Những Nét Tiêu Biểu Của Nền Văn Minh Việt
Nam
Nói theo
ngôn ngữ chủng học, Việt Nam là một trong những cái
nôi loài
người, thì nền văn minh Việt Nam cũng là nền văn minh cổ
nhất thế giới
nói chung và Châu Á nói riêng.
Danh xưng Lạc Việt, Đại Việt và Đại Nam
biểu trưng ba sắc thái đặc biệt của nền văn minh Việt Nam, trải
qua ba
thời kỳ dài hơn bốn nghìn năm của lịch sử dân tộc.
Cần phân
tích những
nét tiêu biểu của nền văn minh Việt Nam trong ba thời kỳ
nói trên để
thấy rõ nó là một thực thể khác biệt với
các nền văn minh khác, nhất là
các nền văn minh mà nó có liên hệ,
gần gũi như văn minh Chàm, văn minh
Trung Quốc.
Nền văn minh Lạc Việt
(từ khởi thủy đến thế kỷ 3 trước Công Nguyên) xuất hiện với
tất cả vẻ
rực rỡ huy hoàng của một nền văn minh nông nghiệp
mà đỉnh cao là ở thời
kỳ Hùng Vương, thời kỳ đồng thau phát triển (thời kỳ
Đông Sơn).
Nói thời kỳ
Hùng Vương là thời kỳ tiêu biểu của nền văn minh
Lạc Việt bởi vì nó mang tính chất khai sáng
ở tất cả các mặt.
Về mặt kinh tế
xã hội,
nghề nông trồng lúa nước là cơ sở phát khởi
cho mọi nguồn sinh hoạt.
Trên cơ sở đó, ý thức xây dựng và bảo
vệ đời sống phát triển. Ngành thủ
công nghiệp ở thời kỳ Hùng Vương đã để lại nhiều
công trình độc đáo về
đồ đồng (lưỡi cầy cuốc, rìu, vũ khí như đao, tên,
mũi lao, các loại
chậu, thạp, ... và điển hình nhất là trống đồng),
đồ sắt (như cuốc,
rìu, mai, vũ khí như kiếm, giáo), đồ gốm (đồ đựng
và đun nấu như nồi,
vò, bình chậu, bát đĩa ...), đồ đá (dụng cụ
sản xuất như rìu, lưỡi đục,
chày, bàn mài), đồ trang sức bằng đá (như
vòng đeo đủ kiểu), đồ gỗ (vũ
khí như lưỡi giáo). Các nghề cũng khá
phát triển như nghề sơn, nghề xe
sợi kết vải (bằng bông, đay, gai), nghề đan lát (bằng tre
nứa). Riêng
về trống đồng là những tác phảm tập trung nhiều
tài năng về kỹ thuật,
mỹ thuật và khoa học, đáng kể là trống đồng Ngọc
Lũ và Hoàng Hạ.
Làng xã
là ý thức sơ
khởi của tổ chức xã hội, trong đó gia đình phụ hệ
là nền tảng. quyền tư
hữu tài sản về ruộng đất cũng đã manh nha trong buổi đầu.
Tất cả cơ bản
của nền văn minh nông nghiệp ấy đã tồn tại hàng
ngàn năm sau.
Về mặt văn hóa,
những
gì còn tồn tại đến nay và còn được gọi
là truyền thống dân tộc cũng
phát xuất từ thời Hùng Vương như tín ngưỡng (thờ
thần), phong tục (hôn
nhân, tang lễ), hội lễ (hội hè đình đám
ngày xuân) ...
Nền văn minh Đại Việt
kế tiếp (từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 18), biểu hiệu ở tất cả các mặt
những
đặc điểm của một dân tộc đã trưởng thành sau một
nghìn năm khổ nhục vì
ách Bắc thuộc. Những ý thức và khả năng xây
dựng đời sống toàn thiện đã
lắng chìm trong giấc ngủ nghìn năm ấy để bừng dậy với tất
cả sức sống
mãnh liệt của dân tộc ở thời kỳ độc lập.
Vì vậy, nền văn
minh Đại Việt biểu dương ở nhiều mặt và có tính
chất phong phú toàn diện.
Ở thời kỳ này,
chế độ
quân chủ đã được thành lập và tổ chức
xã hội dựa trên sự cấu tạo của
bốn tầng lớp: sĩ, nông, công, thương. Tuy nông nghiệp
đặt xuống hàng
thứ yếu nhưng không chính quyền nào chối bỏ vai
trò quan trọng của nông
nghiệp đối với sự tồn tại của xã hội, đã ban hành
nhiều chính sách, chủ
trương nhằm bảo vệ, cải tiến nông nghiệp và hiệu năng
hóa sản xuất.
Khuôn khổ gia
đình đã
mở rộng thành gia tộc. Xã thôn vẫn là đơn vị
tự trị, nhưng còn phải
đóng vai trò liên hệ trong toàn bộ. cơ cấu
xã hội, đó là quốc gia. và ý
thức quốc gia bắt đầu nẩy nở thành sức mạnh tinh thần của
dân tộc.
Do đó,
dân tộc Đại
Việt đã hiên ngang đứng lên đánh đuổi những
thế lực cường bạo bao lần
muốn xâm chiếm lãnh thổ của mình. Có thể ghi
nhận những võ công của Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Quang Trung đã
làm rạng danh
quốc gia Đại Việt.
Khi xã hội
phát triển
thì các tổ chức nhằm củng cố xã hội cũng trở
nên phức tạp. Quan chế,
binh chế, pháp chế được thiết lập. Nét tiêu biểu
của nền văn minh Đại
Việt được biểu lộ khá rõ về mặt pháp chế, nhất
là dưới triều Lý và
triều Lê.
Dưới triều Lý,
bắt đầu
có pháp luật thành văn với bộ Hình Thư, quy
định các hình phạt về tội
thập ác (hình luật) và chỉ dụ của nhà vua
về việc mua bán, tranh tụng
ruộng đất (hộ luật). Người phạm tội, trừ khi phạm tội thập ác,
được lấy
tiền chuộc tội. Do ảnh hưởng Phật Giáo, pháp luật triều
Lý mang nhiều
tính chất đặc biệt như: tôn trọng nhân quyền,
áp dụng chính sách cải
quả đối với tội nhân ...
Dưới triều Trần,
có bộ
Quốc Triều Hình Luật quy định ba hạng tội nặng: tội đồn, khắc
chữ vào
trán và bắt cày cáy công điền; tội
lưu, đày đến châu Ác Thủy (Quảng
Yên); tội tử, bị chém. Pháp luật triều Trần
nghiêm khắc hơn cả.
Dưới triều Lê,
có bộ
Luật Hồng Đức, mang nhiều tính chất dân tộc, phù
hợp với điều kiện xã
hội và tôn giáo, tiến bộ về mặt kỹ thuật
pháp lý, nên ảnh hưởng còn tồn
tại đến ngày nay.
Đa số luật pháp
ở thời kỳ này chú trọng nhiều về hình luật,
ít chú trọng về hộ luật và dân luật.
Về mặt chính
trị xã hội, Hồ Quý Ly đã có những
công cuộc cách mạng quốc gia tiến bộ và đi trước
thời đại.
Về phong tục,
dân Đại Việt đã có những cung cách trang
nhã trong đời sống, các tập quán, lễ nghi thuần
hậu.
Về tín ngưỡng,
đã có
một sự hòa đồng kỳ diệu giữa ba tôn giáo Nhọ Phật,
Lão và sự hòa đồng
này có ảnh hưởng sâu đậm trong đời sống tinh thần
của dân Việt.
Khi đất nước độc lập
thì văn tự cũng được hình thành một lối
riêng, chữ nôm là một sáng tạo
của dân tộc để diễn đạt tư tưởng của mình. Vì vậy,
có triều đại muốn
bảo vệ nền độc lập tư tưởng đã khuyến khích sử dụng văn
nôm như triều
Hồ, tây Sơn.
Đặc sắc của nền văn
minh Đại Việt, về mặt văn học là đã phát triển
song song hai bộ phận:
văn học truyền khẩu và văn học thành văn. Hiếm thấy
trên nền văn học
thế giới một nền văn học truyền khẩu như của Đại Việt, rất phong
phú ở
nhiều phương diện: truyện cổ tích, truyện cười, tục ngữ, ca dao.
Về văn
học thành văn, có thể nói đó là một
nền văn học bác học bởi đã tập
trung nhiều khối óc lớn và bao gồm các
ngành như Lê Quý Đôn (văn học),
Ngô Sĩ Liên (Sử Học), những ngọn bút tài hoa
(văn chương) như Đặng Trần
Côn (Tác giả Chinh Phụ Ngâm Khúc),
Đoàn Thị Điểm (dịch giả chinh Phụ
Ngâm), Nguyễn Gia Thiều (tác giả Cung Oán
Ngâm Khúc). Các thể văn được
sáng tạo thích hợp với ngôn ngữ Việt giàu
âm điệu là thể lục bát và
song thất lục bát.
Về các ngành nghệ thuật, tranh mộc bản Việt là một
loại tranh dân gian
mang tính chất dân tộc độc đáo, cũng như một số
nhạc khí dân tộc, tiêu
biểu là đàn Bầu (một dây).
Trong kịch nghệ,
có loại hát chèo mang nhiều ưu điểm và
tính chất dân tộc rõ rệt.
Về khoa học, dù
là một
nền khoa học kinh nghiệm, Đại Việt cũng đã có những
nhân tài về y học
như Tuệ Tĩnh với khoa y dược dân tộc, Hải Thượng Lãn
Ông với khoa đông
y. Về thiên văn như Trần Nguyên Hãn soạn sách
nghiên cứu thiên văn và
lịch pháp. Đặng Lộ chế ra dụng cụ xét nghiệm thiên
tượng. Hồ Nguyên
Trừng chế ra súng hỏa mai.
Qua đến thế kỷ 19,
xã
hội Việt Nam lại biến chuyển và khai sinh một nền văn minh mới,
văn
minh Việt Nam, trong buổi đầu mang tinh thần văn hiến Đại Nam, đến thời
Pháp thuộc tính chất Việt Nam mới nẩy sinh.
Ở thời kỳ này,
công
cuộc khẩn hoang lập ấp và dinh điền là một chính
sách kinh tế mới, cũng
như nội thương và ngoại thương là hai mặt phát
triển của ngành thương
mãi quốc gia.
Các công
cuộc mở mang lớn được thực hiện: đường sá, cầu cống, kênh
ngòi, kho vựa, thành phố, thương cảng ...
Vua Gia Long là
người
đã có ý thức canh tân xứ sở theo đường lối
Tây Phương. Dưới triều vua
này đã có một quân lực hùnhg mạnh
nhất ở bán đảo Đông Đương. Chính vua
Gia Long đã thấy trước được Nhật Bản 60 năm là khoa hoc.
Tây Phương có
thể giúp cho nước nhà chóng phát triển
và ông đã dùng những người Tây
Phương ở bên cạnh như là những cố vấn kỹ thuật. Ông
cũng đã khuyên ngăn
con là vua Minh Mạng nên hậu đãi người Âu
(đặc biệt là Pháp), song
không cho họ một đặc quyền gì, nhưng đáng tiếc
là vua này không nghe
lời khuyên ấy, cũng như các vua về sau, nhất là Tự
Đức không lưu ý đến
các đề nghị cải cách quốc gia của Nguyễn Trường Tộ với
những ý kiến
sáng suốt là hoài bão, là ý
chí, niềm tin của người Việt thiết tha với
tiền đồ xứ sở và là tấm gương muôn đời cho hậu thế.
Tinh thần Nguyễn
Trường Tộ về sau, trong thời kỳ Pháp thuộc đã biểu lộ ở
các hoạt động
của phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục (duy
tân) và rộng ra ở tất
cả mọi hoạt động cách mạng của các chí sĩ
yêu nước.
Một biện pháp
cải tạo
xã hội tốt đẹp ở thời kỳ này là vấn đề cứu tế
xã hội để chống nghèo đói
và bệnh tật của các tầng lớp nhân dân.
Đặc điểm của thời kỳ
văn hiến Đại Nam là kho tàng văn học, chữ Hán, chữ
Nôm và ở thời kỳ
Pháp Thuộc là chữ quốc ngữ. Đáng lưu ý
là Phan Huy Chú với bộ Lịch
Triều Hiến Chương, một bộ bách khoa toàn thư có
giá trị lớn. Nguyễn Du,
một thiên tài văn chương đã để lại nhiều tác
phẩm tuyệt diệu cả hai mặt
hán và Nôm, với truyện Kiều là một
áng văn bất hủ. Một Hồ Xuân Hương
với thi tài độc đáo. Nguyễn Công Trứ, Cao Bá
Quát với những bài hát nổi
danh. hát nói là một thể thơ được sáng tạo
từ thể lục bát và song thất
lục bát và xuất hiện ở thời kỳ này.
Trong thời Pháp
thuộc,
ý thức xây dựng quốc văn phát triển, nâng cao
Việt ngữ thành một công
cụ truyền đạt tư tưởng một cách dề dàng hơn các
loại chữ ở thời trước.
Sự đóng
góp của các
nhóm Nam Phong Tạp Chí, Đông Dương Tạp Chí
và đáng kể nhất là nhóm Tự
Lực Văn Đoàn ở hai mặt truyền bá văn học và tư
tưởng xã hội tiến bộ.
Thơ văn yêu nước
và
cách mạng xuất hiện ở thời kỳ này là lợi
khí đấu tranh chống Pháp, phản
ảnh ý chí bất khuất kiên cường của dân tộc
Việt và làm giàu kho tàng
văn học.
Về mặt nghệ thuật,
loại tranh sơn mài và tranh lụa (cũng như tranh mộc bản
cổ truyền) là
những sáng tạo riêng biệt của người Việt.
Các công
trình kiến
trúc lăng tẩm và Đại Nội ở Huế, cũng như một số đồ
sành sứ mệnh danh là
"đồ sứ mem lam Huế" (Blue de Hue - đồ ký kiểu ở Tàu để
vua chúa đời
Nguyễn dùng) đã làm ngạc nhiên các du
khách nước ngoài.
Các loại ca
nhạc cung
đình cũng như ca nhạc dân gian mà điển hình
là các điệu hò hát, đã để
lại những âm hưởng bất diệt trong lòng người Việt
muôn thuở.
Nói chung,
những gì
tồn tại đến ngày nay hay đã mất mát một phần hoặc
hoàn toàn mà những
vang bóng vẫn còn trong lòng người, đều là
những nét tiêu biểu của nền
văn minh Việt Nam ở ba thời kỳ nói trên. o
No comments:
Post a Comment