Xuân Vũ,
‘KẺ SỐNG SÓT’ Từ ‘ĐƯỜNG ĐI KHÔNG ĐẾN’
:::Nguyễn Mạnh Trinh:::
Xuân
Vũ (1930-2004) là một nhà văn mà các tác phẩm cả về lượng lẫn phẩm đều
nổi trội. Ông viết nhiều thể loại, từ những hồi ký đến truyện dài, từ
những truyện phong tục đồng quê của Nam Bộ thời xa xưa đến những truyện
theo sát thời sự từ thuở kháng chiến chống Pháp đến lúc vượt Trường Sơn
vào Nam. Ông là nhà văn đoạt giải văn học năm 1973 với truyện ký “Đường Đi Không Đến” mô tả những bước gập ghềnh của người cán binh Việt Cộng trên con đường thiên lý trải dài những máu xương chồng chất.
Cuộc
đời của Nhà văn Xuân Vũ kể ra cũng khá đặc biệt. Ông tên thật là Bùi
Quang Triết và sinh vào năm 1930, năm mà phong trào những người yêu nước
của Việt Nam Quốc Dân Đảng nổi lên võ trang chống lại chính quyền thực
dân Pháp. Nguyễn Thái Học và 13 liệt sĩ tử tiết đã làm gương sáng để
thanh niên Việt Nam noi theo. Đến năm 1945 khi tiếng súng chống Pháp ở
Nam Bộ bắt đầu nổ thì Xuân Vũ mới 15 tuổi đã tham gia phong trào kháng
chiến và có lúc làm phóng viên của tờ báo “Tiếng Súng Kháng Địch” của sở
Văn hóa Thông Tin Nam Bộ. Năm 1955, Xuân Vũ tập kết ra Bắc rồi lại trở
về Nam năm 1963 để tham gia cuộc xâm lược miền Nam theo sách lược của
Cộng sản quốc tế. Nhìn thấy chân tướng của cuộc chiến, ông ra chiêu hồi
năm 1971 và viết truyện ký “Đường Đi Không Đến” cũng như hoạt động mạnh
mẽ trong chức vụ phó giám đốc Nha Chiêu hồi của chế độ Việt Nam Cộng
Hòa.
Xuân
Vũ sinh trưởng tại quận Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre, nơi mà Việt Cộng gọi là
“quê hương đồng khởi” và là nơi nà đội quân tóc dài của Nguyễn Thị Định
tạo ra những chiến công “tưởng tượng“ và chính Xuân Vũ đã được chỉ định
về nơi này để viết về một phụ nữ ít học tầm thường trở thành một nhân
vật đầy tính tuyên truyền như một huyền thoại không có trong thực tế.
Một điều chắc chắn Xuân Vũ rất yêu quê hương của mình. Có lần ông đã làm
một bài thơ, để nhớ về quê hương cũ đã xa ngàn trùng và chẳng thể nào
trở về ghé thăm được :
“Có nghĩa gì hai tiếng : Mỏ Cày
như đời thở nhẹ, lá me bay
đâu biết tuổi thơ.. lai bất vãng
mà dạ bâng khuâng nhớ tiếc hoài.
Hỡi ơi tóc liễu muôn năm cũ
Sao còn quấn chặt mảnh hồn tôi
trường xưa gạch ngói rêu phong vũ
Giữa bụi trần gian vẫn chói ngời
Mỏ Cày yêu dấu của riêng tôi
Tuy gần mà lại hóa xa xôi
Xa xôi vẫn hẹn ngày tao ngộ
Anh, Mỏ cày, Em, …ở một nơi
Có ai trở lại thời xa vắng
Xin hốt giùm tôi nhúm cát nâu
Bên gốc điệp già mình trốn nắng
Má em anh đặt chiếc hôn đầu”
như đời thở nhẹ, lá me bay
đâu biết tuổi thơ.. lai bất vãng
mà dạ bâng khuâng nhớ tiếc hoài.
Hỡi ơi tóc liễu muôn năm cũ
Sao còn quấn chặt mảnh hồn tôi
trường xưa gạch ngói rêu phong vũ
Giữa bụi trần gian vẫn chói ngời
Mỏ Cày yêu dấu của riêng tôi
Tuy gần mà lại hóa xa xôi
Xa xôi vẫn hẹn ngày tao ngộ
Anh, Mỏ cày, Em, …ở một nơi
Có ai trở lại thời xa vắng
Xin hốt giùm tôi nhúm cát nâu
Bên gốc điệp già mình trốn nắng
Má em anh đặt chiếc hôn đầu”
Thơ
bình thường nhưng được cái chân thật, chứa chất một tấm lòng đối với
quê hương. Bao giờ, cái tâm của người Nam Bộ cũng rõ rệt trong từng câu
chuyện kể, trong từng câu thơ viết. Từ hồi ký đến tiểu thuyết, từ truyện
dài đến truyện ngắn, cái phong cách bộc trực cũng như những ý nghĩ có
khi chua chát có lúc châm biếm đã làm cho ông thành người viết truyện có
duyên và lôi cuốn độc giả. Những nhân vật của ông, có nét đặc thù của
người Nam Bộ và trong hoàn cảnh của một cuộc chiến tranh tương tàn đã
sống thực trong tác phẩm và chuyên chở được những nỗi niềm của người cầm
bút luôn ưu tư vì vận mệnh của đất nước. Ông đã xuất bản chừng hơn 50
cuốn sách mà trong đó phân loại ngọn ngành ra ở nhiều thể loại. Như bộ
Đường Đi Không Đến gồm 3 quyển “Xương Trắng Trường Sơn”, ”Mạng Người Lá
Rụng”, ”Đến Mà Không Đến”. Như bộ “2000 ngày đêm trấn thủ Củ Chi” gồm 5
cuốn. Như bộ “Văn nghệ sĩ miền Bắc như tôi biết “ gồm 3cuốn. Rồi “Kẻ
Sống sót”, truyện dài. “Nửa thế kỷ Phạm Duy “, khảo luận. Những bộ
truyện dài, truyện ngắn về đồng quê miền Nam lại có phong vị riêng, vẽ
lại một thời kỳ đã qua như “Những Độ Gà Nòi”, “Vàng Mơ Bông Lúa”, “Thầy
Tư Cóc”, “Gánh Bầu Rập”, “Tấm Lụa Đào”, “Dây bầu Năm Ngọn”…
Tác phẩm mà Xuân Vũ viết đầu tiên khi về hồi chánh là một hồi ký ”Đường Đi Không Đến“.
Là người đã tập kết sau khi tham gia kháng chiến ở miền Nam, ông đã
hiểu rõ hết những nét phi nhân của chế độ xã hội chủ nghĩa, đã thấy được
những dối trá của một chủ nghĩa đấu tranh giai cấp, hô hào bỏ đi một xã
hôi bóc lột nhưng lại thiết lập một chế độ khác bóc lột và đàn áp gấp
bội. Đường Đi Không Đến và những cuốn tiếp theo như Mạng Người Lá Rụng,
Xương Trắng Trường Sơn, Đến Mà Không Đến,.. đều có không gian của con
đường Trường Sơn, con đường được xây đắp bằng thân xác hàng triệu sinh
linh và cuồng vọng xâm lăng của những người lãnh đạo chế độ miền bắc. Ở
đó, có những mẫu nhân vật bị đẩy vào một cuộc viễn hành không mong muốn,
với cái khải hoàn môn lơ lửng đằng trước nhưng không bao giờ đến được. Ở
đó, họ sống và vì khả năng sinh tồn nên nhiều khi những chuyện đạo đức,
những lẽ phải trái thường tình được coi là chuyện xa vời không thực tế.
Ở đó, họ chỉ cần miếng ăn và nghỉ ngơi trên con đường trường chinh gian
khổ. Để đạt mục đích ấy, họ hành xử theo bản năng và thấp thoáng đâu
đó, cái hình dạng thú vật tỏ hiện. Những chiêu bài nói để mà nói là
những lớp sơn che phủ thực tại đầy bóng tối mà chế độ đã xử dụng để thúc
đẩy cả một thế hệ xông tới như hình ảnh bó cỏ non che trước bờm ngựa bị
che mắt hai bên để chỉ nhìn về trước mặt và gắng lao về trước theo một
lối đi dành sẵn.
Trong
Thay Lời Tựa của cuốn hồi ký này, Xuân Vũ đã kể lại chuyện thuở bé mình
đi học, thấy con ngựa gầy kéo xe dù mang nặng trên vai hành khách trên
xe nhưng vẫn rướn tới để đớp lấy bó cỏ non phất phơ trước mặt và không
bao giờ ngoạm đến. Một hình ảnh liên tưởng đến những người vượt Trường
Sơn. Đoạn kết của hồi ký này cũng mang hình ảnh con ngựa gầy bị gục chết
khi cố gằng kéo chiếc xe năng và lên dốc. Nó nằm chết, miệng sùi bọt và
bó cỏ non vẫn còn chỏng chơ bên cạnh. Hình ảnh ấy đã ám ảnh Xuân Vũ
trên Đường Đi Không Đến :
“…
Lạ thật những chuyện mới xảy ra hôm qua thì tôi cứ thấy nó mờ mịt xa
xưa như hàng chục năm qua của những việc cách đây mấy mươi năm thì tôi
lại cứ tưởng như mới xảy ra ngày hôm qua.
Tôi
cũng không muốn phân biệt cái đã qua và cái hiện tại. Mà tôi cũng không
dám nghĩ tới ngày mai. Ngày mai của tôi ư? Trên đường Trường Sơn này
hay ở đâu mà con đường này dẫn đến, dù trái đất có xoay dù trời mưa hay
trời nắng thì cái ngày mai đó cũng chỉ là sự lập lại của ngày nay và
ngày hôm qua.
Tôi nghếch đầu lên mép võng, giương mắt cố nhìn ra ngoài. Trời mưa đen đặc thấy gì đâu!
Ôi
chao, con đường với những chặng đường… Ở phía sau lưng tôi, cái mộ bia
của anh binh sĩ bên cạnh hai bàn chân thòi ra mô đất và cái bộ xương
trong hốc đá, lẫn lộn với chiếc xe chỏng gọng với hai bánh quay tít và
bốn vó con ngựa chòi đạp trong không khí. Còn phía trước mặt tôi thì chỉ
là… Và…”
Viết
hồi ký kể lại những kinh nghiệm sống của mình, Xuân Vũ còn mang cái tâm
sự ê chề của những người tập kết, bị chế độ nghi ngờ dùng đủ mọi cách
để xử dụng như múi chanh bị vắt sạch nước và vứt bỏ đi một cách không
thương tiếc …
Năm 1989 qua sự giới thiệu của anh Đỗ Đình Tuân nhà xuất bản Văn Khoa, anh Xuân Vũ muốn tôi viết vài dòng về tiểu thuyết “Kẻ Sống Sót“
của anh sắp xuất bản. Qua vài lần điện thoại, với giọng nói rặc Nam Bộ,
tôi thấy được cái tâm của anh khi nói về chuyện ông đã gặp và sống với
những nhà văn miền Bắc khi đi tập kết và ông hiểu rõ nỗi khổ tâm của họ.
Cái lối nói chuyện lúc bông đùa nửa thật nửa giỡn nhưng sâu sắc và lôi
cuốn khiến tôi viết vài hàng tâm cảm của mình trong bài giới thiệu:
“…Viết
bằng ký ức. Đốt lửa nội tâm bằng chính chất liệu sống chắc phải khác lạ
hơn cách viết bằng chất liệu vụn vặt thu lượm được, chắc chắn như thế
trong trường hợp của cây bút Xuân Vũ. Tháng ngày trôi qua, để ký ức men
ủ, để ngọn lửa của trái tim bỏng cháy trui luyện, để giấc mơ làm người
chân thật cứ hoài hoài mộng mị hàng đêm. Những cây cỏ, đá sỏi Trường Sơn
chắc cũng có hồn phách và tiếng nói ấy sẽ sống sót rất lâu trong lịch
sử loài người. Khung cảnh hoang vu của rừng núi Tây nguyên trầm mặc có
chiều sâu của một trận chiến khốc liệt. Trận đấu mất còn sống mái giữa
người với người, với trời đất, với tật bệnh. Câu chuyện đầy những cái
chết tức tười, của thân xác bị vùi dập dưới nấm mộ sơ sài, của kiếp
người bị đẩy xô vào những cảnh ngộ bi thương không lối thoát. Hiện thực
tự nó đã có những nét khốc liệt mà trí tường tượng không với đến, lại
càng có sức sống và sự lôi kéo thuyết phục hơn. Ở trường hợp kẻ sống
sót, điểm đặc sắc và là nét son rực rỡ nổi bật là sự thực được nhà văn
nhớ lại và diễn tả bằng trí nhớ dài lâu. Hư cấu, đóng vai trò phụ, đôi
khi là bước đi quẩn quanh trong tưởng tượng của loài người. Thực tế đã
làm văn chương có sức sống và những dòng chữ đã vượt qua biên giới của
mình để thành thông điệp gửi theo nhiều ý tưởng. Của kinh nghiệm riêng
đời viết thành chât liệu của nhiều người…”
Tiểu thuyết “Kẻ Sống Sót”
là câu chuyện của một người phi công Mỹ bị bắt và giam cầm trong một
cái cũi và bị hành hạ đầy ải như một con vật. Truyện có nét hiện thực
của một cuộc chiến khốc liệt và tàn bạo. Phần nổi bật và cũng là dụng ý
của tác giả là làm rõ nét hơn những chân dung chiến tranh, rất người
nhưng cũng nhiếu lúc rất “thú vật”. Khi ngôn ngữ tuyên truyền để lừa đảo
làm thành những chiêu bài tốt đẹp, khi con người đã xử dụng những “kỹ
thuật “ rất tinh vi để hành hạ nhau đã tạo những nét bi để có những nét
hài, những lời nói chua chát, những nụ cười châm biếm, của những con
người vượt Trường Sơn, sống gần với bản năng để sinh tồn.
Đọc
văn Xuân Vũ, tôi có cảm giác như nghe kể chuyện từ một ông già Ba Tri
của đất Nam Bộ với cái nghĩa gần nhất là “đâm những thằng gian bút chẳng
tà”. Ông viết với tâm cảm dồn nén đau thương, từ dằn vặt quá khứ, của
những suy nghĩ và hồi ức, thương người thương chính mình. Câu hỏi mà bất
cứ người Việt Nam nào cũng có. Tại sao dân tộc chúng ta lại cứ bị trầm
luân đắm chìm vào đau thương như vậy? Những cái chết thản nhiên hàng
ngày, những thân xác phơi hoang đồng nội, những cái sống lây lất của
những con người bị lừa gạt hoặc dồn đẩy vào con đường thiên lý mịt mù
phục vụ cho mưu đồ cuồng ngạo của những lãnh tụ đỏ. Với suy nghĩ và tâm
thức của “ông già Ba Tri”, ý tưởng như nồng nàn hơn và ngôn ngữ như bàng
bạc cay đắng hơn. Của cả một thế hệ bị dẫn dắt lầm lạc vào con đường
vào Nam cứu nước theo ý đồ của Công sản quốc tế.
Cuộc
đời Xuân Vũ cũng trôi nổi theo cuộc chiến. Lúc thiếu thời, tham gia
kháng chiến chống Pháp. Lớn hơn một chút, đi tập kết ra Bắc và cám cảnh
cái thân phận của “con nuôi” chế độ. Trong thời gian ấy, ông gặp các nhà
văn “con đẻ” của chế độ, có người theo thời có người phản kháng. Thời
gian ấy đã giúp ông có đủ chất liệu để viết ”Văn Nghệ Sĩ Miền Bắc Như Tôi Biết”
Một bộ sách ba cuốn phác họa rất nhiều chân dung độc đáo của một người
viết với những ký ức không phai. Nguyễn Tuân, Văn Cao, Hoàng Cầm, Xuân
Diệu, Hoàng Lập Ngôn, Kim Lân, Nguyễn Bính, Ngân Giang, Nguyễn Xuân
Khoát, của cuốn thứ nhất. Phan Khôi, Phùng Quán, Trần Dần, Chế Lan Viên,
Quang Dũng, Hữu Loan, Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Vũ Anh Khanh, Lê
Đạt,.. của cuốn thứ hai. Và Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Tố Hữu, Vũ Ngọc
Phan, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyên Hồng, Lưu Hữu Phước,
Phùng Cung,.. của cuốn thứ ba.
Bộ
hồi ký của Xuân Vũ ghi lại một thực trạng của nền văn học được mệnh
danh là “hiện thực xã hội chủ nghĩa” với những dẫn chứng sống động,
những giai thoại có một không hai mà những ai không sống trong chế độ đỏ
tưởng tượng nổi. Nó phác họa lại những bi kịch của những người trí thức
bị coi là con ghẻ trong một chế độ mà văn nghệ sĩ trước tiên là nhiệm
vụ phục vụ cho chế độ, cho mục đích tuyên truyền tối hậu của chính trị.
Từ hoàn cảnh mỗi người, những bi kịch có khác nhưng đều giống nhau ở một
điểm là tất cả đều là nạn nhân của chế độ, từ những văn nô theo thời
viết theo chỉ thị của tuyên huấn đến những người chân trong chân ngoài
của vòng kiềm tỏa. Tất cả bị xiết chặt trong guồng máy chuyên chính và
giống như Nguyễn Văn Linh tổng bí thư đảng có lần đã nói văn nghệ sĩ bị
trói từ nhiều năm nay cởi trói. Nhưng, cởi rồi lại trói, cũng chính từ
Nguyễn Văn Linh bởi vì nhu cầu chính trị cần tạo một ấn tượng cho phong
trào đổi mới.
Có
những tiếng nói, có lúc như của nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, có lúc trong
những câu chuyện, những giai thoại, để nói lên cái tâm tư khao khát của
người nghệ sĩ là tự do tư tưởng trong sáng tác. Nhưng, làm sao được khi
cái vòng kim cô của chủ nghĩa Cộng sản siết chặt. Để Nguyễn Tuân phải
than : ”Văn học của ta vừa nhạt lại vừa nhẽo..” Và biết bao nhiêu nhà
phê bình nhận địng rằng suốt bao nhiêu năm, văn học hiện thực xã hội chủ
nghĩa chỉ là những cái “phi văn học, không có tính văn học“ của Trần
Văn Giàu…
Xuân
Vũ qua những chân dung kể trên đã phác họa lại chân thực một nền văn
học mà trong đó người cầm bút lúc nào cũng viết với cái án văn tự luôn
đe dọa. Mà án văn tự như vụ Nhân văn Giai Phẩm không văn tự, không án
lệnh, nhưng chỉ là những thủ đoạn ngấm ngầm mà độc hại gấp trăm lần
những tù có án. Người chịu đựng không phải riêng một mình mà cả những
người trong gia quyến, trong thân tộc thậm chí cả những người liên quan
nữa. Một vụ án kéo dài suốt mấy chục năm, cho đến bây giờ vẫn còn ảnh
hưởng. Như năm nay, tập thơ Trần Dần bị cấm, mặc dù ông đã được trao
giải văn học khi đã qua đời. Hay những lệnh ngầm khiến những nhà văn bị
ghi tên trong sổ đen bị gạt ra ngoài luồng và khó có cơ hội góp mặt vào
một nền văn học chính thống.
Xuân Vũ đã viết: ”..
Viết văn đối với tôi, là một việc khó khăn, cao quý, gian khổ và đau
khổ. Lắm khi còn đầy đe dọa. Nhưg nếu chết đi mà còn được tái sinh theo
thuyết luân hồi của nhà Phật thì tôi xin được tiếp tục cầm bút để viết
nốt những gì còn bỏ dở ở kiếp này. Ôi, cây bút gầy gò nhỏ bé! Nhưng nếu
không có nó thì loài người chỉ là một lũ người câm..”
Một bộ hồi ký gồm 5 cuốn mà Xuân Vũ viết qua ký ức của Dương Đình Lôi ”2000 Ngày Đêm trấn Thủ Củ Chi”
cũng là một chứng tích của một cuộc chiến mà những chiến công tưởng
tượng và những anh hùng là người có tên có tuổi thực nhưng được thổi
phồng với những việc làm mà óc tưởng tượng cũng phải khó khăn lắm để
sáng tạo ra. Xuân Vũ viết để những huyền thoại như “Củ Chi Đất Thép
Thành Đồng” hay “địa đạo Củ Chi dài cả gần 200 dặm sâu dưới lòng đất”. Ở
đó, có những nhân vật “ông“ tướng Ba Đình, “ông” thiếu tá sọc dưa Năm
Thuận, hay ông chính ủy quân khu Võ Văn Kiệt tức đồng chí Sáu Dân với
hành động dâm ô sàm sỡ đã cưỡng hiếp cô liên lạc viên xinh đẹp nội thành
tên Lệ. Trong một cuộc sống mà mọi người phải đóng kịch với nhau, phải
nói những điều mà mình không tin hoặc không muốn và làm những việc mà
mình thấy không phải, con người trong xã hội ấy đã trở thành những biểu
tượng đầy chất hỉ nộ ái ố để thành một vở tuồng vừa bi vừa hài, của
những cảnh chó nhảy bàn độc, của những tư tưởng ngu dốt lại dẫn đạo và
chỉ lối những người có hiểu biết hơn. Xuân Vũ, qua lời Dương Đình Lôi,
đã xé toang tấm màn bí mật, để sự thực trần truồng hiện ra dưới ánh mặt
trời. Cái mặt trái gớm ghiếc của cuộc chiến và những sâu bọ đắc thời tha
hồ tung hoành trong thời buổi hỗn quân hỗn quan. Ông viết với sự hiểu
biết rành rọt về một vùng mình đã ở, đã sống nên chất chân thực đã tao
cảm giác cho sự lôi cuốn độc giả. Những chi tiết đã mở ra cả một thời
thế mà cuộc chiến tạo ra những mảnh đời đặc biệt, những cuộc sống đặc
biệt.
Trong lá thư gửi cho người tình đã xa, Dương Đình Lôi thổ lộ tâm can:
“…Chúng
ta hãy cùng nhau cúi hôn mảnh đất Củ Chi đau khổ của chúng ta hiện nay
đang nhục nhã vì bị bon CS đem ra làm trò bịp thế gian.
Cộng
Sản nghĩa là đại bịp. Chúng bịp nhân dân, bịp thế giới và bịp chính
mình. Anh tự muốn ngưng bút ở đây nhưng thấy còn nhiều sự thực bị bưng
bít nên viết tiếp. Hai ngàn trang sách mà anh viết ra đây sẽ vạch trần
bộ mặt láo toét kinh hoàng của bọn CS Hà Nội mà cả anh lẫn em đều là nạn
nhân. Anh muốn nhắc chúng nó rằng thời kỳ Mỹ đóng chốt ở Đồng Dù, Củ
Chi chỉ là một bãi tha ma không một bóng người thấp thoáng, không một
gốc cây còn đứng nguyên, không một tiếng có sủa gà gáy. Tất cả các cấp
ủy đều chết, bị bắt, hồi chánh hoặc ngưng hoạt động. Ông Út Một Sơn bí
thư đầu tiên Củ Chi bị pháo Đồng Dù bắn lấp hầm chết ở bàu Lách Nhuận
Đức năm 1966. Chắc em còn nhớ chớ ? Nếu địa đạo Củ Chi nối liền thôn xã
(theo ông tác giả ngốc này mô tả thì nó chỉ kém đường xe điện ngầm ở Mạc
Tư Khoa chút thôi) thì sao quận Củ Chi bị cắt ra làm hai Nam Chi Bắc
Chi? Là vì cán bộ không đi qua lại giữa hai phần đất này. Người ở đâu
nằm chết ở đó. Mỗi sáng lóng ngóng chờ “chụp dù“, “nhảy Đò”, “xe tăng
càn” để lủi. Nhưng cũng không có đất mà lủi. Chỉ còn một cách độc nhất
là làm hầm. Mỗi ông bà có một cái hầm bí mật (nên nhớ hầm bí mật chỉ là
cái hang ếch chứ không phải địa đạo và không có hầm bí mật nào ăn thông
ra địa đạo cả). Sự sợ hãi chết chóc làm tê liệt mọi ý chí. Cán bộ chỉ
mong bị bắt sống cho khỏe thân. Cho nên họ ngồi trên miệng hầm ngụy
trang với một vài cành lá sơ sài như những người câu tôm câu cá ở bờ
sông vậy. Do đó có danh từ “ngồi thum”. Nhưng ngồi thum trong căn cứ
cũng không an toàn vì bị máy bay trực thăng cá rô hay quart hoặc bị ăn
pháo bầy dọn bãi trước khi Mỹ đổ chụp. Nên các bà Năm Dang, Hai Xót, khu
ủy, quận ủy mới ra tá túc ở ấp chiến lược để “chạy lan” như chuột mất
hang. Chạy lan có ngày cũng chết như trường hợp của cô Tư Bé quận đội
phó bị lính Mỹ bắn chết ở Đồng Dù hay ông Tám Châu bí thư quận ủy bị
pháo bắn mất đầu ở Bố Heo..”
Đọc
“2000 ngày đêm trấn thủ Củ Chi”, độc giả như thấy hiện ra một cuộc sống
mà sự khốc liệt của chiến tranh đã tàn phá cả người, cảnh và trong môi
trường ấy, con người đã ở trong những ngõ đường cùng không lối thoát.
Huyền thoại Củ Chi Thành Đồng đã tan tành khi đọc những trang sách mà
nét chân thực cũng như tâm tình của người cán binh Cộng Sản được phô bày
rõ nét. Sự hấp dẫn đã có từng trang, từng dòng. Chiến tranh đã phác họa
trong cái dụng ý tố cáo sự lừa dối tuyên truyền của chế độ đỏ…
Xuân
Vũ, dưới bút hiệu Lê Mỹ Hương đã viết những truyện ngắn, truyện dài kể
lại đời sống, phong tục của người miền Nam thuở xa xưa khi mà Pháp còn
cai trị dân ta. Ông vẽ ra những bức tranh ở nơi thôn dã, với nét sinh
động của những người dân Nam Bộ. Những tiểu thuyết như Những Độ Gà Nòi,
Thầy Tư Cóc, Trăng Kia Chưa Xế, Vàng Mơ Bông lúa,… vẽ ra một thời kỳ đã
qua trong lịch sử và không bao giờ trở lại nữa. Ông đích danh là một nhà
văn “miệt vườn” như những người cầm bút cùng chung đề tài mà tiêu biểu
là Hồ Trường An, Xuân Tước, Ngô Nguyên Dũng, Nguyễn Tấn Hưng… Có lần nhà
văn Xuân vũ đã tâm sự rằng những truyện đồng quê như vậy bắt nguồn từ
những câu chuyện kể của mẹ ông, về những cuộc đất ở Bến Tre như Mỏ Cày,
Giồng Trôm,.. Nhiều nhân vật của ông có thực ngoài đời và những câu
chuyện mà ông viết đã xảy ra và được kể lại từ nhiều người. Có những nét
dục tính của những người quê kiểng cũng như cũng có những phong tục đầy
vẻ mê tín dị đoan. Cũng như phản ảnh lại một thời kỳ mà điền chủ sống
như ông vua trong vùng và tá điền chỉ là những thần dân bị bóc lột, bị
đé nén.
Tác giả Lê Tùng Minh đã có lần hỏi nhà văn Xuân Vũ: ”Quyển tiểu thuyết “Xóm Cái Bần” của ông có phải là viết về xóm Cái Bần mà ông đang kể đó không?”
Ông đã trả lời
”Đúng, cái xóm đó! Ông có biết không, quê ngoại đối với tôi là một bài
thơ dài, một thiên hồi ký vô tận, không tài nào viết ra nổi! Tôi chết
tôi vẫn còn mang theo những hình tượng đẹp đẽ về một miền quê nơi tôi
cất lên tiếng khóc chào đời trong một ngôi nhà xưa u tịch. Đối với tôi
không một mảnh đất nào đẹp bằng Quê Ngoại.. Đó là một mảnh trời riêng
của tôi, mà không thể tìm đâu ra mảnh trời riêng ấy trên cõi đời này!!“
Xuân
Vũ từ trần ngày 1 tháng 1 năm 2004. Với một gia tài văn chương đồ sộ
gần 50 tác phẩm, chắc chắn những người ghi chép văn học sử không thể
quên ông. Bây giờ, ông đã đến nơi chốn vĩnh hằng chứ không phải cứ xoay
vòng mãi từ Đường Đi Không Đến và Đến Mà Không Đến. Có thể ông đã trở về
Quê Ngoại của ông, nơi mà ông gửi cả tấm lòng khi còn thuở sinh tiền
cầm bút…
Nguyễn Mạnh Trinh07-05-2008
nguồn: http://www.vietnamreview.com/
No comments:
Post a Comment