Saturday, August 25, 2012

VÕ PHƯỚC HIẾU * ĐÁM CHÁY ĐẦU XUÂN

Đám Cháy Đầu Xuân

Võ Phước Hiếu
Bà Bảy Nở vội kéo hai vạt áo dài, buộc tréo phía trước lưng quần, miệng rang rảng vọng xuống hướng bến sông. Nơi đầu bến có cái cầu vó, cất bằng thân cây mù u già chắc thịt, thêm tiện nghi nhờ có mái lợp với chỏng tre dùng để ngã lưng đêm hôm tăm tối:
- Bún! Bún!
Chiếc xuồng ba lá đổi bún quày quả chĩa thẳng hướng bến sông. Thím Chín Tý lanh tay, ghịt mũi xuồng vào chân cầu vó.
Thím nói như có ý trách vu vơ:
- Nước rặc quá! Bến cạn queo. Nghe rồi chị Bảy. Tui neo ghe ở cầu vó đây. Chị cảm phiền chịu khó xuống bến nghe!
Chẳng mấy chốc, bà Bảy Nở đã đối diện xuồng bún. Tay bà cầm cái rổ quảo có lót một mớ lá chuối xanh um mướt mượt. Trước đó không lâu, bà vừa đi vừa rọc vội vàng trên đường xuống bến:
- Hôm nay ăn mấy vậy thím? Lúa của tôi kỳ này là nàng hương thơm ngon chớ không phải loại sóc nâu, nàng phệt hay nàng quớt như mấy lần trước đâu.
- Nàng hương sạch, tui đổi hai quảo rưỡi. Quảo lum lúp. Còn sóc nâu, nàng phệt, nàng quớt… phải ba quảo gạt mặt.
Thím Chín Tý độ non bốn mươi tuổi. Nhà ở cheo chéo đình làng, có bến nước công cộng với một cầu ván lâu đời láng o. Nước lớn ngập khỏi chân cầu, nuốt trọn tấm ván, chỉ còn lé đé đoạn kê trên bờ.
Nhưng lúc nước rặc ròng như hôm nay, chảy mạnh như cắt, tấm ván cầu chúi nhủi thòng xuống lòng sông cả đôi ba thước tây, giúp người qua đò không phải lội sình, lấm lem lúc bước lên bờ. Những lúc này, phải tuyệt đối thận trọng, chú ý từng bước đi. Tấm ván cầu trơn chùi đó do bụi bùn non bám vào càng trơn như thoa dầu trét mỡ. Không khéo, khách trợt chân nhào xuống sông như trở bàn tay.
Nhờ ở sát bến nước công cộng, có con đò nhỏ đưa rước khách bộ hành, người qua kẻ lại tuy không tấp nập rộn rịp nhưng chẳng ngày nào vắng bóng. Ngoài công việc đồng áng phụ giúp chú Chín ngày mùa, thím còn có cái nghề tay trái, bổ sung phần thu nhập gia đình nơi vùng khẩn hoang lập ấp, lúc nào cũng cần một số vốn tối thiểu để chịu đựng đường dài.
Đất khẩn hoang, một hai mùa đầu, đôi khi cả ba bốn mùa tiếp nối là khác, đã vất vả khổ cực trần thân nhưng đất mới còn ráo hổi nào có huê lợi chi đáng kể. Mùa màn èo uộc. May mắn lắm mới đủ ăn.
Thím nghĩ ra một cách giúp chồng khá độc đáo. Thím xay gạo làm
    bún rồi đem đổi lấy lúa kiếm chút lời. Cứ đôi ba ngày đổi một lần. Riết rồi bà con tôi thuộc lòng ngày nào lò bún của thím hoạt động.
    Công việc cũng đăng đăng đê đê liền tay. Xay lúa, giả gạo, tẻ bột, giáo trùng, đổ bún... May nhờ có mấy cô cháu chồng, tuổi vừa cập kê, tận tình tận lực giúp một tay nên bà con trong xóm có bún ăn thường xuyên.
    Bún đổ xong từ hừng đông được thím Chín bươn bả chất lên chiếc xuồng ba lá, bơi dọc theo sông rạch, kinh đào, từ ấp này qua ấp kia rao lanh lảnh gọi mời:
    - Đổi bún! Đổi bún!
    Lò bún của thím Chín Tý rất đơn sơ do hoàn cảnh phương tiện thiếu thốn nơi vùng đất mới khẩn hoang. Mỗi lần thím đổ không nhiều. Chỉ ngam ngám vừa đủ nhu cầu tính theo đầu nhân mạng trong xóm có thói quen đổi bún. Thím còn canh theo thời tiết mùa màn hoặc lễ lộc, Tết nhứt. Có thiếu cũng tốt. Nhưng tuyệt đối không cho dư. Ế ẩm, lỗ vốn.
    Bộ ván ngựa được tách đôi, kẹp chặt khuôn bún với cần ép bằng lỏi cây dẹt rắng chắc mà bọn róng mắc, lục lăn lục lửa chúng tôi hay nhảy thót lên ngồi ép bún hụ hợ với mấy anh chị lớn. Có đứa quen thói trửng giỡn phá phách cứ đánh đu lúc la lúc lắc khiến thím Chín la ó không ngớt miệng.
    Dưới bộ ván ngựa có nồi nước to bình rỉnh, nám khói đen xì. Lửa củi phừng phực, nước sôi bùng, khói nóng quyện cuồn cuộn. Mặt mày thím thường xuyên tươm lấm tấm mồ hôi hột cứ quyện vào nhau nhỏ giọt xuống sàn đất nhưng dường như thím không bao giờ để ý đến.
    Mỗi quảo bún được đổi lấy mấy quảo lúa tùy theo lúa tốt xấu, mới cũ, sạch dơ và cũng tùy theo sự kỳ kèo mà cả của bà con. Bún của thím Chín trắng ngần, mềm nhủn lại dai nên bà con rất ưa thích. Nhờ cái nghề đổi bún này, thím Chín đỡ vất vả so với bà con lối xóm, dầm sương dãi nắng quanh năm suốt tháng ngoài đồng không mông quạnh.
    Bà Bảy Nở và thím Chín Tý trao đổi thêm bớt một đỗi rồi sau cùng cũng đồng ý với nhau về tỷ lệ bún và lúa. Cả hai đều tỏ ra bằng lòng ưng ý lắm qua những nụ cười giã từ níu kéo, niềm nở cảm thông.
    Chiếc xuồng thím Chín vừa trở mũi tách khỏi cầu vó, bà Bảy Nở băng tắt qua liếp mía huyết, khom lưng dưới giàn bầu lòng thòng đôi ba chục trái lớn nhỏ đủ cỡ. Có trái được gióng bằng một vỉ tre, ghịt lên giàn để trái nặng không làm đứt dây bầu cái.
