Ngo Van
From Wikipedia, the free encyclopedia
Ngô Văn Xuyết (1913-2005), alias Ngô Văn, was a Vietnamese Trotskyist leader. Born in Vietnam, he joined the Trotskyist
movement as a young man. After the repression of Trotskyism in Vietnam
in 1945, he moved to France, where he wrote about his experiences and
recent Vietnamese history.![]() |
This article reads like a review rather than an encyclopedic description of the subject. (December 2007) |
He was forced to end his formal education, but, enrolled under a false name, he read Marx in the Saigon municipal library after work. He came into contact with the Trotskyist left opposition group in Saigon opposed to the general line of the Indochinese Communist Party, emphasizing the importance of a movement based on the working class as against the nationalist oriented policy of Nguyen ai Quoc (Ho Chi Minh).
In Saigon, the Trotskyists and Stalinists cooperated for three years (1933-36) in a united front around the legal newspaper La Lutte, which was published weekly in French to get around laws banning publications in the vernacular quoc nu or Vietnamese. Their candidates were elected to the municipal council. But after the French (she says the Popular Front govt was only from 1936) government signed a pact with Stalin’s Soviet Union in May 1935, the French, and soon the Indochinese, Communist Parties gave up their opposition to French militarism and colonialism. Following the October group led by Ho Huu Tuong, Ngo Van and some activists formed the League of Internationalist Communists for the Construction of the Fourth International, while other Trotskyists remained in the La Lutte alliance. Ngo Van set type for the new group’s clandestine literature.
Ngo Van also organised amongst workforce in his factory, who met under the guise of wedding and birthday parties – as all gatherings of more than 19 were illegal – and found himself the spokesperson when a strike for better wages broke out. Militant friends were arrested one after the other. The longer Van remained at liberty, the more acutely he appreciated their courage under torture.
At the age of 24, Ngo Van was arrested in the factory storeroom, where he secretly discussed anti-colonialist campaigns with other activists and hid underground literature and revolutionary publications from abroad. Van was imprisoned in the dreaded Maison Centrale in Saigon, where he, too, was tortured. Stalinist and Trotskyist prisoners were held together: Van later recalled that relations between them were wary, but civil, to avoid provoking tension to the advantage of the common enemy. He joined in a hunger strike demanding political prisoner status equal to that in France.
As a consequence, the prisoners were occasionally allowed French newspapers. This was how they learned about the Moscow Trials, in which Stalin was destroying what remained of the leadership of Lenin’s Bolshevik Party. The Trotskyists were ‘overcome with a profound unease, and a thousand questions without answers kept going round in our heads’, Van wrote in his memoirs. In 1937 the Vietnamese Stalinists, under orders from Moscow, abruptly left the La Lutte group and denounced the Trotskyists as ‘agents of fascism’.
Van and his comrades were constantly being arrested, tortured, imprisoned then briefly freed once more. Once, he was sentenced to eight months’ imprisonment simply for recommending books by Trotsky to a friend in a letter, and greeting in the street the well-known Trotskyist Ta thu Thau. Exiled to Travinh, in an island in the Mekong delta, at the end of 1940, he found himself in the middle of a peasant uprising that had engulfed western Cochinchina. Almost 6000 were arrested, over two hundred publicly executed, and thousands killed by bombing authorised by the Vichy governor general, Decoux. At about this time, Van discovered that he was suffering from tuberculosis.
The Japanese moved into south Vietnam in March 1945 and imposed a regime of martial law; allied forces bombed Saigon. The north of the country was by this time controlled by the Vietminh, as the armed front led by the Communist Party was called. They advocated an alliance with the imperialist Allies as a road to ‘national liberation’; the Trotskyists denounced this as an illusion and called on workers and peasants to rise up against all imperialist oppressors, of whatever nationality. Van and his comrades were elated when 30,000 miners in the Hon gai-Cam pha region set up elected councils to run the mines, public services and transport, and organised a literacy campaign.
Books
- Việt Nam 1920-1945, révolution et contre-révolution sous la domination coloniale (1997)
- Revolutionaries they could not break, the fight for the Fourth International in Indochina 1930-1945 (1995)
- In the Crossfire: Adventures of a Vietnamese Revolutionary (2010)
External links
- A short biography of Ngo Van
- Books by Ngo Van
- Short bio of libertarian socialist Ngo Van
- In the Crossfire: Adventures of a Vietnamese Revolutionary
Ngô Văn : một Nhà Cách Mạng Việt Nam viết
sách về
Những Cuộc Cách Mạng ở Việt Nam
Dưới Thời Pháp Thuộc.
(Viet Nam 1925-1945,
révolution et contre-révolution sous la domination coloniale)
B.S.Nguyễn Lưu Viên (điểm sách và nhận định)
Ông Ngô Văn, sanh năm 1913, đã tranh đấu trong
nhóm “Đệ Tứ” La Lutte của Tạ Thu Thâu ở Saigon
hồi thập niện 1930. Năm 1945 đã may mắn thoát
khỏi được tay đẫm máu của nhóm
“Đệ Tam” Trần Văn Giàu và Dương Bạch
Mai trong Ủy Ban Hành Chánh Lâm
Thời Nam Bộ, rồi di cư
được sang Pháp. Sau nhiều năm nhớ lại,
suy nghĩ, thu thập và tra cứu tài liệu để
viết, Ông cho xuất bản
sách ”Viêt Nam 1920-1945 Révolution
et contre-révolution sous la domination coloniale” (tạm dịch là: “Việt
Nam 1920-1945, Cách Mạng và Phản Cách Mạng dưới
thời thuộc địa”.),
[nhà xuất bản Nautilus Éditions, 5 rue Saint Sébastien-75011
Paris. tháng 9 năm 2000, số ISBN 2-603-005-7.]
Vì khi đọc xong, thấy sách có một
giá trị lịch sử đặc biệt, nên hôm nay tôi
xin tóm lược sau đây để giới thiệu
với bạn đọc của Y Tế Nguyệt San, đặc biệt là các
bạn đọc cao niên trong thế hệ “mấy ông già
80-90 tuổi” ở trong Nam như tôi, để nhớ
lại những cuộc cách mạng mà mình đã biết,
đã thấy, hoặc đã tham gia một cách hết
sức khiêm tốn bằng cách, hồi nhỏ lúc học
Tiểu Học thì “làm reo” (grève) nghỉ học để
đi biểu tình trong dịp
đưa đám ma của cụ Phan Châu Trinh,
hoặc lớn lên lúc học Trung Học thì đi hoan hô Nguyễn An
Ninh hay Tạ Thu Thâu mà mình ngưỡng mộ.
Sách viết bằng tiếng Pháp, dày 448 trang,
bìa mềm; ngoài một Bài Tựa ngắn, Mục Lục và
Index như thường lệ, gồm có một Phi-Lộ và 22 Chương chia ra làm 5
Phần.
Phi
Lộ : Repères Historiques en guise de Préambule.(Những
Dấu Ghi Lịch Sử thay cho Lời Phi Lộ.)
(tr.7-24), nhắc sơ lại lịch sử của VN
từ thời Trịnh-Nguyễn, Tây-Sơn, Gia-Long cho
đến thời Tự-Đức, Phan Thanh Giản, các
Hiệp Ước 1862, 1874 và Patenôtre 1884, các cuộc Cách
Mạng Văn Thân, Cần Vương, các vua Hàm-Nghi,
Thành-Thái, Duy-Tân. Trong chương này còn có hình của Phan
Bội Châu, Cường Để, và Đề Thám và có
phóng-ảnh chử ký của vua Thái Đức Nguyễn
văn Nhạc.
Phần Một: Le Feu Couve Chez Les Intellectuels.1920-1929: ( Lửa
Ngấm Ngầm trong Giới Trí Thức.1920-1929).(tr.26-126)
gồm có 6 chương (từ I tới VI).
Chương I : “Cinq Dragons” à Paris. (“ Ngũ Long”
ở Ba-Lê)(tr.26- 43)
Nói về năm ông Phan Châu Trinh
. Phan Văn
Trường, Nguyễn An Ninh, Nguyễn
Thế Truyền và Nguyễn ái Quốc ở Paris. Ở
trang đầu của chương này có chân dung của
năm ông hồi lúc ấy, rồi sau có hình các nhà trí
thức Việt bị đeo gông (cangue) trên cổ, vì
bị cầm tù sau những vụ biểu tình của dân
quê chống thuế và sai-dịch(corvée) quá nặng hồi
năm 1908. có hình các lính khố xanh VN cũng bị đeo
gông trên cổ, sau vụ đầu-độc ở
trại lính hồi tháng 7 năm 1908, và đặc biệt
có phóng-ảnh cái thơ của Nguyễn tất Thành (là
Hồ chí Minh) gởi cho Tổng Thống Pháp đề ngày
Marseille le 15 Septembre 1911 để (nguyên văn)” solliciter de votre haute bienveillance la
faveur d’être admis à suivre les cours de l’École Coloniale comme interne”
.(Đơn xin không được chấp nhận. Giá
như hồi ấy Pháp chấp nhận thì Nguyễn
tất Thành đã thành một công chức của
“mẫu-quốc” Pháp, thì lịch sử cận đại
của VN đã được thay đổi và Pháp không
bị Điện Biên Phủ.)
Trong chương này có một chỗ nhắc
đến vụ vua Khải-Định đi Pháp năm
1922 để dự Cuộc Triển Lãm Quốc Tế
ở Marseille, bị Phan
Châu Trinh trong một thơ ngỏ, buộc cho
7 tội lớn (sept crimes majeurs) và khuyên nhà vua hãy trả
quyền lại cho dân VN để cho dân VN cộng tác
thẳng với dân Pháp. Trong chương này cũng có
một chỗ nói sau khi Phan Châu Trinh về SaiGon hồi th.5-1925.
thì một bài văn khích-báng (pamphlet) có tựa là “Le Procès de la colonisation francaise” đựơc nhà sách Librairie du
Travail xuất bản có Nguyễn Ái Quốc ký tên nhưng,
theo tác giả thì có lẽ
là do Phan
Văn Trừơng và Nguyễn Thế
Truyền viết.
(Chú thích của NLV : Không
phải là có lẽ, mà đúng là như vậy; vì hồi năm 1952, nhóm của
chúng tôi gồm có các ông
B. S. Hồ văn Nhựt, Phan Khắc Sửu,
Trần Văn Hương, Trần Văn Văn, Trần
Văn Đỗ, Ngô Ngọc Đối, và tôi, mổi
cuối tuần hay hợp và ăn cơm tối ở nhà
B.S.Hồ văn Nhựt ở đường Richaud, thì
thường cũng có mời Cụ Nguyễn Thế
Truyền đến dùng cơm và bàn chuyện nước,
thì một hôm Cụ Truyền có nhắc lại đọan
đó ở Paris và nói chính Ông với ông Trừơng
viết bản văn đó chớ
“Hồ Chí Minh không đủ trình độ
Pháp-ngữ để viết”.
Cụ Truyền còn kể lại cho chúng tôi nghe nguồn gốc của tên
Nguyễn Ái Quốc như sau: Lúc ấy lối năm
1921-22 gì đó, thì trong nhóm của cụ có Phan Châu Trinh. Phan
văn Trừơng, Nguyễn An Ninh với Cụ, hay
viết cho tờ báo Le Paria và ký tên các bài viết là : “ Le
Patriote ”. Rồi giao cho Nguyễn tất Thành đem lại
cho tòa sọan của báo. Lần lần dân trong tòa sọan
quen mặt, nên mỗi khi thấy Thành đem bài lại thì
nói: “ Ah, voilà le patriote”. Mr.Thành
thấy người ta
gắn mình dính liền với danh từ “le patriote” nên Mr.Thành đổi luôn tên mình là
Ái Quốc.
Cũng trong chương này có trích một
đọan thơ đề ngày 12-2-1922 của Phan Châu Trinh
viết cho Nguyễn ái Quốc khuyên hãy về nước
sống gần dân để truyền bá tư tưởng
giải phóng chớ đừng có đi Moscou nhờ Nga-Sô
vì làm như vậy thì nước VN chúng ta sẽ “như là
một con ngựa đổi kỵ-mã”( “notre nation serait telle un cheval qui a changé de cavalier”).
Chương II: Saigon 1924-1926: Éveil de la Jeune Intelligentsia.:( Saigon 1924-1926: Sự Thức Tỉnh của
Giới Trí Thức Trẻ.)(tr.44-67).
Trong chương này có chân-dung của
Nguyễn An Ninh hồi 1926, có hình cuộc đám táng của
Phan Châu Trinh
ở Saigon ngày 4-th.4-1926. Trong chương này tác giả có
nói rất rõ về Nguyễn An Ninh và tờ báo “La
Cloche Fêlée” của Ông ấy, có nói đến
thời Alexandre Varenne, một dân-biểu Xã-hội,
được cử làm Quan Tòan Quyền Đông
Dương, có đề cập tới vụ Nguyễn An
Ninh và Dejean de la Bâtie
bị bắt, có nói đến vụ án Phan Bội Châu hồi
tháng 11-1925, nói đến đám táng của Phan Châu Trinh ngày
4-th.4-1926, và vụ án Nguyễn An Ninh đầu tiên ngày 24-
th.4-1926.
Chương III. La
Nouvelle Émigration des Étudiants et ses Tâtonnements
Révolutionnaires.(Phong Trào Xuất Ngoại Mới của
Sinh Viên và những Bước Cách Mạng Dò Dẫm của
họ 1925-1929.) (tr.68-88).
Đầu chương này có chân dung và hình cái mộ của
Phạm Hồng Thái.
Chương này nói về hoạt động ở bên Pháp của
Nguyễn Thế Truyền (nhóm
Việt Nam Hồn,
Phục Quốc, Phục Việt, Việt Nam Độc Lập Đảng (PAI) ở Paris) , của Trần Văn Thạch (báo Journal des Étudiants Annamites ở
Toulouse), của Tạ Thu
Thâu (báo La Résurrection ở Cachan), của nhóm
Cộng Sản vịệtnam (le groupe communiste annamite)
với báo Lao Nông của Nguyễn Văn Tạo
(về sau sẽ là bộ Trưởng Lao-Động
của Hồ Chí Minh). Chương này cũng nhắc
lại thời Tạ Thu Thâu nhập vào Đệ Tứ
với Alfred Rosmer và viết trong báo La
Vérité. (1930).
Chương IV. Les Mouvements Nationalistes Sousterrains dans le
Pays à la même période.( Những Phong Trào Quốc Gia Ngầm trong
Nước trong cùng thời gian ấy) (tr.89-103).
Chương này nói về hoạt
động của những “hội kín” như Tân Việt Cách Mạng
Đảng (1925-1929);
Hội Kín Nguyễn An Ninh (1928-1929); Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ 1927-1930);Thanh Niên Cách Mạng Đồng
Minh Hội (1925-1930) sẽ biến thành Đông Dương
Cộng Sản Đảng.
Chương V- Le Thanh Niên Génèse
Nationaliste du Parti Communiste Indochimois.( NhómThanh Niên, tánh cách Quốc Gia trong sự Phát Sinh
của Đảng Cộng Sản.)(tr.104-126).
Đầu chương này có hình của nhóm
Thanh Niên. Chương này nhắc lại thời Nguyễn
ái Quốc sáng lập viên của Thanh
Niên, đi Nga (1923), được huấn luyện bên
ấy, được gởi sang Trung Quốc hoạt
động như là thơ-ký thông ngôn của Borodine,
nhắc lại tình hình Trung
Quốc trong khói lửa (La Chine en Feu, La trgédie chinoise. Shanghai
février-avril 1927, Canton 11-12-27) và nhắc lại những
mối khổ tâm của nhóm Thanh Niên (Les menues tribulations du Thanh
nien) trong lúc Nguyễn ái Quốc biến mất khỏi
Canton, trở về Moscou còn Tổng
bộ của Thanh Niên thì
vẩn còn ở đó.
Chương VI-Éclatement du Thanh
Niên et Naissance du Parti Communiste.( Nhóm Thanh Niên vỡ tung và sự
ra đời của Đảng Cộng Sản) (tr.127-
137).
Trong chương này có chân dung (face et pofil)
của các tù nhơn Tôn
Đức Thắng và hai người khác trong
vụ đường Barbier. Chương này thuật
lại rất rõ vụ ám sát ghê tởm ở
đường Barbier đêm 8-12-1928, giết Lê văn Phát
trong Kỳ Bộ Nam-kỳ
của Thanh Niên bị Trung Ương
kết án tử hình vì tội “phản”(trahison) bởi
lẽ “có những cuộc đi lại với chị
(đồng chí) Thị Nhứt”, mà “không biết tự
kềm chế tình cảm riêng tư của mình để
hiến thân trọn vẹn cho cách mạng”. Trong sách có nhắc lại lời khai
trước tòa án của Tôn
Đức Thắng (về sau ChủTịch
Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa sau Hồ
Chí Minh) và của Phạm
Văn Đồng (về sau Thủ Tướng Chánh
Phủ của Hồ Chí Minh), có liệt kê bản án ngày
18-7-1930 quá nặng khi so với tội đã làm, nhưng
cũng là một dịp để đập tan
đầu nảo của cuộc cách mạng chống
đối của người bản xứ: 3 án tử hình, 3 án
khổ sai trong đó có Tôn đức Thắng 20 năm,
và 23 án tù tổng cộng hơn 100 năm cho đảng viên của Thanh Niên trong đó có Phạm
văn Đồng 10 năm; 3
án tù tổng cộng 16
năm rưởi cho
đảng viên của Tân
Việt và 7 án tù tổng cộng 23 năm1/2, cho đảng
viên VNQDĐ trong đó có
Trần huy Liệu, nhà báo, trở thành cộng sản trong
lúc ở tù Poulo Condor và về sau đại diện cho
Hồ chí Minh vào Huế nhận ấn với kiếm nhà
vua của Bảo Đại thoái vị.
Chương này cũng nhắc lại
sự thành lập Đông Dương Cộng Sản
Đảng. sau khi nhóm Thanh Niên bị tan rả ở hội
nghị HongKong hồi tháng 5-1929.
Phần Hai: Les Explosions
1930-1933. (Những Vụ Nổ Tung 1930-1933) (tr.138-200). Gồm
có
5 chương (từ VII tới XI). Ở trang đầu có chân dung của Nguyễn
Thái Học.(tr.138).
Chương VII-L’Insurrection de Yên Báy, Février 1930.(Cuộc
Khởi Nghĩa Yên Báy Tháng 2-1930), (tr.140-150).
Trong chương này có hình cái xác của
một người bị xử tử ở Yên Báy, và phóng
ảnh tờ Les Massacres en
Indochine kêu gọi dân chúng
ở Paris tập hợp để biểu tình chống
đối bản án ngày 28-5-30. Chương này kể
lại rõ ràng vụ Yên Báy với việc bỏ bom làng
Cổ Am (16-2-30), việc tòa xử 52 án tử hình, và
một số án khổ sai, án tù chung thân hay có hạn. Tác
giả cũng nhắc lại những vụ biểu tình
chống đối ở Paris, ở Toulouse v.v. Nhưng
không có kết quả và ngày 17-5-30, mười ba cái
đầu của thanh niên VN bị rơi ở Yên Báy.
Đặc biệt trong chương này có chép lại cái
thơ của Nguyễn Thái Học, viết ngày hôm trước khi lên
đọan-đầu-đài, cho các dân-biểu Pháp (không bao
giờ nhận được) chịu hòan tòan trách
nhiệm và yêu cầu tha cho những người khác, và ký
tên : “ Votre ennemi. Le révolutionnaire Thai Hoc” .
Chương VIII- Naissance en France d’une Opposition Communiste
Indo-chinoise au Stalinisme. Đông Dương Tả
Phái Cộng Sản.( Sự Phát Sinh bên Pháp của một Phe
Cộng Sản Đông Dương Đối Lập
với Phe Xít-ta-lin:Đông Dương Tả Phái Cộng Sản),(tr.151-158).
Chương này nhắc lại thuyết
Cách Mạng Liên Tục (revolution permanente) của Trotsky
chống lại Komintern (Đệ Tam) và lý luận của
Tạ Thu Thâu sau Yên Báy (Après
YenBay, que faire?) cho rằng cách mạng VN muốn thành công phải chấp nhận theo
thuyết “Cách Mạng Liên Tục” của Trotsky, chống
lại thuyết “Cách MạngTư Sản-Dân
Chủ”(révolution bourgeoise-démocratique ) theo Đệ Tam
Komintern của Đảng Cộng Sản Đông
Dương. Và chương này cũng nhắc lại
hoạt động của Phan văn Hùm và Hồ hữu
Tường ở Toulouse và Paris sau khi Tạ ThuThâu bị
“tống” về VN.
Chương IX-Le Mouvement Paysan 1930-1931.(
PhongTrào Dân Nông Thôn 1930-1931)(tr.159-182).
Trong chương này có hình của một
đội lính khố xanh đi dẹp lọan và hình xác
chết của Nguyễn Thị Giang, bạn của
Nguyễn thái Học. Chương này kể lại trong chi
tiết việc Đảng Cộng Sản tổ chức
những cuộc biểu tình ban đầu ôn hòa có tánh cách
kinh tế, rồi về sau bạo động với
mục đích lật đổ chánh quyền đế
quốc, trong Nam, ngoài Bắc và ngoài Trung với việc
thành lập Sô-viết Nghệ Tỉnh, hòan tòan thất
bại (th.9-1930), và những cuộc đàn áp dã man của
thực dân dùng quân đội và phi cơ tàn sát nhiều làng
và còn bắt đem xử ở tòa,mà theo con số chính
thức cho các năm 1930,1931,1932 là: tổng số người
ViệtNam bị kết án:6.879, trong đó có 164 án tử
hình.
Chương X-L’Opposition de Gauche Indochinoise 1931-1933.
(Tả Phái Đối Lập Đông Dương 1931-1933)(tr.183-190).
Chương này nói về việc thành
lập Tả Đối
Lập (Opposition de Gauche) ở Saigon với những
hoạt động của Tạ Thu Thâu, Đào Hưng
Long, Hồ Hữu Tường, Ngô Văn Xuyết v.v. và bên
Pháp của nhóm Groupe Indochinois de
la Ligue
communiste (opposition) với
Nguyễn văn Tạo, Trần văn Sĩ, Nguyễn
văn Linh.
Chương XI- Crise Économique et Répression en Cochinchine
1932-1933.(Khủng Hoảng Kinh Tế và Sự Đàn
Áp ở Nam-Kỳ 1932-1933)
(tr.191-200).
Chương này nói về cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới năm 1932-33 và ảnh
hưởng của nó vào VN gây ra những vụ bớt
lương, sa thải, thất nghiệp, đói kém,
dẩn đến biểu tình và đàn áp bắt bớ
trong thời gian ấy, và ba vụ án cộng sản
hồi 1933 ở Saigon (Les trois
procès communistes de 1933 à Saigon):
Vụ
1-Ngày 1-th.5-33: 21 cán bộ
của Tả Đối
Lập bi ra Tòa Tiểu Hình, với kết quả là 16
người bị kết án trong đó có Phan văn Chánh và
Hồ hữu Tường là hai lý-thuyết gia bị 4 và 3
năm tù treo (avec sursis) còn những người khác thì
12,15,18 tháng hay 4,5 năm tù. Báo La
Dépêche d’Indochine và báo
L’Impartial gọi vụ án
này là “procès trotskiste”.
Vụ
2- Ngày 3-7 th.5-33: 122 cán bộ
Đảng Cộng Sản Đông Dương PCI trong
đó có 7 phụ nữ, và 3 người khiếm diện,
bị ra Tòa Đại Hình, với kết quả là 8 án
tử hình,19 án tù chung hân,79 án tù có hạn, tổng cộng
970 năm trong đó có một người đã 90 tuổi.
Vụ
3-Th.9-33: 64 cán bộ Đông
Dương C.S.Đảng trong đó có 3 phụ nữ,
bị ra Tòa Tiểu Hình với kết quả tù 15 tháng.
Phần Ba: Le Communisme sur la Scène Légale.1933-1939.(
Cộng Sản trên Diển Đàn Chính Thức 1933-1939.) ( tr.201-274). Gồm có 5 chương (từ XII tới XVI).
Chương XII- Front Unique: La Lutte. ( Mặt
Trận Duy Nhứt : Nhóm La Lutte) (tr.202-218). Ở đầu
chương này có phóng-ảnh trang đầu của
một tờ báo La Lutte .
Chương này kể lại trong chi
tiết những khó khăn và gian nan của nhóm “La Lutte” thành lập hồi tháng 4-1933,
nhơn dịp có cuộc bầu cử Hội Đồng
Thành Phố Saigon (Conseil Municipal de Saigon) và gom lại thành
một Mặt Trận Duy Nhứt đầu tiên (Premier
Front unique) những thành phần tranh đấu chống
Pháp khác nhau như quốc gia
Nguyễn an Ninh, vô-chánh-phủ Trịnh hưng Ngẩu,
cộng-sản Đệ Tam Nguyễn văn Tạo,
cộng sản theo Trotski Tạ thu Thâu, Phan văn Chánh,
Huỳnh văn Phương và cảm tình-viên Trần
văn Thạch, Lê văn Thu.
Chương này cũng nhắc đến
Phong Trào Hòa Bình Amsterdam-Pleyel ở Saigon hồi th.8-1933,
cuộc bạo-động phát-xít ở bên Pháp năm 1934
với Mặt Trận Thống Nhứt SFIO-PCF ( Xã-Hội
và Cộng Sản). và Mặt Trận Duy Nhứt thứ nhì
(second Front Unique) La Lutte vào th. 10-1934. Chương này
cũng kể lại những cuộc chống đối,
biểu tình, bắt bớ, giam cầm, xử án và tù đày
ở trong Nam vào năm 1935, sau vụ bạo động võ
trang của những người tá-điền ở Cù Lao
Dung Sóctrăng chống cảnh sát thâu 8000 giạ lúa và
vụ đánh phá những đồn bót của những
người Thượng chống đối việc
đóng thuế thân (impôt personnel) mà họ không có tiền
đóng. Nhắc đến cuộc bầu cử Hội Đồng
Quản Hạt (Conseil Colonial) th.3 và Hội Đồng Thành
Phố Saigon th.5-1933. Nhắc đến Hiệp-Ước
Laval-Staline tương trợ giữa Pháp và Nga-Sô ngày
2-th.5-1935 và ảnh hưởng của hiệp ước
ấy cho Đảng C.S. Pháp PCF với Dảng C.S. Đông
Dương PCI. và buộc nhóm trotskiste phải hoạt động
ngầm.
Chương XIII-“ La Lutte” sous le
Front Populaire 1936-1937.( “La Lutte” dưới thời Mặt
Trận Bình Dân) (tr.219-240).
Chương này có bảy đọan.
Đọan
1 (tr.219-222) nói về Mặt
Trận Bình Dân (Front Populaire) bên Pháp với sự thành
lập nội các Léon Blum ngày 4 th.6-1936 trong đó có Marius
Moutet làm Tổng Trưởng Thuộc Địa. và
ảnh hưởng của việc này vào Đông Dương,
với việc bắt giam, xử án và bỏ tù của nhóm
Đệ Tứ ở Saigon ngày 11-th.6, và ngày 31-th.8.
Đọan
2 (tr.222-223) nói về việc
thành lập một Mặt Trận Bình Dân ở địa
phương (VN) là Đông
Dương Đại Hội (Congrès Indochinois) do nhóm La Lutte với Nguyễn An
Ninh chủ trương (27-th.5-1937) được các báo có
xu hướng chánh trị như báo La Lutte là những báo Le Travail ngoài Bắc, báo Nhành Lúa trong Trung tán thành.
Đọan
3 (tr.223-226) nói về những
ủy ban hành động (comités d’action) được thành
lập cùng hết trong Nam và đến ngày 30 th.9 sở
Mật Thám Saigon ước lượng có tới 600 ủy
ban (285 chính thức, còn lại là bí-mật), và tức nhiên
có những vụ bắt bớ, tù đày qui mô
được thuật lại rất tĩ mĩ.
Đọan
4 (tr.227-229) nói về tuần
báo trotskiste Le Militant của Hồ Hữu Tường,
có một phóng ảnh của mặt trước của
tờ báo ấy, và nói về
các nhà cách mạngTạ Thu Thâu, Nguyễn Văn Tạo,
Nguyễn An Ninh, Trần văn Thạch, hồi lúc ấy
lần lượt bị bắt, kết án và bỏ tù.
Đọan
5 (tr.229-232) nói về những
cuộc đình-công th.6-1936. Ngày 23-th.6, ở Trung-Kỳ trong
đồn điền cao-su Đồng Trang (cách Nhatrang 25
km); th.8, ở Nam-kỳ trong đồn ruộng Cần-
Giuộc(ChợLớn), ngày 19 th.8 ở đồn cao-su
Michelin Dầu-Tiếng; ngày 27 th.8 ở đồn cao-su
Quảng-Lợi (ThủDầuMột); ngày 2 th.11 ở
Bến-Củi (TâyNinh); ngày 15-th.11 ở xưởng cưa
TânMai (BiênHòa). Nhưng những vụ đình công quan
trọng nhứt xẩy ra ở ngoài Bắc hồi th. 11
trong mỏ than đá Campha-Hòngay với 20,000 nhơn công, và
ở trong Nam ngày 4 th.12 ở xưởng Ba-Son (Arsenal)
Saigon, với 1,200 thợ. Cuộc đình công này
được sự “đình-công ủng-hộ” ngày 15-18
th.12 của nhơn công sở Hỏa-xa ở Saigon và
Dĩ-An, và của tài-xế các xe autobus Saigon.
Đọan
6 (tr.232-234)- nói về
Sắc-lệnh Blum-Moutet ngày 30 th.12-1936, lần đầu
tiên quy định việc tuyển dụng lao công ở
Đông Dương, cắm tuyển dụng trẽ con
dưới 12 tuổi, nhưng bị báo La Lutte phê bình là còn thiếu sót vì không cho phép
lập nghiệp đòan, không cho phép đình công, không cho phép
bầu đại diện, và chỉ đựơc áp
dụng cho các nhà máy, chớ không áp dụng cho các
đồn điền cao-su và cho các sở khai thác canh nông
là những nơi dùng lao công bản xứ nhiều
nhứt.
Đọan
7 (tr. 234-239) nói về những
cuộc đình công và biểu tình năm 1937. Sắc-lệnh Blum-Moutet chấm
dứt năm 1936, nhưng không chấm dứt những
cuộc đình công càng ngày càng
nhiều và trong năm 1937 có cho tới 112 vụ, trong đó
lớn nhứt là vụ đình công 37 ngày của thợ
trong Sở Ba-Son (Arsenal) hồi th.4, và vụ đình công
của nhơn viên trong Sở Hỏa-Xa Xuyên Đông
Dương (TransIndochinois) hồi th.7 .
Đến ngày 22 th.6-1937, chánh phủ Léon
Blum bên Pháp từ chức, nhưng ở thuộc
địa chánh sách đàn áp, bắt bớ, tù đày
cũng không thấy có gì thay đổi, chỉ có thợ
thuyền biết được một ít cách tổ
chức, và nhận thức được vấn
đề giai cấp trong xã hội.
Chương XIV- Répression et Rupture du Front La Lutte
1937.( Đàn Áp và Sự Tan Vỡ
của Mặt Trận La Lutte 1937)(tr.241-254).
Chương này có sáu đọan: Đọan 1 (tr.241-244) nói
về phong trào nghiệp đòan và sự xáo trộn chánh
trị, khi nhắc đến sự bành trướng
ảnh hưởng của nhóm Đệ Tứ troskiste
trong giới thợ thuyền ở NamKỳ , nhứt là
vùng Saigon-ChợLớn, với những vụ bắt
bớ các nhà trốtkít trong những ngày 29 th.5; 24 th.7; 2 th.9
; 9 th.9 và vụ kết án ngày 18 th.11.
Đọan
2 (tr.244-247) nói về những
sơ-khởi của sự tan vỡ hồi tháng sáu 1937 khi
nhắc lại sự chỉ trích kịch liệt Mặt
Trận Bình Dân của ban biên tập đa số là
trốtkít của báo La Lutte
và nhắc lại “vụ án Moscou”(le procès de Moscou) ngày 1
th.2-1937, khi Stalin xử tử 13 đảng viên bolchevik
kỳ cựu bị kết tội là “đồng lỏa”
với Trotsky. Còn Hô Hữu Tường thì tái xuất
bản báo Le Militant đả đảo Staline,
đăng bài Di Chúc của
Lê-nin trong đó Lê-nin có dặn phải đề phòng
sự tàn bạo của Xít-ta-lin, và đăng bài Giai Đọan Quyết
Định của Trốt-ky.Dọan này cũng nhắc
lại cuôc bầu cử mới của Hội Đồng
Thành Phố Saigon ngày 18-25 th. 4-1937, với tổng số
1515 cử tri, thì Tạ Thu Thâu được đắc
cử với 765 phiếu, Nguyễn văn Tạo
đắc cử với 735 phiếu và Dương bạch
Mai đắc cử với 715 phiếu. Nhưng
đến th.5 thì Thâu và Tạo lại bị bắt và ngày
19 - th.5-1937, bị xử vì tội...... “phá rối trị
an” bởi những bài viết trong báo La Lutte hồi.... ngày
9 th.11 năm 1936.
Đọan
3 (tr.247-249) có chân dung của
Tạ Thu Thâu ở tr.248. Đọan này nói về việc
tan vỡ khi nhóm xít-ta-lin viết trong báo L’Avant-garde ngày 21 th.5,
rằng bọn trốt-kít là “anh em sinh-đôi (frères jumeaux)
của phát-xít”,thì báo Le Militant của
Hồ Hữu Tường trả đủa và đến
ngày 7 th.6 khi Thâu và Tạo được thả ra khỏi
tù, thì Tạo đề nghị báo La Lutte đừng
công kích Mặt Trận Bình Dân bên Pháp nữa, và Thâu ngày 9 th.7
phản đề nghị lại là những trốt-kít
trong La Lutte sẽ không công kích chánh phủ Blum-Moutet trong vòng
3 tháng, nhưng sẽ công kích trở lại nếu chánh
phủ ấy vẫn không chịu ân-xá, không cho những
tự do chánh trị, tự do nghiệp đòan, và sa
thảy những công chức địa phương
phản động. Thì nhóm Đệ Tam xít-ta-lin
đập cửa ra đi.
Đọan
4 (tr.249-251) nói về: La Lutte , tiếng nói của
Đệ Tứ Quốc Tế, dạy dân chúng lý thuyết
của Marx, tố giác các vịêc xấu xa, các vụ tàn
bạo ở địa phương, các vụ lạm
dụng của chủ điền v.v. trong chương
trình hướng về nông thôn. La
Lutte cũng được
sự yễm trợ của nhóm Quần
Chúng và của nhóm Quốc
Tế IV ở Paris.
Đọan
5 (tr.251-252) nói về sự
đàn áp của Pháp không phân biệt Xít-ta-lin-nít hay là
Trốt-kít. với những vụ bắt bớ giam
cầm và xử án tù các nhà cách mạng Thâu, Tạo, So, Quang,
Hiền, Ninh từ 1
đến 2 năm tù kèm với 10 năm cấm
cư-trú (interdiction de séjour).
Đọan
6 (tr.252-254) nói về việc
dân-biểu Cộng Sản Pháp Honel đến Saigon
để binh vực và cổ võ cho bọn Xít-ta-lin-nít và
đường lối của Moscou.
Chương XV-Le PCI à l’Ombre du Drapeau Tricolore 1938-1939.(
Đảng Cộng Sản Đông Dương dưới bóng Cờ
Tam-tài 1938-1939.) (tr.255-264).
Bắt đầu chương(tr.255-256) có
câu tục-ngữ: “Tý hư,
Sữu hao, Dần bất lợi”.
của dân nói hồi năm 1938 để nhắc
đến những thiên tai vừa qua: năm 1936 bị
hạn hán, năm 1937 bị ngập lụt, và năm 1938
cây lúa bị bịnh rouille. Rồi nói đến những
cuộc đình công ở các nhà máy xay gạo ở ChợLớn,
nhà máy cưa ở BếnTre, và những vụ chiếm
đất công-điền ở Cần Giuộc, chiếm
các vựa lúa ở BạcLiêu, với những bản án
nhẹ hơn hồi 1930-1931, nhưng cũng bênh dân giàu và
bất công đối với dân nghèo.
Kế đó (tr.256-260) nhắc đến
bài “Nước Pháp bị đe dọa ở đông
Dương” đăng trên báo “les
Cahiers du bolchevisme” khi sự
đe dọa của Hitler đã rõ ràng và Thủ
Tướng Léon Blum trở lại chánh quyền ngày
17-th.3-1938, rồi lại bị thay thế ngày 9-th.4 bởi
Daladier, và quân Nhựt Bổn đã chiếm hết phía
Bắc của nước Tàu và thành phố Canton bị
mất vào tháng 10. Tháng 5-1938, Thủ Tướng Pháp Daladier
ra lịnh tuyển mộ 20,000 dân bản-xứ indigènes và
vay 33 triệu đồng
bạc (piastres) để “ bảo vệ Đông
Dương” , thì nhóm “Lâp-Hiến” của Bùi Quang Chiêu và Lê
Quang Liêm hưởng ứng với lời kêu gọi
“Rồng Nam phun bạc” còn nhóm Đệ Tam của
Nguyễn văn Tạo và Dương Bạch Mai thì hô hào
dân hãy tình nguyện nhập ngũ cho đông để
“bảo vệ nước Pháp dân chủ”. Trong khi đó thì
nhóm trốt-kít của Tạ Thu Thâu dám xúi dân nổi dậy
để thừa cơ hội chiến tranh mà giành
độc lập.
