Monday, August 27, 2012

TÔ KIỀU NGÂN * CHUYỆN HUẾ

Chuyện Huế ít người biết

Tô Kiều Ngân



Tại sao lại gọi là Ngựa Thượng Tứ ?


Ở Huế, khi nói về một người đàn bà hung dữ, có lời ăn tiếng nói thô lỗ, cử chỉ vùng vằng, người ta thường ví kẻ đó như Con ngựa Thượng Tứ . Thượng là thuộc về của Vua . Tứ là xe bốn bánh do ngựa kéo . Gần cửa Đông Nam, một trong tám cửa của kinh thành Huế, xưa có khu vườn nuôi ngựa để kéo xe cho vua . Những con ngựa này thường là dữ dằn phải do đội phi kỵ vệ và khinh kỵ vệ nuôi dạy, huấn luyện cho ngựa trở nên thuần . Người đàn bà dữ dằn lúc nào cũng lồng lên như ngựa chứng thì có gọi là “ngựa Thượng Tứ” cũng đúng thôi . Cửa Đông Nam vì ở gần khu Thượng Tứ nên cũng được dân Huế gọi luôn là cửa Thượng Tứ, không ai còn để ý đến hai chữ Đông Nam ghi trên vọng lâu nữa .


Chợ Đông Ba hay chợ Đông Hoa ?



Chợ Đông Ba, ngôi chợ lớn nhất trong các chợ ở Huế, vốn có tên thật là chợ Đông Hoa – cửa Đông Ba xưa cũng gọi là cửa Đông Hoa . Đây là một cái tên do ta bắt chước Trung Quốc . Thời Tần Thủy Hoàng bên Tàu cũng có một cái cửa gọi là cửa Đông Hoa . Chỉ vì tránh phạm húy mà người Huế phải gọi trệch ra là Đông Ba vì tên Hoa là tên của bà Hồ Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng, được phong Tá Thiên Nhân hoàng hậu, gốc người Biên Hòa (Nam Bộ) .

Nếu ta nghe người Huế xưa gọi “Ánh sáng”“Yến sáng'” thì cũng đừng ngạc nhiên vì họ sợ phạm húy bởi “Ánh” là tên vua Gia Long nên phải đổi ra thành Yến .

Lão thi ông Ưng Bình Thúc Giạ khi làm thơ cũng đổi chữ “cánh phồn hoa” ra “cánh phiền ba” bởi hơn ai hết, ông phải kỵ húy vì ông là người trong Hoàng tộc .

(còn tiếp)

Tập San “Áo Dài Huế” (Nhớ Huế – tập 3)
Nhà Xuất Bản Trẻ 1999


(*) Chú thích của BN : Tô Kiều Ngân tên thật là Lê Mộng Ngân, người Huế . Ông đa tài lắm: ca hát, làm thơ, ngâm thơ, thổi sáo . Một số bài thơ về Huế của ông được phổ nhạc như “Những Con Đường Trắng” . Ông ngâm bài “Đây Thôn Vỹ Dạ” (Hàn Mặc Tử) thì phải nói là tuyệt . Đa số nghệ sĩ ngâm thơ bài này đều bắt chước lối ngâm của ông . Ông thổi sáo đệm cho nhiều nghệ sĩ ngâm thơ nổi tiếng như Hồ Điệp, Hoàng Oanh, Hoàng Thư, Quang Minh, Quách Đàm . Trước 1975, ông cộng tác với ban Tao Đàn và Thi Nhạc Giao Duyên của thi sĩ Dinh Hùng . Khi Đinh Hùng qua đời năm 1967, ông phụ trách ban Tao Đàn .


Bắt trẻ con làm cá, lấy trấu làm tép!



Nhân vùng biển Thuận An sắp trở thành thị xã, xin kể vài tục lạ của người dân vùng biển này có từ thời xa xưa .

Dân chài lưới ở Thuận An rất sùng bái nữ thần Thái Dương vì vị thần này đã nhiều phen giúp họ làm ăn phát đạt . Họ lập miếu thờ và mỗi năm, cứ đến ngày 23 tháng chạp âm lịch lại tổ chức lễ hội, trang điểm cho tượng thần, bày ra các trò vui chơi và cúng tế để cầu yên . Họ thường nhắc câu: ”20 làm tốt, 21 xâu tai, 22 đeo hoa, 23 tế Nhân” . Xâu tai, đeo hoa là làm đẹp cho tượng thần và Nhân là tên của nữ thần Thái Dương .

Ngư dân ở đây đã lấy lưới vây trên bến cạn, bắt một số trẻ em trần truồng cho vào trong lưới giả làm cá vừa lưới được, xong nhiều người đem rổ rá đến mua . Cũng diễn ra cảnh chọn cá và kỳ kèo, trả giá, xong thì đem bọn trẻ sang bờ bên kia thả cho chúng chạy .

Họ cũng dùng trấu giả làm tép biển và lấy vợt xúc lên, giả như đang thu hoạch . Tiếp sau đó, có những trò vui như đua trải, nhậu nhẹt và hát bội cho dân làng xem .


Người Huế mà không được nói . . . tiếng Huế !




Đó là lệnh cấm đối với các thiếu nữ được tuyển vào làm cung phi trong Nội, dưới triều Nguyễn . Họ không được nói rặt giọng Huế mà phải nói y như giọng dân Phường Đúc . Phường Đúc là khu quần cư tập trung các người thợ đúc đồng tài giỏi do triều dình tuyển từ Bắc vào hoặc trong Nam ra . Họ là tác giả của chuông chùa Linh Mụ, Cửu vị Thần Công và Cửu Đỉnh ở Huế . Những sản phẩm của họ dãi nắng, dầm mưa, trải bao tuế nguyệt đến nay vẫn chẳng chút nứt rạn hay có tì vết gì . Họ mang theo gia đình ra làm ăn sinh sống lâu ngày ở Huế nên hòa đồng ngôn ngữ với dân địa phương . Dân Phường Đúc không nói rặt một giọng nào mà pha trộn nửa nọ, nửa kia . Các cung phi trong Nội phải bắt chước giọng Phường Đúc, nghĩa là vừa nói nửa Trung, nửa Nam, ai không tuân thì bị tội . Tại sao lại có hiện tượng này ? Kể cũng khó hiểu . Và lệnh này có từ đời nào ? Có người đưa ra giả thuyết: có lẽ chuyện này xuất phát từ thời bà Từ Dũ vốn là một phụ nữ Nam Bộ, con gái của Đại thần Phạm Đăng Hưng, người Gia Định . Bà được phong Nghi Thiên Chương Hoàng hậu, lấy vua Thiệu Trị, đứng đầu bộ phận “hậu cần” của Hoàng đế, có nhiều quyền uy đối với các cung phi khắp ba cung, sáu viện . Có lẽ bà muốn những người dưới tay mình phải dùng giọng nói pha âm sắc Nam Bộ để trao đổi cho dể hiểu chăng, bởi vì người Tân Hòa – Gia Định nghe giọng Huế “đặc sệt” có thể không hiểu mô tê chi cả .

Cũng có thể lệ này xuất hiện sớm hơn, từ thời Minh Mạng vì ông này nổi tiếng là ông vua có nhiều vợ và phần lớn là người miền Nam .

Về giọng nói Phường Đúc thì cho đến nay, thời gian qua quá lâu, trải nhiều thế hệ, giọng nửa Nam nửa Trung đã trở thành Huế rặt .

Ngoài ra còn có một hiện tượng buồn cười khác là các người làm việc trong nội dù là cung phi, lão tỳ, thị tỳ, nô nhân hay nê nhân, lúc mới vào đều phải tự nguyện “câm” đi trong thời gian sáu tháng . Suốt thời gian này, họ không nói gì cả hoặc nói rất ít . Không nói vì sợ phạm húy, lỡ mồm lỡ miệng thì mang họa vào thân . Chờ khi nào thuộc lòng những chữ “nên tránh” gồm trọng húy và khinh húy, hoặc những chữ cấm nói như: chết chóc, đui què, máu me, phong hủi . . . vì những từ này mang điềm gỡ hoặc thô tục, lúc đó họ mới được phép . . . hết câm .


Tập San “Áo Dài Huế” (Nhớ Huế – tập 3)
Nhà Xuất Bản Trẻ 1999


Trước đây, BN có nhắc đến một số nghệ sĩ ngâm thơ đã từng cộng tác với thi nhạc sĩ Tô Kiều Ngân trước 1975 trong ban Tao Đàn và Thi Nhạc Giao Duyên như Hồ Điệp, Hoàng Oanh, Hoàng Thư, Quang Minh, Quách Đàm . BN quên kể Hoàng Thư đã qua đời đầu năm 2000, còn Hồ Điệp thì đã bị mất tích trên đường vượt biên bằng đường bộ


No comments: