ĐỌC MARX
ĐẶNG PHÙNG QUÂN
Vào đầu thế kỷ 20 này, Marx, Einstein và Freud có ảnh hưởng lớn trong việc thay đổi nhãn quan của con người đối với tự nhiên và xã hội. Thật vậy, Einstein với thuyết Tương Đối đã đặt cơ sở mới cho Vật Lý Học và Vũ Trụ Học, Freud với Phân Tâm Học mở đầu cho việc khai phá chiều sâu tâm lý con người, và Marx làm đảo lộn xã hội khi đưa ra chủ nghĩa Duy Vật Lịch Sử.
Tất nhiên, trong khoa học tự nhiên không phải chỉ
có Einstein nhưng Einstein đã làm cách mạng
nền tảng khoa học khởi từ Newton. Trong việc nghiên cứu và
trị liệu con người, Freud không những khám phá ra
vị thế của vô thức, luận điểm Mặc Cảm Oedipe của ông
đặt định cấu trúc quan hệ con người một cách triệt để.
Khi nghiên cứu xã hội bằng khoa kinh tế chính trị,
Marx tìm ra quy luật phát triển của lịch sử con người
trong vận động thực tiễn. Những khám phá của Einstein,
Freud và Marx đã mang những chiều kích mới về tự
nhiên, con người và xã hội; quả thật những
lý luận đó có tính cách mạng,
phân biệt hẳn với những lý luận và những nhân
vật khác trong lịch sử tri thức nhân loại ở thế kỷ
này. Nhưng Freud và Marx còn một điểm chung
khác: sự phát triển lý luận của họ rộng lớn trong
sinh hoạt xã hội đã đi đến chỗ cực đoan, giáo
điềuẾnhững hiệp hội phân tâm học quốc tế và những
đảng CS quốc tế trở thành những tổ chức thế quyền củng cố những
giới luật chặt chẽ chẳng khác những hệ thống giáo quyền.
Phân tâm học của Freud cũng như chủ nghĩa Mác
đã kinh qua những luận giải của các môn đệ,
phát triển ra nhiều hệ phái. Cho nên việc đọc lại
Freud hay đọc lại Marx đặt
thành
vấn đề: Có phải trở về "Freud nguyên thủy" hay "Marx
nguyên thủy" ngõ hầu tìm ra những tư tưởng
chân thực của họ?
Đặt vấn đề như vậy, chắc hẳn sẽ gặp những ý kiến khác
biệt như sau:
- Những tư tưởng trung thực của chính Marx so với những
phát triển của chủ nghĩa Mác về sau, điều đó
còn có nghĩa là Marx không chịu trách
nhiệm về những thành quả
của chủ nghĩa
Mác (hay chủ nghĩa Cộng sản) trong quá trình lịch
sử.
- Không thể quan niệm một chủ nghĩa Mác thuần
túy tách biệt khỏi thực tiễn lịch sử, bởi về mặt
lý luận, chủ nghĩa Mác đã chỉ ra một lý
luận thực tiễn, không phải đi giải thích
thế giới
mà vấn đề là phải biến đổi nó. Chủ nghĩa
Mác đã gắn liền với quyền lực chính trị.
Thế nên, đọc Marx như thế nào? Có thể đọc
Marx từ cái nhìn của một người Việt nam?
Đã có người thử đặt vấn đề nhìn Marx từ quan điểm
của nước Mỹ, như Clinton Rossiter với Marxism: The View from America
(1960). Khi đối chiếu chủ nghĩa Mác với truyền thống nước Mỹ,
Rossiter đã muốn chỉ ra rằng chủ nghĩa Mác không
bao giờ có cơ hội thắng lợi ở Mỹ, vì từ cơ bản, chủ nghĩa
Mác có tính nhất nguyên, trong khi truyền
thống Mỹ với lý tưởng của chủ nghĩa tự do có tính
đa nguyên. Tại sao ở một nước công nghiệp tân tiến
nhất như nước Mỹ, môi trường thuận lợi cho quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và sau đó
tiến lên chủ nghĩa Cộng sản như Marx tiên đoán, lại
có rất
ít người theo chủ nghĩa Mác? Rossiter đã kể ra,
ít nhất bảy nguyên do về sự thất bại của chính
Marx: như Marx đã không có khiếu trình
bày các luận diểm cơ bản trong lý thuyết của
ông, mặc dầu ông được nhiều người đọc, những định nghĩa về
"ý thức," "vật chất," những khái niệm như "quan hệ sản
xuất" trong học thuyết Mác không rõ ràng,
những sự kiện ông dẫn ra đã không cập nhật, khi
phá đổ trật tự xã hội cũ, ông đã không
có một đề cương xây dựng xã hội mới cũng như quan
điểm của ông rất cực đoan một chiều về con người, xã hội
cũng như lịch sử.
Vấn đề đặt ra là "chủ nghĩa Mác có thích
hợp với các xã hội phương Đông?" Chính Marx
đã phân chia những giai đoạn lịch sử nhân loại
trên cơ sở chế độ kinh tế, theo như ông nói
là những phương thức sản xuất châu Á, cổ đại, phong
kiến và tư bản. Ba phương thức sau áp dụng vào
xã hội Tây phương, tạo thành một nhóm. Như
vậy phương thức sản xuất châu Á ở một phạm trù
khác. Tuy nhiên Marx và Engels không
có cơ hội để đi sâu vào việc tìm hiểu phương
thức sản xuất này. Trong quá trình vận động lịch
sử đi từ chủ nghĩa tư bản qua chủ nghĩa xã hội tiến lên
chủ nghĩa cộng sản, có một khoảng cách - đề ra vấn nạn về
sự thống nhất của quá trình lịch sử.
Nếu phương thức sản xuất châu Á mang tính đặc
thù khác hẳn với phương Tây, có một khả năng
về tiến trình lịch sử theo một con đường khác, như vậy
chiều hướng lịch sử có tính đa nguyên; hơn nữa, nếu
bản chất của phương thức sản xuất châu Á không diễn
ra trong vận động biện chứng của lịch sử từ cổ đại qua phong kiến, tư
bản, hiểu theo nghĩa lịch sử của xã hội hiện hữu là lịch
sử đấu tranh giai cấp, có phải những xã hội theo phương
thức sản xuất châu Á đi theo một tiến trình
khác? Như vậy chủ nghĩa Mác không có một
thực tiễn, nói khác đi, không áp dụng
vào những xã hội châu Á? Điều đó
có nghĩa, hoặc không thể đọc Marx từ quan điểm châu
Á, hoặc phủ nhận những giá trị của học thuyết Mác.
Như đã trình bày ở trên, người ta
không thể đọc Marx về mặt kinh tế chính trị dưới
nhãn quan phương Đông. Vì lý thuyết kinh tế
chính trị của Marx không thể áp dụng vào
xã hội phương Đông, nếu chúng ta hiểu Marx chỉ giải
quyết những vấn đề trong những tiền đề lý luận ông đưa ra.
Nhưng chắc hẳn điều đó không có nghĩa là phủ
nhận học thuyết Mác một cách đơn giản. Trên thực
tế, nếu học thuyết Mác không có những giá
trị quan trọng hơn, chủ nghĩa Mác đã không
có sức thu hút một số đông đảo những người tin theo
như ở phương Đông vậy.
Mặt khác, mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác-Lênin
và chủ nghĩa Mao cũng xác định chủ nghĩa Cộng sản
đã áp dụng vào một phần xã hội châu
Á.
Đọc Marx như thế nào là một nhân tố quan trọng
trong việc xác định vị thế của người nghiên cứu đối với
chủ nghĩa Cộng sản, vì tác động hai mặt: hiểu Marx theo
quan
niệm
"chính thống" của người Cộng sản, hoặc có một cái
nhìn khác về Marx, những phát triển của chủ nghĩa
Mác ở ngoài quỹ đạo Xô viết.
Đọc Marx với những hệ luận phức tạp đó, phải chăng vì
Marx có những khuyết điểm như Rossiter đã nêu ra.
Thật sự, hình thành tư tưởng của một con người còn
tùy thuộc vào nhiều nhân tố khác nhau. Ở
trường hợp Marx, ngoài yếu tố ông được đào tạo từ
môi trường triết học và từ lãnh vực này,
Marx chuyển hướng nghiên cứu kinh tế chính trị học, những
tác phẩm chủ đạo của Marx đều chưa trọn v-n, như tập Bản Thảo
Kinh Tế và Triết Học; Khởi Thảo Những
Nguyên
Lý Kinh Tế Chính Trị Học; và Tư Bản. Hơn nữa,
những tác phẩm Bản Thảo Kinh Tế và Triết Học cũng như
Khởi Thảo Những Nguyên Lý là những bản thảo chỉ
được xuất bản vào thập niên 30 và 40 của thế kỷ 20,
đánh dấu những chiều hướng giải thích chủ nghĩa
Mác mới lạ và khác biệt, gây ra nhiều tranh
luận
Cuộc đời và tác phẩm của Marx có những quan hệ,
gắn bó với hoạt động của những phong trào công
nhân và trào lưu xã hội chủ nghĩa, do
đó những bản viết của Marx cũng có tác động hai
mặt đối với thực tiễn.
Những yêu cầu thực tiễn đã thúc đẩy Marx đi
vào con đường phê phán triệt để, với một giọng vẫn
đầy chất lửa gây hấn. Những tác phẩm của Marx đều khởi từ
cơ sở phê phán, cho nên ngay từ những tác
phẩm thời trẻ như Phê Phán Triết Học về Quyền của Hegel;
Phê Phán Triết Học về Nhà Nước của Hegel (1843) đến
những tác phẩm thời trưởng thành, cơ bản là tập Tư
Bản cũng mang một tiêu đề phụ là Phê Phán
Kinh Tế Chính Trị (1867). Chính qua tính phê
phán này, có những học giả phân biệt "chủ
nghĩa Mác phê phán" với "chủ nghĩa Mác khoa
học."
Sự phân biệt này không chỉ thuần túy dựa
vào những vấn đề của Marx, còn chỉ ra tư tưởng Marx biến
chuyển một cách cơ bản. Cũng trong chiều hướng đó, người
ta còn phân
biệt Marx
thời trẻ và Marx thời già, sự phân biệt này
cũng không chỉ nêu ra tiến trình của tư tưởng Marx
mà còn phân biệt triệt để như trường hợp nhà
mác-xit Pháp L. Althusser
khi ông
quan niệm "có một sự đoạn tuyệt nhận thức luận" trong học thuyết
Mác. Điều này có nghĩa là tư tưởng Marx
thời trưởng thành đã đoạn tuyệt với tư tưởng thời trẻ, rũ
bỏ
hẳn những
tàn dư của chủ nghĩa duy tâm. Lập trường này
còn đối lập một Marx/nhà lý luận khoa học với một
hình ảnh Marx của chủ nghĩa nhân đạo như một số học giả
khác quan niệm.
Thật sự,
những lý giải khác nhau về học thuyết Mác cũng
phân định ba lập trường:
1. Những người quan niệm tư tưởng Marx thời trẻ mới thực sự quan trọng
vì nó mang tính nhân đạo và thuần
tuý của Marx.
2. Những người quan niệm tư tưởng Marx thời già mới tiêu
biểu cho chủ nghĩa Cộng sản vì nó dựa trên cơ sở
kinh tế chính trị học, như Louis Althusser cho rằng Marx
đã khám phá ra một lý luận về lịch sử, tức
chủ nghĩa Duy vật lịch sử - đó là bước đầu đoạn tuyệt
triết học ý thức hệ - để xây dựng một triết học mới, tức
chủ nghĩa Duy vật biện chứng.
3. Những người quan niệm tư tưởng Mác thống nhất và
xuyên suốt giai đoạn trẻ đến lúc trưởng thành, như
vậy chỉ có một học thuyết Mác.Nếu chỉ có sự
khác biệt giữa những tác phẩm thời già với thời
trẻ chỉ là sự sử dụng từ thay đổi, những cơ sở lý luận
không thay đổi.