Đọan sau (tr.260-261)nói về sự
tự do tương đối của báo bằng
việt-ngữ, thì báo La Lutte thành một tờ báo lưỡng
ngữ, với tên là Tranh
Đấu –La Lutte. và phát hành tập Văn Hóa Thơ Xã đăng tải nhửng sách
nhỏ của Tạ Thu Tâu như sách “Từ Đệ Nhứt tới Đệ Tứ
Quốc Tế. Còn Hồ
Hữu Tường thì ngày 27-th.10-1938,cho xuất bản
tờ bán nguyệt san Thầy
Thợ, và cho tái bản nguyệt san Tháng Mười.
Đọan kế (tr.261-264) nói về
cuộc đụng đầu giữa Đệ Tam và
Đệ Tứ trong cuộc bầu cử Hội
Đồng Quản Hạt (Conseil Colonial) tháng 4-1939. trong hai
trên năm đơn-vị .
Tạ Thu Thâu và Nguyễn văn Tạo bị kết
án 2 năm tù, mới được ra khỏi khám ngày
16-th.2-1939, còn Nguyễn An Ninh
thì được ra ngày 3-th.3-1939. Trong danh sách “Đệ
Tứ” thì Tạ Thu Thâu, Trần văn Thạch và Phan văn
Hùm ứng cử ở đơn-vị
Saigon-ChợLớn, TânAn và MỹTho, còn Trần văn
Sĩ,Nguyễn văn So và Phan văn Chánh thì ứng cử
ở đơn-vị GiaĐịnh, BiênHòa, BàRịa,
ThủDầuMột, TâyNinh và Đảo CônSơn,
đối với danh sách “Mặt Trận Dân Chủ”
của Nguyễn văn Tạo, Nguyễn an Ninh và
Dương Bạch Mai.
Kết quả Tạ Thu Thâu, Phan văn Hùm, và Trần
văn Thạch được đắc cử tuy
rằng những cuộc hội tiền-bầu-cử
của họ đã bị cấm. Còn danh sách “Mặt
Trận Dân Chủ” thì bị thua sát ván vì bị cử tri
cho là “của chánh phủ’(gouvernemental).
Đọan cuối (tr.264) nói về
Nguyễn Ái Quốc (biệt danh là Line) ngày 10-th.5-1936, sau khi
được tin sự thất bại của
“đảng ta” và sự chiến thắng của nhóm
trốt-kít thì viết một bức thơ từ bên Tàu cho
“các đồng chí mến yêu” của Ông ở ngoài Bắc
và chỉ thị cho họ phải tiêu diệt bọn
trốt-kít ( xem thơ đăng trong báo Cộng Sản
Xít-ta-lin Notre Voix ở HàNội, và trong bản báo
cáo cho Komintern th.7-1936). Việc này sẽ được
đồng bọn của Ông thực hiện khi họ
nắm được chánh quyền năm 1945.
Chương XVI: Répression et Guerre 1939-1940. (Đàn
Áp và Chiến Tranh 1939-1940.)
(tr.265-274).
Chương này nói về cuộc phá giá
của đồng bạc năm 1939 với ảnh hưởng
vào đời sống của nhơn dân càng ngày càng khó nên
gây ra nhiều vụ đình công đòi tăng lương,
hơn 20 vụ trong Nam, quan trọng nhứt là ở Sở
Vệ Sinh và ở Sở BaSon, và ngoài Bắc ở những
hảng dệt với lối 3,000 thợ và cả ngàn phu
bến tàu ở HảiPhòng.Tức nhiên chánh quyền Pháp
phản ứng mạnh mẽ đối với các hội
đòan trốt-kít cũng như xít-ta-lin-nít, đối
với báo chí bất cứ tờ nào dám phê bình chánh quyền
và đối với các hội-kín của công dân cũng
như nông dân. Cho nên các nhà cách mạng yêu nước
hồi lúc ấy lần lượt bị bắt, xử,
và giam tù, thì chương này kể lại tĩ mĩ
từng trường hợp.
Đọan kế (tr.268-270) nói về
hiệp ước giữa Hitler với Staline ngày 23-24
th.8-1939 Ngày 1-th.9. quân Đức quốc-xã xâm nhập BaLan,
chánh phủ Pháp ra linh tổng động viên bên Pháp và
ở Đông Dương; ngày 3 th.9 Anh với Pháp tuyên
chiến với Đức. Ngày 25-th.9 Đảng Cộng
Sản bị cấm bên Pháp thì ngày 29 ở Đông
Dương Sở Mật Thám (Sureté) phát động một
cuộc “bố-ráp” quy mô, lục soát 323 nơi, tịch thu
2323 cuốn sách, và 26,316 tờ báo, rồi ngày 7 và 10 th.10,
đống cửa luôn các báo trốt-kít Tranh Đấu, Thầy Thợ, Tháng Mười, Tia
Sáng, các báo cảm-tình với Đệ Tứ Dân Mới, Sự Thật, Sanh
Hoạt, Nhựt Báo, Hy Sanh, và các báo của nhóm
Đệ Tam Dân Chúng, Đông
Phương. Và bắt bỏ tù vào Khám Lớn (Maison
Centrale) Nguyễn văn So, Trần văn Thạch, Phan
văn Hoa, Hồ hữu Tường, rồi Nguyễn an
Ninh. Còn Tạ Thu Thâu thì đang chữa bịnh ở Bangkok
bị cảnh sát Anh bắt rồi giao lại cho Sở
Mật Thám Pháp, và đến ngày 23 th.10 thì chánh phủ
hủy bỏ chức nhiệm được dân bầu
vào Hội Đồng Quản Hạt của ba ông
trốtkít Thu,Thạch, Hùm đang ở trong khám. Còn Từ
văn Hớn và Ngô văn Xuyết thì bị bắt ở
PnomPenh ngày 4- th.10, tống về VN và Xuyết bị kết
án 8 tháng tù về tội có trong người hai quyển sách
của Trotsky.
Đọan tiếp (tr.270-271) nói về
việc tiếp tục chống đối chiến tranh
với những hoạt động chống chiến tranh,
chống đi lính của các tổ chức trốt-kít
ngầm ở ThủDầuMột, PhúNhuận,TânSơnNhì,
BàĐiểm, Saigon-ChợLớn v. v.với những
vụ bắt bớ và kết án.
Đọan sau(tr.271-273) nói tĩ mĩ
về những vụ xét xử và kết án tù các nhà cách
mạng như Tạ Thu Thâu 5 năm, Trần văn
Thạch 4 năm, Hồ hữu Tường và Phan văn
Cảnh 3 năm, Nguyễn văn Sâm và Võ công Tồn 3 và 4 năm
v.v. Trong lúc đó ở bên Pháp Thống Chế Pétain
đầu hàng ngày 22-th.6-1940, ở Đông Dương,
Đô Đốc Decoux thay thế Tướng Catroux làm Quan
Toàn Quyền. Từ 1940 đến 1945, chánh quyền Pháp
đã bắt nhốt và, không xét xử, đài qua Nossi-Lava
ở phía Bắc Madagascar 1757 ngừơi gọi là Cộng
Sản, 511 gọi là quốc gia, 17 người CaoĐài, và
những người trốt-kít Đào hưng Long,Ngô chính
Phên, và hai anh em Nguyễn thế Truyền và Nguyễn
thế Song bị bắt ngoài Bắc. Còn Nguyễn an Ninh thì
chết ngoài CônĐảo hồi năm 1943 sau khi có nhờ
Tạ thu Thâu đem về cho con một bức thơ
cuối cùng.
Đọan cuối của chương
(tr.273-274) nói về những ngày chót của Trotsky lúc bị
người cuồng-tín của Staline ám sát ở Mexico ngày
20-th.8-1940 và ông vẩn nói : “Tôi tin chắc chắn vào sự
chiến thắng cuối cùng của Đệ Tứ
Quốc Tế : Hãy tiến lên”.
Phần Bốn: Sous l’Occupation Japonaise 1940-1945.
(Thời Gian bị Nhựt
Bổn Chiếm Đóng 1940-1945.) (tr.275-319).
Gồm có bốn chương (từ XVII
tới XX).
Chương XVII. L’Insurrection Paysanne de Cochinchine.( Dân Nhà Quê
Nam-kỳ Khởi Nghĩa) (tr.277-283).
Sau hiệp ước Hitler-Staline hồi
th.8-1939, Đảng C.S. Đông Dương (PCI) theo
đường lối của Moscou không cộng tác với
Pháp nữa mà quay lại chống thực dân và chủ
trương “ lật đổ chánh quyền thực dân
Pháp và bọn phong-kiến địa phương
để đem lại độc lập cho Đông
Dương và thành lập một Liên Hiệp Cộng Hòa Dân
Chủ cho Đông Dương”. Lúc ấy quân Nhựt
Bổn đã đánh và chiếm LạngSơn (22-25
th.9-1940), đã vào HảiPhòng( 26-th.9). và TháiLan đòi hai
tỉnh của Lào và một tỉnh của CaoMên.
Lịnh của Xứ Ủy Namkỳ
của Đảng là nổi dậy vào ngày 22-11-1940, lúc
nửa đêm, một lượt từ Saigon đến
các tỉnh. Nhưng hồi 11 giờ trưa Giáo sư
Nguyễn như Hanh một thành viên của Ủy ban Thành
bị nghi,bắt và xét trong người có bài hiệu
triệu dân Đông Dương bị áp bức hãy đứng
lên chống “phát-xít Pháp”, “phát-xít Nhựt” và “quân Thái”,
để lập một Chánh Phủ Cộng Hòa Dân Chủ
Đông Dương liên kêt với Mặt Trận Kháng
Chiến Trung Quốc. Rồi Tạ Uyên (người
vượt ngục từ PouloCondor) bị bắt có trong
người nguyên cả chương trình hành động
ở Saigon. Rồi Phan đăng Lưu một thành viên
của Ủy Ban Trung Ương ở cạnh Tạ Uyên
bị bắt,. Rồi Phan Nhung trong Ủy Ban Thành, rồi
Đội Quí ở đồn Ô-Ma (camp des Mares) với
một số người tình nghi ở vùng
Saigon-ChợLớn. Thế là Quân đội và Cảnh Sát
Pháp được huy động để phòng thủ
những nơi trọng yếu. Nhưng mặc dầu
vậy, lịnh khởi nghĩa vẫn được ban
và đến 10 giờ đêm, một lượt từ
ngoại ô Saigon- ChợLớn tới các tỉnh
GiaĐịnh, ChợLớn, MỹTho, TânAn,
VĩnhLong,TràVinh, CầnThơ, cho tới SócTrăng dân chúng
nổi dậy, chận đường lộ
đường thủy, phá cầu, cắt dây thép,
chiếm đồn bót, đốt phá nhà việc, giết
công chức có tiếng ác ôn, cướp súng và chiếm
được các quận HócMôn, VũngLiêm,TamBình.
Đến cuối th.11 thì cuộc nổi dậy xuống
tới RạchGiá, LongXuyên và BạcLiêu, và đêm 13-14 th.12
đánh phá đèn-pha (phare) trên đảo Poulo-Obi.
Cuộc đàn áp xẩy ra ngay và rất là
tàn ác. Lính khố xanh khố đỏ Việt Nam thì bị
giử lại trong đồn Ô-Ma (camp des Mares), còn lính Pháp
của Trung Đòan 9 và Trung Đòan 11 Bộ Binh, lính
Lê-Dương (Légion Étrangère), phi cơ, hiến binh, công an,
mật thám, tất cả bộ máy chiến tranh và an ninh
được tung ra để đàn áp “bọn phản
lọan” Đồng Tháp Mười bị bao vây và các làng
mạc bị thả bom và bị càng quét. Lính Miên bố ráp
Miền Tây cướp dựt, giết chóc, hảm hiếp
vô tội vạ. Theo thống kê chính thức thì có hơn
trăm “tên phản lọan” bị chết trong chiến
trận, lối ba mươi người về phía chánh
phủ chết, trong đó có ba người Pháp. Nhưng có
cả ngàn người chết trong những làng bị càng
quét mà không được đếm. Theo con số chính
thức thì có 5848 người bị bắt. Tù chật
nghẹt không còn chổ nên phải nhốt tù nhơn
dưới hầm của những chiếc xà-lan (chalands)
bị mặt trời chói nắng làm cho tù nhơn “chết
như ruồi” (nguyên văn). Trịnh văn Lâu, một cán
bộ trốt-lít bị bắt ngày 17-12-1940 đã chết
như vậy trong một chiếc xà-lan
Tổng kết của cuộc đàn áp :
hơn sáu ngàn người bị bắt, 211 án tử hình
(trong đó có 181 bị hành hình) 216 án khổ sai, và cả
ngàn án tù.