    Bà hối hả đổ bún vào rá, treo lủng lẳng ở trần mái hiên nhà, đậy đượm cẩn thận. Chó treo mèo đậy mà! Ông bà xưa cảnh giác đề phòng nhưng thực tế không sai chút nào.
    Chiều nay cả gia đình bà có dịp cùng quây quần ngồi chung nhau nơi một mâm cơm ấm cúng, hạnh phúc và sẽ thỏa thê với bún nước mắm tỏi ớt. Loại nước mắm này lấp lánh những miếng ớt hiểm cay thấu mây xanh, vừa xanh mơn mởn vừa đỏ au, to nhỏ không đều, nổi lềnh bềnh hấp dẫn nhãn quan. Bún ráo hổi, thơm ngon lại được trộn với mỡ hành hương, dậm thêm một ít tép mỡ gáy dòn rụm, ăn lúc đói sau ngày dài làm lụng cực nhọc thấy đời lên hương vô bờ bến.
    Trong xóm, khi nói đến bún ngon là biết ngay bún của thím Chín Tý. Hôm nào đau ốm ể mình, thím đóng cửa lò bún, bà con phải gởi mua bún ở chợ quận. Đường nước xa xôi cả ngày cả buổi, bún để lâu lạnh ngắt, đóng thành về, không sao so bì được.
    Cái tên Chín Tý đã gắn liền với lò bún quê hương tôi từ bao thập niên nay. Và cái tên Chín Tý cũng đã đảm bảo phẩm chất bún Rạch Rít, không cần phải dựng bảng hiệu để giới thiệu hay quảng cáo lăng nhăng phiền hà.
    Chỉ cần cái tên Chín Tý là có sự tín nhiệm của bà con tôi rồi. Họ lấy cái tên cúng cơm cha mẹ đặt hay tục danh làng xóm gán cho để đảm bảo uy tín mình. Bún thím Chín Tý cũng như ba xi đế ông Bảy Sô, cối xay lúa của chú Bảy Cối... đã đi vào huyền thoại trong sinh hoạt và sự phát triển làm nên một thời của xóm tôi.
    Bà Bảy Nở cất bún xong, têm miếng trầu bỏ vào miệng nhai rào rạo ngon lành. Bà đến giá áo, kéo cái khăn rằn choàng vai, đoạn bước chéo ra hiên vói lấy nón lá cũ bạt màu, bươn bả phóng nhanh ra hướng đầu ngõ.
    Ông Bảy trước khi đi thăm ruộng đã căn dặn bà đôi ba lần:
    - Bà nhớ đánh một vòng xóm trên xóm dưới, báo cho bà con biết rằm tới mình làm heo chia thịt. Bà con nào muốn chia, đến chia.
    Ông Bảy lại nhắc thêm:
    - Bà nhớ đừng bỏ sót một ai. Bà con đều là bà con cả. Không có ai trọng ai khinh. Kỳ rồi mình sơ ý bỏ sót thằng Mười Tống. Nó là em út dễ thương lại biết điều nhưng để sót nó, tôi buồn và ngại quá. Gặp nó tôi ngường ngượng làm sao! Nó nghèo thật đó. Nghèo tiền, nghèo bạc nhưng không nghèo nhân nghĩa. Xóm mình mấy ai lạ gì nó. Tôi chỉ sợ nó hiểu lầm mình khinh dễ nó, bộ mình sợ nó không tiền chia thịt sao mà không báo nó biết.
    Từ dạo xóm Rạch Rít của tôi phát triển sung túc, bà con an cư lạc nghiệp, phất lên mau vùng vụt. Họ thoải mái thảnh thơi trong cuộc sống hằng ngày. Nhà ba gian hai chái lợp ngói âm dương đỏ au, chen lẫn với những nhà lá vách bổ kho, nền cao cửa rộng, cùng lẫm trại thênh thang dọc ngang ngang dọc.
    Ngoài cháo rau cá tép, mắm muối ngày xưa, thuở những năm đầu khẩn rừng lấn vũng quần quật đêm ngày, bây giờ đã là quá khứ. Nay trong mỗi bữa cơm thường nhựt hầu như bà con đều có thêm thịt thà và cả niềm vui nữa. Thường nhất là thịt heo nhưng thỉnh thoảng ông Bảy Nở cũng mổ bò giết trâu.
    Những lần chia thịt này rậm đám lắm. Kẻ nấu nước. Người cạo lông, ra thịt. Nói cười inh ỏi, vui nhộn cả góc vườn.
    Họ lẩn quẩn ở mé mương, được lót bằng tàu dừa tươi xanh với những tàu lá chuối hột to lớn. Con heo khá to vừa cạo lông xong, sạch sẻ trắng phao, được treo tòn ten thòng đầu ở nhánh ổi xá lị.
    Ông Bảy Nở chìa cái nia có lót lá chuối cẩn thận rồi ra lịnh cho Tư Ty chịu trách nhiệm ra thịt kỳ này:
    - Thằng Tư! Mầy nhớ cắt cái thủ vĩ rồi bảo bầy trẻ làm lông cho thật sạch. Thêm bộ đồ lòng nữa. Đừng để thiếu coi không được à. Tao đã hứa từ mấy tuần trước dành cho anh Hương thân Bưởi để ảnh làm lễ cúng căn cho thằng cháu nội đích tôn của ảnh. Cái nia của ảnh đây nè. Xong, nhớ bảo bầy trẻ quảy qua cho ảnh.
    Tư Ty chọn con dao bén ngót nó ưng ý nhứt, te te đi thẳng một mạch đến miệng lu vú kê sát hè nhà. Anh lanh tay liếc qua liếc lại nhiều lần cho dao bén thêm. Trông cử chỉ cũng điêu luyện lắm.
    Anh day qua nói với giọng khẳng định:
    - Chú Bảy đừng lo. Tôi nhớ mà. Quên làm sao được. Tôi còn trẻ mà chú.
    Lần xẻ thịt này vắng mặt chú Bảy Cối, chuyên viên sành sõi của xóm tôi nên thằng Tư Ty mới có dịp được chọn thay thế. Dù đã chuẩn bị kỹ nhưng nó loay hoay xoay trở vụng về thế nào khiến ông Bảy Nở bực mình xăng tay áo, chê nó rậm rề:
    - Tư ơi là Tư! Mầy ra thịt kiểu này, đã mất thịt mà trông chẳng thấy thèm ăn chút nào cả. Thôi đưa con dao cho tao. Cái thằng chẳng phải hạng làm biếng làm nhác chảy thây. Nhưng nảy giờ tao thấy mầy làm bằng tay trái, tao ngứa con mắt quá! Quả thực thiên hạ nói không sai: “tay trái bóp dái không đau” mà. Tao nói mầy đừng buồn nghe Tư. “Không có chó bắt mèo ăn cứt” làm sao vừa ý được?!