Ba khuynh hướng lý giải tư tưởng Mác không những
chỉ khác biệt về mặt nhận thức, chủ yếu còn khác
biệt về mặt chính trị, mở ra những chiều hướng ý thức hệ
mới. Chẳng hạn, khai phá lý luận về tha hóa trong
tác phẩm Mác thời trẻ phù hợp với trào lưu
tư tưởng hiện đại của chủ nghĩa Hiện sinh đã mở đường cho nhiều
học giả nghiên cứu vấn đề này. Những lý giải
khác nhau dẫn đến sự đối lập giữa chủ nghĩa Mác
chính thống và chủ nghĩa xét lại trong việc đọc
Marx. Quả thật Marx là một trong những tác giả gây
ra nhiều tranh luận nhất, phần vì Marx diễn đạt tư tưởng
không được minh xác, Marx lại
không
thống nhất với chính mình về những khái niệm
ông đưa ra, chẳng hạn như khái niệm "giai cấp." Mặt
khác, chủ nghĩa Mác dựa vào quyền bính
đã là cơ sở cho những đường lối giải thích
tùy tiện vào những người theo Marx. Sự đối lập
nghiêm trọng nhất là chủ nghĩa Mác-Stalin với những
lý giải khác của chủ nghĩa Mác. Quả thật kể từ khi
đảng Cộng sản bôn-sê-vích nắm quyền ở Nga, chỉ
có một chủ nghĩa Mác giáo điều theo Lênin
và Stalin. Tư tưởng Mác trở thành một bộ phận kinh
điển của chủ nghĩa Mác Xô viết. Những phản ứng của trường
phái Zagreb (Nam Tư) và những người mác xít
Tây Âu chứng tỏ chủ nghĩa Mác đã biến dạng
và phân hóa.
Đặt vấn đề đọc lại Marx bao hàm cả mặt triết lý lẫn
chính trị. Marx khởi sự là một triết gia, song quan điểm
của ông thật triệt để khi ông đòi hỏi triết học phải
biến đổi thế
giới (trong
Luận Cương Feuerbach 11, Marx viết: Những triết gia chỉ đi giải
thích thế giới, song vấn đề thực ra là phải biến đổi
nó/Die Philosophen haben die Welt nur verschieden interpretiert,
es konnt darauf an, sie zu verandern). Đó là điểm
khác
biệt giữa
Marx và những triết gia đi trước. Mặt khác, cũng như
trường hợp Hegel, những môn đệ theo Marx còn triệt để
trong quan niệm: triết học Marx chấm dứt giòng lịch sử triết
học, nghĩa là sau Marx, người ta không thể vượt khỏi chủ
nghĩa Mác. Về mặt chính trị, đọc Marx phải khởi từ một
chỗ đứng rõ rệt, hoặc chấp nhận Marx, hoặc chống Marx (đó
là ý nghĩa "tính đảng" như người cộng sản quan
niệm).
Tuy nhiên đứng ở một vị trí cực đoan như vậy đối với chủ
nghĩa Mác chỉ có nghĩa chủ trương một chủ nghĩa
Mác giáo điều, đóng kín mọi ngả đường
phát triển học thuyết Mác, biến tư tưởng Mác
thành những tín điều tuyệt đối. Đọc Marx một cách
sinh động là nhìn nhận có một tiến trình
tri thức trong tư tưởng Marx với những nét đặc thù của
nó.
Những
tranh luận về tư tưởng Mác mang hai mặt đối lập: hoặc sử dụng
Mác trong ý đồ biến đổi thế giới, hoặc sử dụng Mác
trong ý đồ bảo trì trật tự hiện hữu; hoặc biện hộ
tính
chính
thống như chủ nghĩa Lênin và chủ nghĩa Stalin, hoặc đề ra
tính công chính của chủ nghĩa Mác để chống
lại những chủ nghĩa này như một số nhà triết học
Đông Âu chủ trương; hoặc chấp nhận lý luận về lịch
sử mà phủ nhận biện chứng về tự nhiên, hoặc phủ nhận triết
học và khẳng định chủ nghĩa Mác là một khoa học.
Xét tiến trình hình thành tư tưởng
Mác dựa trên những tác phẩm Marx đã
hoàn tất hay mới khởi thảo:
Giai đoạn 1: Những tác phẩm thời trẻ, tính cho đến năm
1845, ngoài luận án tiến sĩ, là:
- Năm 1844, khởi thảo Phê Phán Triết Học về Quyền
của Hegel.
- Năm 1844, tập Bản Thảo Kinh tế và Triết học.
- Viết chung với Engels năm 1845, Hệ Tư Tưởng Đức và Gia
Đình Thần Thánh.
-
Năm
1845, Luận cương Feuerbach.
Giai đoạn 2:
- Năm 1848, Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản.
- Năm 1847, Sự Ngh�o Nàn
của Triết Học.
- Hai năm 1857-1858, Những Nguyên Lý Phê
Phán Kinh Tế Chính Trị Học.
Giai đoạn 3:
- Tư Bản tập 1 và tập 2, 3 do Engels xuất bản; Lý
Luận về Giá Trị Thặng Dư do Kautsky xuất bản.
- Năm 1975, Phê Phán Đề Cương Gotha.
Một cái nhìn toàn diện cho thấy ngay từ những
bài viết thời trẻ, Marx vẫn tiếp tục suy nghĩ về những vấn đề
ông đưa ra trong Phê Phán Triết Học về Quyền của
Hegel, khám phá ra sứ mạng lịch sử đặc biệt của giai cấp
vô sản cũng như ý tưởng "cách mạng" không
phải từ động lực bên ngoài mà xuất phát từ
thành tựu xu hướng nội tại của nó. Có một
khâu xuyên suốt quá trình biện chứng trong
học thuyết Mác, do đó khi phân chia những
tác phẩm của Marx theo ba giai đoạn nêu trên
không có nghĩa là cắt đứt khâu biện chứng
đó, hay chối bỏ một giai đoạn nào cả.
Vấn đề đọc Marx còn khởi từ một vấn nạn: một bên học
thuyết Mác là một lý luận toàn diện
và duy lý, mặt khác chủ nghĩa Mác lại
là cơ sở cho những tổ chức, đảng và Nhà
nước của giai
cấp công nhân, điều đó hàm ngụ sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn như người cộng sản quan niệm?
Một vấn nạn khác: đứng trên quan điểm nào
xét chủ nghĩa Mác trong sự đối lập giữa bình diện
cộng đồng (gemainschaft) và văn hóa (kultur) với
bình diện xã hội (gesellschaft) và văn minh
(Zivilization) như người Đức quan niệm?
Đọc Marx còn khởi từ vấn đề tác phẩm: khi người ta
nhìn Marx như một nhà tư tưởng nhân bản cuối
cùng của nhân loại, tác phẩm chủ đạo của ông
phải là tập Bản Thảo
Kinh Tế Triết
Học. Nhìn Marx như một nhà xã hội học tiền phong,
tất cả những bản viết khác của Marx đều phụ thuộc vào
tác phẩm chính là tập Tư Bản.
Marx xuất thân từ môi trường triết học và
hành trang lý luận của ông chứng tỏ ông thừa
kế một di sản văn hóa, đồng thời cũng có những kế thừa.
Một luận điểm chung của
những người
cộng sản như Engels và Lênin đã coi ba nguồn gốc
đồng thời với ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác
là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ
nghĩa xã hội Pháp. Vấn đề đặt ra là triết học Đức
nào? Có phải Marx vẫn chưa ra khỏi ảnh hưởng triết học
duy tâm Hegel? Hay ảnh hưởng của Kant và Fichte?
Chính từ những tranh luận đó đã phát sinh
những chiếu hướng giải thích Marx theo chủ nghĩa Kant mới, chủ
nghĩa Hegel, chủ nghĩa hiện sinh, hiện tượng luận, cấu trúc
luận, mặc dầu người cộng sản muốn phân định một ranh giới
rõ rệt giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật.
Những suy luận từ đọc Marx qua tập Bản Thảo Kinh Tế Triết Học sẽ
xây dựng một hình ảnh Marx nhân bản của chủ nghĩa
cá nhân, hoặc ngược lại đọc Marx qua Tư Bản với
sự đoạn tuyệt
tri thức luận sẽ dẫn đến một hình ảnh Marx/nhà khoa học
vượt lên trên những giá trị của con người đối lập
với tự nhiên và xã hội. Cả hai hình ảnh về
Marx đều phiến diện. Một lý luận về tha hóa trong học
thuyết Mác phải gắn liền với hoàn cảnh lịch sử cụ thể,
đó là lý do Marx đã tốn nhiều năm
vào việc nghiên cứu kinh tế chính trị học, với một
đối tượng cụ thể là vấn đề "tư bản" và quá
trình sản xuất của xã hội tư bản. Mặt khác, quan
niệm đó đã phủ nhận mối quan hệ gắn bó nhất
quán giữa những tác phẩm triết học thời trẻ với những
tác phẩm kinh tế chính trị thời trưởng thành của
Marx.
Ngày nay, mặc dầu toàn bộ sách vở của Marx chưa
được tập đại thành song những tác phẫm xuất bản
vào thế kỷ 20 đã chỉnh đốn những lý giải
thiên lệch về chủ nghĩa Mác.
Cũng nhờ
đó, nó soi sáng phần nào những nguyên
tắc giáo điều thống trị trong khối cộng sản từ nhiều thập
niên qua, cũng như mở đường hứa hẹn cho một nhận thức mới về chủ
nghĩa
xã hội.
Chủ nghĩa Mác có thể dẫn đến chủ nghĩa hư vô như K.
Axelos quan niệm, nhưng tư tưởng của Marx không phải khởi từ một
viễn tượng hư vô chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác gắn
liền với
quyền bính, nó suy thoái khi toàn bộ hệ
thống cộng sản sụp đổ, song tư tưởng Mác vẫn còn
giá trị viễn tượng hứa hẹn trên bình diện
nhân văn. Đó là vị thế duy nhất của Marx trong lịch
sử văn hóa nhân loại.
Những
Đóng Góp của Engels:
Vị trí của Engels trong việc hình thành chủ nghĩa
Mác thật quan trọng và phức tạp:
- Engels là người cộng sự của Marx trong việc hợp
tác trí thức viết ra những tác phẩm nổi tiếng của
chủ nghĩa Mác như Hệ Tư Tưởng Đức; Gia đình thần
thánh; Tuyên Ngôn của Đảng Cộng Sản.
- Engels là người đồng chí tận tụy sát
cánh với Marx trong cuộc sống cũng như hoạt động của phong
trào công nhân quốc tế.
- Engels là người có công quảng bá
những luận điểm của chủ nghĩa Mác và có ảnh hưởng
lớn rộng trong tư tưởng, chiến lược và sách lược cho
những lý luận của chủ nghĩa cộng sản hiện đại. Engels
chính là người sáng lập ra những "chủ nghĩa duy
vật lịch sử" và "chủ nghĩa duy vật biện chứng," là cơ sở
của những chủ nghĩa Mác hiện đại (chủ nghĩa Lênin,
Trốtkít, Stalin và Mao).
Mặc dầu chính Engels tự nhận là người cộng sự thứ yếu
bên cạnh Marx trong việc xây dựng cơ sở chủ nghĩa
Mác, ông có những tác phẩm riêng
và tư tưởng của ông có những điểm dị biệt với tư
tưởng Mác. Ngoài ba tác phẩm viết chung với Marx
trước năm 1850, Engels đã trước tác những tác phẩm
quan trọng như Chống Duhring (1878); Nguồn Gốc của Gia Đình, Tư
Hữu và Nhà Nước (1884), Ludwig Feuerbach và Sự
Cáo Chung của Triết Học Cổ Điển Đức (1888) và một di cảo
đã xuất bản là Biện Chứng của Tự Nhiên.
Những điểm dị biệt này đã không được đặt
thành vấn đề nghiêm trọng có thể do hai mặt:
- Sinh hoạt trí thức và chính trị của những học
viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác trong thế giới cộng sản vẫn
chính thức coi chủ nghĩa Mác với hai cơ sở "chủ nghĩa duy
vật lịch
sử" và
"chủ nghĩa duy vật biện chứng," rút ra từ những tác phẩm
của Engels là những cơ sở chính thống của chủ nghĩa
Mác.
- Phần lớn những học giả phương Tây nghiên cứu chủ nghĩa
Mác có nghi vấn hoặc nhìn ra những dị biệt giữa
Marx và Engels thường không tìm hiểu bản chất sự dị
biệt này, hoặc chỉ tìm hiểu Marx và không
quan tâm đến Engels, hoặc coi quan điểm của Marx và Engels
thống nhất với nhau, hoặc chấp nhận những chú giải của Engels về
Marx như những chú giải chính thức của Marx.
Ngày nay việc nghiên cứu chủ nghĩa Mác chỉ ra sự
khác biệt quan trọng giữa Marx và Engels vì :
- Khuynh hướng quan niệm biện chứng của lịch sử xác định vai
trò chủ thể trong lịch sử, quan hệ giữa cá nhân
và xã hội và biện chứng là tác động
qua lại giữa chủ thể và kháchthể.
- Khuynh hướng quan niệm biện chứng của tự nhiên xác định
những quy luật chung của tự nhiên ứng dụng vào lịch sử con
người, cho nên hành động và ý hướng của con
người về mặt đại thể phải tuân theo những vận động khách
quan của lịch sử, độc lập với việc con người thực hiện hay không
thựchiện.
Sự đối lập giữa hai khuynh hướng này cũng chỉ ra những tranh
luận về chủ nghĩa Mác phê phán và chủ nghĩa
Mác khoa học, chủ nghĩa Mác nhân đạo và chủ
nghĩa Mác
giáo
điều, chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa tất định kinh tế.
Ở đây tôi không đi sâu vào những tranh
luận giải thích và phê phán về Marx với
Engels, vì những tranh luận này ngay từ những thập
niên đầu thế kỷ hai mươi đến nay đã dẫn đến một văn kiện
tài liệu đồ sộ và phức tạp của những người mácxit
cũng như những nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Ngay
trong khuynh hướng chấp nhận biện chứng lịch sử cũng không hẳn
nhất trí, chẳng hạn quan điểm của Sartre không hẳn đồng
nhất với quan điểm của Lukács (trong giai đoạn "Lịch sử
và ý thức giai cấp"), còn phải kể đến vô số
những quan điểm khác nhau của I. Fetscher, H. Lefebvre, T.
Adorno ... Trong phần
nhận định
những đóng góp của Engels vào chủ nghĩa
Mác, người viết muốn chỉ ra những nét chính yếu
trong lý luận của Engels như quan niệm nhận thức là phản
ánh thực tại, tính
tương đối của
tri thức, những quy luật về biện chứng của tự nhiên đã
là cơ sở triết học của chủ nghĩa Mác "chính
thống," hay còn gọi là chủ nghĩa Mác-Xôviết,
khởi từ đó, những quan điểm về nhà nước, chuyên
chính vô sản, chủ nghĩa xã hội cũng như những
lý luận về khoa học tự nhiên và xã hội trong
những tác phẩm chính của Engels đã là mẫu
mực cho một ý thức hệ cộng sản ở giai đoạn đảng cộng sản nắm
quyền bính:
1. Về quan hệ hợp tác trí thức giữa Marx và Engels
: người cộng sản thường ca ngợi mối quan hệ hợp tác trí
thức cũng như tình bạn vĩ đại giữa Marx và Engels,
nhưng ngày nay một số học giả cũng như những người nghiên
cứu tiểu sử Marx và Engels phát hiện những điểm
không rõ rệt như khi Engels viện dẫn lập luận cho rằng
Marx và ông nhất trí với nhau về mọi điều cơ bản,
hay Marx đã đọc và đồng ý với những luận điểm
trình bày trong tác phẩm Chống Duhring, hay trong
Biện Chứng của Tự Nhiên (vì những điều này Engels
chỉ nêu ra sau khi Marx đã mất).
2. Về cơ sở triết học: Trong tác phẩm Ludwig Feuerbach và
Sự Cáo Chung của Triết Học Cổ Điển Đức (1888), Engels đã
đưa ra một lập trường khẳng định về chủ nghĩa duy vật làm cơ sở
triết học cho thế giới quan và nguyên tắc tính đảng
của Lênin sau này trong Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ
Nghĩa Kinh Nghiệm Phê Phán. Đó là sự
phân cách rõ rệt giữa chủ nghĩa duy tâm
và chủ nghĩa duy vật, quan niệm chỉ có một thực tại
là thế giới vật chất, khả thị cảm xúc, tư duy và
ý thức của con người là sản phẩm của óc, bộ phận
vật chất. Engels viện dẫn Feuerbach để xác định một chủ nghĩa
duy vật với quan niệm "vật chất không phải là một sản phẩm
của tinh thần, nhưng chính tinh thần là một sản phẩm cao
nhất của vật chất." (Die Materie ist nicht ein Erzeugnis des Geistes, sondern der
Geist ist selbst nur das hochste Produkt der Materie.)
Sự phát hiện và xuất bản tập Bản Thảo Kinh Tế và
Triết Học năm 1844, cũng như Hệ tư tưởng Đức chỉ được thực hiện sau
thời đại của Kautsky và Lênin, đã mở ra một
con đường mới
phát triển nhận thức về chủ nghĩa Mác- sự phát
hiện quan trọng này khiến nhiều học giả đặt vấn đề về
thái độ của Engels đối với những tập bản thảo mà
ông là
người
có trách nhiệm sở hữu. Quả thực Engels đã
xác định lập trường trong lời mở đầu tác phẩm dẫn
trên (Ludwig Feuerbach und der Augang der klassischen deutschen
Philosophie)
đề ngày 21 tháng hai năm 1888: "Phần viết về Feuerbach
không nghiêm túc. Phần hoàn tất nhằm
trình bày quan niệm duy vật lịch sử chứng tỏ kiến thức về
lịch sử kinh tế của chúng tôi trong giai đoạn này
thiếu sót. Nó không có phần phê
phán học thuyết Feuerbach, vì thế nó không
cần thiết trong mục đích hiện nay." Đó là
nguyên do Engels đã giữ lại bản thảo Hệ tư tưởng Đức (viết
chung với Marx, mà phần lớn là công trình
của Marx) để cho ra đời tác phẩm L. Feuerbach và Sự
Cáo Chung của Triết Học Cổ Điển Đức.
Nếu so sánh giữa hai bản văn, phần luận về Feuerbach trong Hệ Tư
Tưởng Đức và phần tóm lược trong tác phẩm dẫn
trên của Engels, không có điểm chung nào cả.
Tuy Engels có viện dẫn ý kiến của Marx trong lời mở đầu
tác phẩm Góp Phần Phê Phán Kinh Tế
Chính Trị Học xuất bản năm 1859, nội dung đoạn văn của Marx cũng
chỉ ra rõ ràng là vì "tình thế thay
đổi nên tác phẩm đã không được in ra," nhưng
Marx cũng nhấn mạnh đã hoàn tất được mục tiêu
chính là "tự soi sáng làm cho dễ hiểu" quan
điểm của họ đối lập với quan điểm ý thức hệ của triết học Đức
trong khoảng mùa xuân năm 1845.
Quan điểm của Marx trong giai đoạn này được trình
bày rõ ràng trong bản thảo 1844 và Hệ tư
tưởng Đức 1845. Những phân tích về sự dị biệt giữa Marx
và Engels của nhà
triết học Nam
tư Ante Pazanin trong Mác và Chủ Nghĩa Duy Vật (Marx i
materijalizam), 1972, và nhà triết học Pháp Michel
Henry trong Mác, một triết học về thực tại (Marx,
une
Philosophie de la Réalité), 1976, đã đưa ra mấy
luận điểm quan trọng:
a. Quan niệm thống nhất tự nhiên và lịch sử của Marx
đã vượt lên khỏi sự phân biệt của chủ nghĩa duy
tâm và chủ nghĩa duy vật, là chân lý
thống nhất của hai chủ nghĩa này.
b. Tư tưởng triết học của Marx chỉ ra trong Hệ tư tưởng Đức đã
lật đổ khái niệm về hữu thể thống trị giòng lịch sử triết
học phương tây bắt nguồn từ thời cổ đại Hy lạp.
Michel Henry nhận định: "tư tưởng nơi Marx là thị kiến về hữu
thể, mà cấu trúc nội tại của nó không thể
giản lược vào cấu trúc nội tại của thị kiến này,
cũng không thể giản
lược
vào lý luận, nó chính là thực tiễn."
Trong lời mở đầu Phê Phán về Quyền của Hegel, Marx
đã viết một câu bất hủ: "Anh không thể thủ
tiêu triết học nếu không thực hiện nó." (Ihr konnt
die Philosophie nicht
aufheben, ohn
sie zu verwirklichen) Khái niệm thủ tiêu (aufheben) triết
học chỉ ra:
- Ý nghĩa của hoạt động cách mạng, thực tiễn
phê phán (die Bedeutung der revolutionaren, der praktisch
kritischen Tatigkeit) trong Luận Cương Feuerbach I và sự
phê
phán triệt để chủ nghĩa duy vật và biện chứng trong Hệ Tư
Tưởng Đức.
- Vận động triệt để này thay thế sự giải phóng
thông qua một hình thái tư tưởng khác bằng
sự giải phóng thông qua biến đổi xã hội, ngõ
hầu cùng lúc triết học vừa thành tựu vừa triệt huỷ.
- Tác nhân thực hiện nó là giai cấp
vô sản. Trong bản văn dẫn trên, Marx đã viết: "triết
học không thể tự thực hiện nếu không thăng hóa được
vô sản và vô sản không thể tự thăng hóa
nếu không thực hiện triết lý." (Die Philosophie kann sich
nicht verwirklichen ohne die Aufhebung des Proletariats, das
Proletariat kann sich aufheben ohne die Verwirklichung der
Philosophie.)
Trong Ludwig Feuerbach và Sự Cáo Chung của Triết Học Cổ
Điển Đức, Engels đã bổ sung quan niệm duy vật về lịch sử bằng
việc đặt lại vấn đề triết học như sau:
"Vấn đề cơ bản lớn nhất của mọi triết học, đặc biệt của triết học hiện
đại là vấn đề về quan hệ giữa tư duy và hữu thể." (Die
grosse Grundfrage aller, spezielle neueren
Philosophie
ist die nach dem Verhaltnis von Denken und Sein.)
Ở một đoạn kế tiếp, ông viết: "Vấn đề quan hệ giữa tư duy
và hữu thể, giữa tinh thần và tự nhiên là
vấn đề tột đỉnh của toàn thể triết học. Tùy vào
những giải đáp mà các triết gia trả lời vấn đề
này đã phân chia thành hai phe lớn. Những
triết gia nào khẳng định tinh thần có trước tự
nhiên thuộc về phe duy tâm. Những người nào coi tự
nhiên có trước, thuộc vào những trường phái
khác nhau của chủ nghĩa duy vật."
Đối chiếu với quan điểm của Marx, có thể coi Engels như người
đầu tiên theo "chủ nghĩa xét lại" trong giòng lịch
sử của chủ nghĩa Mác. Song quan điểm của Engels thật quan trọng
vì nó là cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện chứng ở
đầu thế kỷ hai mươi, từ Plekhanov, Lênin đến Stalin.
Mặc dầu trong tác phẩm dẫn trên, Engels quan niệm "chủ
nghĩa duy vật không là gì khác hơn sự
nghiên cứu thế giới thực," song ông không vượt khỏi
vòng rào của truyền
thống
siêu hình cổ điển. Thay vì nhận thức thế giới lịch
sử cụ thể, ông đã khai triển theo chiều hướng duy nghiệm
của thế kỷ 18. Trong tác phẩm Chống Duhring, Engels còn
xác định:
"Cái
thống nhất thực của thế giới dựa vào tính vật chất ... do
sự phát triển lâu dài của triết học và khoa
học tự nhiên." Cũng trong tác phẩm này, Engels
đã phát biểu sự thăng hoa triết học theo ý nghĩa
"không còn triết học nữa nhưng là một thế giới quan
đơn giản chỉ hình thành và chứng thực qua những
khoa học thực nghiệm."
3. Về biện chứng của tự nhiên: Trong phần lý luận về tư
bản, tôi sẽ phân tích tính biện chứng trong
bộ Tư bản của Marx cũng như chính ông đã xác
định phép biện chứng đó về bản chất "có
tính cách phê phán và cách
mạng," không những phân biệt với phương pháp của
Hegel, thậm chí còn đối lập trực tiếp vì:
"Dưới hình thức huyền bí, phép biện chứng trở
thành thời thượng ở nước Đức, nó có vẻ tô
điểm và vinh danh thực trạng hiện hữu. Trong hình thức
hợp lý, nó là một sự xúc phạm ghê gớm
đối với giai cấp tư bản và những giáo sư lý luận
của giai cấp này, bởi vì nó cũng nhận thức khẳng
định về thực trạng hiện hữu, đồng thời nó cũng nhận thức về sự
phủ định thực trạng này, với sự tan rã không thể
tránh khỏi; vì nó quan sát mọi hình
thái xã hội phát triển về mặt lịch sử trong vận
động lưu chuyển của nó, và do đó nó
xét đến tình trạng nhất thời cũng như sự hiện hữu tạm
thời của thực trạng này."
Theo Hegel, thế giới thực chỉ là hình thức hiện tượng bề
ngoài của "Ý Tưởng", trong khi Marx đưa ra một luận điểm
đảo ngược:" Ý Tưởng không là gì khác
hơn thế giới vật chất được phản ánh trong tinh thần con người
và diễn dịch thành hình thái tư duy." (...
bei nur ist das Ideele nichts anderes als das am Menschenkopf
umgesetze und ubersetzte Materielle.)
Marx cũng chỉ ra ông sử dụng phép biện chứng như một
"phương pháp trình bày;" ông không đưa
ra môt phép lý luận về phép biện chứng
và ông chưa hề nói đến "chủ nghĩa duy vật biện
chứng." Từ ngữ này được coi là do Engels đặt ra. Trong lời tựa
Chống Duhring xuất bản lần thứ ba, Engels khẳng định "Marx
và tôi hầu như là những người duy nhất đã cứu
vãn phép biện chứng có ý thức thoát
khỏi triết học duy tâm Đức và
đem áp dụng vào quan niệm duy vật về tự nhiên và
lịch sử."
Engels phân tích phép biện chứng của Marx chỉ ra
những mối quan hệ qua lại và phạm trù trong khoa học,
phân biệt với những đường lối tư duy siêu hình cổ
điển. Phương pháp biện chứng đó là hình
thức phát triển thực duy nhất của tư duy, không rơi
vào cạm bẫy tư tưởng duy tâm.Tuy nhiên trong Hệ Tư
Tưởng Đức Marx đã đưa ra quan điểm thống nhất của tự nhiên
và lịch sử, cũng như ông không chấp nhận một quan
niệm về lãnh vực tự nhiên ở bên ngoài con
người, ít ra về mặt thực tiễn. Mối quan hệ giữa tự nhiên
và con người tạo thành một toàn bộ thống nhất, như
Marx đã viết: "Toàn bộ lịch sử thế giới không
là gì khác hơn ... sản xuất của con người
thông qua lao động, sự phát triển của tự nhiên
dành cho con người." Trong Hệ tư tưởng Đức, ông cũng chỉ
rõ: "Chúng
ta chỉ biết
một khoa học, khoa học về lịch sử. Lịch sử có thể xét từ
hai mặt ... nó có thể chia thành lịch sử tự
nhiên và lịch sử con người. Nhưng cả hai mặt này
không thể tách rời nhau.Bao lâu con người tồn tại,
thì tự nhiên và lịch sử vẫn là những điều
kiện tiên quyết đối với nhau."
Tính biện chứng trong lịch sử con người ở chỗ Marx nhận ra mặt
phủ định thực tại là một điều kiện lịch sử được áp dụng
vào thực tiễn như một hành động lịch sử giải phóng
giai cấp
vô sản, trong đó thực tại xã hội và ý
thức tác động lẫn nhau. Cho nên trong lời Bạt quyển Tư Bản
xuất bản lần thứ hai (tiếng Đức), gần ba mươi năm sau, Marx đã
trở lại đề cập vấn đề biện chứng rút ra từ phép biện
chứng của Hegel. Tuy nhiên ông không trình
bày một cách có hệ thống và đầy đủ về
phép biện chứng này như thế nào, đã
gây nhiều tranh luận cho những người mácxít về sau.
Sự khác biệt giữa hai quan niệm biện chứng: một đằng chỉ ra mối
quan hệ giữa chủ thể và khách thể, một đằng chỉ ra vận
động và quan hệ liên kết không chỉ thuần túy
tranh luận trên bình diện nhận thức, nhưng xác định
về mặt thực tiễn chính trị - mâu thuẫn đối kháng
giữa quan điểm nhất nguyên và đa nguyên trong sinh
hoạt chính trị, sách lược và chiến lược đấu tranh
chính trị.
Quan niệm về tự nhiên của Engels xây dựng trên
lý luận tiến hóa được lý giải dưới ánh
sáng biện chứng. Engels cho rằng Marx và ông
đã chỉ ra được một chủ nghĩa duy vật
mới bao
hàm những khám phá mới nhất của khoa học tự
nhiên. Trong quyển Chống Duhring, ông định nghĩa: Biện
chứng không là gì khác hơn khoa học về những
quy luật
chung của vận
động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội
con người và tư duy.
Engels quan niệm "Tự nhiên là kiểm tra của biện chứng."
(Die Natur ist die Probe auf die Dialektik) và thông qua
những khoa học tự nhiên hiện đại, phép biện chứng đã
đem lại những
thành quả phong phú cho tự nhiên và chứng
thực là trong tự nhiên, phân tích cho
cùng, mọi vật diễn ra không phải theo tính
cách siêu hình mà theo tính biện
chứng. "... tự nhiên không vận động trong một tuần
hoàn chu kỳ lập lại không ngừng, nhưng diễn ra một
quá trình lịch sử thực sự." (... dass sie sich nicht im
ewigen Einerlei eins stets wiederholten Kreises
bewegt, sondern eine wirkliche Geschichte durchmacht.)
Lịch sử ở đây không phải theo ý nghĩa của Marx dẫn
ra ở trên, thăng hoa trong lịch sử con người - mà ở
đây là một lịch sử tự nhiên, với toàn bộ thực
tại là vận động phát triển không ngừng của vật chất
theo những quy luật chung của biện chứng. Engels nhận định trong tự
nhiên có những lực tác động mù quáng
không có ý thức và quy luật chung của biện
chứng diễn ra trong tác động qua lại này. Cho nên
trong lịch sử xã hội, dầu con người hành động một
cách ý thức, có chủ đích nhất định, điều
đó cũng chỉ quan trọng cho việc nghiên cứu lịch sử những
đặc tính và thời đại cá biệt, song quá
trình diễn biến của lịch sử vẫn xác định bởi những quy
luật chung nội tại.
Engels cũng khẳng định
một quan điểm duy vật về tự nhiên "...
không là gì khác hơn quan niệm về tự
nhiên một cách tự tại,
không thêm bớt gì ở bên ngoài
vào." Những điểm
chính
yếu trong lý luận biện chứng về tự nhiên của Engels
có thể tóm lược như sau:
1. Tính thuần nhất của thế giới căn cứ vào tính
vật chất của nó.
2. Những hình thái cơ bản của mọi hiện hữu ở bên
ngoài không gian và thời gian.
3. Vận động là phương thức hiện hữu của sự vật. Tự nhiên
là một phức hợp bao gồm những quá trình, với
vô số những hình thái biến đổi.
Trong Biện Chứng của Tự nhiên, Engels đã lập lại những quy
luật biện chứng của Hegel:
- Quy luật biến đổi từ lượng sang chất và ngược lại.
- Quy luật tác động qua lại của những mặt đối lập.
- Quy luật phủ định của phủ định.
Sự khác biệt với Hegel, theo Engels, ở chỗ Hegel quan niệm những
quy luật trên là quy luật của tư duy trong khi những quy
luật biện chứng này là những quy luật thực sự của
phát triển tự nhiên và do đó có
giá trị trong mọi khoa học tựnhiên.
Trong Chống Duhring, Engels cũng đã viện dẫn Marx để bảo đảm cho
quan niệm triết lý duy vật này: "Khi Marx định nghĩa
quá trình là phủ định không phải Marx thử
chứng nghiệm tính tất yếu lịch sử của nó, mà ngược
lại sau khi chứng tỏ về mặt lịch sử, quá trình đó
diễn ra và cũng có thể diễn ra trong tương lai, Marx
đã định nghĩa nó như một quá trình
phù hợp với quy luật đặc biệt của biện chứng."
Những quy luật biện chứng nêu trên được phân
tích trong tập di cảo "Biện chứng của tự nhiên" (chưa
hoàn tất và xuất bản lần thứ nhất vào năm 1925)
cũng như trong "Chống
Duhring"
đã phác họa một lý luận về tự nhiên của
Engels :
- Nhận thức những quy luật của thế giới tự nhiên độc lập
với ý chí và tinh thần con người.
- Một lý luận về sự phát triển
không ngừng của tự nhiên. Sự vật diễn ra theo một vận động
tất yếu, dầu con người chưa nhận thức được.
- Quy luật biến đổi chỉ rõ sự đối lập với chủ nghĩa duy
vật máy móc ở chỗ, vận động của tự nhiên biến đổi
từ lượng qua chất, không phải chỉ là những chất phụ thuộc
đơn thuần, sản phẩm của tri giác, nhưng tạo ra những chất mới,
đồng thời những chất cũ mất đi. Quy luật tác động qua lại giữa
những mặt đối lập chỉ rõ tự nhiên là một hệ thống
những xung đột và áp lực. Quy luật phủ định của phủ định
chỉ ra sự phủ định không phải chỉ thuần tuý huỷ diệt,
nhưng là một vận động phát triển trong khi huy diệt, lại
bảo toàn và phát triển ở mức độ cao hơn. Vận động
này được mô tả như một phát triển theo đường
vòng trôn ốc.
Ảnh hưởng biện chứng tự nhiên của Engels rất phổ biến trong
chủ nghĩa cộng sản hiện đại :
- Người cộng sản thường sử dụng từ "biện chứng" đối lập với từ
"siêu hình" để gán cho những tư tưởng đối nghịch.
Phép biện chứng trở thành một từ ngữ then chốt để chỉ một
hình thái tư duy, một hệ tư tưởng chuyên
chính, một triết học mang tính đảng. Trong khi Marx quan
niệm thăng hoa triết học thì ngược lại qua việc xây dựng
một thế giới quan duy vật, Engels đã trở lại những vấn đề cổ
điển của triết học, mở đường cho hệ thống triết học chính thống
Xô viết qua "Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán" của Lênin và "Chủ nghĩa duy vật
biện chứng và lịch sử" của Stalin.
- Trong: Chống Duhring, Engels quan niệm ngoại trừ lý luận
về tư duy và những quy luật của tư tưởng (luận lý
hình thức và phép biện chứng) còn tất cả
những điều khác phải sát nhập vào trong khoa học
thực nghiệm của tự nhiên và lịch sử, dẫn đến quan niệm của
người cộng sản nhằm xây dựng một "thế giới quan khoa học". Trong
Biện Chứng của Tự Nhiên, Engels chỉ nhắc đến Marx một lần trong
việc áp dụng phương pháp biện chứng vào khoa kinh
tế chính trị học. Dựa trên những kiến thức của khoa học tự
nhiên ở thời đại của ông, Engels đến gần với Hegel thời
già qua giai đoạn Wissenschaft der Logik, những kiến thức
này phần lớn đã lỗi thời – tuy nhiên, những
nét chính yếu trong tư tưởng của ông như khuynh
hướng tự nhiên, nhận thức là phản ánh thực tại, tri
thức có tính tương đối, tự nhiên có những
quy luật biện chứng độc lập với tư tưởng con người vẫn được coi
là những mẫu mực của triết học cộng sản hiện đại. Bản chất "khoa
học"
trong
phép biện chứng như Engels trình bày qua hai
tác phẩm Chống Duhring và Biện Chứng của Tự Nhiên
có khả năng thâu nhận mọi thành quả khoa học, song
điều đó không có nghĩa là triết học của
ông đóng góp vào việc phát triển khoa
học. "Phương pháp biện chứng" như Engels quan niệm không
phải là một phương pháp có khả năng phát
hiện những thành quả mới cho khoa học tự nhiên. Quả thật
"Biện chứng của tự nhiên" của Engels chứa đựng nhiều điển
hình về một suy luận thuần túy trong những phiêu
lưu kiến thức của ông đối với các khoa học tự nhiên
và toán học. Giới hạn trong phép biện
chứng, Engels
đã loại bỏ hai khám phá lớn nhất ở thời đại của
ông là nguyên lý thứ hai của nhiệt động lực
học và lý luận chọn lọc tự nhiên (Xem "Triết học
và Khoa học" của ĐPQ, xb. năm 1972). Nhà sinh vật học
người Pháp J. Monod gọi khoa biện chứng duy vật này
là một "phóng chiếu vật linh". Quả thật, Engels
không giải quyết được lưỡng luận đề ra trong mối quan hệ giữa hệ
thống và phương pháp: một đằng ông quan niệm những
khái quát triết lý không có
giá trị nếu không xây dựng trên kinh nghiệm
khoa học, mặt khác khi phê phán chủ nghĩa duy
nghiệm, ông lại cho triết học giữ vai trò kiểm soát
đối với thực
nghiệm.
- Sở dĩ những người cộng sản sau này như Lênin
và Stalin chấp nhận toàn bộ lý luận biện chứng tự
nhiên của Engels vì quan niệm một lý luận
phát triển từ trình độ thấp
lên
trình độ cao có giá trị thực tiễn về mặt
chính trị trong mục tiêu đấu tranh của người cộng sản như
xác quyết tính ưu việt của xã hội Xã Hội
Chũ Nghĩa, trong khi thay thế xã hội này mà vẫn
bảo toàn những giá trị to lớn của văn hóa vật chất
và trí thức kết tập ở những phát triển về trước,
phân biệt mâu thuẫn đối kháng trong xã hội Tư
Bản Chủ Nghĩa và những xã hội về trước với mâu
thuẫn không đối kháng trong xã hội Xã Hội
Chũ Nghĩa và xã hội cộng sản, khẳng định tỷ suất trung
bình của lợi tức quốc gia trong xã hội Xã Hội Chủ
Nghĩa cao hơn so với xã hội Tư Bản Chủ Nghĩa. Khi đề cao những
quy luật của biện chứng, người cộng sản tiến đến chỗ tuyệt đối
hóa những giá trị của quy luật và đem phép
biện chứng trở lại tính cách huyền bí như
chính Marx đã phê phán biện chứng
của Hegel.
No comments:
Post a Comment