Saturday, August 11, 2012

VIỆT NAM & TRUNG QUỐC


Blog / Bùi Tín

Tim đen của bành trướng: Dưới cá là dầu

Ảnh chụp ngày 20 Tháng 7, 2012 cho thấy đoàn tàu đánh cá của Trung Quốc gần Bãi đá Vĩnh Thử thuộc quần đảo Trường Sa, đi kèm đoàn tàu cá là tàu hộ tống có trọng tải 3.000 tấn và một tàu của chính phủ làm công tác bảo vệ
CỠ CHỮ - +

Thế lực bành trướng Trung Quốc có lòng tham không giới hạn, dân ta thường nói là lòng tham không đáy. Hiện nay trọng điểm xâm lược của họ là vùng Biển Đông của ta, mà họ tự nhận là vùng biển Nam Trung Hoa. Họ đang leo thang trong cuộc xâm lược vùng này, bất chấp sự cảnh cáo của các nước lân cận như: Philippines, Indonesia, Malaysia, Singapore, Brunei, Thái Lan, bất chấp sự cảnh cáo nghiêm khắc của các nước châu Á khác như Ấn Độ, Nhật Bản, và của Hoa Kỳ, Canada, Liên Âu, Úc…

Bắc Kinh cũng bỏ ngoài tai sự can ngăn của những người còn có lương tri trong hàng ngũ của họ. Những người này từng chỉ ra rằng Trung Quốc hiện đã bị cô lập, bị bao vây từ mọi phía, nội bộ bất ổn, vấn đề nông dân và dân tộc đang có nguy cơ bùng nổ, chớ có lao vào các cuộc phiêu lưu bất trắc, hậu quả sẽ khôn lường. Những người này ân cần nhắc lại lời khuyên tâm huyết của đại quân sư Đặng Tiểu Bình ghé vào tai Giang Trạch Dân, rằng: Hãy chỉ phơi bày chỗ yếu, chớ vội phô trương lực lượng khi nanh còn nhỏ, vuốt còn cùn, hãy tỏ ra khiêm tốn để đánh lừa đối phương, hãy ghi nhớ 4 chữ “Thao Quang Dưỡng Hồi », che dấu chỗ mạnh, phô trương mặt yếu kém, làm phương châm trong vài chục năm, vì Trung Quốc chỉ có bộ binh hùng hậu, còn hải quân và không quân còn rất kém, kỹ thuật quân sự cao còn kém hơn nữa.

Vì quá tham lam, vì say mê nồng độ dầu và khí đốt với trữ lượng rất cao nằm dưới đáy biển Đông của Việt Nam, mà thế lực bành trướng Trung Quốc lên cơn điên tham tàn, bất chấp thế đang bị quốc tế bao vây, ngăn chặn, họ vẫn hùng hổ lao vào kho báu của người khác. Tim đen của họ là đây.

Họ vội vã lập thành phố Tam Sa, lập Bộ chỉ huy quân sự Tam Sa, lập lực lượng quân sự phòng vệ Tam Sa, cho tàu quân sự xâm nhập sâu hải phận Việt Nam và Philippines, từ ngày 1/8/2012 huy động hơn 2 vạn tàu thuyền đánh cá của 2 tỉnh Hải Nam và Quảng Đông dương cờ 5 sao, trống kèn inh ỏi, ngang nhiên mở chiến dịch đánh cướp cá quy mô chưa từng có trong vùng biển Việt Nam. Tại đây, họ xây sân bay, hải cảng, lập nhà kho, xây cả trại giam, dựng doanh trại, kho đạn, ụ súng đại bác, trận địa cao xạ, như trên đất nhà mình.

Rõ ràng là Bắc Kinh rắp tâm đặt Việt Nam và các nước liên hệ khác trước chuyện đã rồi, cứ tỉnh bơ làm như chuyện bình thường trên đất nhà, trên biển nhà, trong vùng quyền lợi cốt lõi quốc gia của họ, lợi dụng sự mềm yếu của nhóm lãnh đạo ở Hà Nội đã bị họ thao túng và khống chế xong xuôi, để hoàn thành âm mưu cuối cùng của họ là chiếm đoạt toàn bộ kho báu vô tận: kho dầu và khí đốt dưới đáy biển Đông.

Trên là cá, tôm, cua, mực, sò, ốc hến, san hô, rong biển, 20 ngàn tàu thuyền phương Bắc tha hồ vơ vét ngày đêm, nhưng đây chưa phải là mục tiêu lớn nhất. Dưới là những túi dầu, túi khí đốt khổng lồ, vô tận, đây mới thật là kho báu huyền thoại, là mục tiêu cơ bản của bành trướng đang lên cơn khát dầu và khí đốt.

Hãy nghe Bắc Kinh đánh giá kho báu vô giá này. Tổng cục dầu khí quốc gia Trung Quốc cho rằng dự trữ dầu và khí đốt ở biển Đông có thể thừa để cung cấp cho toàn bộ nền kinh tế đang phát triển với tốc độ trên dưới 10% mỗi năm của Trung Quốc trong 30 năm. Trung Quốc sẽ không cần nhập dầu từ Libya, Nigeria, Trung Đông, Nga … xa xôi phức tạp, chỉ cần đưa đến đảo Hải Nam và tỉnh Quảng Đông để vận chuyển bằng đường ống đi khắp nước. Của nhà, không phải trả một xu, họ nói với nhau như thế. Đường ống vận chuyển dầu và khí đốt phi nghĩa, phi pháp này đã được khởi công lặng lẽ. Dầu cướp được từ đáy biển Việt Nam sẽ chảy đến Thành Đô, Trùng Khánh, Thượng Hải, Bắc Kinh, lên đến tận các vùng Đông Bắc và Tây Bắc.

Bắc Kinh đã ngang nhiên công khai gọi đấu thầu quốc tế cho việc thăm dò và khai thác dầu và khí đốt ở 9 lô cụ thể trong vùng biển Việt Nam, cứ như là chuyện bình thường, tất yếu, không cần giữ ý, chẳng cần bàn bạc với ai. Đúng là thái độ, đàn anh, kẻ cả, mục hạ vô nhân, thái độ đế quốc, thái độ anh chị của xã hội đen quốc tế.

Bắc Kinh dám hành động liều lĩnh như thế chính là do họ đã nắm chắc nhóm lãnh đạo Việt Nam từ cuộc họp mặt bí mật ở Thành Đô - Tứ Xuyên hồi đầu tháng 9 năm 1990 – bao gồm Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, với sự đồng tình của Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Lê Khả Phiêu, v.v

Thế lực bành trướng lên cơn điên cuồng vì ngửi thấy kho dầu và khí đốt hùng hậu ở biển Đông nước ta, đang lao vào cuộc cướp phá mù quáng vượt quá khả năng của họ trong thời hiện đại.

Đảng CS Việt Nam sẽ chọn con đường nào? Đi với kẻ thù xâm lược hay đi với nhân dân?

Không thể cứ ấm ớ, nước đôi, như giao cho một phó thủ tướng mở hội hữu nghị Việt-Trung tỏ lòng biết ơn Trung Quốc (!), rồi cho người phát ngôn của Bộ ngoại giao ỡm ờ phản đối việc Trung Quốc cho hàng vạn tàu thuyền ào ạt kéo vào vùng biển ta để ăn cướp cá. Trò 2 mặt này không lừa được ai. Thái độ chính trị phải nhất quán, minh bạch và dứt khoát.


* Blog của Nhà báo Bùi Tín là blog cá nhân. Các bài viết trên blog được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
 http://www.voatiengviet.com/content/tim-den-cua-banh-truong-duoi-ca-la-dau/1476621.html

Blog / Nguyễn Hưng Quốc

Tại sao Việt Nam sợ biểu tình chống Trung Quốc?

CỠ CHỮ - +
Trước các cuộc biểu tình của dân chúng nhằm phản đối những hành động gây hấn và lấn chiếm biển đảo ngang ngược của Trung Quốc, nhà cầm quyền Việt Nam có một chủ trương rõ rệt và bất khoan nhượng: Cấm. Nếu không cấm được thì dẹp. Dẹp bằng nhiều biện pháp: một, đánh đuổi hay đạp vào mặt; hai, lùa lên xe buýt chở về đồn công an để khủng bố tinh thần; và ba, nếu ngoan cố, vu cho một tội gì đó rồi bắt giam hoặc lùa vào các trại phục hồi nhân phẩm.

Nhà cầm quyền thừa hiểu những chủ trương như vậy là thiếu khôn ngoan. Thứ nhất, chúng gây phẫn nộ cho nhân dân, ngay cả những người đã từng là đảng viên và đã từng tham gia các cuộc chiến tranh do Cộng sản lãnh đạo trước đây. Thứ hai, chúng tạo nên những ấn tượng cực kỳ xấu trong lòng quần chúng về hình ảnh của đảng và chính quyền: một, giữa Trung Quốc và nhân dân, họ sẵn sàng hy sinh nhân dân để làm vừa lòng Trung Quốc; hai, giữa đảng và dân tộc, họ sẵn sàng hy sinh dân tộc để bảo vệ quyền lợi của đảng. Thứ ba, như hậu quả của cả hai điều trên, dưới mắt dân chúng, đảng Cộng sản và nhà cầm quyền biến thành những kẻ hèn hạ và đang toan tính việc bán nước cho Trung Quốc.

Không thể nói nhà cầm quyền Việt Nam không biết những điều đó. Chúng quá hiển nhiên.

Biết, nhưng tại sao họ vẫn cấm và vẫn cương quyết dẹp các cuộc biểu tình chống Trung Quốc?

Lý do, một cách chính thức, họ nêu lên là: Những cuộc biểu tình ấy gây trở ngại cho các nỗ lực đàm phán để tìm một giải pháp hòa bình với Trung Quốc. Nhưng một cách không chính thức, họ rỉ tai dân chúng: những cuộc biểu tình như thế có thể khiến Trung Quốc nổi giận, từ đó, có thể tấn công Việt Nam.

Nền tảng của những lập luận ấy là: Sợ. Nền tảng của cái sợ ấy là: Hèn. Nền tảng của cái hèn ấy là: Thiếu lòng yêu nước và sự tự hào dân tộc.

Tuy nhiên, vấn đề đáng cho chúng ta bàn luận là những lập luận ở trên có hợp lý hay không?

Theo tôi, hoàn toàn không.

Thứ nhất, dù có điên khùng đến mấy, Trung Quốc cũng không thể phát động chiến tranh xâm chiếm Việt Nam chỉ vì lý do dân chúng Việt Nam xuống đường biểu tình chống lại họ. Trong thời đại ngày nay, người ta có thể đem quân đánh dẹp một chính phủ, nhưng không ai dám tuyên bố đem quân để đánh dẹp nhân dân của một nước khác. Làm như thế, người ta không những chỉ là tội phạm chiến tranh mà còn là tội phạm diệt chủng.

Thứ hai, nhà cầm quyền muốn đàm phán với Trung Quốc nhưng họ lấy gì để thuyết phục được Trung Quốc trong các phòng họp? Ai cũng biết sức mạnh trên bàn hội nghị không nằm ở mớ giấy tờ. Có trưng ra bao nhiêu tấm bản đồ xưa cổ chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam thì cũng vô ích. Trung Quốc đã thừa biết những điều đó từ lâu rồi. Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã thừa kinh nghiệm trong việc đó: Những yếu tố quyết định chiến tranh Việt Nam trước năm 1975 không diễn ra ở các cuộc họp tại Paris mà là trên chiến trường Việt Nam; và yếu tố quyết định chiến trường ở Việt Nam không phải ở súng đạn mà là ở lòng dân Việt Nam, ở cả hai miền Nam và Bắc, cũng như lòng người, kể cả người Mỹ và người dân các nước Tây phương nói chung. Bây giờ, ngồi vào bàn đàm phán với Trung Quốc với tư thế của những kẻ đạp vào mặt nhân dân, xua đuổi nhân dân và không sớm thì muộn cũng bị nhân dân xua đuổi, họ lấy gì để tăng thêm sức mạnh cho các lập luận của họ? – Không có gì cả!

Tổng thống Benigno Aquino của Phi Luật Tân hiểu rõ điều đó. Ngày 23 tháng 7 vừa qua, trước các hành động gây hấn của Trung Quốc, ông đã có bài phát biểu quan trọng trước Quốc Hội, trong đó, ông kêu gọi dân chúng đoàn kết trong việc bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của Phi Luật Tân, dù trên những hòn đảo nhỏ nhoi và xa xôi nhất. Ông lập luận: “Nhiều người bảo chúng ta nên bỏ qua việc Bajo de Masinloc [tức bãi cạn Scarborough]; chúng ta nên tránh phiền phức. Nhưng nếu có ai vào vườn nhà bạn, bảo với bạn đó là vườn của hắn, bạn có đồng ý hay không? Liệu có đúng không việc chúng ta cho người khác những gì vốn thuộc về chúng ta một cách chính đáng?” Rồi ông kêu gọi: “Tôi kêu gọi nhân dân đoàn kết về vấn đề này. Chúng ta hãy nói cùng một tiếng nói. Hãy giúp tôi chuyển đến phía bên kia [Trung Quốc] những lý lẽ trong lập trường của chúng ta.”

Xin lưu ý đến câu cuối cùng vừa dẫn: “Hãy giúp tôi chuyển đến phía bên kia [Trung Quốc] những lý lẽ trong lập trường của chúng ta” (Help me relay to the other side the logic of our stand.) Dĩ nhiên, Aquino không cần dân của ông làm những thông tín viên hay liên lạc viên. Những gì ông muốn nói với Trung Quốc, ông có thể nói thẳng. Điều ông nhờ ở dân chúng là làm tăng trọng lượng cho tiếng nói của ông để Trung Quốc hiểu đó không phải là lập trường của cá nhân ông mà là lập trường của cả nước Phi Luật Tân.

Benigno Aquino hiểu điều đó. Tại sao nhà cầm quyền Việt Nam lại không hiểu?

Như vậy, việc cấm đoán biểu tình chống Trung Quốc hẳn phải xuất phát từ những lý do khác. Chứ không phải những gì họ đã nói. Một cách chính thức hay không chính thức như đã nêu lên ở đầu bài viết này.

Lý do thực sự ấy là gì?
 

No comments: