Saturday, September 1, 2012

HỒ TRƯỜNG AN * CÁC TIẾNG HÁT

Thái Thanh : Tiếng hát dâng hiến tâm tình


Sau khi gặp lại Thái Thanh lần đầu vào năm 1992 tại rạp Maubert Mutualité ở Paris, tác giả có những nhận xét như sau:
Thái Thanh suốt 15 năm hành nghề ca hát theo kiểu gạo chợ nuớc sông ở quê nhà, dưới chánh thể Cộng Sản. Cô mang tiếng hát ra hải ngọai bằng sự tự tin thấy rõ, dù làn hơi tiếng hát đã hao hụt chút ít, chuỗi ngân không còn nhỏ mức và đều đặn, nhưng âm sắc vẫn còn lảnh lót, vẫn còn loé những ngân vang sáng rỡ.

Lúc hát cô vẫn hăng hái quăng mình trọn vẹn vào phút giây đùa bỡn với tiết điệu và âm thanh. Dù chuỗi ngân có thô rít, nhưng cô vẫn không nao núng, vẫn kéo dài làn hơi để cho làn hơi gợn sóng.

Khi hát tới chổ khá cao hay khi xuống chổ khá thấp lọt ra khỏi âm vực của tiếng hát mình, cô vẫn cứ đưa tiếng hát của mình lướt tới, vẫn quả cảm chuyển giọng, tới đâu thì tới, không sợ tiếng hát gãy vụn hoặc vỡ bể hay sa lầy. Nhìn và lắng nghe cô hát, tôi ngậm ngùi trước sự thành khẩn thiết tha của cô trong lúc cô dâng hiến tiếng hát của mình cho khán giả và nhất là cho lý tưởng của mình mà không cần nhìn lại tuổi đời đang đè nặng trên lưng trên vai mình, không quan tâm cái sinh lực trong tiếng hát của mình đã bị thời gian làm vơi cạn đi ít nhiều.

Tuy nhiên, hôm đó giọng hát của cô chỉ hơi rạn nứt chút ít ở một vài chỗ, phải tinh lắm mới nhận ra. Nhưng mà, đó vẫn còn là một giọng hát đẹp gợi nên vết da rạn quý giá trên nền men bóng của chiếc độc bình.
Hôm đó, cô hát bài "Dòng Sông Xanh" của Johan Strauss, vẫn hứng khởi ngân bằng nguyên âm và vẫn nhún nhảy theo nhịp điệu Valse xôn xao.

Sau đó, Thái Thanh xuất hiện tại Washington D.C và tôi đã nghe vài lời bình phẫm ở lối trình diễn điệu đà và sự diễn tả quá mức của cô.
Tại nơi đây, khi bước ra sân khấu, cô mặc áo chóang lộn như y quan của gánh Hồ Quảng, lại khóac áo chòang như người dơi; lúc hát cô lắc lư hơi nhiều, rồi nhảy loi choi, vung vãi quá nhiều nhiệt tình, nhiều điệu bay bướm thừa thãi. Song dù gì đi nữa, cô vẫn ghi vào ấn tượng mọi người một nghệ sĩ hát bằng tâm tình dâng hiến, bằng trái tim mẫn cảm, bằng cái đẹp muôn màu muôn vẻ của tâm hồn.
Thái Thanh hát hay, điều đó dĩ nhiên rồi, ai mà dám cãi được. Nhưng Thái Thanh còn hát giỏi nữa , bởi vì cô có kỹ thuật hát khá tinh vi. Nhưng tiếc thay, khi hát ở những chỗ hơi cao, cô thường nhốt sâu tiếng hát trong cuống họng nên tiếng hát thanh thì có thanh, nhưng chua ơi là chua.
Từ Thái Thanh lúc đó cô trở thành Thái Chanh một cách ngon ơ. Đây là nhược điểm của cô. Bởi tự luyện tập giọng hát theo lối chầu văn, hát chèo với cách ngoai mồm bẻ miệng nên cô không nắm bắt cách luyện tập theo phương pháp chân truyền của ca sĩ Tây Phương.
Từ lúc đầu, cô không tập rống khi lên cao để tiếng hát được dàn rộng, không mất âm lượng và có thể giữ được âm sắc ngọt ngào. Trong băng nhạc " Thái Thanh : Tiếng Hát Vượt Thời Gian", cô có hát bài Sérénade của Schubert, từ đầu tới cuối, cô xài tòan giọng óc, chua tới rùng rợn luôn.
Nhưng khi hát ở những chỗ không quá cao hoặc không quá thấp, tiếng hát cô đẹp tuyệt hẳn lên, như khối ngọc giữ màu trong vẻ sáng, không tỳ vết, không lỗi lầm. Ở những nốt nhạc hơi trầm, tiếng cô đầy và ấm hẵn lên, thập phần quyến .

Qua tiếng hát Thái Thanh, người nghe có cảm tưởng đến ngắm một lạch nước trong chảy thao thao vào một vùng thôn dã thuộc miền trung du của quê Bắc vào thuở tiền chiến. Nơi đó, có những hình ảnh tiêu biểu như lũy tre xanh rậm bọc quanh làng làm cho khung cảnh ấm cúng và thân mật. Có mảnh ao làng lênh láng nước trong veo, ngày ngày có những cô gái quê đến gánh nước hoặc rửa rau và vo gạo. Có ngôi đình làng dành cho các cuộc tế lễ thành hòang. Có ngôi chùa, am mây, miếu mạo...dành cho những khách hành hương. Lại còn thêm bóng đa, bóng chuối, bóng na, những cây cau, những nương khoai..làm cho khung cảnh thêm xanh mát, thêm bóng râm êm ả trong nắng trưa.

Thái Thanh hát những ca khúc âm hưởng dân ca miền Bắc như "Tình Ca", "Tình Nghèo", "Tình Tự Tin", Nụ Tầm Xuân", "Tình Hòai Hương" và "Chú Cuội" của Phạm Duy, "Kiếp Cuội Già" và "Khúc Giao Duyên" của Phạm Đình Chương, "Tình Quê Hương" của Đan Thọ, "Các Anh Đi", "Nhớ Bến Đà Giang" của Văn Phụng đều truyền cảm, đều gợi cái trong trẻo êm đềm của lạch nước mùa xuân, cái tịch mạc thật thơ mộng của cảnh thôn dã nơi quê Bắc.

Vì hát theo lối nhấn từng chữ như lối chầu văn nên cô hát những bài nhạc ngọai quốc như "Célèbre Valse" của Brahms, "Sérénade" của Schubert, "Rêveries" của Robert Schumann đã được đổi thành lời Việt thì lại không sành điệu bằng Mộc Lan, Kim Tước, Châu Hà, Tuyết Hằng, Mai Hương và Quỳnh Giao.

Riêng tôi, tôi chưa thấy ca sĩ nào diễn tả trọn vẹn ý tình qua các ca khúc của Phạm Đình Chương và nhất là của Phạm Duy bằng Thái Thanh.
Ở bài "Tình Ca", khi hát tới câu hát "Tôi yêu tiếng xa mờ", giọng cô sắc vút lên như xuyên vào mối cảm hòai người nghe bằng một luồng gió mạnh, reo xao xuyến trong nội giới chúng ta rất lâu. Nấc làm người nghe bàng hòang dao động cả tâm hồn; chưa có ca sĩ nào diễn tả tuyệt vời cảm xúc như cô ở tiếng đó. Hình như trời sinh Phạm Duy ra để sọan ca khúc cho Thái Thanh hát. Trong phút hiển linh của thần trí sáng tạo, ông viết những dòng nhạc truyền cảm tột độ mà chỉ có Thái Thanh diễn tả mới đi đến chổ cùng tận của ý tình. Cho nên khi hát bài "Bà Mẹ Gio Linh", Thái Thanh cất tiếng "Hò ơi ới ơi hò", tiếng hò cô ở chổ đó như banh gan xé ruột người nghe, như khơi dậy một vết thương rướm máu của họ.
Tiếng hò sao mà thảm thiết một cách thần tình, làm sao có ai hò vượt qua cô dẫu đương sự có ăn một trăm, một ngàn cót thóc đi nữa. Ngoài ra, bản "Tình Không Biên Giới" của Văn Lương, "Mấy Dặm Sơn Khê" của Nguyễn Văn Đông, "Sao Đêm" của Lê Trọng Nguyễn, "Tiếng Thời Gian" và "Trở Về Dĩ Vãng" của Lâm Tuyền đều được cô trình bày bằng một tình cảm vừa phải, nhưng rất truyền cảm, rất nghệ thuật.
Nghe Thái Thanh hát các ca khúc âm hưởng dân ca miền Bắc, chúng ta có cảm tưởng được ngắm những bức tranh mộc bản hoặc những bức tranh dân gian bày bán ở chợ quê trong dịp Tết. Những bức tranh dân gian ấy tô màu loè loẹt và suồng sã, nhưng hàm nhuận ý tình thật mộc mạc, thật thân thương: đỏ như ruột dưa hấu, xanh như mực học trò, vàng như nghệ, lục biếc như đọt chuối hay như lá mạ, tím như nước cốt trái mồng tơi...
Qua tiếng hát Thái Thanh, chúng ta có thể mường tượng đến tiếng sáo diều vi vút vào buổi chiều quê, khi mà ánh tà dương không còn trải trên mặt ao đầm, và sương mỏng bắt đầu theo bóng chiều lan khắp đó đây. Lúc đó, tàn cây, khóm chuối biến dần thành những khối bóng đậm đen như tô bằng mực tàu trong thứ ánh sáng lu lít mù mờ vào lúc chạng vạng. Tiếng sáo mỏng và thanh cứ vi vút từ đầu bửa cơm chiều dưới ánh đèn dầu cho tới khi trăng lên rọi lóng lánh mặt ao đầm mà vẫn chưa tắt.

Thái Thanh có giọng hát thiên phú quý báu như thế, nhưng theo tin đồn thì cô chẳng thận trọng giữ gìn. Cô không kiêng khem trong việc ăn uống. Hễ gặp trái chua là cô ăn mê tơi, ăn ngấu nghiến. Gặp trái chát nhu sung sung để ăn cặp với bún riêu, như mít đẹt nổi mụn cám vàng cô liền cất giấu ngay trong bụng là chỗ không trời không đất... cho gọn ! (NGHE TẢ KHÚC NÀY SAO GIỐNG ĐÔNG CUNG QUÁ CHỜI VẦY NÈ)

Hồi ở bên quê nhà, Kiều Chinh và Thái Thanh là hai nữ nghệ sĩ trình diễn thích giao du với các nghệ sĩ bên sáng tác nổi tiếng trí thức.
Qua ông anh nhạc sĩ Phạm Đình Chương của mình, Thái Thanh ưa giao du với nhóm Cái Bang trong đó có kịch tác gia Vũ Khắc Khoan, nhà văn Mai Thảo, kỷ giả Lô- Răng Phan Lạc Phúc, nhà văn Thanh Nam, nhà văn Thanh Tâm Tuyền... Lại thêm có ca sĩ Anh Ngọc, anh bạn đồng nghiệp của cô. Giờ đây Vũ Khắc Khoan, Mai Thảo, Phạm Đình Chương và Thanh Nam đã từ trần. Thanh Tâm Tuyền định cư trên vùng vạn hồ thuộc tiểu bang Minnesota. Còn Phan Lạc Phúc ở tận bên Úc. Trong chuổi ngày tàn bóng xế, cô cùng nghệ sĩ dương cầm Nghiêm Phú Phi mở lớp luyện ca.
Từ năm 1995, làn hơi trong tiếng hát Thái Thanh giảm sút quá nhiều. Cô không còn ngân nga được nữa. Nhưng từ cái gốc của cô, có hai chồi măng mới mọc ra, trong thời gian chẳng bao lâu mà trở thành hai cây trúc tương phi yểu điệu xinh tươi.
Mỗi khi lớp lớp sóng nhạc hiện thành cơn gió lướt qua, trúc reo lao xao những tiếng hát làm rung cảm khách mộ điệu khắp bốn phương trời hải ngoại. Đó là nữ ca sĩ Ý Lan và nữ ca sĩ Quỳnh Hương, hai ái nữ của Thái Thanh và minh tinh điện ảnh Lê Quỳnh.
Duy Trác : Tiếng Hát Đại Hồ Cầm


Tôi đã nghe tiếng hát Duy Trác sau một vài năm thành lập nền Đệ Nhất Cộng Hoà ở miền Nam Việt Nam. Cũng có thể trước đó, anh đã có hát trên làn sóng điện đài Sài Gòn.

Thuở đó, Duy Trác đã cộng tác với nhiều ban nhạc. Những giọng hát bên nam giới mà tôi thích gồm có: Anh Ngọc, Ngọc Long, Ngọc Quang, Ngọc Giao, Đỗ Tuấn, Trần Ngọc (nhạc sĩ Tuấn Khanh), Nhật Bằng, Hồng Phúc và Duy Trác. Anh Ngọc có giọng hát điêu luyện vào bậc nhất. Trần Ngọc có giọng nhẹ như khói tỏa sương lan. Ngọc Quang hát dân ca cực kỳ truyền cảm. Nhật Bằng hát nhạc biệt thể có phong độ rất Hoa Kỳ. Hồng Phúc có giọng mềm như mây, đẹp như ráng chiều. Ngọc Long và Duy Trác có giọng trầm gợi cảm tuyệt vời.
Thuở còn là học sinh, sinh viên, Duy Trác có một âm sắc đẹp và trầm hùng trong giọng hát, không phải là ở những lúc ông hát những bài hành khúc mà ngay lúc ông hát những bài tình cảm. Âm sắc trầm rền và dội sâu đó cùng với làn hơi phong phú của ông làm cho người nghe có cảm tưởng đó là tiếng âm u huyền bí của miền thâm sơn hoang dã. Nó như vọng mang mang khắp bãi sú bờ hoang của dãi Trường Giang, hay dội bập bùng vào hang thẳm hay trên vách đá dựng, vách cổ thành. Và ta cũng cảm tưởng đó là tiếng trống từ một thế giới vào thời thái cổ hồng hoang nào vọng lại.
Tiếng hát ông chứa một tiềm lực bền bỉ, một sinh lực dồi dào. Chuỗi ngân của ông rõ nét sóng thu, không nhỏ mức như chuỗi hạt cườm, mà cũng không nhọn sắc răng cưa. Duy Trác không xấu không đẹp. Vầng trán ông sáng sủa, sóng mủi không thanh mà cũng không thô.
Khuôn mặt ông tràn vẻ nam tính, hơi khắc khổ một chút làm hiển lộ tràn đầy cái nghị lực bẫm sinh của ông. Cái defaut trên khuôn mặt ông là hàm răng trên hơi vẩu, cặp răng nanh khi ông lớn tuổi hơi dài nên môi trên không che kín miệng ông một cách tự nhiên. Cho nên khi ông ngậm miệng thì cặp môi ông có vẻ buồn bã, không được thoải mái. Song cái nhìn tự tin của ông, khuôn mặt trí thức của ông tạo cho ông một vẻ thư thái, nhàn tĩnh.
Nhưng tiếng hát Duy Trác chẳng những không phải là tiếng hát tài tử mà là tiếng hát nhà nghề cực kỳ điêu luyện, một giọng tinh túy được gạn lọc hết những cái tạp chất giữa một số đông giọng danh tiếng đương thời hoặc đi sau ông.
Nếu Duy Trác hát ở một thính phòng ấm cúng hoặc ở phòng trà nho nhỏ, dù giàn nhạc không có cây đại hồ cầm (contrebasse), tiếng hát ông vẫn có thể gợi dư âm dư hưỡng của tiếng đại hồ cầm ấy. Tiếng hát trầm của ông càng xuống thấp càng chắc nịch, như vọng âm rền rền vào những ngõ ngách kín đáo của trái tim của thính giả, vào những hẽm hóc huyền bí của tâm hồn thính giả.
Những bài có chỗ xuống trầm như "Nhắn Gió Chiều" của Nguyễn Thiện Tơ, "Chung Thủy" của Văn Phụng, "Đừng Xa Nhau" của Phạm Duy là những chỗ để ông biểu diễn cái thiên phú, cái mê hoặc, cái quyến rũ trong giọng hát ông. Và từ đó, chúng ta có cảm tưởng mình đứng trên chiếc thạch kiều cong vòng và cao vút ngó xuống dòng sông huyền ảo chảy thiêm thiếp dưới chân cầu.
Sông trải mặt nước đen lóng lánh như mực Long Tể mới mài trong nghiên đá và in bóng viền trăng mỏng cùng muôn ngàn tinh tú lấp lánh. Cứ mỗi tiếng trầm trong câu hát của ông như bốc ra một làn u hương ngây ngất đậm đà như hương dạ lý ở bờ rào, như hương nguyệt quý trong khu vườn chập chùng bóng lá.
Nhiều ca sĩ tài tử tưởng bở rằng khi hát bằng giọng ngực uồm uồm như trâu gầm bò rống là mình có giọng trầm như Duy Trác. Nhưng giọng ngực chỉ có khàn mà không rền xa, không dội sâu như giọng trầm. Lại nữa, ai đó xài giọng ngực nhiều quá chỉ tổ làm cho thính giả cảm thấy ran ran ở ngực họ.
Giọng trầm tự nó có chất ngọt đậm, chất nồng nàn, càng nghe thính giả càng thấy dễ chịu, còn giọng ngực khi xuống trầm chằng những không thông mà còn làm cho thính giả cảm thấy nghèn nghẹt ở cổ. Ở trong ca trường nhạc giới của chúng ta xưa giờ chỉ có bốn ca sĩ có giọng trầm là Ngọc Long, Hòai Bắc, Sĩ Phú và Duy Trác.
Nhưng trong bốn ca sĩ ấy, Duy Trác có giọng trầm điêu luyện và quyến nhất.
Kim Tước: Tiếng Hát Trắng Ngần Bông Huệ


Vào giữa thập niên 50, tiếng hát Kim Tước khá cao, ở chặng giữa giọng kim (soprano) và bán kim (mezzo soprano). Nếu dùng giọng thật thì giọng cô cao hơn giọng Thái Thanh. Thái Thanh lên hơi cao là chẻ qua giọng óc. Còn Kim Tước khi lên cao dùng làn hơi bụng để đẩy cao tiếng hát, để phù trợ cho tiếng hát bớt mỏng và cho chuỗi ngân thêm mượt mà và thêm dài.
Cũng như Mộc Lan và Châu Hà, khi hát Kim Tước vo tròn cái miệng, đưa tiếng hát xóay tròn trong khẩu cái, chuyển hơi từ bụng đưa lên khẩu cái và giàn trải làn hơi vào từng câu hát rất điệu nghệ.Họ biết dè sẻn làn hơi để khi lên cao khỏi bị hao hụt.
Vào thuở còn son giá, giọng Kim Tước thanh tao, mỏng mịn, dẻo mềm. Khi phải hát nốt nhạc cao là cô dùng thần lực của mình để giọng hát mình thêm vang lộng, tuy không rống để dàn trải làn hơi dũng mảnh, nhưng không ai có thể bắt gặp giọng cô mỏng lét và bở rẹt bao giờ.
Trong bộ ba Kim Tước, Mộc Lan và Châu Hà, chỉ có Kim Tước là biết tô cho giọng hát đôi chút màu sắc, trong khi đó Mộc Lan và Châu Hà hát một cách trong suốt và đơn giản. Thế có nghĩa là Kim Tước biết đưa vào giọng hát mình một chút tình cảm, biết làm điệu làm duyên đôi chút để cho giọng hát mình thấm nhuần âm sắc đầy nữ tính yêu kiều cộng với tính chất cao sang quý phái đã có sẵn.
Song cô là kẻ ôn hòa và sáng suốt. Cô diễn tả giọng hát mình bằng thứ tình cảm kín đáo, bằng chút điệu đà phơn phớt, không sướt mướt, không vun vãi tình cảm quá trớn, không để cho anh hoa phát tiết xả láng ra ngòai. Do đó mà qua tiếng hát của cô, người ta liên tưởng đến bông huệ có vẻ đẹp trong trắng tinh anh, có mùi hương bát ngát và không ô nhiễm các mùi hương tạp nhạp khác.

Tiếng hát của Kim Tước đến với chúng ta trước hết bằng kỹ thuật thâm hậu. Cô hát đúng trường độ và cao độ một nốt nhạc và dàn trải làn hơi rất nghề. Để rồi từ từ sau đó, chúng ta mới ngấm dần dần vào tình ý của cô trong tiếng hát. Tình ý ấy không bộc lộ suồng sã, không gay gắt đậm nồng. Nó dịu nhẹ như mạch nước ngọt trong vắt và mát rượi thấm sâu vào từng sớ tim, từng góc xó tối tăm của tâm khảm chúng ta. Và một khi đã ngấm được rồi, nó mắc kẹt luôn trong cõi nội tâm huyền bí đó, khó tháo gỡ ra được.

Khi còn son giá, Kim Tước hát những bản có chỗ lên cao đều trót lọt và rất điệu nghệ. Đó là các bản "Tạ Từ" của Tô Vũ, "Vọng Ngày Xanh" của Khánh Băng, "Mộng Đẹp Ngày Xanh" của Hòang Trọng, "Xuân Ly Hương" của Phó Quốc Lân, "Tiếng Dương Cầm" và "Mưa Trên Phím Ngà" của Văn Phụng, "Xa Quê Hương" của Đan Thọ, "Giấc Mơ Hồi Hương" của Vũ Thành. Khi lên ở những chỗ cao vút, giọng cô không rạng ngời nắng đẹp, không tỏa hào quang như giọng Ánh Tuyết vì giọng Ánh Tuyết là giọng kim càng lên cao càng lảnh lót vang dội. Nhưng bù lại, cô ngân nga rập rờn thỏai mái trong khi đó, chuỗi ngân của Ánh Tuyết sắc nhọn như răng cưa.
Bỏ qua những bài hát có chỗ lên cao, còn những bài "Thuyền Mơ" của Dương Thiệu Tước, "Chiều Bên Giáo Đường" và "Sao Đêm" của Lê Trọng Nguyễn, "Một Chiều Đông" của Tuấn Khanh, "Ngày Đó Chúng Mình" và "Dạ Lai Hương" của Phạm Duy và một vài bài của Vũ Thành như "Gửi Áng Mây Hàng" và "Nhặt Ánh Sao Rơi", là những ca khúc được Kim Tước diễn tả bằng một phong cách đài các vương giả đưa tâm trí chúng ta vào một cảnh mộng rất Tây Phương có bóng giáo đường kiến trúc theo kiểu Gothique, có lâu đài soi bóng bên hồ nước, có những bóng con thiên nga trắng lướt trên mặt ao trải gương xanh.

Trên tuần san Sinh Họat Nghệ Thuật vào 2 năm chót của thập niên 60, Thái Thanh đã từng tuyên bố:
"Ai cũng nghĩ tôi hát mọi ca khúc của Phạm Duy đều đạt.
Thật ra, có nhiều bài do Kim Tước hát đạt hơn tôi."
Đúng vậy, nghe Kim Tước hát bài "Tình Quê" của Phạm Duy (phổ bài thơ cùng tựa của Hàn Mặc Tử), chúng ta mới cảm được chất thơ, chất mộng và bóng dáng diễm ảo của bài thơ trộn vào bài hát.
Gần đây, trong dĩa nhạc "Tìm Nhau Bốn Mùa", Kim Tước cùng Quỳnh Giao và Mai Hương khi thì đơn ca khi thì tam ca. Kim Tước đơn ca bài "Con Chim Lạc Bạn" của Phạm Văn Chung và bản "Thu Chiến Trường" của Phạm Duy bằng một giọng nồng ấm và phong phú chưa từng có làm cho giới sành điệu phải bàng hòang mê cảm. Đúng là gừng càng già càng cay, đúng là gỗ cẩm lai quý giá càng để lâu càng lên nước bóng ngời như gương soi mặt.
Sĩ Phú: Tiếng Hát Vọng Lời Âu Yếm Trong Mơ


Tôi không nhớ rõ tôi được xem Sĩ Phú hát trên Đài Truyền Hình Việt Nam vào năm nào. Anh xuất hiện trên màn ảnh nhỏ với bộ quân phục thuộc binh chủng không quân, mang lon thiếu tá.
Khuôn mặt Sĩ Phú không phải là khuôn mặt đẹp trai, nhưng đó là khuôn mặt khá khôi và có sức lôi cuốn mạnh đối với phụ nữ. Ông chinh phục phụ nữ không phải ở vẻ đẹp trai mà ở cái hấp lực ở nhân diện, vóc dáng, cử chỉ, giọng nói, cách ăn nói mà đấng Hóa Công chỉ dành cho một số rất ít đàn ông, cả nghìn người chưa chắc đã có một người.
Ca sĩ Sĩ Phú có hàng ria mép tỉa mỏng và đen lánh như vuốt bằng sáp, có nụ cười thật tươi, thật , phơi bày hàm răng ngọc trai đều đặn và khít khao. Có nhiều phụ nữ say mê Sĩ Phú không hẳn chỉ hoàn tòan ở giọng hát nhung mềm của ông mà ở cái vẻ hào hoa khôi , ở cái vẻ trai lơ quyến rũ của ông.
Tiếng hát của ông không hẳn là điêu luyện, nhưng đó là một giọng không rơi xuống hàng ngũ dành cho quần chúng hỗn tạp. Nó có nét nhà nghề, khi lên cao hơi mỏng nhưng mịn màng như phớt lớp phấn tuyết nhung, khi ở chổ ngang thì êm ái như rơi vào đáy thẳm của giấc mộng và khi xuống trầm thì khá rền và khá dội sâu. Ở chỗ rền, tiếng hát tóat chất nam tính cực kỳ rực rỡ của ông và như thỏang cái ấm áp của khói nhang đêm trừ tịch.
Các bà các cô mê Sĩ Phú hơn tài tử điện ảnh Trần Quang, vốn cũng có bộ ria mép và vẻ khôi vĩ trai lơ như Sĩ Phú. Bởi sao?
Trần Quang xuất thân là một dân sự, trong khi đó Sĩ Phú là một sĩ quan cao cấp, lại thuộc binh chủng Không quân vốn là một binh chủng ưu tú trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Lại nữa, cái lẵng của Trần Quang bộc lộ, còn cái lẵng của Sĩ Phú thâm trầm sâu sắc hơn.
Tiếng hát của Sĩ Phú ngự trị ngay trong lòng các cô kiều nga tố nữ có tâm hồn sẵn sàng rung động với nhạc tình cảm có phẫm chất quý báu. Nó đi sâu vào ngõ ngách trái tim của phụ nữ hơn là đi sâu vào nội giới của các bậc râu mày.
Giọng của Sĩ Phú không phải là giọng được kỷ thuật đào luyện đến mức thuần thục như giọng Duy Trác hay giọng của Ạnh Ngọc và của Phượng Bằng. Về âm sắc, đây là gọng mê hoặc làm chúng ta nghĩ đến giọng ca của các người đàn ông có sức lôi cuốn phụ nữ rất mạnh, một giọng đa tình lẫn trữ tình. Về kỷ thuật, thì đây là giọng như xôi rượu chưa được dậy men sung mãn, như trái cây chưa giấm cho thật chín mềm. Trong tiếng hát của ông có một chút gì hơi sống sượng. Đó là một cách dàn trải làn hơi đôi khi không được mượt mà lắm.Và khi ở chổ hóc búa, nó có một chút gì hơi trắc trở như một cái thắt nút của một sợi tơ tằm óng chuốt. Chuỗi ngân của ông không được đều đặn và không được dài lắm, nhưng nó cũng không vụng, không sượng chai. Tuy nhiên người nghe có cảm tưởng ông cố tình ngân nga, cố tình nắn nót từng lượn âm ba chớ không phải ông kéo dài làn hơi để cho làn hơi gợn sóng một cách tự nhiên. Cho nên chuỗi ngân ấy tuy không nổi nét răng cưa, nhưng nó không vẽ lên những né thu ba uyển chuyển dịu dàng; mổi một lượn ngân hơi nhọn, hơi thô rít, không được tự nhiên trơn ngọt lắm. Song đây là một giọng đẹp và mùi kinh khủng. Mỗi tiếng trầm của nó như hơ ấm những tâm hồn giá lạnh của một số phụ nữ cô đơn bằng những thóang ấm áp bàng hòang. Lúc đó, nó như sưởi nóng hồng huyết cầu và con tim của họ bằng men rượu bồ đào, bằng khói hương thơm của tách trà.Mỗi tiếng ngang ngang của nó như mơn man da thịt nhạy cảm của họ từng cái vuốt ve ân cần và tình tứ. Đây là một giọng gợi cảm từ bản chất, không bị cái sướt mướt lố lăng làm ngần đục những cặn bã.
Đôi lúc Sĩ Phú cố tình hát hơi nứt rạn như một thóang nghẹn ngào ở chổ láy thật nhẹ, giọng hát nhờ đó mà thêm nét duyên dáng mặn nồng. Khi hát,Sĩ Phú có một khuôn mặt trầm tỉnh điểm một nụ cười điềm đạm.
Ông không tỏ vẻ bất cần đời mà cũng không lộ vẻ tha thiết với cuộc đời. Ông như lắng sâu vào cái mầu nhiệm và kỳ ảo của âm thanh, của sóng nhạc. Chính ở điểm này, ông toát ra một hấp lực đặc biệt, một từ trường kỳ ảo.
Thanh Thúy: Tiếng Hát Khói Sương Chiêu Niệm


Thanh Thuý là một nghệ sĩ có tư cách, có phẩm hạnh. Cô không gây một ngộ nhận nào cho nhóm ký giả ưa săn tin giật gân.
Trong hàng ngũ các nữ ca sĩ nổi tiếng thuở xưa chỉ có Lệ Thanh, Thanh Thuý và Hoàng Oanh là nhu mì, khiêm tốn, ngoan hiền và biết tự trọng nhất.
Ở trên chót vót đỉnh danh vọng mà cô không hề nói một lời kiêu căng hay một lời làm thương tổn tha nhân, không bôi bẩn kẻ vắng mặt, không khoe khoang thành tích của mình khi tiếp xúc với báo chí. Cô có cái thông minh của cô gái sớm mồ côi, có cái uyễn chuyễn mềm mại của kẻ sớm chạm trán với cuộc đời gai góc, có tư cách cao sang để dọn đường đi lên xã hội thượng lưu.

Lần đầu tiên, vào năm 1959, tôi được xem Thanh Thuý đơn ca trong buổi đại nhạc hội do ban thoại kịch Kim Cương trình diễn tại rạp Aristo (đường Lê Lai) vào buổi xế. Thanh Thuý xuất hiện với chiếc áo dài trắng bằng lụa mềm mại và chiếc quần sa teng tuyết nhung trắng.
Cô hát bản "Chờ Anh Bên Đồi" của Xuân Tiên. Bản này hầu như không có chổ xuống trầm để Thanh Thúy biểu diễn giọng trầm và dội sâu của mình.
Cô chỉ có thể biểu diễn cái bẻ quặt giọng hát khi lên chổ hơi cao để giọng hát sắc vút lên một cách thống thiết. Sau đó, Thanh Thúy hát bài "Nhạt Nắng" của Xuân Lôi.Bài này có vài chổ xuống trầm để cô biểu diễn giọng alto (bán trầm) ấm áp và rền rền. Khi xuống trầm, giọng cô như từ chiếc bánh bèo xứ Huế mỏng dính và mát rượi được căn phồng sinh lực để hóa thân thành cái bánh ít trần miền Nam dầy cộm. Đã vậy, âm sắc của giọng quý báu kia thật nồng nàn, thật thắm đượm. Bài "Nhạt Nắng" cũng có chỗ khá cao để cô bẻ giọng làm phù thủy âm thanh, để diễn tả nổi đau đớn đến quằn quại như tích lũy từ bao đời tận đáy tâm khảm của cô. Chỗ xuống trầm là chỗ hát chân truyền, còn chỗ bẻ giọng là chỗ quái chiêu. Khán thính giả bị thôi miên bởi những chổ quái chiêu đó, tức là những cái fantaisies kỳ lạ do cô sáng tạo để lối trình diễn của mình trở nên độc đáo, nổi bật hơn lối trình diễn của các ca sĩ thời danh trước cô và đồng thời cùng cô.
Nhà thơ lớn Hoàng Trúc Ly đã cảm khái về nhân dáng và về tiếng hát của Thanh Thúy qua những câu thơ lục bát như sau:
Ngày em tiếng hát lên trời
Tay xao dòng tóc, tay mời âm thanh
Sợi buồn chẻ xuống lòng anh
Lắng nghe xương thịt tan thành hư vô

Tiếng hát Thanh Thúy khàn đục ở những chỗ ngang ngang và ở những chỗ xuống trầm. Khi lên cao, cô không rống để giữ nguyên vẹn âm lượng. Cô tét qua giọng ẻo lả ỏn thót để tạo một thứ thống thiết, để diễn tả tâm trạng đau khổ đến cực độ. Và ở chổ ngang ngang, cô củng làm cho rạn nứt để khán thính giả có cảm tưởng mỗi khe nứt rướm máu, rướm nước mắt. Cô cố tình nhuộm âm sắc của giọng hát cô một màu đen đậm.
Thanh Thúy dàn trải làn hơi không đều, cho nên câu hát không dịu muốt như tháp bút. Nhưng khán thính giả bị lối trình bày uốn éo, xóay quặn của cô kích thích và thôi miên vào cơn đồng thiếp nên họ quên mất cái điểm then chốt đó. Cô là một nhà ảo thuật âm thanh. Cô giỡn vọc âm thanh, bẻ vặn tiết điệu, bỏ đứt nếp chân truyền trong lối hát. Chính ở cách phá thể, ở những quái chiêu táo bạo đó cô thành công rực rỡ. Chuỗi ngân của Thanh Thúy không đều, không gợn những nét mềm dịu. Nhưng khán thính giả cũng đâu cần điều ấy. Bắt đầu qua thập niên 60, đã có những Phương Dung, Thanh Tuyền, và sau nữa là Phương Hồng Quế, Trang Thanh Lan và Giáng Thu, nào có ai biết ngân nga mà vẫn nổi tiếng như cồn đó sao? Thanh Thúy dù ngân nga không vững lắm, nhưng còn biết kéo dài trường độ một nốt nhạc để có những lượn sóng hiện ra dù ít, dù hơi thô rít đi nữa.
Hai bản nhạc của Trúc Phương là "Nửa Đêm Ngoài Phố" và "Tàu Đêm Năm Cũ" chỉ được Thanh Thúy hát vài lần là nổi tiếng. Vào các thập niên 50,60,70, những bài hát theo thể điệu bolero của những nhạc sĩ thời danh như Song Ngọc, Minh Kỳ, Lê Dinh, Anh Bằng, Hòai Linh, Anh Việt Thu do cô diễn tả bằng cách tô đậm sắc tháim, bằng cách phá thể đều được khán thính giả đón nhận nồng nhiệt say sưa.
Ngòai ra những nhạc phẫm có giá trị như của Phạm Duy, Nguyễn Hiền, Lê Mộng Nguyên, Hoàng Trọng cũng được cô trình bày với phong cách gừng cay muối mặn, củng được hoan nghinh không kém. Cho nên liên tiếp ba năm, trong cuộc trưng bày ý kiến khán thính giả bốn phương do nhật báo Trắng Đen tổ chức, cô là nữ ca sĩ ăn khách nhất.
Duy Khánh:
Tiếng Hát Đồng Vọng Từ Dãy Trường Sơn


Tôi nhớ vào năm 1976 sau ngày miền Nam lọt vào tay cộng sản , trong một cuốn băng nhạc nào đó , tôi có nghe tiếng hát của Duy Khánh qua bản " Tình Nước " của Võ Hòa Khánh và bài " Chiến Sĩ Vô Danh " của Phạm Duy. Có lẽ được thực hiện từ trước dưới chế độ cũ. Và có thể đây là cuốn băng lậu dưới chế độ đương thời.
Bài "Tình Nước " vốn đã ngậm ngùi từ ý nhạc đến lời hát . Tôi nghĩ chưa ai hát bài này bằng Duy Khánh. Dường như anh có mối giao cảm kỳ diệu với tâm tình người sinh trưởng ở nơi nước mặn đồng chua , đất cày lên sỏi đá. Duy Khánh vốn quê ở Quảng Trị, miền đất nghèo, ngày ngày dân quê thường ăn cơm nấu bằng gạo đỏ trột hột mít . Đất nghèo thường sinh sản nhân tài .
Duy Khánh từ giữa thập niên 50, anh đã đem giọng hát thật truyền cảm lẩn gợi cảm của mình vào Sài Gòn, trong một sớm một chiều đã làm say lòng các thính giả chốn thủ đô Sài Gòn nói riêng , đi sâu xuống miền Tây để chan hòa khắp miền Nam Kỳ Lục Tỉnh có chín nhánh sông Cửu Long chảy qua. Và hơn thế nữa , tiếng hát của anh còn lan rộng khắp miền Đông Sài Gòn và trôi lên phương Bắc để ra tận tới bên này sông Bến Hải .
Duy Khánh có giọng khá cao nhưng không trầm lắm. Nó ngọt lịm sẵn rồi, thông hơi và khoẻ khoắn lắm rồi. Những bản có chỗ lọt ra ngoài âm vực của anh đôi chút vẫn được anh trình bày trơn tru như một kỵ sĩ phi ngựa xông lướt phom phom , dẫm bừa gai góc , khe lách , nổng gò. Anh chơi fantaisie làm chi cho tiếng hát ô nhiễm những cái sướt mướt quá trớn?
Giọng Duy Khánh đầy âm vang lồng lộng. Nó gợi nên một thứ ngọc trong suốt tỏa hào quang. Làn hơi của anh thật phong phú , càng nghe anh hát thính giả càng sảng khoái. Nó gợi lên con gói chướng vào lúc thời tiết chớm xuân trên dải đất miền Nam , báo tin mùa xuân và cái tết sắp về , bông hoa vông đồng sắp trổ sắc son tươi , những cây lạp mai đơm nụ sắp nở những bông hoa năm cánh tròn xinh màu hoàng yến.
Khi vào tuổi hoa niên , lần đầu tiên nghe Duy Khánh hát bài " Nhớ Huế " của Lê Mộng Nguyên , tôi tự nghĩ :
- Chàng ca sĩ này phải đượm nhuần chất Huế từ đầu tới chân , từ tim óc ra ngoài da . Nước sông hương phải chan hòa máu anh. Gió đỉnh Ngự Bình phải thấm nhuần hơi thở anh. Giọng anh sao mà ngọt như chè đậu ngự , chè khoai tím , mè xửng , kẹo cau , kẹo gương...Nhưng mà không, sinh quán của Duy Khánh thuộc tỉnh Quảng Trị ; nhưng mà Quảng Trị và Thừa Thiên nào có là bao xa ? Dù giọng dân Quảng Trị cứng hơn giọng Huế đôi chút , nhưng khi hát một bài hát âm hưởng ca Huế và lấy Huế làm chủ đề , có thể Duy Khánh chỉ cần tưởng tượng mình là dân Huế, được ở trong khung cảnh Huế và yêu Huế với cả mọi rung động của trái tim là anh hát đạt được tình ý của bài hát
Duy Khánh hát dân ca âm hưởng cổ nhạc Huế rất đạt, chẳng hạn như " Tiếng Sông Hương " của Phạm Đình Chương, " Tiếng Xưa ", " Đêm Tàn Bến Ngự " của Dương Thiệu Tước , " Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gẫy " của Trầm Tử Thiêng , " Thôn Trăng " của Nguyễn Mạnh Bích , " Nước Non Ngàn Dặm Ra Di " của Phạm Duy và " Ai Ra Xứ Huế " của chính anh.
Có điều hơi uổng, đôi khi hát những bài nhạc tình cảm có tiết điệu cao sang, anh cao hứng thả cái âm hưởng dân ca miền Trung vào giọng hát , nếu chỉ thả sương sương, thả phơn phớt, thả lờ lợ thôi thì giọng hát anh thêm mặn ý đậm tình , đằng này anh thả không chút dè sẻn nên người sành điệu cảm thấy như đang ăn một món thanh tao mà bị anh bỏ mắm nục mắm nêm quá tay vào món ấy.

Chuỗi ngân của Duy Khánh thật dễ dàng thoải mái. Nghe anh hát , anh ngân nga , chúng ta có cảm tưởng được ăn bát canh khoai mỡ , nuốt tới đâu trơn cổ tới đó. Tuy nhiên , chuỗi ngân đó không uốn theo nét thu ba mễm mại mà nó lượn nét răng cưa sắc nhọn.
Khi anh còn trẻ trung sung sức, nét răng cưa đó không lớn lắm nên khách sành điệu có thể chấp nhận được. Nó người nghe liên tưởng đến nét lượn của dãy Trương Sơn ven bờ biển Đông. Với làn hơi phong phú và với chuôi ngân ấy khi hát nhac Jazz qua thể điệu blue đen anh gào rống thê thiết nghe sướng tai vô cùng! Bởi vậy khi anh hát những bản Blue như " Đường Chiều " của Hông Duyệt , " Nhớ Thành Đô " của Hoàng Thi Thơ , " Những Chiều Không Có Em "của Trường Hải , " Tôi Còn Yêu Tôi Cứ Yêu " của Phạm Duy , chúng ta mới thấm thía cái đắng , cái thảm thiết oằn oại cảu loại Blue đen là như thế nào .
Qua những bản nhạc kể trên , chúng ta có cảm tưởng Duy Khánh mở cho chúng ta buổi chiều thêm mênh mông , khơi cảnh dãy Trường Sơn với những nét lên cao xuống thấp thêm hùng vĩ. Và từ đó , gió từ biển khơi lướt qua đèo dội lại tiếng mang mang như tiếng gầm của sơn thần từ thời khai sơn phá thạch. Và ở những bài âm hưởng dân ca , tiếng hát anh gợi đến ánh nắng trữ tình thắp sáng những nh , những đèo của dãy Trường Sơn ấy , làm cho sắc thúy màu lam của nó thêm rạng rỡ để vẽ nét rồng uốn duyên dáng dưới vòm trời thiên thanh bát ngát.
Trên 15 năm sống oằn oại sau bức màn tre bên quê nhà, Duy Khánh được ra hải ngoại để tiếp tục hành nghề ca hát. Âm sắc tiếng hát của anh vẫn như xưa. Nhưng anh ngân có hơi khó khăn, không còn trơn tru với làn hơi cuồn cuộn như xưa.
Hồ Trường An
những tiếng hát qua cảm nhận Hồ Trường An:
Thái Thanh: tiếng hát dâng hiến tâm tình
Duy Trác: tiếng hát đại hồ cầm
Kim Tước: tiếng hát trắng ngần bông huệ
Sĩ Phú: tiếng hát vọng lời âu yếm trong mơ
Thanh Thúy: tiếng hát khói sương chiêu niệm
Duy Khánh: tiếng hát đồng vọng từ dãy trường sơn
Hà Thanh: tiếng hát thướt tha cành lệ liễu
Khánh Ngọc: tiếng hát mềm đợt khói chiều
Nhật Trường: tiếng hát đẹp nét điêu khắc trên mặt gỗ quý
Túy Hồng: tiếng hát phố vắng đèn khuya
Lệ Thu: tiếng hát khởi phụng đằng giao
Mai Hương: tiếng hát gợi nét thêu trên lụa
Quỳnh Giao: tiếng ca mở nẻo lam kiều
Bích Thuận: tiếng hát bền sắc tươi son
Hùng Cường: tiếng hát của cuồng lưu
Anh Khoa: tiếng ca mặn tình người duyên hải
Phương Dung: tiếng hát gọi nhạn trong sương
Duy Quang: tiếng ca man mác gió sơ thu
Hoàng Oanh: tiếng hát thuở sân trường phượng thắm
Chế Linh: tiếng hát khua động lòng cổ tháp trên đất hời
Jo Marcel: tiếng hát gấm mượt nhung mềm
Anh Ngọc: tiếng hát trắng nõn vóc tố Hoàn Tề
Khánh Ly: tiếng hát đẹp man rợ
Kim Anh: tiếng hát mềm vóc lụa Tô Châu
Elvis Phương: tiếng hát của ngày xanh tuổi hồng
Trúc Mai: tiếng hát Trang Châu mơ hoa bướm
Bạch Yến: tiếng hát trải trên miền hoang phế
Họa Mi: tiếng ca đưa về bến lạnh hoàng hôn
Sơn Ca: tiếng hát của tháng giêng cỏ non
Kim Vui: tiếng ca trong trẻo của đóa lan vương giả
Kim Tuyến: tiếng ca lạc loài trong kịch giới
Giao Linh: tiếng hát tìm về bóng chim tăm cá
Trà Mi: tiếng hát lấp lánh tia nắng mới
Thanh Lan: tiếng hát ngọt lịm mật ong
Elvis Phương: tiếng hát của ngày xanh tuổi hồng
Băng Châu: tiếng hát cô đơn bên bóng đèn tà nguyệt
Hoài Trung và Hoài Bắc: hai tiếng hát hai dòng sông
Châu Hà: tiếng hát vọng trầm tiếng sóng tà dương
Thúy Nga: tiếng ca mang nắng hạ trở về
Anh Tú: tiếng hát trải nắng hắt hiu
Đôn Hồ: tiếng hát của mùa hè đôi lứa
Phi Khanh: tiếng hát rực nắng thủy tinh
Như Quỳnh: tiếng hát non mềm của đọt lá nụ hoa
Thùy Dương: tiếng ca mềm dẻo nhánh thùy dương
Hoàng Lan: tiếng ca đẹp màu cỏ nội hoa đồng
Thanh Hà: tiếng ca thì thầm với lá bạch dương trong gió
Sơn Tuyền: tiếng hát nở bừng bông trang bông điệp
Thái Tài: tiếng hát dệt nhung giát vàng
Tuấn Ngọc: tiếng hát mở trời rực rỡ trăng sao
Thái Hiền: tiếng hát lên dải ngân hà
Thanh Mai: tiếng hát trăng vừa tròn gương
Bích Thuần: tiếng hát tròn sáng theo trăng thượng huyền
Kiều Nga: tiếng hát hội trăng rằm
Trọng Nghĩa: tiếng ca thân quen trai tân trinh nữ
Diễm Chi: tiếng ca thục nữ ngoan hiền
Mỹ Huyền: tiếng ca gợi vẻ yêu kiều thục nữ
Lệ Quyên: tiếng ca của thục nữ đài các
Bảo Hân: tiếng hát của thanh nam kiều nữ
Ngọc Bích: tiếng hát từ miền thâm sơn hoang địa
Thế Sơn: tiếng ca đồng vọng lời nhắn gọi trong sương
Hương Lan: tiếng hát ngọt mát nước sông trong
Thanh Hùng: tiếng hát thác lũ sóng gầm
Mạnh Ðình: tiếng hát dạt dào tình sông ý biển
Ngọc Huệ: tiếng ca vọng lời tình tự của sóng biển
Trang Thanh Lan: tiếng hát tình tự quê hương
Thái Hiền: tiếng hát bay lên dải ngân hà
Quang Bình: tiếng hát của sóng nước êm đềm
Lâm Thúy Vân: tiếng hát véo von trên bến xuân xanh
Mỹ Hòa: tiếng ca sương khói trong ánh trăng
Linh Sơn: tiếng hát thoảng nhẹ khói hương trà
Thu Hương: tiếng hát tỏa nhẹ khói lam chiều
Tuấn Vũ: tiếng hát ngạt ngào trầm hương
Thái Thảo: tiếng hát thoảng áng sương mỏng khói mềm
Ý Nhi: tiếng hát tuôn khói trầm hương
...
...
Hồ Trường An

No comments: