sau khi chém rơi đầu Liễu Thăng.

Tổn thất quân sự và kinh tế quá lớn, triều thần nhà Minh đòi hủy bỏ chuyện đi biển, cấm luôn việc này. Mãi đến nay thế kỷ này Trung Quốc hiện đại mới thực hiện lại tham vọng đại dương vì kho dầu khí ở biển Đông. Vì thế coi việc đưa hạm đội đi chu du khỏi lãnh thổ của mình như sự xác lập chủ quyền thì là điều vô lý, vì nếu như vậy thì toàn thể vùng biển trên thế giới phải thuộc về Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Hòa Lan... là những cường quốc đại dương đã đem hạm đội đi chiếm thuộc địa khắp Á Phi và châu Mỹ hay sao?

Phóng viên của RFA dự hội thảo được biết, bên lề cuộc hội thảo, là Trung Quốc đã từng có hành động cắt dây cáp tàu Việt Nam từ hồi năm 2007, nhưng khi đó dân Việt trong và ngoài nước không ai biết đến, và cũng không thấy hành động ngoại giao nào của Việt Nam. Nhưng bây giờ khi cắt cáp tàu Bình Minh 02 và tàu Viking 02 lại bị người Việt cả trong lẫn ngoài nước phản đối dữ dội, cho nên ông giáo sư trẻ tuổi này mới tỏ ra ngạc nhiên.

Ông còn nói lãnh hải đó đã do Trung Quốc xác lập từ hằng trăm năm nay, và “có nước đã đồng ý xác nhận”, ý nói Việt Nam. Một phần nữa cũng do ngày nay mọi người Trung Hoa đều được giáo dục và tin rằng Trung Quốc có chủ quyền sở hữu tới 80% diện tích biển Đông, cho nên ông giáo sư mới có lý do để ra vẻ ngạc nhiên. Một điểm khác được lưu ý: đây là lần đầu tiên một người thay mặt cho ngành ngoại giao Trung Quốc phát biểu rằng giải quyết đa phương cũng có thể là một giải pháp. Nhưng đó không phải là lời tuyên bố chính thức của Bắc Kinh.


Đại biểu Việt Nam tại Hội thảo Washington- RFA photo
Đại biểu Việt Nam tại Hội thảo Washington- RFA photo

ASEAN, Nhật Bản, Ấn Độ: Trung Quốc hiếu chiến, đáng ngại

Đại diện của ASEAN tại hội thảo lần này là ông Termsak Chalermpalanupap, Giám đốc Ban an ninh chính trị thuộc ban thư ký ASEAN.

Ông Chalermpalanupap khẳng định quan điểm của ASEAN đối với vấn đề giải quyết tranh chấp trên biển Đông là qua hợp tác và theo luật quốc tế. Ông cũng nói đến những nỗ lực mà ASEAN đã làm nhằm đưa tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông, gọi là “COC”, thành một bản quy tắc có tính ràng buộc về mặt pháp lý hay thông lệ quốc tế, nhưng cả 20 lần đề nghị đều bị Trung Quốc từ chối. Hiện ASEAN đang đưa ra đề nghị thứ 21 liên quan đến vấn đề này.

Ông Chalermpalanupap nêu quan điểm khác với đại diện từ phía Trung Quốc đối với những hành động của Trung Quốc trên biển Đông trong thời gian qua, mà ông gọi là hiếu chiến. Theo thông tin mới nhất từ ASEAN thì hiện khối này đã có kế hoạch tiếp tục bàn thảo về vấn đề này để có thể đưa COC lên một mức cao hơn. Người đại diện của ASEAN cũng cho rằng có lẽ dể giải quyết vấn đề biển Đông, việc đổi tên biển từ biển Nam Trung Hoa thành biển Đông Nam Á hay biển hữu nghị có thể sẽ hợp lý hơn.

Các học giả đến từ Nhật bản và Ấn độ có mặt trong buổi hội thảo sáng 20 tháng 6 cũng bày tỏ sự quan ngại trước những hành động của Trung Quốc trên biển Đông vì cả hai nước này cũng có những tranh chấp về chủ quyền với Trung Quốc trên biển. Học giả đến từ Ấn Độ, ông Amer Latif, thuộc Trung Tâm Nghiên cứu chiến lược và quốc tế cho rằng những tranh chấp tại biển Đông cũng làm Ấn độ quan tâm, vì thái độ cách hành xử của Trung Quốc ở đây cũng giúp Ấn độ hiểu được thái độ và cách hành xử mà Trung Quốc có thể áp dụng với nước láng giềng Ấn độ và với vùng biển Ấn độ dương.

Đại biểu Việt Nam, Tiến Sĩ Trần Trường Thủy thuộc Học viện Quan hê Quốc tế của Việt Nam trình bày trước công luận quốc tế những hành vi mới đây của Trung Quốc, gọi đó là những hành động xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam, gây nên căng thẳng. Ông cũng nói hải phận Lưỡi Bò do Trung Quốc vẽ ra đã làm cản trở giao thông trên biển Đông. Ông có ý muốn đề nghị Hoa Kỳ hãy can dự vào cuộc tranh chấp ở biển Đông, thì mới có thể tìm ra giải pháp công bằng cho các bên. Sang ngày hôm nay, thứ tư, sau khi Đại biểu Việt Nam và nghị sĩ McCain của Hoa Kỳ phát biểu trong cuộc hội thảo hôm thứ ba, thì Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Thôi Thiên Khải đã khuyến cáo Hoa Kỳ nên đứng ngoài.

Nghị sĩ Mỹ: Đông Nam Á phải mạnh và đoàn kết.

Nghị sĩ McCain tại cuộc hội thảo- Photo courtesy CSIS
Nghị sĩ McCain tại cuộc hội thảo- Photo courtesy CSIS

Phần thuyết trình của nghị sĩ McCain gây nhiều sự chú ý, và được các đại biểu cùng cánh nhà bá

Tàu chiến HQ-375 của Việt Nam- Ảnh báo QĐND
Tàu chiến HQ-375 của Việt Nam- Ảnh báo QĐND

o của Việt Nam hoan hô nhiệt liệt. Nghị Sĩ McCain nói rằng hành vi xác định lãnh hải Lưỡi Bò mà ông gọi là “Chín Vạch’ của Trung Quốc là phi pháp, và tình hình căng thẳng là do thái độ hung hăng của Bắc Kinh. Ông nói Hoa Kỳ chủ trương giải quyết qua phương thức đàm phán đa phương. Ông cho rằng Hoa Kỳ cần nói rõ quan điểm của Mỹ, cho thấy Washington chuẩn bị hành động nào để yểm trợ các đối tác châu Á, nhất là Philippines là nước có hiệp ước an ninh chung với Mỹ. Hiệp ước này được ký kết từ 1951, đến nay vẫn còn hiệu lực mặc dù Manila đã buộc Washington phải dời căn cứ Clark của hải quân Hoa Kỳ ra khỏi lãnh thổ.

Thứ nhì, nghị sĩ McCain nói tiếp, là Hoa Kỳ nên giúp ASEAN giải quyết mâu thuẫn nội bộ về chủ quyền ở biển Đông, để khối này đoàn kết lại đấu tranh với Trung Quốc. Thứ ba, Hoa Kỳ nên giúp ASEAN tăng cường phòng thủ, tăng cường khả năng cảnh báo từ xa về quốc phòng và an ninh, tăng cường lực lượng hải quân, kết hợp với nhau, và tập trận chung với Mỹ để sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vùng biển, hay ít nhất cũng làm cho Trung Quốc phải e dè cân nhắc, một khi Bắc Kinh muốn có hành động quân sự.

Sau đó, nói về chính sách của nước Mỹ, ông McCain đề nghị Hoa Kỳ chú trọng đến chiến lược hải dương và biển Đông nhiều hơn nữa, đồng thời gia tăng khả năng quốc phòng của mình thay vì cắt xén ngân sách quá nặng. Nghị sĩ McCain kết luận rằng lịch sử cho thấy chính nước Mỹ được hưởng lợi lớn nhất nhờ trật tự quốc tế dựa trên luật lệ, là hệ thống được duy trì bởi quyền lực và sự lãnh đạo của Mỹ. Ông nói, từ bỏ vai trò đó là gây nguy hiểm cho thế giới và cho chính Hoa Kỳ.


Tờ báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc dọa
sử dụng biện pháp quân sự đối với Việt Nam

Trung Quốc tuyên bố sẵn sàng bảo vệ lãnh hải của mình (DR)
Trung Quốc tuyên bố sẵn sàng bảo vệ lãnh hải của mình (DR)
Thanh Phương

Tờ Global Times (Hoàn cầu Thời báo), một tờ báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, trong bài xã luận đăng ngày hôm qua, đã cảnh cáo Việt Nam là Bắc Kinh sẽ thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả hành động quân sự, để bảo vệ quyền lợi của mình ở Biển Đông. Kể từ khi căng thẳng về chủ quyền trên Biển Đông gia tăng, đây là lần đầu tiên mà Bắc Kinh đe dọa dùng vũ lực đối với Việt Nam.

Trong bài xã luận nói trên, tờ Hoàn cầu Thời báo viết rằng, nếu không tìm được một « giải pháp hòa bình » cho các tranh chấp chủ quyền, Trung Quốc sẽ buộc phải sử dụng lực lượng hải quân và hải giám để bảo vệ lãnh hải của mình. Tờ báo viết : « Nếu Việt Nam muốn gây ra chiến tranh trên biển Hoa Nam, Trung Quốc sẽ nhất quyết đáp ứng mong muốn đó. Trung Quốc có đủ sức mạnh để đè bẹp các hạm đội từ Việt Nam. Trung Quốc sẽ không nương tay với đối thủ. ».

Theo Hoàn cầu Thời báo, tấn công vào Việt Nam sẽ không dẫn đến xung đột trực tiếp với Hoa Kỳ, nhưng « cho dù sẽ xảy ra vài va chạm », không có lý do gì mà Trung Quốc phải chịu đựng « thói xấu vô giới hạn của Việt Nam trên biển Hoa Nam ».

Bắc Kinh đã giận dữ kể từ khi Việt Nam tuyên bố hoan nghênh Hoa Kỳ can dự vào vấn đề Biển Đông, một vấn đề mà cho tới nay, Trung Quốc vẫn đòi là phải được giải quyết trên cơ sở song phương.

Tờ Hoàn cầu Thời báo đã đăng bài xã luận nói trên sau khi thượng nghị sĩ Mỹ John McCain, phát biểu tại một cuộc hội thảo về Biển Đông ở Washington, hôm thứ hai vừa qua đã kêu gọi Hoa Kỳ giúp các nước Đông Nam Á phát triển lực lượng hải quân để đối phó với Trung Quốc. Theo ông McCain, chính những đòi hỏi chủ quyền « không vững chắc » và thái độ hung hăng của Bắc Kinh đang làm gia tăng căng thẳng trên Biển Đông.

Nhưng báo chí Trung Quốc, đặc biệt là những tờ báo Anh ngữ như Global Times hay China Daily, trong những ngày qua vẫn liên tục khẳng định ngược lại. Tờ China Daily hôm nay đã đăng ý kiến một học giả thuộc Viện Khoa học Xã hội Thượng Hải cho rằng « nguồn gốc của tranh chấp trên biển Hoa Nam hiện nay là do những hành động đơn phương của Việt Nam và Philipppines ». Vị học giả này cho rằng, « Hoa Kỳ, quốc gia không thuộc khu vực này, đã đổ thêm dầu vào lửa, khi đòi tự do lưu thông hàng hải và mở các cuộc tập trận chung ở các vùng biển của Trung Quốc ».

Tác giả bài viết trên tờ China Daily còn đề nghị là Trung Quốc trước hết phải nói rõ cho quốc tế viết lập trường của mình về vấn đề Biển Đông, thứ hai là Trung Quốc phải bám lấy nguyên tắc « cùng phát triển những vùng đang tranh chấp » và thứ ba là chính phủ phải lập ra một cơ quan cao cấp về các vấn đề biển để phối hợp hành động, đồng thời khẳng định đường ranh giới hình chữ U ( mà dân Việt Nam vẫn gọi là đường lưỡi bò ) trên Biển Đông.

Như vậy là một mặt đe doạ dùng vũ lực đối với Việt Nam, mặt khác, báo chí chính thức bằng Anh ngữ của Trung Quốc vẫn cố gắng làm cho công luận quốc tế nghĩ rằng chính những nước khác trong khu vực như Việt Nam và Philippines đang « gia tăng nỗ lực khai thác tài nguyên và lấn chiếm quần đảo Nam Sa ( Trường Sa ) và Tây Sa ( Hoàng Sa ) của Trung Quốc.

http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20110622-to-bao-cua-dang-cong-san-trung-quoc-doa-su-dung-bien-phap-quan-su-doi-voi-viet-nam

ĐÀI LOAN VÀ BIỂN ĐÔNG



CHỦ QUYỀN ĐÀI LOAN TRÊN BIỂN ĐÔNG

Nguyễn văn Canh 26 tháng 4 nĂm 2011

Trong một bản thông cáo báo chí phổ biến vào ngày 17 tháng 4 vừa qua, Bộ Ngoại giao Đài Loan khẳng định rằng, dưới bất kỳ góc độ nào – lịch sử, địa lý hay luật pháp quốc tế – các quần đảo Nam Sa, tức Trường Sa, Tây Sa, tức Hoàng Sa, Trung Sa tức Macclesfield Bank, và Đông Sa tên tiếng Anh là Pratas Islands, đều thuộc chủ quyền của Đài Loan, …. Để tìm hiểu vấn đề này, trước hết, ta cần phải nói tới sự việc Đài Loan có liên hệ tới Hoàng Sa và Trường Sa, tức là Biển Đông từ thời kỳ sau đệ nhị thế chiến, rồi xét tới giá trị pháp lý của lời tuyên bố và cuối cùng tìm hiểu nguyên do việc tuyên bố trên vào lúc này.

I. Đài Loan với Biển Đông.




Vào năm 1938, Nhật Bản đã chiếm một số đảo trên vùng Hoàng Sa như Phú Lâm, Cam Tuyền và Lincoln và một số đảo thuộc Trường Sa, và từ 1939, sử dụng làm căn cứ quân sự để kiểm soát toàn vùng trong âm mưu bành trướng thế lực của họ. Khi đệ II thế chiến chấm dứt, chiếu theo quyết định của Hội nghị Potsdam của tam cường, Mỹ , Anh và Trung Hoa ký vào tháng 8 năm 1945, Nhật Bản phải trao trả lại các đảo đã bị chiếm trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Tại Đông dương, Quân đội Tưởng Giới Thạch được giao trách nhiệm giải giới quân đội Nhật phía Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến thứ 16 trở lên và quân đội Anh, Ấn phụ trách phần phía Nam vĩ tuyến 16. Ngày 9 tháng 9 năm 1945 quân của Tưởng đến Hà nội để thực thi nhiệm vụ giải giới quân Nhật.

Một năm sau đó, vào tháng 8, 1946 nhiệm vụ này chấm dứt, chiếu theo thỏa ước ký ngày 28 tháng 2 năm 1946 giữa Pháp và Trung Hoa, trong đó Trung Hoa chuyển giao trách nhiệm giải giới quân Nhật cho Pháp. Vào cuối tháng 8, 1946, đơn vị cuối cùng của Trung Hoa rút khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, gần 2 tháng sau khi rút khỏi Việt Nam, vào ngày 26 tháng 10, 1946 , Tưởng giới Thạch phái một lực lượng hải quân gồm 4 chiến hạm mang theo một số quân nhỏ tiến chiếm một số đảo thuộc Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 29 tháng 10, các tàu Vĩnh Hưng và Trung Kiện khởi hành và ngày 29 tháng 11 đổ bộ quân lên đảo Vĩnh Hưng (1) thuộc Hoàng Sa. Ngày 4 tháng 12, chiến hạm Vĩnh hưng tới đảo La-bột (1), đảo Ba bột (1)… rồi rút đi.



Các chiến hạm Thái Bình và Trung Nghiệp đến ngày 9 tháng 12 mới tới quần đảo Trường Sa. Trong tháng 12, chúng hoàn tất công tác chiếm đảo Thái Bình ( Itu Aba); ngày 15 tháng 1,1946 chiến hạm Thái Bình tới đảo Đế Đô (1), Song tử, Nam Cực (James Shoal) .. rồi đi. Tất cả trở về đảo Du Lâm (Phú Lâm, Woody Island) Cước chú: tên các đảo này do Bành Phẩm Quang viết trong Trung Hoa Báo, Đài Bắc, ngày 4 tháng 1, 1971, và tôi không tìm được tên bằng tiếng Việt hay tên quốc tế. ( xem Quốc Tuấn, trong Sử Địa 29 ‘ Đặc Khảo về Hoàng Sa và Trường Sa, Văn Nghệ, Khai Trí 1992, tr. 229). Khi Hồng quân của Mao chiếm được lục địa Trung Hoa, Tưởng phải bỏ chạy ra Đài Loan.



Tưởng cũng cho rúthết quân khỏi các đảo thuộc Hoàng Sa. Đến năn 1956, dưới thời Quốc Gia VN, TC đưa quân ra chiếm đóng khu phía Đông Bắc của quần đảo Hoàng Sa, gọi là Khu Tuyên Đức (còn gọi là An Vĩnh). Khu này có đảo Phú Lâm, một đảo hiện có nhiều cơ sở quân sự quan trọng của TC, với 1 sân bay dài 2,700m cho phi cơ phản lực của quân đội TC lên xuống và có cả ngàn thủy quân lục chiến đóng, nhiều doanh trại, bến tàu, bãi đậu trực thăng, trạm giao thông viễn liên, kho đạn…. Trên nhiều đảo khác như Lincoln, Hữu Nhật ( hay Cam Tuyền)… cũng đã xuất hiện nhiều kiến trúc quân sự của TC. Còn khu vực phía Tây là khu Nguyệt Thiềm (hay Lưỡi Liềm), Quốc gia Việt nam về sau là VNCH trấn giữ. Đến tháng 1 năm 1974, khu này bị mất vào tay TC trong một trận chiến giữa Hải Quân VNCH và Hải Quân Trung Cộng tại vùng đảo Quang Hòa và Duy Mộng. Ngày nay, một bộ chỉ huy nguy nga được xây cất trên đảo Quang Hòa. Đảo Tri Tôn đã được khuyếch trương từ hơn một chục năm

10° 22′ 56.88″ N 114° 21′ 51.27″ E (sân bay ở Itu Aba)

t

rước với một hải cảng to, rộng và năm 2010 được trùng tu thêm. Một dự án khuyếch trương khác đang được chuẩn bị trên đảo Cù Mộc… Các kiến trúc quân sự cũng được xây cất trên các đảo: Duy Mộng, Quang Ảnh, Đá Lồi, Bãi Ngầm Sơn Dương, Đảo Hoàng Sa… Tưởng giới Thạch hay Đài Loan không có liên hệ gì với Hoàng Sa từ đó nữa.

Tại Trường Sa, Tưởng chỉ còn giữ một đảo duy nhất. Đó là Itu Aba, và Đài Loan gọi là Thái Bình và TC gọi là Ba Bình. Và cho đến nay Đài Loan vẫn còn chiếm giữ đảo ấy. Đài Loan có ít cơ sở quân sự cho khoảng 200 quân đồn trú, có đài khí tượng, trạm viễn liên. Có một phi trường và trong năm 2007, được nới dài 2 km cho các phi cơ lớn có thể lên xuống. Tháng 2 năm 2008, Trần thủy Biển bí mật ra thăm Itu Aba trước khi hết nhiệm kỳ vào tháng 5. Đài Loan tuyên bố rằng mục tiêu chiếm đóng Itu Aba là quân sự. Ngày 30 tháng 3, 08, Đài Loan cho nới rộng bãi cạn Bàn Than, cạnh Itu Aba…

II.Giá trị pháp lý về chủ quyền của Đài Loan trên Hoàng Sa và Trường Sa trong đó có Itu Aba.

Bộ Ngọại Gia Đài Loan thường tuyên bố và nay nhắc lại “ Về mặt lịch sử và địa lý, và chủ quyền, Trường Sa là lãnh thổ truyền thống của Đài Loan. Chủ quyền và quyền hạn trên các hòn đảo ở đây là không thể tranh cãi.” Tất cả các biện luận của Đài Loan dựa trên lịch sử, địa lý và pháp lý đã không có một cơ sở nào cả. Họ tuyên bố một cách võ đoán.


Các biện luận này nghe y như là luận điệu của Trung Cộng thường nêu ra trong nhiều chục năm nay. Ở đây, ta không bàn cãi vì vấn đề chủ quyền đã được đề cập trong cuốn Hồ Sơ Hoàng Sa và Trường Sa và Chủ Quyền Dân Tộc ( 2008) với các bản đồ cổ do học giả VN và quốc tế vẽ từ thế kỷ 16 trở về sau và các sử liệu của VN (1).

Tuy nhiên có một điều ghi nhận là không biết có phải là do toa dập của Trung Cộng và Đài loan với nhau , mà cả hai, dù đối nghịch với nhau có vẻ ‘kịch liệt’ lại có cùng một luận điệu như nhau, khiến người đọc tưởng chừng các tuyên bố này phát xuất ra từ một cơ quan duy nhất. Người ta nhớ lại ngày 28 và 29 tháng 6 năm 1994, 10 học giả TC từ Hoa lục bay qua Đài loan để dự một Hội nghị với 100 học giả Đài Loan về chủ quyền của Trung Hoa trên Biển Đông.


Hội nghị ra một tuyên cáo nói rằng Trung Hoa có chủ quyền trên Biển Đông. Tuyên cáo hô hào và kêu gọi Hoa Kiều tại hải ngoại trên khắp thế giới, giúp họ tìm kiếm bằng cớ chứng minh chủ quyền của Trung Hoa (cả quốc lẫn cộng) trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (2). Nay, cả hai, quốc cộng Trung Hoa luôn nói rằng các quần đảo này là của Trung Hoa như trên.

Về địa lý, thì vị trí Đài Loan ở vào vĩ tuyến 22 ( vĩ tuyến 22 chạy qua giữa đảo quốc này) và Itu Aba ở vĩ tuyến 10, nghĩa là cách nhau rất xa, khoảng hơn 700 hải lý, hay hơn 1300 cây số, thì Đài Loan cắt nghĩa như thế nào để chứng minh Itu Aba là của Đài Loan? Việc chiếm đóng Itu Aba từ 1946 là hành vi bất hợp pháp, và từ đó đến nay Đài Loan đã xây cất doanh trại, phi trường, đóng quân tại đây. Điều này không thể biện minh chủ quyền của Đài Loan về phương diện pháp lý. Hoạt động xác nhận chủ quyền như trên bắt nguồn từ hành vi phi pháp của Tưởng không thề được dùng để biện minh chủ quyền:


a) Nhiệm vụ mà Hội nghị Potsdam giao cho Tưởng là giải giới quân đội Nhật mà thôi. Tưởng giới Thạch lại nhân cơ hội đó đưa chiến hạm tới chiếm một số đảo thuộc Quần Đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tưởng giới Thạch đã lạm dụng quyền hạn/ vượt quá quyền hạn mà Potsdam giao cho. Potsdam không ban cấp quyền chiếm đóng;
b) Việc chiếm đảo Itu Aba được thực hiện sau ngày mà quân đội của Lư Hán đã hoàn toàn rút khỏi Việt nam vào cuối tháng 8 năm 1946. Quân của Tưởng chiếm Itu Aba vào tháng 12, 1946 và vài đảo khác như Song Tử, Nam Cực.. vào tháng 1 năm sau (1947);


c) Tưởng được giao cho nhiệm vụ giải giới quân đội Nhật trên vĩ tuyến 16. Dưới vĩ tuyến 16, thuộc phần lãnh thổ do quân Anh phụ trách. Các đảo thuộc Trường Sa bắt đầu từ vĩ tuyến 12 trở xuống phía Nam và Itu Aba ở vĩ tuyến thứ 10. d) Sử dụng quân đội để chiếm đóng Trường Sa, lãnh thổ có chủ quyền và nhất là lạm dụng phí pháp quyền tiếp nhận đầu hàng của Nhật trong trường hợp này, rồi kéo dài sự chiếm đóng ấy là hành động trái với luật quốc tế. Tóm lại, vì việc chiếm đóng đã bất hợp pháp, thì hậu quả của việc xác nhận chủ quyền qua lời tuyên bố này không có giá trị gì về pháp lý.

III. Lý do nào Đài Loan lại đưa ra lời kêu gọi này và dự đoán những gì có thể xảy ra?

Bản Thông cáo có nói “tình hình tranh chấp chủ quyền giữa các quốc gia liên quan về những đảo và vùng biển quanh những đảo đó tại khu vực (mà Đài Bắc gọi là) biển Nam Trung Hoa đang gia tăng. …. , đồng thời xác định chủ quyền của họ trên các vùng biển bao quanh các quần đảo này, cũng như vùng đáy biển hay tầng địa chất bên dưới khu vực…” Đài loan kêu gọi “những quốc gia có biên giới với những khu đảo đó gác lại tranh chấp và tìm kiếm một giải pháp hợp lý và hoà bình.”

CHXHCNVN và Cộng Hòa Nhân Trung Hoa, nhất là qua các lãnh đạo cao cấp của hai đảng CS: VN và TH đã gia tăng các hoạt động trao đổi ngoại giao dồn dập, bất thường. Chỉ trong vòng có 6 ngày, từ 12 đến 18 tháng 4 vừa qua, có tới 3 phái đòan cao cấp nhất, quan trọng gặp nhau, trong 4 buổi họp, bàn đến những vấn đề lớn giữa 2 quốc gia, mà những vấn đề ấy lại xoay quanh việc làm sao “hợp tác” với nhau một cách “chặt chẽ”, để giải quyết các vấn đề lớn, trong đó có vấn đề Biển Đông. Vậy tại sao lãnh đạo cao cấp nhất của TC phải gặp với lãnh đạo VC nhân danh “hợp tác chặt chẽ”. Câu trả lời là Lãnh đạo VC không làm đầy đủ để đạt những gì mà TC mong muốn trước tình thế lâm nguy của CSVN:

a). Ở cấp cao cấp nhất, tim ra giải pháp cơ bản cho vấn đề Biển Đông.

Cuộc họp của Quách bá Hùng với Nguyễn tấn Dũng ở Hà nội nhằm mục tiêu này. Bản đồ hình lưỡi bò trên Biển Đông mà Mỹ đã chính thức tuyên bố “cắt” và đã phô trương sức mạnh cảnh cáo TC về vấn đề ấy. Đồng thời Mỹ đã phói trí lực lượng quân sự với các quốc gia trong vùng để đối phó với âm mưu bành trướng của TC. Vì có “sự đồng lõa của VC” với Mỹ, nhất là đã biểu lộ ý muốn và chạy theo Mỹ, TC muốn VC chấm dứt trò chơi này.

b). Ở các cấp thấp hơn, hai bên có các buổi họp về định hướng, tổ chức và chuẩn bị cách thức thi hành các công tác thuộc quân sự , nội an và về tư pháp tại VN. Sự hợp tác cần có chỉ đạo, giám sát chặt chẽ để các hoạt động ấycủa VC đạt của mục tiêu có liên hệ với quyền lợi của TC. Các hoạt động này VC đến này không được chu đáo, đầy đủ. Lãnh đạo TC muốn đi xa hơn nữa, thúc đẩy và kiểm soát việc thi hành trong các lãnh vực kể trên

. 1) Trong lãnh vực quốc phòng, Hùng cũng gặp Bộ trưởng quốc phòng VC Phùng quang Thanh vào ngày 13 tháng 4 để mối hợp tác chiến lược giữa 2 quân đội ‘đi vào thực tế’ và ‘đẩy mạnh hơn nữa sự hợp tác trong nhiều lĩnh vực’ khác nữa (3). 2) Tại Bắc Kinh ngày 18 tháng 4, 11 Lê Hồng Anh họp với Bộ trưởng bộ Công an Trung Cộng Mạnh Kiến Trụ để đẩy mạnh hợp tác về lĩnh vực thi hành công lực giữa hai nước (4). 3). Tại Hà nội, ngày 17 tháng 4, Nguyễn minh Triết găp Chánh án Toà án nhân dân Tối cao Trung Cộng Vương Thắng Tuấn àn về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (5).

Nội dung 4 buổi họp khẩn cấp trên với các chi tiết được hé mở của các lãnh đạo cao cấp có thực quyền tại VN và TC báo hiệu một kế hoạch qui mô, toàn diện chuẩn bị đối phó những điều gì đó có thể xảy ra một cách bất thường. Thí dụ như để đối phó với bất ổn nội tại để giữ vững cho chế độ Hà nội khỏi sụp đổ, hay thí dụ như vấn đề Biển Đông cần có tính toán gì gấp để bảo đảm mục tiêu của TC vì sự đe dọa của Mỹ, hay để mau chóng thực hiện âm mưu hai đảng anh em, hai nhà nước xã hội chủ nghĩa trở thành một, nghĩa là “ ở một tầng cao mới”, để chuẩn bị gấp một trận tuyến đối đầu với đế quốc tư bản chủ nghĩa…

Thực vậy, về củng cố Nhà Nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của CHXHCNVN cần có sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa của Đảng CS TH và nhất là sự bảo đảm trực tiếp từ Vương Thắng Tuấn. cho đại diện VC là chủ tịch nước Nguyễn minh Triết. Điều này có ý nghĩa quan trọng là TC hỗ trợ để VC yên tâm sử dụng tòa án làm công cụ trấn áp mọi chống đối, dù phải áp dụng kiểu xử án trắng trợ của Tòa án nhân dân tối cao Hà nội trong vụ Cù Huy Hà Vũ.

Đẩy mạnh sự hợp tác với Bộ trưởng Công An TC Mạnh Kiến Trụ đóng vai trò cây dù và cũng là ‘cột trụ’ của TC là yểm trợ để Lê hồng Anh cho công an tận dụụg các biện pháp hung bạo đối với dân chúng Việt nam, ngăn chặn “diễn tiến hòa bình” do Hòa Nhài trên thế giới đang bùng nổ để hạ bệ các chế độ độc tài. “Ba đề nghị” mà Quách bá Hùng đưa ra trong lãnh vực quân đội là nhằm mục tiêu là Giải phóng quân Trung Hoa tiến tới kết hợp với Quân Đội Nhân Dân VN làm một lực lượng thống nhất ngõ hầu TC trực tiếp hướng dẫn quân đội nhân dân của CSVN thực hiện mưu đồ bành trướng của TC, một điều mà TC không làm được trên lãnh thổ Việt nam và từ lãnh thổ VN.


Tóm lại, TC cam kết hỗ trợ VC sử dụng toàn lực của guồng máy chính quyền: cảnh sát công an, tòa án và quân đội để trấn áp mọi mưu toan chống đối lại tham vọng của Bắc Kinh. Trung cộng biết rằng nếu VC sụp đổ, chỗ đứng của TC ở Đông Nam Á không còn.

Nên TC ra mặt, hay công khai thúc đẩy VC tích cực hơn để ngăn cản những bất trắc xảy ra cho chúng. Cam kết này còn biểu lộ một tính toán khác của TC là làm sao kiểm soát lãnh đạo VC , ngăn ngừa sự “phản bội” của VC như TC đã chứng kiến, và Dương khiết Trì đã công khai có lời lẽ “ miệt thị” Phạm duy Khiêm trước sự hiện diện của 27 thành viên quốc tế tại Hội nghị ASEAN về An Ninh Khu Vực, Hà nôi, hồi tháng 7 năm rồi tại Hà Nội. Riêng về vấn đề Biển Đông, nếu có gì được giải quyết giữa 2 bên- VC và TC, thì dĩ nhiên Đài Loan biết rằng chúng bị gạt ra ngoài. Và Đài loan đừng bao giờ hi vọng có chủ quyền ở Biển Đông, dù bất cứ tình thế gì xẩy ra tại VN.

Ngoài ra, một sự thực hiển nhiên là Việt nam có một vị trí tối quan trọng trong âm mưu bành trướng của Bắc Kinh và trước tình hình Hoa Kỳ đang gây một ảnh hưởng mạnh với toàn thể các quốc gia trong vùng để ngăn chặn chủ nghĩa bá quyền này.


Từ Hội nghị đối thoại Quốc Phòng Sangri-la ở Singapore hồi tháng 5, và Hội nghị ASEAN An Ninh Khu Vực ở Hà nội hồi tháng 7 năm vừa qua, TC cảm thấy bị ‘cắt lưỡi ( bò)” và bị VC ‘phản thùng’ vì đi với Mỹ. Bắc Kinh đang tìm cách dồn VC vào vị trí hành động như một tay sai, bị kiểm soát chặt chẽ để giữ thế thượng phong với Hoa Thịnh Đốn trong vùng Biển Đông và đối phó với các quốc gia khác trong vùng. Bắc Kinh phối trí lực lượng trên nhiều mặt trận nhằm trói buộc tay sai của họ là đám lãnh Đảng CSVN hiện tại vào nhiệm vụ thực hiện mưu đồ của chúng.

Khẩu hiệu ‘ đoàn kết, hợp tác Trung-Viêt; và nâng cao trình độ hợp tác thiết thực giữa quân đôi hai nước’ như được nêu trong buổi họp ở trên để VC và TC trở thành một khối, một lực lượng thuần nhất có hướng dẫn, có lãnh đạo ( như nói trong nội dung các buổi họp) và sẽ là một sức mạnh đối đầu với Hoa Kỳ, loại Hoa Kỳ ra khỏi ảnh hưởng ở Đông Nam Á.?

Đó là lý do chính mà hai bên “hợp tác với nhau một cách chặt chẽ để tìm ra giải pháp mang tính cách cơ bản để giải quyết vấn đề Biển Đông” như Thông Cáo với Nguyễn tấn Dũng đề cập? Trong phạm vi rộng hơn, dù có nhân danh ‘hợp tác chặt chẽ’ như vậy, người ta thấy rằng TC cũng chỉ hi vọng giúp một phần nhỏ cho ngôi nhà CHXHCNVN đã ở trên bờ và chờ cơ hội sụp đổ. Ngôi nhà ấy có thể được kéo dài thêm một thời gian ngắn nữa. Lý do là kẻ đàn anh không thể tự mình dơ lưng trực tiếp chống đỡ được.

Trách nhiệm chính là chủ nhà, là VC phải tự lo lấy. Lý do chính yếu để VC thi hành kế hoạch này là cần phải có chính nghĩa. Ngoại bang hiện diện trong công tác cai trị, nhất là con nhà Hán, kẻ thù truyền kiếp của dân tộc sẽ mang lại hậu quả nghiêm trọng hơn. Ngoài ra, nay TC dự trù sự hợp tác này dù có chặt chẽ tới đâu cũng không giữ vững nổi vì chỉ chống chế được bằng 3 chân đã xiêu vẹo: chân pháp lý , chế độ tư pháp (Tòa Án) biều tượng cho nhà nước pháp quyền thì đã ruỗng, nên đã phải làm liều như vụ xử án Cù Huy Hà Vũ là thí dụ;


chân an ninh (Công An) đã mục nát: bắt bớ, làm tiền, giam cầm công dân bất hợp pháp và đánh đập đến chết nguời, ngay cả tại đồn công an…xảy ra tràn lan và công khai khắp nơi khắp chốn, từ thành thị đến thôn quê, hỗ trợ và bảo vệ các ‘cường háo ác bá đỏ’ một cách tích cực, nhất là đồng lõa với chính quyền độc tài địa phương để cướp bóc tài sản của lương dân ở nông thôn bằng các hành động nhằm gây kinh hoàng, mà vẫn được nhà nước pháp quyền che chở ; chân quân đội, thì quân đội nhân dân của VC thì bạc nhược, không bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ dân, chống ngoại xâm , nhưng lại lo phục vụ ngoại bang: ngoại bang công khai bắn giết ngư dân, quân đội làm ngơ; ngoại bang chiếm, cướp lãnh thổ, quân đôi án binh bất động và nay chỉ lo làm giầu, tranh nhau ăn với các các nhóm khác …

Như vậy, Vương thế Tuấn, Mạnh kiến Trụ, Quách bá Hùng có cách gì giúp cho chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa anh em được vững chãi, lâu bền? Cái mà họ chỉ giúp để Nguyễn tấn Dũng, Nguyễn minh Triết, Phùng quang Thanh, Lê hồng Anh dưới sự chỉ đạo của Nguyễn phú Trọng và đông bọn là gia tăng đàn áp, dùng bạo lực với tư cách là thái thú người bản xứ, để bóp nghẹt các chống đối đã âm ỉ từ nhiều thập niên qua. Muốn chế độ xã hội chủ nghĩa này được lâu bền hơn, TC phải có cần một chân thứ tư nữa. Bốn chân mới giữ được chiếc ghế thăng bằng. Đó là tài chánh. Không thấy, có phái đoàn chính thức của TC sang ‘làm việc’ với các lãnh đạo VC trong dịp này. Lãnh vực kinh tế tài chánh tại CHXHCNVN này xem ra nguy hiểm và nay trầm trọng lắm rồi.


Chế độ thiếu tiền Mỹ Kim để tồn tại. Nợ lần chồng chất. Ngay cả tiền trả nợ hàng tháng cho quốc tế, VC không có. Không còn ai tin mà giúp đỡ, cho vay. Lạm phát lên gấp bội, và vật giá gia tăng. Sự suy thoái kinh tế càng ngày càng trầm trọng hơn. Tương lai mù mịt. Và chính tình trạng này ảnh hưởng trực tiếp tới sự sống còn của mọi người, mỗi người dân Việt. Đó là nguyên do trực tiếp và là cái cớ cho ngọn lửa như Bouazizi bùng cháy. Có lẽ Bắc Kinh có nhìn thấy chân quan trọng này, nhưng con nhà Hán chỉ sống bằng nghề ‘ăn sương’, vụng trộm, với óc con buôn truyền thống có từ trong xương tủy, nên không muốn bỏ ra quá nhiều tiền, và hỗ trợ công khai, trực tiếp cho mọi người dân Việt. Họ chỉ mốn áp dụng một biên pháp rẻ tiền , ti tiện là mướn và trả công cho vài tên mà chúng nghĩ là trung thành, phục vụ chúng.

Như vậy là đủ chăng? Thí dụ, chỉ trong vụ bauxite Tây nguyên không thôi, chúng chi ra 300 triêu MK cho Nông đức Mạnh, 150 triệu MK cho Nguyễn tấn Dũng. Còn thêm những ai nữa, thí dụ như các kẻ khác trong Chính Trị Bộ, trong hành pháp, trong Quốc Hội, Tỉnh Ủy Lâm Đồng, công ty Khoáng Sản (TVK) làm môi giới, trung gian chẳng hạn, thì nào ai biết. Có thể chúng tiêu tốn thêm nhiều trăm triệu dollars nữa riêng cho vụ bauxite, chưa biết chừng. Rẻ quá để chiếm cứ toàn lãnh thổ VN! Đám con buôn nghĩ như vậy là đủ rồi chăng? Ngôi nhà XHCNVN đã xiêu vẹo, rỗng tuếch, trống không. Có lẽ vì thế con nhà Hán không bỏ tiền vào, vì đó là thùng không đáy, hay tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống?

Nguyên tiền viện trợ của quốc tế hàng năm từ giữa thập niên 1990 đến nay, nhằm ‘xóa đói giảm nghèo’, đã lên tới trên 50 tỉ MK, mà đói nghèo vẫn còn đó. Tuy nhiên, quốc tế làm được một việc là giúp cho một nhóm trong giai cấp nguyên là vô sản, nay đang thống trị tại VN, thực hiện hiện cuộc ‘cách mạng xã hội chủ nghĩa’ trở thành những nhà tư bản vượt bực, cực kỳ giầu có, sánh vai với các tỉ phú quốc tế. Chế độ CHXHCNVN lâm nguy do lãnh vực này và đáng lẽ chân thứ tư này cần được yểm trợ nhiều tiền dollars để có thể kéo dài hơn nữa, thì con nhà Hán lại tỏ ra không mặn mà! Ngược lại, với đầu óc con buôn, chúng còn lợi dụng, tinh vi khai thác, bóc lột nhân dân Việt qua đám Thái Thú người bản xứ mà chúng dựng lên: hàng năm, thặng dư mậu dịch như trong năm 2010 có lợi cho chúng là trên 11 tỉ MK.


Nếu ta làm con số theo kiểu con buôn của con nhà Hán, thì chỉ trong khoảng 14 ngày buôn bán với VC trong một năm, tiền lời của TC chỉ trong vòng 14 ngày là để đủ trả công cho Nông đức Mạnh và Nguyễn tấn Dũng trong vụ Bauxite kể trên. Dù TC chi tiêu dè sẻn, keo kiệt như vậy, người ta ghi nhận được sự kiện là mỗi cá nhân trong Ban Lãnh Đạo VC tranh nhau tìm cách “hợp tác” với kẻ thù của dân tộc. o0o Nhân dịp này cũng cần phải nhắc lại rằng từ trước tới nay hai đảng CS này đã có nhiều điều mờ ám, như VC tự ý chuyển giao một phần lãnh thổ, lãnh hải VN cho TC, vụ bauxite Tây nguyên, cho ‘tư nhân Tàu’ thuê rừng dài hạn khắp nơi trên lãnh thổ VN với đặc quyền bắt khả xâm phạm v.v.


Lãnh đạo VC đã có cả gan làm việc tày trời đó. Ngày nay chúng còn bị TC khống chế nhiều hơn trước, e rằng chúng không ngừng bước tiếp tục phục vụ Bắc Kinh nhiều hơn, nhất là cả tập thể lãnh đạo hiện tại “vô tài bất tướng” trong lúc đang hoang mang, lúng túng, bất an vì sự sụp đổ gần kề, trước các chống đối, các áp lực của toàn thể dân tộc. Lãnh đạo VC tìm cách được lệ thuộc nhiều hơn vào quan thày để mưu sự sống còn. Hơn nữa, chúng lại không còn được hậu thuẫn của các quốc gia khác nữa. Về Biển Đông, chính vì tham vọng của mình, Bắc Kinh không muốn công khai họp với toàn thể thành viên ASEAN về Biển Đông vì biết rằng các quốc gia thành viên ấy có quyền lợi sinh tử của họ ở đó.

Quyền lợi sinh tử của họ là vì đe dọa của chính Bắc Kinh, nên nay họ phải công khai tìm cây dù của Mỹ để sống còn. Nếu Bắc Kinh chủ trương sống hòa bình, hợp tác hài hòa với mọi người để phát triển, thì đâu có vấn đề gì phải đặt ra. Cũng vì thế, Bắc Kinh né tránh, cũng không muốn họp cả với quốc gia khác như Ấn Độ, Úc, Nhật, Mỹ, Liên Âu v.v. vì họ đòi hỏi giải quyết vấn đề Biển Đông một cách hòa bình, trong sáng và công bằng. Nhưng Bắc kinh chỉ tính toán mập mờ, mơ hồ với tay sai là VC để thực hiện mưu đồ của mình mà thôi./.

Ghi Chú:
1. Nguyễn văn Canh, “Hồ Sơ Hòang Sa & Trường Sa và Chủ Quyền Dân Tộc”, UBBVSVTLT, 2008; và “Chủ Quyền Lãnh Thổ và Bành Trướng Bắc Kinh” ( Bản Đồ và Hình Ảnh), UBBVSVTLT, 2010 2. Tuyên Cáo ký ngày 22 tháng 7, năm 1994 của Nhóm Trí Thức VN Hải Ngoại họp tại Đại học Stanford, California, phản đối Tuyên cáo của nhóm Học già TC và Đài Loan họp tại Đài Loan ngày 28 và 29 tháng 6 năm 1994 về chủ quyền Trung Hoa trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Xem Nguyễn văn Canh “Cộng Sản Trên Đất Việt”, 2002, Kiến Quốc, trang 368-370,. 3. Theo đài Băc Kinh, trong cuộc hội đàm với Phùng Quang Thanh ngày 13.4, Quách Bá Hùng đã nêu ra “đề nghị 3 điểm” trong việc hợp tác quốc phòng giữa hai nước Trung-Việt:

“Môt là, tăng cường tiếp xúc chiến lược, nắm vững đinh hướng đứng đắn phát triên quan hê Trung-Viêt; Hai là, coi trong tuyên truyền hướng dân, tích cực tao bầu không khí hữu nghi, đoàn kết, hợp tác Trung-Viêt; Ba là, làm phong phú nôi dung giao lưu, nỗ lực nâng cao trình độ hợp tác thiết thực giữa quân đôi hai nước.“

4. Các giới chức an ninh Việt Nam và Trung Cộng đã tiến hành hội đàm tại Bắc Kinh hôm thứ Hai ( 18 tháng 4, 2011) để cam kết thúc đẩy hợp tác về lĩnh vực thi hành công lực giữa hai nước. Bộ trưởng Bộ Công an Việt Cộng Lê Hồng Anh và Bộ trưởng bộ Công an Trung Cộng Mạnh Kiến Trụ đã tham gia buổi hội đàm này. Mạnh Kiến Trụ nói rằng việc hợp tác thi hành công lực là một phần quan trọng trong công cuộc hợp tác hữu nghị giữa Trung Cộng và Việt Nam, hy vọng hai nước sẽ hợp tác mạnh mẽ hơn nữa trong các lĩnh vực như chống nhập cư bất hợp pháp, khủng bố và gian lận viễn thông, tăng cường công cuộc hợp tác truyền thống và thúc đẩy một chiến lược đối tác tổng thể giữa hai nước.

Lê Hồng Anh khẳng định Việt Nam sẽ tham gia cùng Trung Quốc trong nỗ lực tăng cường cơ chế hợp tác để chống tội phạm và duy trì trật tự xã hội. 5. Đẩy mạnh hợp tác ngành tòa án Việt – Trung Nguyễn Minh Triết hôm 17 tháng 4 tiếp Chánh án Toà án nhân dân Tối cao Trung Cộng Vương Thắng Tuấn. Nguyễn Minh Triết đánh giá cao sự hợp tác của ngành toà án giữa hai nước, và đề nghị tăng cường việc hợp tác, trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghiã. Vương Thắng Tuấn phát biểu rằng Việt Nam và Trung Cộng đều là hai nước theo chủ nghiã xã hội, nên có nhiều vấn đề tương đồng, và cũng đương đầu với những thách thức tương tự. Hệ thống luật pháp của hai nước đều đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế-xã hội, và bảo vệ luật pháp mỗi nước.
—oOo—