Tạ Uyên bị chết vì tra tấn. Phan
đăng Lưu bị xử tử. Nhiều
người bị tù từ trước khi vụ khởi
nghĩa xẩy ra thì bây giờ bị lôi ra xử tử
như Nguyễn văn Cư, Võ văn Tân ở tù từ
17-th.1, và 21-th.4, hoặc Hà huy
Tập ở tù từ ngày 1-th.5-1936, hay là Nguyễn thị
Minh Khai bạn của Lê hồng Phong.
Xử tử ở những nơi công
cộng (places publiques) để làm gương. Ở
SócTrăng và ChâuĐốc thì giao việc xử tử cho
lính Miên thi hành.
Chương XVIII. Gouvernement Decoux et Occupation japonaise.(
Chánh phủ Decoux và Sự Chiếm Đóng
của Nhựt Bổn) (tr.282-293).
Ở trang đầu của chương có
chân dung của Ông Huỳnh Phú Sổ.
Tòan Quyền Decoux áp dụng triệt
để chánh sách theo Đức Quốc Xã của chánh
phủ Vichy, đuổi công chức do-thái và công chức có
chân trong Hội Tam-Điểm (Franc-maconnerie)[Chú thích của NLV.:Vì vậy mà
hồi năm ấy ở Trường Thuốc Hànội,
Thầy Meyer-May (do-thái) đang dạy Clinique Chirurgicale
phải chạy trốn sang HongKong và Thầy Massias(franc-macon)
đang dạy Clinique Médicale bị đuổi không
được dạy nữa] ,
có xu hướng kỳ thị chủng tộc khinh
khi dân bản xứ (Ông viết trong hồi-ký “À la barre de l’Indochine” là phải chứng minh rằng
chúng ta,“40.000 người Pháp đối diện với 25
triệu dân Đông Dương đang nhìn chúng ta, sẽ
bắt chúng nó phục vụ những quyền lợi
của các dân gia trắng”), và ca tụng Thống chế
Pétain.
Nhưng ngày 22-9-1940, bất ngờ quân
Nhựt Bổn tấn công và chiếm lấy
LạngSơn, rồi vào HảiPhòng, và sau đó một
hiệp ước với Vichy chính thức cho quân Nhựt
chiếm Đông Dương làm bàn đạp trên
đường tiến qua Birmanie và xuống Malasie, với
sự bảo đảm của Decoux sẽ có an tòan,
sẽ có tiếp tế đầy đủ gạo,
bấp, caosu, than đá,v.v. cho quân Nhựt, và sự cam
kết sẽ mua vải sợi và hàng hóa của Nhựt.
Để thực hiện sự bảo đảm của
mình, Decoux cho xung công nhơn công để xây cất
những công trình chiến lược như xây cầu, làm
đường, làm sân bay, cho in thả dàng giấy bạc đông
dương (piastre) để cung cấp cho lính Nhựt tiêu
xài, ép buộc dân trồng cây kỹ nghệ thay vì trồng
lúa, và cho đặc quyền thu góp lúa, cao-su, bông vải
(coton), sợi đay(jute), dầu (huile de ricin, từ cây
thầu dầu ricin, để thay cho nhớt xe hơi). Dân
bị một cổ hai tròng, nên khổ sở vô cùng,
nhứt là ở Bắc-kỳ,vì ngoài nạn lạm phát
nạn khan hiếm và chợ đen, còn nạn lụt vì
bể đập vở đê và kể từ cuối
năm 1943 vì phi cơ Mỹ oanh tạc đường xe
lửa transindochinois thì không có gạo từ Nam-kỳ ra, nên
từ một đến hai triệu người bị
chết đói, trong lúc mà, chính Tòan Quyền Decoux viết
trong hồi-ký của Ông: “ Vào ngày Nhựt đảo chánh
6-3-1945, chánh phủ có…… “5 trăm ngàn tấn (500.000 tonnes)
gạo dự trữ, để phòng cho việc tái xuất
cảng về mẫu-quốc hay đến những
thị trường lớn trên thế giới” (nguyên
văn viết trong sách À la barre de l’Indochine tr.162).
Bởi vậy cho nên sự tranh đấu
của thợ thuyền và dân quê chỉ còn là một sự
tranh đấu để mà sống sót (pour la survie),
mặc dầu cũng có những cuộc đình công lai rai
như ở ngoài Bắc có 18 vụ trong những năm
1943-1944, và trong Nam 24 vụ từ th.5 -1942 tới th.6-1943.
Trong lúc đó thì về mặt chánh trị
cả hai chủ nhơn đều ve vãn dân bị trị
địa phương.
Về phía Pháp thì đối với giai cấp tư sản
cho thành lập một “Hội ĐồngTư Vấn Liên
Bang”(Conseil Fédéral Consultatif) gồm có 25 người
được chọn “vì sự trung thành với Pháp”, cho
phép trí thức bản xứ được có những
chức vụ điều khiển và được có
lương ngang với người Pháp có chức
tương đương, cho phép ra báo bằng quốc
ngữ dể dàng hơn cho nên lúc ấy có một loạt
báo và tạp san ra đời như tờ Văn Lang của các
bác-sĩ Phạm ngọc Thạch và Hồ tá Khanh, tờ Tri Tân của Nguyễn văn
Tố và Đào duy Anh, tờ Văn
Mới và Văn Mới
Tuổi Trẻ của nhóm Hàn
Huyên với nhà văn Trương Tửu, báo Thanh Nghị , báo Thanh Niên, v.v.Đối
với thanh niên và sinh viên thì cho phát động phong trào “Giáo
Dục, Thanh Niên và Thể Thao “(mouvement Éducation Jeunesse et
Sports) với những trường và trại thể thao,
với những cuộc diễn hành đồng phục,
những cuộc tuần hành cầm đuốc, tất
cả dưới bóng của hình ảnh Thống Chế
Pétain với tiêu ngữ “ Vưng Lời và Phục Vụ”
và bài hát “Maréchal nous voilà” .
Còn về phía Nhựt Bổn thì tuyên
truyền rầm rộ chánh sách “Khu Vực Đồng
Thịnh Vương Đại Đông Á”, mở nhiều
lớp dạy tiếng Nhựt, và kể từ sau Pearl
Harbour ngày 8-12-1941, khi Hiến Binh Nhựt Kempeitai chính thức
vào Đông Dương và làm việc song song với Sở
Mật Thám Pháp, thì giúp và bảo vệ những nhóm quốc
gia chống Pháp như Đại
Việt, Đại Việt Quốc Xã, Việt Nam Ái Quốc Đoàn, và can thiệp có
hiệu quả vào những việc bắt bớ của
Pháp trong các giáo phái.
Nói về các giáo phái (tr.289- 293) tác giả có
nhắc tới việc xuất hiện Đạo
Cao-Đài vào năm 1925-26, do Đốc-phủ sứ Lê
văn Trung thành lập với một số đốc
phủ, huyện, phủ, công chức, và địa chủ,
theo một giáo-lý hỗn hợp (syncrétisme) gồm có
Phật-giáo, Lão-giáo, Nho-giáo, rồi lại có Jésus, Mahomet,
Brahma, và laị thêm Lý thái Bạch và Victor Hugo. Cho tới
năm 1932, đã có 350.000 đạo hữu, tin vào lời
tiên tri của những cuộc “xây-cơ” bàn tròn, nói
rằng sự đô hộ của Pháp sắp chấm
dứt v.v. Đến tháng 8-1940 Tòan Quyền Decoux ra
lịnh đống cửa Thánh Thất TâyNinh và nhiều
tịnh-thất ở các tỉnh, rồi đến tháng
7-1941, bắt luôn “Đức Hộ Pháp” Phạm Công Tắc
và một số chức sắc cao cấp khác đem đày
qua Madagascar. Và đến th.9 thì cho quân đội Pháp
chiếm đóng hết Thánh Thất TâyNinh. Trong lúc Ông
Phạm công Tắc bị đày qua Madagascar thì ở nhà có
Ông Trần quang Vinh một chức sắc CaoĐài nhờ
có sự che chở của Hiến Binh Nhựt Kempeitai
tu chỉnh lại Thánh Thất và cho Nhựt Bổn
huấn luyện quân sự một số đạo
hửu cho nên đến ngày 6-th.3-1945 khi Nhựt đảo
chánh Pháp, thì Nhựt đã huấn luyện được
lối 20.000 quân Cao-đài để có thể làm quân
trừ bị.
[NLV nói thêm:
Nhờ số quân đó mà đến năm 1945 khi Việt
Minh Cộng Sản cướp được chánh
quyền, thì Việt Minh không làm sao chinh phục
được vùng TâyNinh có tiếng là quốc gia chống
Cộng và đến khi Ông Ngô Đình Diệm về làm
Thủ Tướng thì Tướng Cao-Đài Trịnh Minh
Thế là người đã có công giúp Ông Diệm rất
nhiều trong buổi khó khăn lúc đầu.]
Chương này cũng nói về Đạo
Hòa Hảo là môt Phật giáo được
giản-dị-hóa cho thích hợp với trình độ
của dân quê nghèo đói khổ cực và theo đạo
thờ ông bà, do “Thầy Tư ” Huỳnh phú Sổ, bị
gọi là “ông đạo khùng”, ở làng Hòa Hảo
ChâuĐốc sáng lập vào năm 1939, được
rất nhiều người trong vùng Đồng Bằng
Sông Cửu Long theo. Đến th.8- 1940 Ông bị bắt,
đem vào Nhà Thương Điên ở ChợQuán, rồi
mười tháng sau được thả ra và bị cư
trú bó buộc (résidence forcée) ở BạcLiêu. Đến
th.10-1942 khi Sở Mật Thám Pháp sắp bắt Ông nữa
thì Hiến Binh NHựt can thiệp, che chở Ông và huấn
luyện quân sự cho một số tín-đồ của
Ông. Đến năm 1945 khi Việt Minh cướp chánh
quyền thì bọn Cộng-sản trong Nam phải
đổ máu với tín-đồ Hòa Hảo và “Thầy
Tư ” bị C.S. ám sát,vì vậy mà C.S với Hòa Hảo
“không bao giờ đội trời chung”.
[NLV.
bàn thêm:Cho nên trong những năm nói trên Cộng Sản và
Hòa Hảo chém giết nhau ở Miền Tây nhứt là vùng
ChâuĐốc LongXuyên,”máu chảy đỏ sông” và xác
chết vì “bị mò tôm” chật xẽo. Rồi khi Pháp
trở lại thì Pháp triệt để dùng Hòa Hảo
để diệt C.S.ở vùng Đồng Bằng Sông
Cữu Long và để khuyến khích, Pháp thăng cho ông
“Năm Lửa” chỉ huy trưởng Hòa Hảo lên
tới cấp bậc“Thiếu Tướng”. Đến
thời Đệ Nhứt Công Hòa Tổng Thống Ngô
Đình Diệm dẹp hết Hòa Hảo bằng võ lực
thì ở vùng đồng bằng sông Cửu Long khi
trước không có Cộng Sản, nay thấy C.S.mọc
lên như nấm. ]
Chương XIX: Le Viêt Minh
ou les Habits Neufs du PCI. 1941-1945. (Việt
Minh hay là những cái Áo Mới của
Đảng Cộng Sản Đông Dương. 1941-1945)
(tr.294-306).
Ở trang đầu của chương có
hình “Giáp và Hồ chí Minh với các cố vấn Mỹ”
(ở trên chiến khu).
Chương này nhắc lại việc
Nguyễn ái Quốc sau khi ở Moscou một thời gian
lâu, xuất hiện lại bên Tàu hồi năm 1938,
để làm việc cho Đảng Cộng Sản Tàu
ở trong Đệ Bát Sư Đòan duới tên là Hồ Quang nhơn dịp Quốc
Dân Đảng và Cộng Sản Tàu liên kết lại
với nhau lần thứ nhì để chống Nhựt xâm
lăng, và đến năm 1940 thì có mặt ở VânNam
để gặp Phạm văn Đồng, Võ nguyên Giáp,
Trường Chinh, Hoàng quốc Việt, vừa thoát
khỏi trận bố-ráp lớn 1939-40 ở VN. Nhắc
lại việc Nguyễn ái Quốc tái sinh Việt Minh là tên
viết tắt của Việt
Nam Độc Lập Đồng Minh đã được hai
người bạn của
Cụ Phan bội Châu, là Nguyễn hải Thần và
Hồ học Lâm lập lên ở NamKinh từ năm 1936.
Nhắc lại cuộc hợp ở Pac-Po trên CaoBằng
ngày 10-19 th.5-1941, nhắc lại việc thành lâp chiến khu
trên Việt Bắc, nhắc lại việc Hồ chí Minh
đi tìm sự giúp đở của OSS (về sau là C.I.A.)
của Mỹ, đến
gặp Tướng Chennault, chụp hình với ông ấy và
xin chữ ký của Ông ( để khoe và “hù” thiên hạ)
v.v. Những việc này các sách ca tụng tiểu sử
của ”Bác” và đề cao thành tích của “Đảng”
đã nói tới rất nhiều nên tôi không tóm lược
lại nơi đây. Tôi chỉ xin ghi lại đây, ba việc
mà có lẽ những sách ấy đã “quên” (hoặc giấu)
hay là thuật lại khác hơn sự thật.
1-(ở tr.300):Ngày13-8-1942, theo lịch sử
chính thức, thì đồng chí Nguyễn Ái Quốc,
dưới tên mới là Hồ chí Minh, đi sang
Tàu….để cố gắng xin viện trợ của
quốc tế. Sau nửa tháng đi bộ, thì đồng
chí bị bắt ở Túc Vinh (Quảng Tây) và bị chánh
quyền địa phương của bọn
Tưởng Giới Thạch bỏ tù ngày 29 th.8.-1942.
Nhưng 40
năm sau, Hòang văn Hoan kéo cái màn của cuộc du
hành ấy lên và nói rằng mục đích của nó không
phải là để gặp các đồng chí C.S.Tàu mà là
để gặp Tưởng Giới Thạch. Dầu sao,
vì muốn đi qua khỏi đầu của Thống
đốc Quảng Tây Trương Phát Khuê, để
trực tiếp xin sự giúp đở của
Tưởng Giới thạch, nên ông Thống đốc
Quảng Tây bắt Hồ chí
Minh giam luôn trong tù. Và trong lúc ông này còn ngồi trong tù
thì Ông Thống đốc gom các nhà lãnh tụ của các
đảng cách mạng VN (Đồng
Minh Hội, VNQDĐ, Phục Quốc,Việt
Minh) lại,và dưới quyền chủ tọa
của Nguyễn Hải Thần thành lậpVịêt Cách, là Việt
Nam Cách Mạng Đồng Minh .
2-(ở tr.303): Krouchtchev, trong sách Souvenirs, thuật lại
rằng hồi trước Điện Biên Phủ, Hồ
đến Moscou để xin viện trợ quân sự, thì
thình lình rút ra khỏi cạc-táb của Ông một tờ báo
L’URSS en Construction và xin Staline
ký tên trên đó.(lại cái trò xin chữ ký). Staline, bị hỏi bất
thần, liền ký trên tờ báo. Thì Hồ cất kỹ
tờ báo như là một cái bùa (nguyên văn của
Krouchtchev trong sách: rangea la revue
comme une viatique)
nhưng……Staline biểu hai tên mật vụ của Ông ăn
cắp tờ báo đó lại. Và Staline vừa cười
rộ lên (esclafer) vừa nói: “Thì nó sẽ phải
kiếm mãi mãi” (“Il pourra toujours la chercher”).
Cũng trong kỳ thăm Moscou ấy, VN Dân Chủ Cộng
Hòa được nhìn nhận. Thì Hồ xin Staline tổ
chức một cuộc tiếp rước Ông như là
một Quốc Trưởng. Staline nói “trễ rồi vì ông
đã đến đây bí-mật” (incognito), nhưng Hồ
đưa ra kế hoạch là một chiếc máy bay dành
riêng cho Ông và khi đáp xuống Ông sẽ được
đón tiếp như một Quốc Trưởng .Thì
Staline trả lời : “Tôi đã nói là Không” (“j’ai dit Non”). Staline thuật lại chuyện này mà
cười nhạo lớn tiếng (nguyên văn: “ricanait Staline quand, dans un grand éclat de rire cruel, il relatait cette
histoire”, theo sách Krushchev
Remembers. The Glasnot Tapes ,
Little Brown & Co,Toronto,1990,tr.154)
3-(ở tr.305): Ngày 25-3-1945, mười lăm
ngày sau khi Nhựt đảo chánh ở Đông Dương
thì De Gaulle nói rõ chương trình của Ông ở Đông
Dương là giử “Đông Dương trong Liên-Hiệp
Pháp dưới hình thức một Liên Bang Đông
Dương dưới quyền một Tòan Quyền Pháp
rồi Ông này chọn những bộ trưởng trong
những người địa-phương cũng như
trong những người Pháp sống ở Đông
Dương”. Không có chữ “Độc Lập”.
Thì Hồ Chí Minh trả lời cho vị
đại diện của Chánh Phủ Lâm Thời của De
Gaulle là Ông Sainteny ở Côn-Minh (VânNam) nhờ Ông Thomas
chuyển là: Hồ “chấp nhận hoãn lại việc cho
VN độc lập từ 5 đến 10 năm và chấp
nhận trong thời gian ấy có một toàn quyền Pháp
đứng đầu Liên Bang Đông Dương” (theo sách
Ph.Devillers : Paris-Saigon- Hanoi ,
tr.63).
Chương XX. Le Coup de Force Japonais du 9 Mars 1945 et ses
Suites.( Cuộc Đảo Chánh của Nhựt
Bổn ngày
9 Th. 3-1945 và những việc kế tiếp.) (tr.307-319).
Chương này nói về cuộc
đảo chánh của Nhựt Bổn ở Đông
Dương đêm 9-3-1945, rồi ngày 11-3-1945 vua Bảo
Đại tuyên bố “Kể từ ngày hôm nay sự
bảo-hộ của Pháp bị hũy bỏ và nước
Viêt Nam lấy lại quyền độc lập của
mình” (“reprend ses droits á l’indépendance”) [NLV bàn: Như vậy tức là ngày 2-th.9-1945 Hồ chí
Minh tuyên bố thay thế chính thể, từ chính thể
Đế Quốc (Empire) qua chính thể Dân Chủ Cộng
Hòa (République Démocratique) của một quốc gia đã
độc lập rồi, chớ không phải tuyên bố
Độc Lập cho một quốc gia đang là thuộc
địa, như sách lịch sử chính thức của
Đảng và của Dân Chủ Cộng Hòa rêu rao.] Vua Cao-Mên thì tuyên bố độc
lập ngày 13-th.3-1945, vua Lào thì tuyên bố độc
lập ngày 8-th.4-1945.
Chương này cũng nói về việc vua
Bảo Đại chọn Cụ Trần trọng Kim
lập chánh phủ, về Thanh Niên Tiền Phong, v.v. mà chúng ta đã biết nên tôi
không tóm lược mặc dầu những việc trên
được kể lại theo nhãn quang của
một nhà cách mạng trốt
kít. Sau đây tôi chỉ xin tóm lược những việc
mà các sách khác, theo chỗ tôi được biết,
hoặc không có kể lại, hoặc kể lại rất
đơn sơ như:
1- (ở tr.312):Chính Trần văn Giàu quen
với B.S.Hồ tá Khanh nhiều và xui Ông ấy tham gia
nội các Trần trọng Kim với chức vụ
Tổng trưởng Kinh Tế, để làm tay trong
hầu “dò biết được ý định của
Nhựt Bổn”. Vậy mà rồi về sau lại nói láo
rằng “nhóm trốtkít đưa B.S.Hồ tá Khanh vào chánh
phủ để hợp tác với chánh phủ bù-nhìn theo
Nhựt …… còn lãnh tụ trốtkít Tạ thu Thâu thì đi ra
Huế để làm cố vấn cho chánh phủ Trần
trọng Kim, ước mong rằng sau khi chánh phủ này
đổ thì sẽ thay thế”(theo sách Cách Mạng Tháng Tám, Hanoi,1960,quyển II tr. 220-221).
2- (ở tr.317-318) về Tạ thu Thâu
hồi lúc ấy thì nói rõ như sau: Tạ thu Thâu, lúc ấy
đang bị cưỡng trú (résidence forcée) ở Long Xuyên,
thoát được khỏi sự kiểm soát của Kempeitai, về Saigon gặp
lại Trần văn Thạch, Phan văn Hùm, Nguyễn van
So, Lê văn Thu và Nguyễn văn Chánh để lập lên Đảng Thợ Thuyền Cách
Mạng vì cho là thời buổi đã thuận tiện,
và liên lạc được với các “nhóm anh- em” ở TrungKỳ
và BắcKỳ, nên Tạ thu Thâu quyết định ra
Bắc vào tháng 5-1945 theo đường ngang qua Huế.
Đi theo Ông chỉ có một người bạn trẻ là
Đỗ bá Thế, mà về sau nhờ thoát khỏi
chết mà kể lại được cuộc hành trình
này, trong đó Tạ thu Thâu đã gặp được
những thanh niên rất hăng hái đồng quan
điểm với Ông về viễn ảnh của
tương lai, đặt cho Ông nhiều câu hỏi nóng
bỏng và cũng như Ông, nhắm vào một hành
động thợ thuyền có một sự phối
hợp từ Bắc tới Nam, trong lúc hiện giờ thì
đang đem hết nghị lực vào việc cứu
đói của các đoàn khất thực. Các sinh viên
Nguyễn tôn Hòan,
Phan thanh Hòa và Tuấn đang rất bận rộn trong
việc đả phá những luận điệu tuyên
truyền có tánh cách ái-quốc-rờm (patriotarde) và xuyên
tạc của bọn Việt
Minh ở các mỏ HònGay, CamPha, cho tới TiênYên MongCái thì
ở những chổ đó các sinh viên trên xúi giục các
thợ mỏ phải tự nắm lấy vận mạng
của mình trong tay.
[NLV
thêm: Về sau B.S.Nguyễn tôn Hòan sáng lập đảng
Đại Việt trong Nam, có tham gia Chánh Phủ Bảo
Đại năm 1949 với chức vụ Bộ
Trưởng Bộ Thanh Niên Thể Thao và Chánh Phủ
Nguyễn Khánh năm 1964 với chức vụ Phó Thủ
Tướng Chánh Phủ. Còn
Phan Thanh Hòa lúc ấy là ChủTịch Tổng Hội Sinh Viên
HàNội, vì dẫn dắt Tổng Hội triệt
để chống Việt Minh Cộng Sản nên bị
C.S. ám sát năm 1946.]
Đỗ bá Thế cũng thuật lại việc gặp gỡ
ở làng Đan Phương (HàĐông)—nơi trú ẩn bí
mật của Đảng
Thợ Thuyền Xã Hội Việt Nam -- với nhóm Lương
đức Thiệp và Khương hữu Ân, thuật
lại việc trao đổi tin tức giữa Tạ thu
Thâu với những nhóm thợ ở vùng các mỏ, ở
NamĐịnh, ở HảiPhòng, với dân quê
ở HảiDương và TháiBình,v.v. đưa
đến những thảo luận và chương trình hành
động, mặc dầu có một sự tương quan
lực lượng thê thảm giữa xít-ta-linít và
trốtkít lúc ấy ở ViệtNam. Tạ thu Thâu trở
về Nam lúc Nhựt Bổn đầu hàng Đồng Minh
(th.8-1945), ngừng lại ở QuảngNgải để
gặp một số bạn, thì bị bọn đồng
lõa của Hồ chí Minh ám sát tại đấy, cùng với
những đồng-chí và cãm- tình- viên mà Ông đến
trọ ở nhà.
Phần Năm. Révolution ou Contre-Révolution d’Aout 1945. (
Cách Mạng hay là Phản Cách Mạng tháng 8-1945) (tr.320-381).
Gồm có hai chương (XXI, XXII ) và
một chương cuối cùng không có số. Vì hai chương XXI và XXII, nói
nhiều về những việc đã xẩy ra trong Nam
hồi thời ấy, mà đây là lần đầu tiên tôi
được đọc một quyển sách nói rõ ràng
tĩ mĩ, đầy đủ trong chi tiết những
việc đó, cho nên tôi sẽ cố phiên dịch hai
chương ấy (và sẽ đăng trong một kỳ
YTNS sau dưới tựa là “
Nam Kỳ 1945-1946), còn
những việc đã xẫy ra ngoài Bắc, thì mọi
người đều biết vì các sách Việt-ngữ,
Pháp-ngữ hay Anh-ngữ viết về Việt Nam hồi
thời ấy đều có nói đến nhiều, cho nên
tôi chỉ sẽ tóm lược như sau mà thôi :
Chương XXI. Le Viet Minh
au pouvoir. (Việt Minh nắm chánh
quyền) (tr.323-346)
Trong chương này có một hình của
vụ tập hợp trước
Nhà Hát Lớn Hànội (tr.322), một hình của
vụ biểu tình ở Saigon ngày 21-8-1945 (tr.334), một hình của Thanh Niên
Tiền Phong đứng chào quân Đồng Minh(tr. 336). và một bản địa-đồ
của Saigon năm 1945 (tr.330).
1:Hô Chi Minh prend
le pouvoir à Hanoi et à Huê avant l’arrivée des Chinois( Hồ Chí Minh
cướp chánh quyền ở Hànội và ở Huế
trước khi quân Trung quốc đến (tr.324-325).
Nhắc lại vụ hợp của Việt Minh ở TânTrào,
vụ Nhựt Bổn chuyển quyền lại cho Phan
kế Toại ngày 16 th.8, vụ biểu tình trước nhà
hát lớn Hànội ngày 17 th.8, rồi Phan kế Toại nhường
quyền cho Việt Minh ngày
19 th,8 nhắc lại việc Bảo Đại mời
Việt Minh lập chánh phủ ngày 22 th.8, nhưng Việt
Minh từ chối và giết Phạm Quỳnh rồi
Bảo Đại thóai-vị và giao ấn với kiếm
nhà vua ngày 25 th.8, nhắc lại việc Sainteny
đại-diện của De Gaulle và Đại-tá Patti trùm
OSS (CIA) bí mật đáp
xuống Hànội ngày 21 th.8, rồi Hồ chí Minh gặp
Patti và Giáp gặp Sainteny, nhắc lại ngày 2 th.9 Hồ chí
Minh tuyên bố thành lập Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa.
2- La
“République Démocratique” et les initiatives ouvrièreset paysannes. (“Dân Chủ Cộng Hòa” và những sáng
kiến của thợ thuyền và dân quê.(tr.325-326).
Nhắc lại những vụ thành lập
các “Hội Đồng Thợ Mỏ” ở HònGay-CamPha, và
những vụ đòi phân phát ruộng đất cho dân quê
(ở NghệAn,ThanhHóa và BắcNinh, TháiBình) đều
bị Chánh Phủ Lâm Thời của Dân Chủ Cộng Hòa
dẹp hết.
Chương XXII. La
Reconquête coloniale. Le visage de la
“Nouvelle France”.( Việc tái
chiếm thuộc địa. Bộ mặt
của “ Nước Pháp Mới ” .) (tr.347-372).
(Cũng
như ở chương trước, ở đây tôi
chỉ nhắc lại những việc đã xẩy ra
ở ngoài Bắc mà thôi.)
1 - Au
Tonkin, occupation chinoise et manoevres de Hô Chi Minh.( Ở Bắc kỳ, sự chiếm
đóng của quân Tàu và những ma-nớp của Hồ chí
Minh.(tr.364-368).
Đọan này nhắc lại ngày 9 th.9,
quân Tàu đến Hànội và phân tán tới Tourane
(ĐàNẳng) 180.000 lính kéo theo vô số nhơn công đàn
bà và trẽ con, nhắc lại Việt Nam Quốc Dân
Đảng và Đồng Minh Hội về VN theo quân
đội Tàu, VNQDĐ chiếm lấy YênBáy, PhúThọ,
HưngHóa còn Đồng Minh Hội thì chiếm lấy
BắcGiang và QuảngYên; nhắc lại Tướng Lư
Hán chỉ huy trưởng quân Tàu bay đến Hànội
ngày 18, đóng ở dinh Tòan Quyền và được
Hồ chí Minh biếu một bộ hút thuốc phiện
bằng vàng là vàng của Tuần Lể Vàng nói là để
mua súng đánh Pháp; nhắc lại việc Nguyễn Hải
Thần và Vũ Hồng Khanh về Hànội đòi
được tham gia chánh phủ, thì Hồ chí Minh
đề nghị lập một chánh phủ liên hiệp
quốc gia sau một cuộc tổng tuyển cử quy
định vào ngày 23 th.12. Trong lúc đó thì giữa Việt Minh và VNQDĐ với Cách
Mạng Đồng Minh có những cuộc bắt cóc,tra
tấn và chém giết không nương tay mà những
mộ-địa tìm thấy được hồi năm
1946 (NLV thêm: như ở
đường Ôn-như-Hầu) đã chứng minh.(NLV thêm: Kinh nghiệm bản thân: Hồi lúc ấy,
lối th.9-1946, một hôm tôi đi cùng với cậu
Định, một em họ của nhà tôi, trên
đường Nguyễn Thái Học ở vùng HồTây-
CổNgư , thì bị hai người dí súng vào lưng
chúng tôi và bắt đem về bót cảnh sát hỏi cung và
nhốt lại. May phước lúc đó trong người
tôi có một tờ giấy của Ủy Ban Kháng Chiến
Phước Hải chứng nhận tôi là một công dân
kháng chiến chống Pháp được phép ra HàNội
tiếp tục học và tôi có
một cái thẻ sinh-viên của Trường Y Khoa, nên đến chiều tối tôi
được tha cho về, còn cậu Định thì
bị giử lại rồi bị thủ tiêu luôn, vì
cậu ấy là một đảng-viên của VNQDĐ).
Vì thấy Tưởng Giới Thạch khó
chấp nhận một chánh phủ cộng sản ở
ngay biên giới nước Tàu, Hồ chí Minh ngày 11 th.11-1945
cho Đảng Công Sản VN tự-ý giải tán và công
bố trong báo Cộng Hòa (La
République) là “ vì sẵn sàng để quyền lợi
quốc gia trên quyền lợi của giai cấp”[…] “và
để đánh tan mọi sự hiểu lầm ở
trong nước và ở ngoài nước”.
Ngày 20 và 23 th.12, một phái đòan Nga
đến, liên lạc với chánh quyền Việt Minh ,nói rằng Nga không giúp gì
được và khuyên “nên ở lại trong
quĩ-đạo của Pháp”.
Ngày 24 th.12, dưới sức ép của Tàu,
Việt Minh, VNQDĐ, và
Đồng Minh Hội chấp
nhận thành lập một chánh phủ Liên Hiệp Quốc
Gia Lâm Thời, gồm có Hồ chí Minh chủ-tịch,
Nguyễn Hải Thần phó chủ-tịch. Chánh phủ
sẽ được Quốc Hôi chính-thức-hóa sau
cuộc bầu cử, mà chưa gì Hồ chí Minh đã
biếu cho phía bên kia 70 ghế trong Quốc Hội, nên phía
bên kia không tẩy-chay cuộc bầu cử.
Cuộc bầu-cử được
tổ chức vào ngày 6 th.1-1946 và phe của Hồ chí Minh
đựơc đại đa số phiếu. Ở
HàNội, Hồ chí Minh được 98% trong tổng số 172.765 cử-tri.
Chỉ có những người được Việt Minh
chấp thuận mới được ra ứng cử.
Bảo-Đại, sống ở SầmSơn từ ba
tháng nay, ngạc nhiên khi thấy mình được
đắc-cử dân-biểu ở Thuận Hóa với 92%
số cử-tri trong lúc mà ông không có ghi tên ứng-cử.
Ở bên Pháp, ngày 21 th.2-1946 De Gaulle rời
chánh quyền; ngày 28-th.2, chánh phủ mới của Pháp
được Tưởng Giới Thạch chấp
thuận rút quân Tàu ra khỏi Đông Dương để
lấy lại được những tô-giới
(concessions) của Pháp ở ThượngHải, ThiênTân,
Hankeou và Canton, cùng với địa-hạt QuảngChâuLoan(territoire
du Kwang cheou wan) và được mua lại đường
hỏa-xa VânNam (chemin de fer du Yunnan). Cuộc rút quân sẽ
bắt đầu trong thời gian từ ngày 1 đến
ngày 15 th.3.
Hai ngày sau việc ký kết
điều-ước trên, hải-quân Pháp có mặt ở
Saigon- gồm có 7 tuần-dương-hạm (croiseurs) 1
thông-báo-hạm (aviso), 2 tàu hộ-tống(escorteurs) và 1
hàng-không-mẩu-hạm (porte-avions)- chuyển động
về hướng Bắc, với 15.000 người
(quân-nhơn).
Ngày 2 th.3,
ở HàNội Hồ chí Minh triệu tập Quốc
Hội để hợp thức hóa chánh phủ của ông
trở thành “Chánh Phủ Liên Hiệp Quốc Gia và Kháng
Chiến”. Nguyễn hải Thần vẫn giữ chức
Phó Chủ-Tịch; Vũ hồng Khanh làm Đại-Biểu
Hội-Đồng Nội-Các; Nguyễn tường Tam làm
Tổng Trưởng Ngoại-Giao. Huỳnh thúc Kháng một
nhà cách mạng lão-thành đã bị đày ra CônĐảo
cùng với Phan châu Trinh, giữ chức Tổng
Trưởng Nội Vụ, còn Phan Anh, là Tổng
Trưởng Quốc Phòng. Nhưng hai ông này sẽ là bù-nhìn
vì trên thực tế Võ nguyên Giáp nắm hết. Cảnh-sát
và Quân-đội.
2 - Hô Chi
Minh et son marché de dupe (Hồ chí Minh và cuộc
“trao-đổi gian lận” của ông) (tr.368-369). Ngày
6 th.3, sau tám tháng giằng co giữa Việt Minh và Pháp
dựa trên cái “Tuyên Bố ngày 24 th.3-1945 (Déclaration
du 24 Mars 1945 của De Gaulle) , một thỏa-ước
được ký kết giữa một bên là Sainteny, bên kia
là Hồ chí Minh và Vũ hồng Khanh:
1-
Chánh phủ Pháp công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng
Hòa là một quốc gia tự-do, có chánh phủ, có
quốc hội, có quân đội và có tài chánh riêng của
mình, là thành phần của Liên-Bang Đông Dương và
của Liên-Hiệp Pháp.
Còn
về việc ba “ Kỳ ” thì chánh phủ Pháp hứa sẽ
tôn trọng ý của dân thể hiện trong một cuộc
trưng-cầu dân-ý.
2-Chánh
phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng đón tiếp
một cách thân-hữu quân đội Pháp đến thay
thế quân đội Trung Quốc đúng theo những
hiệp-ước quốc tế đã được ký kết.
Ngày hôm sau 7 th.3, trước Nhà Hát Lớn
ở Hànội, Võ nguyên Giáp rồi Hồ chí Minh phải
cố gắng trấn tĩnh quần chúng sững-sốt
khi hay tin thỏa-ước đã được ký
kết. Hồ chí Minh tuyên bố :”Tôi thề tôi không có bán
đứng đồng bào”.
Ngày 16 Hồ để “cố-vấn
tối-cao” (Vỉnh Thụy) đứng đầu một phái
đòan thân-hữu đi TrùngKhánh. Theo sách hồi-ký Le Dragon d’Annam của Bảo-Đại thì
Tưởng Giới Thạch chỉ tiếp niềm
nở có môt mình ngài, còn những đòan-viên khác có vài tên
Việt Minh, thì Tưởng Giới Thạch chỉ
tiếp qua loa trong một cái chùa và cho biết Trung Quốc
chỉ có tin vào những quốc gia láng giềng
thân-hữu. Phái đòan trở về Hànội không có
Bảo Đại.
3-“Sans
un coup de fusil” (“Không một tiếng súng”) (tr.369-370).
Ngày 18 th.3, tướng Leclerc dẩn đầu 1.000 quân và
200 xe nhà binh đi vào Hànội không có một tiếng súng.
Rồi quân Pháp đóng đồn ở khấp Hànội
HảiPhòng, HònGay, NamĐịnh, Huế, Tourane,
HảiDương, lên tới biên giới MongCáy,
LạngSơn, CaoBằng, Hà Giang, LaiChâu,
ĐiệnBiênPhủ. Trong lúc đó thì Bộ Trưởng
Bộ Thuộc Địa Marius Moutet công điện cho Đô-đốc D’Argenlieu,
Cao-ủy Pháp ở ĐôngDương, khuyên ông này dùng
khẩu-hiệu “ NamKỳ của người MiềnNam”
như là một lợi-khí để chống lại
sự thống-nhứt của ba “Kỳ” và việc
đập tan bằng quân-sự “Quốc Gia Tự Do”
Việt Nam cũng được chuẩn bị
(l’écrasement militaire de l’ “État
Libre” du ViêtNam se prépare).(NLV: Nên
để ý hồi thời ấy đối với
ViệtNam lúc nào Pháp cũng dùng chữ “État Libre”, (Quốc
gia Tự Do) chớ không bao giờ dùng chữ “État Indépendant”
(Quốc gia Độc
Lập).
4- De
la parodie de négotiation à l’insurrection du 19 décembre 1946. (Từ
cuộc nhái chơi điều-đình đến cuộc
khởi nghĩa ngày 19 th.12-1946) (tr.370-372). Hội nghị sơ-bộ
ĐàLạt khai mạc vào ngày 16 th.4, bế mạc vào ngày
11 th.5, không đem lại một sự thỏa thuận nào
hết giữa Pháp và ViệtNam: Pháp không chấp nhận sự
thống nhứt giữa ba “Kỳ”, không chấp nhận
ViệtNam Dân Chủ Cộng Hòa có đại-diện
ngoại giao riêng, và Pháp nhứt định kiểm-soát
quan-thuế và ngoại thương là hai nguồn tài chánh
lớn của một quốc gia.
Hồ chí Minh bay qua Pháp ngày 31 th.5,
đến Biarritz ngày 12 th.6, và 10 ngày sau được
tiếp ở Paris gần như là một
quốc-trưởng.
Trong lúc đó thì ở SàiGòn, ngày 1 th.6,
Cao-ủy D’Argenlieu lập lên “Cộng Hòa Tự Trị
Cổ-Chân-Chiên” (“La République Autonome de Cochinchine”) giao cho Bác-sĩ Nguyễn văn
Thinh làm Thủ-Tướng (Ông này sau khi nhận thấy
mình bất lực vì bị chèn ép thì thắt cổ tự
tử chết ngày 10 th.11). Ở ngoài Bắc thì ngày 10
th.6 quân Tàu bắt đầu
rút khỏi HàNội và ngày 26 thì tổng-hành-dinh (QG) của
chúng rút đi, giao dinh Tòan-quyền lại cho Pháp.
Ở bên Pháp thì hội-nghị Fontainebleau
bắt đầu từ ngày 6 th.7. Bầu không khí ở
hội-nghị có thể được tóm lược
trong lời hâm-dọa thân-ái (la cordiale menace) của
trưởng phái-đòan Pháp Max André đối với
Phạm văn Đồng trưởng phái-đòan VN: “ Hãy biết điều chớ….
nếu không thì ông phải biết rằng chúng tôi có thể
quét sạch các ông trong hai ngày” (tài
liệu: “Ph. Devillers. Paris-Saigon-Hanoi.
Paris 1988, tr. 212). Cuộc bàn-cãi dằng-dai vô-vị
chấm dứt ngày 10 th.9, và phái-đòan ViệtNam
đập cửa ra đi ngày 13 th.9 rồi lên tàu Pasteur về HảiPhòng. Trong
đêm 14 qua ngày 15 th.9 Hồ chí Minh, buồn tủi,
phải đến gõ cửa của Moutet để xin ký
bản thỏa-hiệp-án Modus
Vivendi “có mục đích
tạo lên trong thời gian sắp tới một bầu
không khí yên tĩnh và tin cậy lẫn nhau cho phép tiếp
tục những cuộc đàm phán để tiến
tới một thỏa-ước chung dứt-khoát.
Những cuộc đàm phán sẽ bắt đầu càng
sớm càng tốt và trễ lắm là vào th.1-1947”.
Rồi ngày 18 th.9 Hồ chí Minh xuống tàu
tiểu-hạm (aviso) Dumont
d’Urville ở Toulon để về ViệtNam. Về
tới HảiPhòng ngày 20 th.10, ông gặp một tình
trạng nguy cấp. Ngày 29 th.8 quân Pháp đến chiếm
sở Quan-thuế và sở cảnh-sat của VN, rồi
ngày 9 th.10 chúng nó đến lục soát Sở Mật-thám
của VN, bắt một số nhơn-viên, và kể từ
ngày 15 th.10 chúng nó đả nắm được hết
trong tay việc kiểm soát quan-thuế và tất cả vùng
duyên hải của HảiPhòng. Ngày 20 th.11, trừ khu
của người Pháp, tòan thể HảiPhòng đứng
lên chống sự xâm chiếm của Pháp. Đêm bọn Tự Vệ đã dựng lên
những chướng-ngại-vật trong những khu
ViệtNam và khu Tàu. Lối 8:30 sáng có tiếng súng nổ,
súng cối (mortiers) bắn lên làm rung chuyển cả thành phố;
và thiết-giáp bắn trả để xong vào phá hủy
các chướng-ngại-vật. Phân nữa thành phố
bị phá hủy vì súng của ba chiếc tàu binh bắn
yểm trợ bộ binh Pháp.
Trong
sách của Georges Chaffard: Les deux
guerres du Vietnam, Paris 1969, ở tr. 49 có viết: “ Những
cuộc tàn phá không phải là hậu quả của những
cuộc chiến mà thôi, nó còn là kết quả của
những lịnh nói rõ phải “cho bọn ViệtNam một
bài học”[…] Ferrandi cho một bằng chứng hùng hậu
. Đại-đội của ông hoạt động
ở dường Paul Doumer: “Nhiệm vụ của chúng
tôi, ở đây, là trừng phạt. Phải đốt
trọn hết phần buôn bán (của khu) là nơi có
nhiều hoạt động Việt
minh […] Đại-tá Dèbes
đã cho lịnh viết trên giấy tờ hẳn hoi.
“Đúng là Guernica” (NLV: Guernica là bức
tranh có tiếng của Picasso diển tả sự tàn phá
của tỉnh thành này trong kỳ nội-chiến năm
1937 ở Espagne do không-quân Đức ủng-hộ Franco ném
bom xuống.) như ông tổng-ủy viên của
Hải-quân Jacques Raphael-Leygues nói . “Tôi còn nghe nói đến
con số 6.000 nạn-nhân thường dân , như ông
đô-đốc Conge viết […] Nhưng ai đếm
số thây trên bãi để làm gì ? Việc chính trong
chuyện này là nổ súng, trong mục-đích
được xát nhận là giải-quyết bằng
võ-lực. Thật là một ảo-mộng.(tài liệu: Georges Chaffard,
như trên)
Cuộc
khởi-nghĩa bị đập tan ở HảiPhòng
đưa đến đêm 19 th.12-1946 Hồ chí Minh ra
bưng. Bắt đầu một cuộc tân Chiến Tranh
Ba Mươi Năm cùng với một tràng dài những
việc rùng-rợn và những vụ giết-chóc.(le début
d’une nouvelle Guerre de Trente Ans et de son cortège d’horreurs et de
massacres).
Chương Sau Cùng không có số: Et Aujourd’hui ?
(Rồi Bây Giờ ?)
(tr.373-381)
Nói đến những thất bại
của chế độ C.S. ở VN, nhắc đến
Bùi Tín hồi th.11-1991 ly khai với chánh quyền C.S.,
chế giểu sự tự thần-thánh-hóa Cha Hồ của chính Hồ chí Minh viết
trong sách tự-thuật tiểu-sử (autobiographie) “Những mẩu chuyện về
đời họat động của Hồ Chủ
Tịch” . Hànội 1969, dưới tên tác giả là
Trần dân Tiến.
Và ở cuối chương, sách kết thúc bằng môt
đọan văn đầy ý nghĩa trích từ sách “Discours
de la servitude volontaire ou le Contr’un” (1574-1576) [Bàn
về sự làm nô-lệ tự-nguyện hay là việc
Đối-với-một] của văn hào Pháp La Boétie hồi
thế kỷ XVI mà nguyên văn bằng Pháp-ngữ xưa
như sau : “ celui que vous faites si
grand qu’il est, pour lequel vous alles si courageusement a la guerre, pour la
grandeur duquel vous ne refuses point de presenter à la mort vos personnes :
celui qui vous maistrise tant n’a que deux yeuls, n’a que deux mains, n’a qu’un
corps, et n’a autre chose que ce qu’a le moindre homme […]sinon que l’avantage
que vous luy faites pour vous destruire. d’ou a il pris tant d’yeuls dont il
vous espie, si vous ne les luy baillés ? comment a il tant de mains pour vous
frapper, s’il ne les prend de vous ? les pieds dont il foule vos cités, d’ou
les a il s’ils ne sont des vostres ? comment a il aucun pouvoir sur vous, que
par vous ? Comment vous oseroit il courir sus, s’ il n’avoit intelligence avec
vous? que vous pourroit il faire, si vous n’estiés receleurs du larron qui vous
pille, complices du meurtrier qui vous tue, et traistres à vous mesmes ? “
Tạm dịch: “ Người
mà các anh tôn vinh là vĩ đại, mà vì nó mà các anh đã can
đảm xông pha chiến trường, đã không từ
chối hiến thân các anh để làm cho nó thành vĩ
đại ; người mà làm chủ các anh như thế,
chỉ có hai mắt, chỉ có hai tay, chỉ có một thân
thể, chớ không có cái gì khác hơn người
thường […] ngoài cái lợi mà các anh đã ủy thác cho
nó để nó giết hại các anh. Nó lấy ở đâu
mắt để do thám các anh, nếu các anh không cho nó
mượn mắt của các anh ? Làm sao nó có
được bao nhiêu tay để đánh các anh, nếu
nó không mượn được tay của các anh ?
Những bàn chân đã chà đạp lên các thị xả
của các anh, nó lấy ở đâu ra nếu không phải
là chân của các anh ? Làm sao nó có được quyền hành
trên các anh, nếu không phải là do các anh cho ? Làm sao nó dám
đè lên các anh được nếu không có sự thông
đồng của các anh ? Nó làm gì được các anh
nếu các anh không phải là người chứa giấu
kẻ trộm đã cướp các anh, là người
đồng lõa với tên sát nhân đã giết chết các
anh, và là những người phản bội với chính
các anh ? ” (tài liệu: La Boétie, Discours de la servitude volontaire ou le
Contr’un, présenté par Nadia Gontarbert, Paris, 1993)
Làm cho người đọc phải
hiểu rằng theo tác-giả thì:
“Nước Việt Nam mà bây giờ bị Cộng
Sản đô hộ là vì dân Việt Nam đã
tự-nguyện làm nô-lệ”.
Phê bình và Nhận xét chung
1- Đây là một quyển sách
viết thật tỉ mỉ, rất có giá trị lịch
sử, nói về những cuộc tranh đấu của
dân VN chống sự đô hộ của Pháp từ năm
1920 đến năm 1945, mà tác giả là một nhà cách
mạng đã trực tiếp tham gia ít nữa vào một
vài cuộc tranh đấu nói trên, cho nên lối trình bày, cách
phân tách hay là lời phê bình mỗi sự việc
được kể lại, có khác với lối trình bày
phân tách hay phê bình của các sử-gia hàn-lâm (academic) mà chúng
ta thường đọc, và lại theo cái nhìn của
một nhà cách mạng trốtkít., cho nên nhờ vậy mà
chúng ta có thể hiểu thêm vấn đề hoặc
thấy thêm một khía cạnh khác của vấn
đề.
2-Đây là lần đầu tiên tôi
được đọc một sách kể lại
đầy đủ những cuộc đấu tranh và
khởi nghĩa trong Nam, với những chi tiết về
thời giờ sự việc đã xẫy ra, và tên
tuổi của những người đã tham gia, mà
chỉ có những người “có ở trong cuộc”
mới biết được, làm cho người
đọc có khi có cãm tưởng như là đọc
một đoạn hồi ký.
Thêm: Sau năm
phần với 22 chương
nói trên, sách có phần Notes
(tr. 383-405) là một loại Thư
mục dài, kê khai rõ ràng tên và trang của sách hay là tên và
ngày của báo đã cho tài
liệu về mổi sự việc, mổi tên tuổi hay
là mổi ý-kiến được nhắc tới trong
từng chương một.Thật là một công trình
tĩ mĩ đòi hỏi rất nhiều công phu. Tổng
cộng là 215 tài-liệu.
Sau phần Notes còn có phần Annexes (tr.407-427) ghi lại
bốn việc là:
1-Báo cáo của Ô.Thanh Tra Chính Trị Vụ
về việc điều tra ngày 27,28 th.3-1928 ở
đồn-điền cao-su Mimot
(tr.407-415) ;
2-Tình Trạng Thợ Thuyền trong các
Mỏ Than ở Bắc-kỳ năm 1930 (tr.416-418) ;
3- Chủ-điền vá Tá-điền trong
những năm 30 (tr.419-425);
4-Côn-sơn dưới chế-độ
Decoux (tr.426-427).
NLV. th.7-2005.
No comments:
Post a Comment