    - Chị Hai đưa rổ chị đây. Hai kí ba chỉ phải không?
    - Phải đó anh Bảy. Thêm cho tôi cái giò sau, một khúc xương mông với cái đuôi về hầm măng Mạnh Tông.
    - Cảm phiền nhe chị Hai. Cái đuôi không thể được. Anh Hương thân đã dặn rồi cho đủ bộ để cúng căn thằng cháu nội ảnh. Cái nia của ảnh kia kìa. Chị thấy đó, bầy trẻ làm lông chắc cũng gần xong. Chị lấy đỡ mấy cái khu lẳng được không? Nói khu lẳng nhưng tôi ra nới tay lắm, thịt thà còn hiếm. Chị thử lần này đi. Lần sau chưa chắc có.
    - Tất cả bao nhiêu tiền vậy anh Bảy?
    Ông Bảy Nở đưa tay vuốt mồ hôi trán, chép miệng:
    - Thì chị Hai đem về nhà trước đi. Đăng đăng đê đê quá, tính toán gì kham. Cứ lấy đi, thủng thẳng vài ngày tôi quởn quởn sẽ qua tính sau. Bà con mà, mất mát ở đâu?! Bộ nhiều nhỏi lắm sao chị?
    Bà Hai Khánh quày quả bưng rổ thịt, miệng rổ như dính khắc bên hông, thong dong đi ra ngõ trong khi ông Bảy Nở lấy ra tấm giấy lịch, có ghi bút chì ngoằn ngoèo:
    - Tư à! Mầy nhớ nhắc tao kẻo tao lu bu để sót mếch lòng. Coi chừng đừng quên cái nồi gọ, 3 kí 4 kí thêm bớt chút ít cũng được. Phần của bác Sáu Ngởi đặt cọc trước, căn dặn đôi lần ba lượt, tao sợ quên nên ghi làm tin đây. Đám giỗ đó, bây biết không? Quên là đến ngày đó mình tren quẻn. Chắc tao phải bỏ xứ này trốn đi tìm nơi khác làm ăn. Mặt mũi nào dám nhìn ảnh.
    Một đỗi sau, ông Bảy Nở bấm từng đốt tay, chú ý kiểm tra từng người một trong xóm rồi thở phào ra chiều đắc ý:
    - Tao duyệt kỹ rồi. Hầu như đầy đủ cả. Thằng Mười Tống cũng có chén huyết với non một kí thịt nọng. Tội nghiệp! Nó nghèo bẩn chật. Dường như bây có cắt thêm cho nó một chéo hông xôi thì phải. Bây làm tao coi được đến. Thây nó! Mình rộng rãi cho nó vui. Mà thật tình nó đâu có đòi hỏi gì mình!
    Ông tiếp:
    - Kỳ rồi mình quên phức nó. Nó cũng chẳng nói gì. Nhưng khi gặp lại nó, tao ái nái quá trời. Mình sống với nhau vì tình vì nghĩa chớ có trọng khinh ai đâu. Hôm nay kể như xí xóa với nhau và tao mới nhẹ nhỏm, thơi thới trong lòng, xem như vơi phần nào bầu tâm sự.
    Cái nồi cháo lòng bắt trên ba thỏi đá xanh giữa sân phơi lúa trước nhà đang sôi bùm bụp bùm bụp... Mỡ heo óng ánh trên mặt làm thành một lớp dầy cui lềnh bềnh. Mấy miếng thịt vụng được Tư Ty thả vào nồi từ lúc bắt đầu ra thịt, lặn hụp trôi lêu bêu.
    Ba mớ thịt xà bần, loại thịt và mỡ thập cẩm lớn bằng nắm tay trở xuống, loại thịt tạp nhạp không thể chia cho ai, được Năm Lịch xắt nhỏ. Xong anh ướp xả ớt, củ hành hương, tiêu hột, đường muối, thêm ít lá chanh non thái nhuyễn, hòa với ruột non thố linh bầm, dồn thành mấy xâu dồi no phồng cả thước tây cũng được thả gọn vào nồi cháo. Cả ban tổ chức sẽ say sưa la liệt đêm nay.
    Thím Bảy Nở đẩy củi vào lò xong, gánh hai thúng thịt được buộc thành xâu đem giao tận nhà bà con bận bịu đồng áng hay đơn chiếc không đến được. Lúc đi ngang nhà Tám Thôi, anh đang vỡ vồng khoai mỡ, thím đánh tiếng:
    - Chú Tám vẫn chưa qua lấy thịt. Sao còn ở đó? Bà con ở bển sắp xong hết rồi.
    - Cám ơn chị Bảy có lòng tưởng nhớ nhắc nhở thằng em. Mấy hôm nay tôi bận quá trời nhưng chị an tâm. Tôi đã nhờ thằng Tư Ty mang về giùm phần thịt của tôi chiều nay. Mà cũng chẳng có gì nhiều.
    Lấy tay vuốt mồ hôi trán, anh tiếp:
    - À lượt về, chị nhớ ghé lấy vài củ khoai mỡ về ăn. Năm nay tôi thả mấy vồng trúng mưa trúng nắng. Củ nào củ nấy to bằng đầu gối người lớn. Đã chắc thịt, dầy cơm mà chẳng có sâu sùng chi cả.
    Anh còn nói vói theo:
    - Chị nhớ nhé chị Bảy.
    * * *
    Bà tôi cầm cái đèn dầu trứng vịt để ở đầu giường, vén mùng chun vào, cẩn thận ém đi ém lại rất kỹ. Muỗi mòng ở xóm Rạch Rít của tôi cũng như những nơi khẩn hoang lập ấp khác nhun nhúc, vo ve ngày đêm như trẩy hội.
    Bà nhè nhẹ thò tay ra ngoài, phất tay liên tiếp mấy cái mạnh để tắt đèn. Tim đèn hãy còn đỏ ửng, từ từ uốn thành vòng cung rồi lịm dần trong u tối.
    Cử chỉ quen thuộc đó, bà tôi đã làm từ hơn nửa thế kỷ nay. Một cử chỉ sản khoái toại nguyện vì bà tỏ ra sung sướng đã kết thúc một ngày làm lụng không ngừng tay, đón đợi giấc ngủ an tịnh trong lành.
    Bên ngoài vắng vẻ tĩnh mịch như thường lệ. Nhạc bản ngàn đời của côn trùng ếch nhái bắt đầu trổi lên dai dẳng buồn tênh, ru giấc ngủ ông bà tôi thêm nồng nàn say đắm. Vài tiếng chim ăn đêm quá quen tai chập chập vút lên đâu đó bên liếp mía, vồng khoai, ngoài vườn cau vườn dừa, cũng không thể phá giấc ngủ vùi đó, chuẩn bị sức lực cho ngày mai đón đợi.
    Bỗng cặp chó Mực, chó Mốc của ông bà tôi cất tiếng sủa thúc bách lắm. Chúng nó hùa nhau sủa càng lúc càng thêm hậm hực. Khi nhảy ào tới ngừ ngừ to tiếng như ở tư thế đối đầu tấn công, khi khịt khịt sợ hãi như muốn thối lui cầu cứu bên trong.
    Ông tôi khẽ thức. Tuổi già đêm đêm khó ngủ. Đêm nào ngủ đuợc khoảng bốn năm tiếng đồng hồ, ông cho là ngon giấc. Ông biết ngay có động tịnh. Nhanh như chớp, ông choàng phóc dậy xem xét tình hình.
    Bà tôi cũng vừa giựt mình, vói tay lấy ống quẹt để ở đầu giường. Bà định đốt đèn để dễ quan sát. Ông tôi suỵt nhỏ vừa đủ nghe, ra dấu cản ngăn.
    Thình lình con chó Mực bị một đòn độc hiểm kêu ăng ẳng thiểu não vang trong đêm vắng. Dù đau đớn, nó vẫn hùa với con Mốc tiếp tục sủa về hướng sát hàng ba nhà.
    Có tiếng chân người đi thình thịch vội vã bên ngoài. Ông tôi đoan quyết có tai biến. Ông lanh chân đến sát cửa sổ, nhìn xuyên qua mấy lá sách. Trăng non còn lu lúc đầu hôm, nhưng ông tôi cũng dễ dàng nhận định:
    - Cướp! Cướp! Tôi đếm kỹ chúng nó ít lắm cũng năm sáu đứa với dao mác, gậy gộc. Bà vào buồng tìm nơi ẩn trốn với đám nhỏ. Để mình tôi ngoài nầy ứng phó.
    Bà tôi chưa kịp quay gót, ông tôi đã phi thân nhanh như gió, giống như những nhân vật huyền sử huyền thoại trong bộ truyện chương hồi Phong Thần của Tàu. Ông âm thầm biến dạng trong u tối đêm đen khiến cho bà tôi thêm âu lo sợ hãi.
    Ở ngoài hàng ba và chái hiên, cửa cái cửa hông bắt đầu bị bọn cướp chia nhau đập phá ầm ầm, dồn dập khẩn trương lắm. Mấy khuôn ảnh, ông bà tôi chụp chung nhau lúc còn thanh xuân cùng hình ông bà cố tôi treo trên vách trang trí lâu ngày, bị động mạnh sút đinh đứt giây, rớt xuống nền gạch, kiếng bể rổn rảng. Bà tôi càng thêm hồn phi phách tán. Bà bắt đầu chắp tay lâm râm cần nguyện.
    Tiếng lao xao giục giã thúc hối nhau bên ngoài, nghe tiếng được tiếng không, chen lẫn tiếng sủa của hai con chó Mực và Mốc vẫn tiếp tục làm phận sự. Mấy cái song hồng gài cửa bị nện mạnh liên hồi cọ vào cột nghe lập cập lập cập… như run rẩy trước bạo lực. Cửa trước bị đập, bị dọng nhưng chưa hề hấn.
    Nhà ông tôi rất chắc chắn. Nơi khỉ ho cò gáy xa xôi cách trở, quyền lực cách ngăn vời vợi nên ông tôi chuẩn bị phòng vệ kỹ càng từ lâu. Ông lo xa đối phó tai biến do bọn lưu manh đàng điếm, lòng tham không đáy, chực chờ chém giết, khủng bố người dân lương thiện, khảo tra cướp của. Song hồng dọc. Song hồng ngang. Tầng trên, tầng dưới dầy cui. Cửa nẻo bằng ván gỗ chắc nịch.
    Thuở nhỏ, cứ chiều chiều, tôi hay lẻo đẻo theo ông tôi đóng cửa. Hết cái nầy đến cái kia. Mỗi lần gài song hồng xong, ông còn rà tới rà lui xem nó ngám chưa?
    Nhà ngói ba gian hai chái, cửa trước cửa sau, cửa cái cửa sổ khoản khoát nên đóng cửa xong, đốt nhang cắm lên dãy bàn thờ ba bốn cái, trèo lên trang gióng chuông, thắp hương trong thế giới tĩnh lặng như đong quánh lại, cũng phải mất một thời gian dài. Thường cứ chạng vạng tối, ông tôi đã làm xong an toàn cả. Ông có ý thức cảnh giác và thận trọng lắm.
    Cướp càng hung hãn.
    Bên trong bà tôi đâm lo, hiệp cùng người ăn kẻ ở trong nhà bắt đầu la ó kêu cứu inh ỏi, đập thùng thiếc ầm ầm, vang vọng chát chúa trong đêm. Dọng cửa trước không xong, cướp chuyển ra phía sau. Chúng dùng búa bửa cửa, cũng ì đùng, cũng bóp chát rờn rợn. Lại thêm tiếng quát tháo hăm dọa vọng ngược vào nhà. Bên trong vẫn ở tư thế ứng phó, sợ hãi.
    Chập chập, bà tôi ngồi bệt nơi kẹt vách, lần chuỗi hột, miệng tiếp tục lâm râm khấn vái Phật Trời, các đấng khuất mày khuất mặt hộ trì cho sớm tai qua nạn khỏi. Bà lắng tai nghe phía trước đã im tiếng hẳn và phía sau đang bị tấn công dồn dập nhưng bà tỏ ra an tâm hơn. Dù cửa sau có bị phá vỡ, cướp còn phải vượt qua một giàn cửa ăn thông lên nhà trên nữa.
    Bên ngoài đã có tiếng mõ hồi một vang vang. Lúc đầu rời rạc ở đầu xóm. Dần dần có tiếng cốc cốc, cốc cốc… sát bên nhà. Chừng một đỗi sau, mõ rợp trời. Đầu trên xóm dưới không ngưng, rền tai. Có tiếng kêu gọi nhau dồn dập xa xa.
    Loại mõ này làm bằng rễ tre già, được đục đẽo khéo léo láng nhẵn, to bằng bắp chân, cong cong ở hai đầu. Ruột được khoét rỗng. Tiếng thanh tre đánh vào mõ, dội khoảng trống nghe vừa to vừa thanh.
    Nhưng cái to tiếng nhất là cái mõ ở đình làng. Nó lớn cả hai tay thanh niên lực lưỡng ôm chặp lại, dài hơn thước tây. Thường xuyên nó được đặt trên cái giá cây với cặp dùi bằng cườm tay người lớn. Bà tôi tỏ ra an tâm hơn với tiếng mõ hồi một đó.
    Bọn cướp dường như nao núng nên việc đập cửa, dọng vách có mòi lơi hơn trước nhiều. Chúng nó cãi cọ nhau, chỉ trích chê trách nhau, chưởi thề với những ngôn từ tục tằn, bẩn thỉu xa lạ vang rân ngoài sân, mà bà con tôi vốn mộc mạc chất phác, chí thú làm ăn với mồ hôi nước mắt ít khi nghe lọt tai.
    Một tiếng súng nổ đoành, xé tan màn đêm làm cho lũ chim chóc giật mình thức giấc, kêu lên vài tiếng ngơ ngác hoảng hốt. Bị động quá sớm do sự đoàn kết nhất trí của bà con trong xóm quyết tâm chống bọn bất lương cướp của giết người và chán nãn trước viễn ảnh thất bại chua cay không tránh khỏi, bọn cướp giục nhau thu dọn đồ nghề, chém vè chuồn nhanh.
    Bà tôi nghe rõ ràng giọng thúc hối của chúng và tiếng chân người hấp tấp ngoài vách nhỏ dần, nhỏ dần… Trong khi hai con Mực và Mốc bị chúng đập mấy hèo chí tử, thấm đòn chui trốn nơi nào không biết, im hơi lặng tiếng.
    Số là ông tôi rất nhanh trí. Thêm bản tính tự vệ bao phen trước đây đã giúp ông tôi vượt hiểm thêm lần này nữa. Khi nhận định có cướp, ông trổ lên nóc, tuột gọn theo máng xối hiên nhà sau, thòng chân nhảy nhẹ nhàng gọn gàng trên nắp hàng lu vú, vừa cao vừa chắc chắn. Ông thoát thân ra ngoài báo động bà con chòm xóm nên mới có phản ứng đồng loạt mõ hồi một làm cho bọn cướp núng thế. Đến khi Hương quản Quan bắn một phát súng hai nòng kể như dứt điểm. Cướp đành bườm ấm ức.
    Ông tôi, con người từng trải, lưu lạc nhiều nơi, lăn lóc chốn phiêu lưu giang hồ trước khi trụ hình trụ bộ đến xóm Rạch Rít khẩn đất hoang. Ông thành công lên vồng lên liếp thành khoảnh với đìa rộng mương sâu, nuôi cá nuôi tôm ngoài việc đồng áng lúa nếp.
    Ông biết và thuộc nằm lòng địa thế cuộc đất nên khi báo động bà con xong, ông trú mình ẩn núp ở mấy đống rơm cao nghều nghệu cạnh con đường mòn ăn thông xuống lạch ô rô. Ông đoán chắc thế nào bọn cướp cũng bườm qua con đường độc đạo này.
    Ông đoán trúng phong phóc.
    Chúng nó sáu đứa khuân vác hèo gậy và quơ quào vật dụng làm mùa của ông tôi chứa nơi lẫm trại bên ngoài. Ông ẩn nhẫn đếm từng tên một khi tạt qua trước mặt ông. Chờ đến tên đi chót, ông phóng ra khất nhượng bằng rựa đốn củi thủ trong tay lúc thoát thân.
    Thằng cướp đau đớn ngã quỵ, kêu la cầu cứu. Đồng bọn khựng lại, lôi nó khiêng đi trong lúc nó vẫn kêu la đau đớn. Nó bị đồng bọn lấy khăn bịt mồm bịt miệng, sợ bà con nương dấu rượt theo.
    Xóm Rạch Rít của tôi phát đạt, trù phú. Ruộng lúa bát ngát, óng ánh vàng hực mùa gặt. Cây trái oằn cành. Kinh đào tăm tắp ngút mắt. Nhà ngói kinh dinh đỏ au. Đêm đêm, đèn «măng-soong» rực trời ngày lễ lộc.
    Ghe máy xình xịch, sông rạch dậy sóng, tung bọt trắng xóa làm cho mấy chiếc xuồng ba lá và ghe tam bản nhảy sóng liên hồi, chồm lên sụp xuống dịu dàng. Hội đình đám tấp nập người xem. Hát cải lương, hát bội dù là những đoàn hát bầu tèo nghèo xơ xác chỉ lưu diễn ở làng ở tổng, thỉnh thoảng tạt ngang trụ lại trình diễn năm bảy đêm liền.
    Nhưng cảnh giàu sang, thoải mái thạnh mậu đó quến bọn trộm cướp kiêu căng bất lương. Nhiều băng đảng nổi tiếng lưu manh đàng điếm, giết người không gớm tay, từ những vùng xa xôi tận đâu đâu, vượt vạn dậm đường dài thường kéo tới ăn hàng. Chúng manh tâm khảo tra đánh đập, đả thương ngay cả chém giết người dân lương thiện để vơ vét của. Chúng là một lũ ăn không ngồi rồi, bản tánh gian trá, chuyên dòm ngó theo dõi những người giàu có để thỏa mãn lòng tham không đáy cố hữu của chúng.
    Bà con tôi đã từng chung lưng đâu cật biến rừng thiêng nước độc, đất đai hoang vu, không ai quan tâm để ý tới trước đây, thành nơi phì nhiêu màu mỡ, huê lợi đảm bảo trong cảnh an sinh hạnh phúc tập đoàn. Bao nhiêu thế hệ đi qua, vất vả khổ cực trăm bề mới có ngày sung túc hôm nay. Bây giờ bà con tôi còn phải đối đầu với bọn bất lương đầy tham vọng.
    Sự chung lưng đâu cật, nương tựa nhau trong tang khó, hoạn nạn được củng cố thêm mãi. Họ đoàn kết vì sự sinh tồn, bảo vệ cơ ngơi sự sản dày công tạo dựng bằng mồ hôi nước mắt của chính mình.
    Ngoài gậy gộc, song hồng, chỉa đôi, chỉa ba, mõ tre, thùng thiếc, trong xóm còn có cây súng hai nòng của ông Hương quản Quan. Sự bảo vệ xóm làng nhờ đó có phần hữu hiệu hơn xưa. Bà con rất mực an tâm vững bụng.
    Nhiều lần, xóm Rạch Rít của tôi bị cướp nhưng chúng đều gánh lấy thất bại chua cay. Nhưng mỗi lần chúng đáo lại, chúng tỏ ra hung hãn hơn, võ trang đầy đủ hơn với mưu thần chước quỷ hiểm độc.
    Tuy thất bại nhiều lần, chúng chẳng bao giờ buông tha cái xóm mới đang trên đà phát triển thịnh vượng này. Và bà con tôi vốn nhẫn nhục, chịu đựng, trông cậy ở tình đoàn kết keo sơn gắn bó, ở sự hy sinh bất kể đến sinh mạng mình để bảo vệ xóm làng.
    Cái triết lý tự vệ để sinh tồn, duy trì sự sống đáng sống ấy là niềm hãnh diện lớn lao của bà con tôi. Niềm hãnh diện ấy cùng với khí thế tự hào chung được thể hiện tròn đầy qua tiếng cười vui bất chợt trong những câu chuyện dong dài nhắc nhớ nhau sau mỗi đêm thức trắng. Họ ríu rít không ngưng ở những buổi sáng uể oải chống cướp quấy nhiễu dân tình.
    * * *
    Những ngày cuối năm, ở xóm Rạch Rít quê mùa của tôi cũng rộn rịp đáo để. Tết sắp đến trong vài ngày. Mấy ai không nôn?
    Ghe lúa của khách trú vừa ăn hàng xong ở nhà ông tôi, vội vàng chèo chống neo ở bến sông nhà ông Xã Kề cho kịp con nước. Người người bận rộn, nói cười vui nhộn. Lực lưỡng, vai u thịt bắp, họ vác lúa, mỗi lần hai bao chỉ xanh chồng lên nhau, chạy nhanh như gió, không biết mệt. Cái cầu ván bắt xuôi từ mé sông lên thành ghe chài nhún lên nhún xuống nhịp nhàng như muốn gãy làm đôi.
    Bà Hai Khánh bán một lượt tám, chín con heo ú na ú nú, mập lút chỉ, ăn rồi nằm ụ một chỗ, không còn sức di chuyển dù trong chuồng chật hẹp. Cái vòng bắt chân heo được giựt mạnh. Hai ba nhân công xáp lại, lần lượt đè từng con xuống. Họ trói giò chụm vào nhau, cạy miệng kéo lưỡi ra khám xem heo có gạo hay không, khiến heo la té đái té cứt, ầm cả xóm.
    Mái nhà của thím Chín Tý ngun ngút khói từ tang tảng sáng đến tối thui tối thủi vẫn chưa dứt. Thím đổ bún gấp ba bốn lần ngày thường. Thím bảo mệt đừ, làm không nỗi nữa trong khi bà con đặt mua tới tấp. Đành phải ráng vậy. Vui vẻ phục vụ bà con, một năm chỉ có một lần. Đỡ một phần là thím khỏi phải bơi ghe đi đổi hay giao bún.
    Nhưng nôn ruột hơn cả việc ông Bảy Nở kéo về hai con tơ, vàng hực, non chèo. Đại kỵ loại bò vá mà bà con tôi có thói quen, không biết căn cứ vào đâu, bảo ăn thịt bò vá nổi phong, ngứa ngáy khó chịu.
    Trông chúng nó hồn nhiên vô tư lự ngoạm cỏ ở ngôi vườn sau nhà ông, thật là dễ thương làm sao! Chúng nó không ngờ cuộc đời của chúng vắn số quá, chỉ thọ vài giờ nữa, đến sáng hôm sau thôi.
    Trời còn tờ mờ. Mặt trời ưng ửng ở chòm tre.
    Ông Bảy Nở dắt một con, cột ở gốc trâm bầu, nhanh tay buộc choàng một tấm vải đen che hai mắt nó. Linh tính báo cho biết nó sắp về bên kia thế giới nên bỗng dưng hai hàng nước mắt nó chảy dài thảm thương. Con bò còn lại chờ đến lượt mình, dâm ra bơ phờ, lẻ bạn buồn hiu, không màng ăn cỏ nữa.
    Một phát búa tài xồi được Út Quyên phóng mạnh vào tam tinh. Con bò thét lên một tiếng trầm thống rồi ngã quỵ xuống đất ngay. Nó tiếp tục giãy dụa lạch đạch. Bốn chưn nó vẫy vùng rung rẩy yếu dần. Vì nó không còn sinh lực như những cánh tay con người sắp chết đuối, vận dụng sức tàn còn lại cố giơ cao lên không trung diệu vợi bao la, cầu cứu Thượng Đế một cách tuyệt vọng.
    Nó thở hào hển trước khi nhắm mắt xuôi chưn trong khi tôi ngoảnh mặt nơi khác, không còn dám tò mò chứng kiến những gì xảy ra sau đó. Cảnh chia thịt bò Tết năm ấy đã để trong tôi một hình ảnh khó phai.
    Chiều ba mươi Tết rước ông bà. Mâm cỗ, thịt cá ê hề. Xóm Rạch Rít tôi tưng bừng nhậu nhẹt. Pháo nổ đì đùng.
    Đầu trên chưa dứt tràng pháo điển dài từ ngọn cây mãn cầu xiêm sát thềm nhà, lốp bốp, lốp bốp… inh tai chen lẫn tiếng pháo tre nấc cục nặng nề bưng óc. Đầu dưới xóm không chịu thua, cho nổ ống tre với hơi khí đá nghe nhức óc điên đầu. Tiếp theo là trận la ó, cười vui, vỗ tay rầm rập như thể thách thức nhau.
    Đèn đuốc sáng rực. Trong nhà lư đồng và hai chân đèn óng ánh. Hoa quả thơm ngào ngạt, sắc màu đẹp mắt.
    Ông tôi chuẩn bị sẵn sàng, chờ đúng mười hai giờ khuya rước Xuân. Bánh in Bổn Lập hảo hạng bày biện trên bàn với mấy dĩa thèo lèo, cứt chuột mà mấy tay buôn bán chuyên nghiệp con cháu Thiên Triều ở Chợ Lớn sản xuất lục cục lòn hòn pha trộn lẫn lộn. Có cái hình thù bầu dục, cái vuông vức, cái thon thon hình chữ nhựt, bọc đường quện mè chung quanh, màu sắc vàng có, đen có, xám có.
    Nhang đèn bày biện xong. Ông tôi tới lui kiểm tra đầy đủ, tỏ vẻ bằng lòng. Bộ tách với bình trà xưa đã được lau chùi kỹ lưỡng để trên khai chờ pha trà Thiết Quan Âm mà ông tôi còn ướp thêm bông lài cho trà thêm thơm tho mùi vị vườn tược quê nhà.
    Mọi việc được chuẩn bị chu đáo, chỉ chờ đúng giờ ông tôi rước Xuân. Giờ phút thiêng liêng truyền thống duy nhứt đầu năm từ bao nhiêu đời nay. Một dịp huyền bí để mọi người lớn nhỏ trong gia tộc hội nhập Đất Trời, hồi hướng Tổ Tiên dòng tộc. Ông cũng cầu nguyện năm mới mưa thuận gió hòa, xóm làng được mùa, bà con an cư lạc nghiệp.
    Bỗng có nhiều loạt súng nổ chát chúa, rải rác khắp nơi. Ông tôi đâm nghi, nhíu mày lắng tai nghe tiếng nổ là lạ như để phân biệt tiếng pháo, tiếng nổ của hơi khí đá.
    Linh tính báo cho ông tôi biết lại có tai biến. Ông ngạc nhiên tự hỏi thầm, chẳng lẽ bọn cướp lại ăn hàng nhân ngày Tết thiêng liêng sao? Ông hỏi thầm nhưng sự thực phũ phàng là thế! Bọn cướp đồng tình kết hợp với vài ba băng đảng khét tiếng hung bạo từ phương xa kéo đến đánh phá, ăn hàng xóm tôi trong lúc mọi người trong xóm đang chung vui nên quá bất cập, thiếu đề phòng, không kịp trở tay.
    Nhà bà Hai Khánh mới bán hôm trong năm mấy bồ lúa nàng quớt trúng mùa, bị chúng xông vào ăn hàng trước tiên. Mấy phát súng chát chúa chúng dằn mặt thị oai trước hành lang nhà bà đã có hiệu quả.
    Chúng ập vào, hùm hổ như cọp đói vồ mồi, bừa bãi lùa mấy bó rơm khô lớn đại giữa nhà trên rồi phóng lửa đốt phừng phừng, khói lên nghi ngút. Bà Hai Khánh run rẩy, lập cập, ú a ú ớ không nên tiếng nên lời. Chúng bắt trói cả gia đình, hành hung khảo của.
    Cận bên, nhà ông Xã Kề cũng cùng chung một cảnh tượng hồn phi phách tán đó. Ông Xã Kề bị chúng trói thúc ké, xô té nằm ngửa bất động trên nền gạch tàu. Chúng đổ dầu lên rún, hươi hươi ngọn đèn chong, bảo phải chỉ chỗ dấu vàng vòng, nữ trang, của tiền. Chúng hăm dọa đốt rún cháy lở tầy hoầy nếu không nộp của.
    Xa xa văng vẳng tiếng kêu la đau đớn vì bị cướp đánh đập dã man. Mấy con chó trong xóm im hơi thin thít. Chúng đã hoảng sợ chui rúc tìm chỗ trốn từ khi có mấy tràng pháo đầu tiên rước ông bà.
    Lần này bọn cướp đông lắm. Chúng võ trang tận răng với dao găm mã tấu và súng ống lớn nhỏ. Chúng huy động bọn giết người không gớm tay, đám đàng điếm khắp nơi, có tổ chức hẳn hoi, phối hợp phân công đàng hoàng dưới sự chỉ đạo của tên đầu đảng tuy trọng tuổi với râu dài bạc trắng nhưng uy quyền.
    Chúng đánh cùng một lúc nhiều nơi, nhiều nhà. Dương đông kích tây. Những nhà kiên cố, chúng uy hiếp cầm chân. Thỉnh thoảng chúng bắn cầm chừng vài loạt trấn áp tinh thần, ngăn ngừa tiếp ứng.
    Kỳ ăn hàng này, chúng áp dụng hỏa công, tiêu thổ áp đảo bà con tôi, khảo người giựt của. Tiếng kêu la thảm thiết vang vọng cả một góc trời. Lửa phựt cháy phừng phừng nhà bà Hai Khánh vô phương cứu chữa. Nhà nào nhà nấy hầu như bị kềm chân, thúc thủ tự đối phó với bọn cướp dùng chiến thuật phân tán mỏng.
    Khổ nỗi, lần đánh cướp này, bọn cướp lạ mặt lại được mấy thằng mất dạy khù khờ trong xóm, nghe lời khuyến dụ đường mật của chúng để tiếp tay chỉ lối dẫn đường. Bọn mặt trơ mày trẻn này bôi mặt với lọ chảo đen xì, giọng nói ú ớ để đánh lạch hướng bà con. Nhưng chúng tỏ ra tận tình tận lực lắm để lập công. Do đó, bà con tôi phải một phen trầy vi tróc vãy đối đầu, ứng phó trối chết.
    Bọn này là những con dòi trong xương, ngày ngày ăn cơm bà con tôi mòn răng nhưng lại đan tâm muối mặt thờ ma bọn cướp bất kể hậu quả về sau. Nhưng chúng có biết đâu một khi đã vơ vét đầy hồ bao, bọn cướp nào có đối hoài công lao của chúng bao giờ đâu. Một khi thức tỉnh vỡ mộng thì mọi việc đã rồi, chỉ còn chuốt lấy chữ nhơ nhuốt đến chết và tiếng nguyền rủa muôn đời cả họ hàng nữa.
    Chẳng mấy chốc, lửa cháy lan rộng thiêu rụi mấy nhà lân cận, tạo thành một cảnh tượng não nề, tang khó chưa từng thấy trong chuỗi ngày dài khẩn hoang lập ấp ở đây. Lúc trăng vừa lặn, chúng vơ vét xong tiền của, vật dụng quý giá, chất đầy mấy ghe lườn khẳm sát be rồi bắn nhiều loạt súng thị oai dằn mặt trước khi bườm theo hướng kinh rạch um tùm chằng chịt.
    Bà con tuông ra chữa cháy tận lực. Nhưng đã muộn, chỉ cứu được một phần xóm, những nhà rải rác xa xa tàn lửa phun phún bay theo gió chỉ bám phớt sương.
    Sáng hôm sau, một cảnh đổ vỡ điêu tàn trong xóm. Mọi gương mặt đều mệt mỏi, thiểu não, buồn xo qua một đêm kinh hãi, lưng tim vỡ mật.
    Nhà ông bà Bảy Nở chỉ còn trơ vơ mấy cây cột gỗ nám đen, chĩa thẳng lên không trung.
    Cây cầu vó nên thơ nơi thím Chín Tý cột ghịt xuồng đổi bún ngày nào cũng bị thần lửa viếng, nằm chúi nhủi dưới bến sông.
    Cây ổi xá lị thường được ông Bảy treo lủng lẳng con heo cạo lông sạch sẽ trắng bông mỗi lần chia thịt, lá nám vàng, đứng cú rũ buồn tênh.
    Cây trâm bầu nơi buộc con bò tơ cách đây mấy ngày để xẻ thịt ăn Tết, cháy đen, gãy ngang, chỉ cần một luồng gió nhẹ cũng đủ ngã lăn trên mặt đất ngổn ngang.
    Nhà thím Chín Tý còn non non nửa mái, nhờ đám cháu chồng phụ giúp đổ bún xả thân cứu chữa trong lửa đạn hiểm nguy. Riêng chiếc xuồng ba lá dùng làm phương tiện di chuyển đổi bún, thím vừa kéo lên bờ trét chai hôm cuối năm, nhạy lửa bắt cháy chỉ còn lại một đống than vụn.
    Tội nghiệp Mười Tống. Vốn nghèo lại mắc cái eo. Cướp chê nghèo rớt mồng tơi đâu thèm đến viếng. Khốn nỗi, nhà Mười Tống là nhà tranh, vách lá phênh tre, bắt lửa dễ dàng. Mười Tống tiêu tan sự nghiệp chắt chiu ký cóp từ hai ba đời chưa kịp ngóc đầu. Nay anh đành tuột xuống hố, nghèo khổ thêm, trắng tay chỉ trong một phút chốc phù du.
    Nhà ông bà tôi bị cháy lốm đốm. Rất may. Lu hũ chứa nước mưa để uống quanh năm liền được dùng để chữa cháy, cái ngã lăn, cái hư bể la liệt ngoài sân.
    Ông tôi đánh một vòng thăm hỏi bà con, an ủi ủy lạo trong khi mọi người thu dọn những gì có thể dùng được trên bãi đổ vỡ còn nóng hổi. Vài nơi im ỉm hừng hực. Có chỗ khói uể oải vẫn tỏa lên từng không để sau đó tan loãng trong không khí chán chường, uất hận.
    Đi đến đâu, ông tôi cũng vỗ về, nâng đỡ tinh thần bà con:
    - Bọn cướp lần này quá quắt thật. Không còn xem luật pháp là gì. Bây giờ xóm mình mất mát hết. Bà con coi như trắng tay. Có xây dựng lại được như xưa cũng phải năm ba thập niên hơn. Tai ách cơ Trời! Dù sao mình vẫn còn có nhau. Mình sẽ gầy dựng lại. May là bà con mình ai ai cũng còn quyết tâm. Còn người là còn của. Còn sống là còn hy vọng. Còn sức lực, còn tiềm năng là còn tin tưởng ở tương lai mai hậu.
    Bà con lặng tinh, tiếp tục dọn dẹp trong âm thầm ấm ức như hàm ý tán thành ý kiến của ông tôi. Và cái Tết năm đó không được tổ chức riêng rẽ ở mỗi gia đình theo truyền thống dân tộc mà được tổ chức tập thể tại đình làng. Tuy không linh đình rình rang nhưng vẫn ấm áp trong cảm thông, chịu đựng và hy vọng.
    * * *
    Mấy mươi năm lăn xả vào đời, vui ít buồn nhiều trên đất nước quê hương triền miên khói lửa theo với dòng lịch sử đa đoan với bao kiếp nạn oái oăm bi đát, cảnh thổ xa xưa nơi cắt rốn chôn nhau, nơi xóm Rạch Rít buồn teo hẻo lánh của tôi không lúc nào phai mờ trong ký ức và tâm thức tôi. Nào ngờ, nghịch cảnh của dòng sử mệnh đó đã đưa đẩy tôi bồng bềnh trong kiếp đời lưu đày sống tạm.
    Hơn hai mươi mấy năm lần lửa trôi qua như chớp mắt. Đông đi Xuân lại, Hè đến Thu tàn, phũ phàng như giấc mộng vội bay. Nỗi buồn lưu đày ray rứt, nỗi tủi nhục về thân phận lạc lõng bơ vơ nơi xứ lạ quê người, nỗi chán chường đeo đẳng hiện tại với niềm uất hận tràn dâng ngút ngàn... tất cả nỗi niềm thầm kín đó gặm nhấm tim tôi khiến tôi càng thêm vọng nhớ quê hương xa xôi ngăn cách.
    Tôi nhớ, tôi yêu dậm đà tha thiết cái xóm hẻo lánh, nghèo nàn, nơi tôi sinh trưởng, cất tiếng đầu đời. Cái quê mẹ, quê cha, quê ông bà thân thương đó với những kỷ niệm chia thịt thà ngày tư ngày Tết thuở quê hương tôi thanh bình sung túc, những cảnh trao đổi thổ sản, thóc lúa, biếu xén không vụ lợi, không mảy may hậu ý... đương nhiên đã trở thành một cái gì thiêng liêng, quý giá nhất trong cuộc sống của tôi.
    Quê nhà đó cứ vấn vương réo gọi, thôi thúc không thôi, nhắc nhớ gọi hồn, giục giã hướng đến mùa Xuân ước mơ, thanh bình thực sự, hạnh phúc ấm no tràn đầy, vĩnh cửu.
    Bỗng nhiên nước mắt tôi nghèn nghẹn tuôn trào.
    Tôi nhớ đến những lần liên miên bị cướp, đến đám cháy lớn vào dịp Tết thuở xa xưa với những ngọn lửa màu đỏ máu, một màu đỏ nguyền rủa ghê tởm đã để lại bao nhiêu hoang tàn đổ vỡ. Tôi liên tưởng giờ đây đến hố thẳm sâu hun húc của nghèo đói, sa đọa và phá sản nơi quê nhà do bọn lưu manh, cướp của, cuồng tính bất lương, mù quáng gây ra. Bao nhiêu cảnh tượng và ý nghĩ xô bồ lần lượt diễn ra trong tâm trí tôi.
    Bất giác trong sự hổn độn đó, lời nói an ủi, vỗ về của ông tôi thuở nào văng vẳng bên tai tôi, xoáy quyện vào lòng:
    - Thôi không sao! Tai ách cơ Trời rồi cũng sẽ qua. Còn người là còn của. Còn sống là còn hy vọng. Còn quyết tâm là còn cơ gầy dựng lại và còn tin tưởng ở tương lai con cháu sau này. «Mấy ai giàu ba họ, mấy ai khó ba đời». «Hết cơn bĩ cực tới hồi thới lai».
    Nắng đã lên.
    Trời Xuân sáng trong, cao vời vợi. Niềm tin nơi tôi hừng hực, rạng ngời như ánh bình minh.
    Võ Phước Hiếu

No comments: