Saturday, August 11, 2012

TRẦN TRUNG ĐẠO * TRUNG CỘNG


                                                        Trần Trung Đạo

Hiểm họa Trung Quốc và bài học Tiệp Khắc

Áo và Tiệp Khắc là hai quốc gia bị Đức cưỡng chiếm đầu tiên ngay cả trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ. Trong lúc Đức chiếm Áo không gây nhiều phản ứng vì Áo có nhiều liên hệ với Đức về lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa và chính bản thân Hitler vốn là người Áo, việc cưỡng chiếm Tiệp Khắc là một biến cố lớn vì Tiệp Khắc là một nước độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và được xem là một trong số mười cường quốc châu Âu thời đó.

Thủ đô Praha trong chiến tranh thế giới thứ 2. Ảnh Super stock
Suốt thời gian dài hơn sáu năm dưới ách thống trị của Đức Quốc Xã, nhân dân Tiệp đã chịu đựng vô số thương vong, thiệt hại. Hàng trăm ngàn người bị giết và hàng trăm ngàn người khác bị đày ải trong các trại tập trung. Thế nhưng phải chăng ngày đó Tiệp Khắc yếu đến mức không bắn được phát súng nào?
Không. Trước Thế chiến thứ hai, thừa hưởng các thành tựu kỹ thuật của thời đế quốc Áo Hung, Tiệp Khắc là một trong sốt ít quốc gia có một quân đội đông đảo nhất và được trang bị tối tân nhất châu Âu. Việc Tiệp Khắc rơi vào tay Đức nhẹ nhàng như chiếc lá mùa thu phát xuất từ ba lý do chính. Hai lý do khách quan:
(1) Bành trướng về hướng đông là chủ trương truyền thống của Đức,
(2) Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các lãnh đạo chủ hòa châu Âu đứng đầu là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain, và một lý do chủ quan:
(3) Tiệp Khắc là một quốc gia ô hợp, phân hóa, suy yếu, có nhiều chính khách làm tôi mọi cho ngoại bang và giới lãnh đạo chính phủ không có quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước.
Bành trướng về hướng đông là chủ trương truyền thống của Đức.
Sau giai đoạn cách mạng 1848, Đức trở thành cường quốc. Sức mạnh của Đức thể hiện không chỉ trong các lãnh vực kinh tế, quân sự, dân số mà cả khoa học. Tổng số giải Nobel các khoa học gia Đức được tặng thưởng trong giai đoạn 47 năm tồn tại nhiều hơn tổng số giải Nobel của các khoa học gia Anh, Pháp, Nga và Mỹ cộng lại. Năm 1871, Đế Quốc Đức bao gồm 27 khu vực, dưới sự lãnh đạo của Otto von Bismarck đã vượt qua đế quốc Anh. Giống như mọi đế quốc khác trong lịch sử, để tiếp tục lớn mạnh cần phải có tài nguyên thiên nhiên.
Đức là quốc gia nằm ngay giữa châu Âu và về mặt địa lý chính trị, suốt nhiều thế kỷ, các chế độ quân chủ Đức cũng chủ trương các quốc gia phía Đông trong đó có Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungary là hàng rào an ninh của Đức để đương đầu với hai nước lớn khác là Pháp và Nga.
Sau khi sáp nhập Áo vào tháng Ba năm 1938 không cần dùng đến võ lực, Hitler tập trung vào chiến lược chiếm Tiệp Khắc bất chấp sự chống đối của nhiều tướng lãnh cao cấp trong đó có tướng Ludwig Beck, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội Đức. Bản thân của Hitler cũng đánh giá Tiệp rất cao nên không dám công khai đưa quân vượt biên giới xâm lăng quốc gia này. Vì vùng Sudetenland có đông dân Đức và có nguồn dự trữ nguyên liệu lớn nhất của Tiệp Khắc, Hitler nghĩ đến việc chiếm vùng Sudetenland trước và dùng khu vực giàu có này làm bàn đạp thôn tính toàn bộ Tiệp Khắc.
Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các các lãnh đạo Anh, Pháp đứng đầu là Thủ tướng Nevill Chamberlain đã “khuyến khích” Đức chiếm Tiệp Khắc.
Sau Thế chiến thứ nhất, dù thắng hay bại, các quốc gia đều phải chịu đựng một thời kỳ suy thoái kinh tế trầm trọng. Khuynh hướng chủ hòa chế ngự trong sinh hoạt chính trị tại các cường quốc dân chủ và lãnh tụ hàng đầu của khuynh hướng này là thủ tướng Anh, Nevill Chamberlain. Thủ tướng Nevill Chamberlain tìm cách hòa giải mối thù địch với Đức. Khi Đức sáp nhập Áo, Chamberlain không có phản ứng cụ thể nào.
Khi Hitler công khai bày tỏ ý định sáp nhập vùng Sudetenlan của Tiệp Khắc đang có hơn ba triệu người gốc Đức, vào lãnh thổ Đức, vấn đề trở nên phức tạp vì Tiệp Khắc có liên minh quân sự với Pháp và Pháp có liên minh quân sự với Anh. Thủ tướng Anh Nevill Chamberlain qua trung gian của Sir Horace Wilson chuẩn bị đàm phán với Đức và qua trung gian của Lord Runciman thuyết phục Tiệp Khắc nhượng bộ. Trong lúc Hitler thông đồng với các nước nhỏ như Hungary và Ba Lan để xẻ thịt Tiệp, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt tuyên bố chủ trương trung lập của Mỹ về tranh chấp Sudetenland.
Ngày 15 tháng Chín năm 1938, Thủ tướng Nevill Chamberlain bay sang Đức để thương thuyết với Hitler. Các cuộc thương thuyết giằng co cho đến sáng sớm 30 tháng 9 năm 1939, thỏa hiệp Munich được ký kết giữa Đức, Anh, Pháp và Ý, trong đó, cho phép Đức sáp nhập vùng Sudetenland trù phú và chiến lược vào lãnh thổ Đức.
Tiệp Khắc không được mời tham dự hội nghị và chỉ được Anh Pháp thông báo kết quả. Chính phủ Tiệp nghĩ rằng Tiệp Khắc không có hy vọng gì thắng được Đức bằng sức mạnh của riêng mình, đã đồng ý với nội dung của thỏa hiệp Munich. Theo thỏa hiệp này, tướng Đức Wilhelm Keitel được cử vào chức thống đốc quân sự vùng Sudetenland. Những người dân Tiệp không phải gốc Đức phải rời Sudetenland trong vòng 10 ngày và không được mang theo bất cứ một món sở hữu nào. Câu Phản bội Tiệp Khắc để chỉ sự phản bội của đồng minh đối với Tiệp ra đời từ đó.

Mất Sudetenland, Tiệp Khắc không chỉ bỏ trống biên giới chiến lược phía nam mà còn mất 70% dự trữ sắt thép, 70% điện và 3 triệu công dân Tiệp. Trong lúc hiệp ước Munich là một thành quả ngoại giao lớn của Nevill Chamberlain, đối với Hitler lại là một bước lùi. Mục tiêu của Hitler không phải chỉ chiếm vùng Sudetenland mà cả nước Tiệp như Wilson Churchill tiên đoán. Đầu năm sau, Hitler lần lượt chiếm các vùng Bohemia, Moravia và phần còn lại của Tiệp Khắc.

Cả hai lý do trên không thể làm Tiệp Khắc mất một cách nhanh chóng nhưng chính sâu mọt và phản bội ngay trong lòng nước Tiệp và một chính phủ phân hóa, yếu kém, thiếu quyết tâm mới là những lý do chính làm tan rã Tiệp Khắc.
Rất nhiều sâu mọt trong nội bộ Tiệp và đứng đầu là Konrad Henlein lãnh đạo của đảng Sudeten gốc Đức.
Konrad Henlein một thầy giáo bậc trung học, lúc đó đang hoạt động dưới danh nghĩa đảng Sudeten quy tụ đa số dân Tiệp gốc Đức. Konrad Henlein sinh tại Bohemia, Tiệp Khắc có cha là người Đức và mẹ là người Czech. Đảng Sudeten của Konrad Henlein thông đồng với đảng Quốc Xã Đức và được đảng này tài trợ và huấn luyện. Mỗi tháng đảng Sudeten nhận 15 ngàn Đức Mã để trang trải các chi phí hoạt động. Ngày 28 tháng Ba năm 1938, Hiter gọi Konrad Henlein sang Đức và đích thân ra chỉ thị cho tên Tiệp gian này phải đưa ra những điều kiện mà Tiệp Khắc không thể thỏa mãn được. Mặc khác, Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên truyền của Đức Quốc Xã, tung một chiến dịch tuyên truyền ồ ạt về việc chính phủ Tiệp bạc đãi, đàn áp dân gốc Đức trong vùng Sudetenlan và xúi dục người dân Tiệp gốc Đức đứng lên đòi quyền tự trị.
Về lại Tiệp, Tiệp gian Konrad Henlein đòi chính phủ Tiệp phải để vùng Sudetenlan hoàn toàn tự trị, thay đổi chính sách đối ngoại của chính phủ Tiệp và toàn quyền phổ biến lý thuyết Quốc Xã. Dĩ nhiên, đòi hỏi tự trị còn có thể đàm phán được nhưng việc tự do tuyên truyền tư tưởng Quốc Xã khó có thể chấp nhận. Khi đàm phán bắt đầu, Tiệp gian Konrad Henlein và đảng của y lại tạo nhiều xáo trộn bạo động trong vùng và tiếp tục làm khó dễ chính phủ trung ương cho đến khi hiệp ước Munich được ký kết. Ngày 1 tháng Mười năm 1938, các đơn vị tiền phương của quân đội Đức vượt qua biên giới Tiệp giữa tiếng hò reo ủng hộ của các đảng viên đảng Sudeten, và cũng trong lúc đó hàng chục sư đoàn Tiệp được trang bị đầy đủ được chính phủ ra lịnh rút lui. Phía sau đoàn quân Đức là các đơn vị mật vụ Gestapo và lực lượng anh ninh SS. Chỉ trong thời gian ngắn 10 ngàn người dân Tiệp, kể cả dân nói tiếng Đức nhưng chống Hitler, bị đày vào các trại tập trung vừa mới xây ở Sudetenland.
Konrad Henlein gia nhập lực lượng an ninh Đức và tham gia vào đảng Quốc Xã. Mặc dù sinh ra, lớn lên trên đất Tiệp, Konrad Henlein đã góp phần quan trọng trong việc rước voi Đức giày lên Tiệp Khắc. Y được thưởng nhiều chức vụ và được cho phép làm công dân Đức. Sau khi Tiệp Khắc được đồng minh giải phóng, tên Tiệp gian phản quốc Konrad Henlein bị bắt và y đã tự sát bằng cách cắt gân máu ở cổ tay.
Kẻ phản bội thứ hai là tổng thống bù nhìn Emil Hacha. Sau khi Edvard Benes, tổng thống thứ hai của Tiệp Khắc từ chức, tân tổng thống Emil Hacha là một người nhu nhược. Buổi tối ngày 11 tháng Ba năm 1939, Hitler cho triệu Hacha đến Bá Linh và thông báo cho ý định chiếm toàn bộ Tiệp Khắc bằng võ lực và hứa nếu Hacha chịu hợp tác, Tiệp Khắc sẽ được hưởng quyền tự trị rộng rãi còn nếu nghịch sẽ bị đoàn quân Hitler tấn công Tiệp bằng mọi phương tiện trong đó có cả việc không quân của Đức cày nát thủ đô Prague. Emil Hacha quy thuận Hitler. Dưới thời Đức Quốc Xã chiếm đóng y được giữ chức vụ tổng thống bù nhìn nhưng buộc phải tuyên thệ trung thành trước Hitler. Mặc dù có nhiều tài liệu cho thấy Emil Hacha trong thời gian phục vụ Hitler cũng lén lút giúp cho phong trào kháng chiến chống Đức thuộc chính phủ lưu vong của Edvard Benes nhưng công không đủ để chuộc tội cho y. Sau khi Prague được giải phóng vào tháng Năm năm 1945, Emil Hacha bị bắt và chết hơn hai tháng sau đó trong hoàn cảnh bí mật. Y được chôn trong một ngôi mộ không đề bia tại nghĩa trang Vinohrady. Hiện nay, tại nghĩa trang Vinohrady có một tấm bảng ghi dấu nơi chôn của Emil Hacha.
Jozef Tiso là một kẻ phản quốc đội lốt tôn giáo. Mặc dù thụ phong linh mục nhưng y cũng là một trong những đảng viên nòng cốt của đảng Nhân Dân Slovak. Lợi dụng sự suy yếu của Tiệp Khắc sau hiệp ước Munich, đảng Nhân Dân Slovak do Tiso lãnh đạo tuyên bố Slovak tự trị trong vòng Tiệp Khắc. Vào 13 tháng Ba năm 1939, giống như vừa đe dọa Emil Hacha vài hôm trước đó, Hitler triệu Jozef Tiso đến Bá Linh và buộc y phải tuyên bố Slovak độc lập, tách rời khỏi Tiệp Khắc, nếu không Hitler sẽ thúc giục Hungary và Ba Lan chiếm đóng phần lãnh thổ còn lại của Slovakia. Jozef Tiso cũng tuân phục Hitler và trở nên một cộng tác viên trung thành cho chế độ Quốc Xã. Từ năm 1939 đến năm 1945, Tiso là tổng thống bù nhìn Slovakia chư hầu của Đức. Đảng Nhân Dân Slovak do y lãnh đạo liên kết chặt chẽ với đảng Quốc Xã Đức và chia sẻ quan điểm diệt Do Thái. Khi hồng quân Liên Xô tiến vào chiếm Slovakia tháng Tư năm 1945, Tiso bị bắt và bị kết án phản quốc. Jozef Tiso bị treo cổ ngày 18 tháng Tư năm 1947. Chính phủ Tiệp Khắc chôn y tại một nơi bí mật.
Chính phủ Tiệp Khắc nhu nhược không quyết tâm bảo vệ đất nước. Phân hóa và thiển cận trong thành phần lãnh đạo của hai sắc dân Slovak và Czecho trong chính phủ Tiệp đã làm thượng tầng kiến trúc lãnh đạo sụp đổ nhanh chóng.
Tiệp Khắc trong giai đoạn năm 1938-1939 đứng trước những khó khăn và áp lực quá lớn không những từ quốc tế mà ngay cả tại trong nội bộ Tiệp, nhưng thay vì đoàn kết để đương đầu với ngoại xâm, các sắc dân Tiệp đã phân hóa, chia rẽ và tiếp tay làm yếu khả năng đối đầu với Đức.
Xét về tương quan quân sự. Theo tổng kết của Giáo sư Sử học Carroll Quigley, đại học Georgetown dựa theo các tài liệu thuộc văn khố quân sự Mỹ sau Thế chiến thứ hai, trong giai đoạn đầu thù địch Đức Tiệp bùng nổ, Đức có 36 sư đoàn nhưng không được trang bị đầy đủ trong lúc Tiệp Khắc có 35 sư đoàn thiện chiến và được trang bị một trăm phần trăm hỏa lực. Vào tuần lễ thứ ba của tháng Chín năm 1939, quân đội Tiệp Khắc đã có một triệu quân với 34 sư đoàn tinh nhuệ trong lúc toàn bộ quân Đức để phối trí tại hành lang châu Âu chỉ có từ khoảng 31 đến 36 sư đoàn. Về không quân, vào tháng Chín năm 1938, Đức trội hơn Tiệp Khắc chút ít. Đức có 1500 máy bay trong lúc Tiệp có gần 1000 chiếc nhưng nếu tính cả Anh, Pháp số lượng phi cơ của ba nước cộng lại vượt xa Đức. Liên Xô ủng hộ Tiệp nên cũng gởi 36 phi cơ chiến đấu đến Tiệp qua ngã Rumania. Về chiến xa, tăng của Đức còn yếu hơn tăng của Tiệp Khắc. Ngoại trừ loại tăng thuộc thế hệ Mark III có trang bị pháo 37 li, phần lớn tăng thế hệ Mark II của Đức chỉ trang bị đại liên. Tiệp Khắc có mấy trăm xe tăng hạng nặng 38 tấn trang bị pháo 75 li hiện đại nhất thời đó.
Nếu đánh nhau với Đức trong một cuộc chiến tranh quy ước, chưa chắc Tiệp đã thua. Mà dù có thua, Tiệp Khắc cũng kéo dài cuộc chiến được một hai năm đủ thời gian cho quốc tế can thiệp hay tìm cách lôi kéo các nước châu Âu vào ván cờ sinh tử. Khi tràn ngập Tiệp Khắc vào tháng Ba năm 1939, Đức tịch thu của Tiệp 469 xe tăng, 1500 phi cơ chiến đấu đủ loại, 43 ngàn súng máy và nhiều triệu súng trường. Số lượng vũ khí đó Đức đã phải tốn hàng năm mới sản xuất được.
Tiệp Khắc, một quốc gia có điều kiện kỹ thuật tiên tiến nhất châu Âu và từng là một phần của đế quốc Áo Hung hùng mạnh đã bị Hitler xóa tên khỏi bản đồ thế giới không tốn một viên đạn. Với một quân lực cả triệu người và phương tiện đầy đủ nhưng chỉ vì sự yếu hèn của cấp lãnh đạo, Tiệp Khắc trở thành đỉa thịt bò tươi trong bữa cơm chiều của nhiều khách lạ.
Sau khi Tiệp bị Hitler cưỡng chiếm, hàng ngàn người dân Tiệp yêu nước phải tự phát rút vào chiến tranh du kích chỉ bằng vài tạc đạn và vài khẩu súng ngắn. Nguồn tiếp tế quá xa và kho súng đạn khổng lồ đã bị tịch thu, họ đã phải chiến đấu trong điều kiện hết sức khó khăn. Hàng trăm ngàn người Tiệp đã chết dưới bàn tay sắt của tử thần SS Reinhard Heydrich. Tướng SS Reinhard Heydrich, cai trị Bohemia và Moravia (vùng đất Tiệp sau khi sáp nhập vào Đức) được các sử gia đánh giá là tên tướng độc ác nhất trong hàng tướng lãnh công an mật vụ SS Đức. Y là một trong những kiến trúc sư của kế hoạch tiêu diệt dân Do Thái Holocaust. Hitler ca ngợi Heydrich là “con người có trái tim bằng sắt”. Y bị kháng chiến quân Tiệp ám sát tại Prague vào cuối tháng Năm năm 1942. Đức trả thù tàn bạo. Hai làng Lidice và Lezaky, tình nghi che giấu kháng chiến quân, bị đốt thành tro, tất cả đàn ông đều bị bắn chết, chỉ còn một ít phụ nữ và trẻ em bị đày vào các trại tập trung.

Sự chịu đựng của nhân dân Tiệp đã để lại nhiều bài học cho Việt Nam khi đương đầu với chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc.
Tương tự như Đức Quốc Xã đối với Tiệp Khắc, Trung Quốc chủ trương bành trướng xuống vùng Đông Á
Như đã trình bày trong bài “Hiểm họa Trung Quốc và bài học Thổ Nhĩ Kỳ”, vì các lý do an ninh, chính trị, kinh tế, Trung Quốc phải tìm mọi cách khống chế biển Đông. Hai nỗi lo lớn của giới lãnh đạo CS Trung Quốc là sợ bị bao vây từ bên ngoài và diễn biến hòa bình bên trong nội bộ Trung Quốc. Nhìn quanh, họ chỉ thấy kẻ thù. Thật vậy, hầu hết các quốc gia dân chủ trong vùng từ Ấn Độ đến Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn, Thái Lan, tuy mức độ khác nhau nhưng đều là các quốc gia đang có những mâu thuẫn căn bản với Trung Quốc, không những về quyền lợi kinh tế mà cả chế độ chính trị. Sự lệ thuộc về chính trị của Việt Nam vào Trung Quốc không chỉ giúp giữ an toàn phòng tuyến phía nam mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường hợp cách mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Tuy nhiên, khác với Đức Quốc Xã, Trung Quốc không dám tung một cuộc tấn công toàn lực như Hitler chuẩn bị cho Tiệp mà chủ trương gậm nhấm từng phần đất, từng ngọn núi và từng hải lý của Việt Nam.
Nắm được yếu điểm của CSVN, trong lúc tiếp tục phát triển kinh tế, mở rộng ngoại giao với hầu hết các quốc gia từ năm 1978, Đặng Tiểu Bình vẫn tiếp tục phát động chiến tranh xoi mòn biên giới Việt Nam như trận Cao Bằng năm 1980, Lạng Sơn và Hà Tuyên năm 1981, Vị Xuyên Hà Tuyên năm 1984, Lão Sơn Hà Giang năm 1984, Vị Xuyên lần nữa vào năm 1985 và năm 1986. Trên mặt biển Trung Quốc tiếp tục xâm phạm chủ quyền Việt Nam, bắn thủng ghe tàu, thành lập thành phố Tam Sa, đưa hàng ngàn tàu đánh cá ra khơi, tàn sát ngư dân Việt Nam.
Lãnh đạo CS Trung Quốc biết những hành động lấn ép đó không đủ mạnh, đủ lớn để làm quốc tế lưu tâm. Không một Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc nào rảnh rỗi để bàn chuyện vài chiếc ghe đánh cá của ngư dân Việt Nam bị “tàu lạ” húc ngoài Quảng Ngãi hay đặt vấn đề tại sao các tàu đánh cá Trung Quốc cứ tiếp tục thả lưới trong vùng biển Việt Nam. Những sự kiện ghe tàu đó đối với các cường quốc là chuyện vặt nhưng với một nước nhỏ như Việt Nam nơi có nhiều triệu dân gắn liền với ngư nghiệp lại là chuyện lớn. Đặc tính hèn hạ, nhỏ mọn đó của Trung Quốc là sản phẩm của chế độ độc tài CS và đừng ai hy vọng gì các đặc tính đó thay đổi một khi chế độ sinh ra chúng còn tồn tại.
Đàm phán với Trung Quốc ư? Đàm phán đa phương quốc tế Trung Quốc không tham dự nhưng đàm phán song phương là rơi vào chiếc bẫy của Trung Quốc. Nếu ai theo dõi chuyện Trung Quốc và Liên Xô tranh cãi nhau về chủ quyền của các đảo Trân Bảo, Ẩn Long và Hắc Hạt Tử trong khu vực sông Ussuri sẽ thấy. Các phiên họp tranh cãi chủ quyền kéo dài tới 20 năm, từ thập niên 1970 cho đến 1990 nhưng không đem lại kết quả nào. Mỗi lần có một cuộc họp giữa hai nước, phái đoàn Trung Quốc chở theo một toa xe lửa chứa đầy tài liệu và đồ vật để chứng minh chủ quyền Trung Quốc trên các đảo này. Trung Quốc biết dù chở cả xe bằng chứng cũng chưa hẳn thuyết phục được Liên Xô nhưng chỉ muốn kéo dài thời gian đàm phán để chờ đợi thời cơ.
Tương tự như Hitler, lãnh đạo CS Trung Quốc lợi dụng chính sách ngoại giao mềm của Mỹ
Trong bài viết Tranh chấp Mỹ – Trung, một cảnh giác cho lòng yêu nước tôi có dịp trình bày chính sách Mỹ hiện nay là sự bước tiếp nối của chính sách ngăn chận thời Chiến tranh lạnh trong điều kiện toàn cầu hóa. Nhiều người Việt lầm lẫn nghĩ rằng hàng không mẫu hạm George Washington hùng mạnh thả neo ngoài khơi Đà Nẵng là để bảo vệ Việt Nam. Thật ra, cả Trung Quốc và Mỹ đều biết dù áp dụng chính sách nào hay dù có thái độ nào, xung đột võ trang giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới có phụ thuộc quá sâu, quá phức tạp về kinh tế không thể xảy ra trong một giai đoạn ngắn tới đây.
Về phía Trung Quốc, không giống Đức Quốc Xã cần chiến tranh để phục hồi và phát triển, Trung Quốc phải đương đầu với hàng loạt khó khăn trên trong cũng như bên ngoài, việc phát động một cuộc chiến tranh quy mô ở Á châu và Thái Bình Dương như Hitler đã làm với Tiệp Khắc là một điều giới lãnh đạo CS Trung Quốc không dám thực hiện. Hơn ai hết, giới lãnh đạo CS Trung Quốc biết họ phải cần nhiều chục năm kỹ thuật và một ngân sách hải quân khổng lồ mới mong đuổi kịp Mỹ. Ngoài ra, chủ nghĩa Cộng Sản đã chết, Trung Quốc hiện đang sống nhờ vào chủ nghĩa dân tộc cực đoan và Thế chiến thứ nhất 1914-1918 dẫn đến tự sụp đổ của Đế Quốc Đức, Đế Quốc Áo Hung, Đế Quốc Ottoman đã dạy họ một bài học: Các đế quốc gây chiến trên nền tảng của chủ nghĩa dân tộc cực đoan chẳng những không thắng mà đều tan rã từ bên trong.
Về phía Mỹ, ngoài các lý do kinh tế, riêng trong lãnh vực quân sự cũng không phải dễ dàng. Chính phủ Mỹ trong lúc muốn duy trì ảnh hưởng trong vùng, cũng không muốn bị cuốn vào các xung đột mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc đối đầu với chủ nghĩa dân tộc như trường hợp Trung Quốc và Việt Nam. Tháng Giêng 2011, Tổng thống Barack Obama trải thảm đỏ tiếp đón Chủ tịch Trung Cộng Hồ Cẩm Đào như quốc khách với 21 phát đại bác chào mừng. Trong buổi tiếp tân, TT Obama ca ngợi “sự hợp tác tốt đẹp giữa hai nước”. Khi trả lời buổi phỏng vấn dành cho tờ Wall Street Journal, Hồ Cẩm Đào công nhận sự quan trọng trong quan hệ tốt giữa Trung Quốc và Hòa Kỳ. Họ Hồ cũng nhấn mạnh đến việc hai quốc gia phải “hành động phù hợp với quyền lợi căn bản của nhân dân hai nước, và tôn trọng quyền lợi chung của hòa bình và phát triển thế giới”.
Dân biểu Ileana Ros-Lehtinen, thuộc đảng Cộng Hòa, Chủ tịch Ủy ban Ngoại Giao Hạ Viện trong một văn bản công bố cho báo chí sau đó, đã nghiêm khắc phê bình Trung Quốc không xứng đáng là một cường quốc vì nhiều lý do và một trong những lý do, Trung Quốc đã ngang nhiên xem Biển Đông như là “quyền lợi chính” và xem thường quyền hàng hải và lãnh thổ của các quốc gia vùng Đông Nam Á. Các lãnh đạo Cộng Hòa cũng tố cáo TT Obama đã thực thi chính sách “Nhân nhượng” của Nevill Chamberlain để đối phó với Trung Quốc. Dĩ nhiên, TT Barack Obama phủ nhận những lời kết án này.

Tương tự như Đức Quốc Xã đối với Tiệp Khắc, Trung Quốc nắm chắc các thành phần lãnh đạo cam thân làm nô bộc cho ngoại bang và không quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước.
Trung Quốc biết rất rõ tham vọng cố bám vào chiếc ghế quyền lực của giới lãnh đạo CSVN. Chủ trương “hợp tác hổ tương bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các quốc gia” của lãnh đạo CSVN chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền che đậy sự sợ hãi trước đàn anh CS Trung Quốc. Ngay cả các cường quốc Anh, Nhật, Pháp cũng không chủ trương như vậy đừng nói chi là những nước mang số phận sân sau như Việt Nam. Các nước nhỏ như Phần Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Đài Loan, Nam Hàn vượt qua được những nhược điểm khách quan và chủ quan của đất nước họ bởi vì họ biết cách vận dụng chính sách đối ngoại của các cường quốc để phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Không chỉ Thổ Nhỉ Kỳ cần Anh Quốc mà Anh Quốc cũng cần Thổ Nhĩ Kỳ và tương tự không chỉ Đài Loan cần Mỹ nhưng Mỹ cũng cần Đài Loan.

Quan hệ Trung Quốc và Việt Nam không giống như quan hệ giữa Mỹ và Philippine hay Mỹ và Nam Hàn. Giới lãnh đạo CSVN không có vị trí độc lập về chính sách đối ngoại. Mọi chính sách trước khi đưa ra đều phải đo lường phản ứng từ phía Trung Quốc. CS Trung Quốc và CS Việt Nam chia sẻ nhau một lịch sử lâu dài từ ngày đảng Cộng sản hai nước được thành lập. Hai đảng gắn bó về cả vật chất lẫn tinh thần. Câu nói của Mao “Nhiệm vụ trung tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là nắm lấy quyền lực thông qua đấu tranh võ trang và giải quyết vấn đề bằng chiến tranh” là tư tưởng chỉ đạo của đảng CSVN trong khi vạch định đường lối suốt hai cuộc chiến. Năm 1950, Trung Quốc là nước đầu tiên công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cả hai nước đã thừa nhận sự đóng góp của và người của Trung Quốc vào mục đích thiết lập chế độ Cộng sản tại Việt Nam. Nợ máu xương chồng chất. Tuy không dính dáng gì đến dân tộc Việt Nam nhưng nhân dân Việt Nam đã và đang phải trả bằng máu của bao nhiêu thế hệ từ trước năm 1975 cho đến nay và chưa biết ngày nào mới trả hết.
Bài học từ chủ nghĩa dân tộc cực đoan
Bài học lớn nhất mà nhân loại học được từ Thế chiến thứ hai là sự thụ động, tiêu cực của con người trước hiểm họa của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Những kẻ chịu trách nhiệm cho cái chết của 70 triệu người không chỉ là Adolf Hitler, Benito Mussolini và Kideki Tojo nhưng còn là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain và Tổng thống Pháp Édouard Daladier. Chính người dân Đức đã bỏ phiếu cho Hitler và người dân Anh đã nhảy nhót vui mừng khi lãnh thổ Tiệp rơi vào tay của Đức. Trong một thời gian ngắn trước Thế chiến thứ hai, không chỉ Đức thôi mà cả nước yếu kém hơn Tiệp như Ba Lan, Hungary cũng dự phần vào bữa tiệc nấu bằng thịt xương Tiệp Khắc. Thế chiến thứ hai có thể đã không xảy ra hay xảy ra với mức độ tác hại thấp hơn nếu số lớn nhân loại ngày đó không thỏa hiệp, không đồng lõa với cái ác.
Từ đó để thấy, việc ngăn chận chủ nghĩa dân tộc cực đoan Trung Quốc ngày nay phải là trách nhiệm hàng đầu của nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý bởi vì lịch sử chứng minh chủ nghĩa dân tộc cực đoan dẫn đến chiến tranh ngay cả trong trường hợp các kẻ chủ trương cực đoan không muốn. Chưa từng có một trường hợp nào ngược lại. Giới lãnh đạo CS Trung Quốc là những người nhúm lên ngọn lửa dân tộc cực đoan nhưng lửa cháy mạnh hay yếu tùy thuộc vào nhiều yếu tố có khi không nằm trong vòng kiểm soát của họ.
Các chủ trương đồng hóa và diệt chủng các dân tộc yếu thế là phó sản của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Từ giai đoạn sau cách mạng Pháp 1789 đến Thế chiến thứ nhất rồi Thế chiến thứ hai cho tới các cuộc chiến đẫm máu vùng Balkans giữa các nước thuộc liên bang Nam Tư cũ, máu nhân loại đã đổ liên tục vì chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Sau cực tả là cực hữu, bản đồ thế giới chưa bao giờ thay đổi nhanh chóng như trong vòng một phần tư thế kỷ vừa qua.
Các nhà phân tích thường dựa vào hậu quả hơn là tìm hiểu nguyên nhân nên không lấy làm lạ ít người so sánh Hitler với Đặng Tiểu Bình. Đa số vẫn đánh giá họ Đặng như một nhà lành đạo CS tiến bộ, mở cửa hiện đại hóa, làm dịu căng thẳng giữa hai khối. Tuy nhiên, quan điểm của Hitler và Đặng Tiểu Bình có nhiều điểm giống nhau hơn cả giữa Hitler và Stalin, Hitler và Mussolini hay Hilter và Mao bởi vì cả hai đã dùng chủ nghĩa dân tộc như một phương tiện để kích thích “niềm kiêu hãnh quốc gia”, vẽ lên trong nhận thức con người về “một loại đất nước huy hoàng tưởng tượng”, làm gia tăng nhất thời sức mạnh kinh tế và tạo áp lực thường xuyên trên các nước yếu hơn trong vùng.
Nhân loại nguyền rủa Hitler, kết án Mao và phỉ nhổ Stalin, tuy nhiên, nếu chiến tranh bùng nổ tại Á Châu, với dân số 1.3 tỉ người mà bầu nhiệt huyết được đun sôi bằng ngọn lửa hận thù, hậu quả của chủ nghĩa dân tộc cực đoan Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình nhóm lên từ năm 1978 sẽ khủng khiếp đến dường nào. Giữa Hitler và Đặng Tiểu Bình ai tàn ác hơn ai, chưa biết được.
Có hy vọng nào cho dân tộc Việt Nam?
Nhìn lại Việt Nam, chưa bao giờ dân tộc lại phải chịu đựng sự phân hóa, chia rẽ trầm trọng như hôm nay. Một người Việt quan tâm đến tiền đồ dân tộc nào cũng đau lòng nhận ra điều đó. Tuy nhiên, dù có thể còn khác nhau trong cách trả lời, chúng ta không thể không đồng ý rằng, để cứu đất nước, trước hết phải tháo gỡ chiếc gông độc tài chuyên chính ra khỏi cổ người dân và trả lại cho họ những quyền bẩm sinh mà ai cũng có, đó là quyền làm người, quyền quyết định sinh mệnh của chính mình và của dân tộc mình. Bởi vì, chỉ có một Việt Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ, tự chủ, cường thịnh mới mong thắng được chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc.
© Trần Trung Đạo
 11/08/12 | Tác giả: Lê Diễn Đức

Giải pháp tối ưu cho Việt Nam hiện nay trước Trung Quốc: Xoá bỏ hệ thống chính trị đương thời. Nhưng bằng cách nào?


Xuống đường trên Quảng trường Tahrir (Ai Cập) lật đổ chế độ độc tài Mubarak, tháng 1/2011 - Foto: OnTheNet

Trên Facebook khi một bạn đọc lập luận rằng nếu không có Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) thì VN làm sao thống nhất đất nước, thoát khỏi nô lệ Pháp, Mỹ và có ngày nay, tôi đã phản ứng bằng hình tượng hoá ĐCSVN trong một câu chuyện đơn giản:
Căn nhà của bạn bị cướp, một người đứng ra đuổi tên cướp đó, nhưng chỉ ít lâu sau, người này bỗng trở mặt, chiếm nhà bạn làm sở hữu riêng, cưỡng hiếp, đánh đập vợ con bạn tàn nhẫn hơn cả tên cướp ban đầu, rồi còn kéo cả đồng đảng đến chiếm ao vườn nhà bạn, bức hiếp gia đình bạn thêm, liệu bạn sẽ ôm mãi ơn huệ với tên cướp/”ân nhân” ấy?
Câu chuyện trên tương tự với dân tộc Ba Lan thoát khỏi ách phát xít Đức thì rơi vào ách cai trị của chế độ máu sắt khác, đó là hệ thống độc tài toàn trị do Liên Xô đứng đầu mà cuối cùng họ phải vùng lên xoá bỏ vào năm 1989.
Để thống nhất VN, thực hiện mục tiêu giành độc lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tức là nhuộm đỏ ý thức hệ CS trên cả nước, ĐCSVN đã phát động cuộc cách mạng bạo lực, làm 3 đến 5 triệu người chết, hàng triệu người tàn tật và bị thương trong một cuộc chiến gây tàn phá nhất của lịch sử VN.
Nghịch chướng trong cảnh phò Trung Quốc
Sau chiến tranh, ĐCSVN thực thi chính sách cải tạo công thương nghiệp, di dân tới vùng kinh tế mới và cải tạo giam giữ không xét xử hàng trăm ngàn quân, dân, cán chính của Việt Nam Cộng Hoà khiến hàng triệu người đã phải bỏ nước ra đi với hàng chục ngàn bị chết trên biển cả, đã làm những chia rẽ sâu sắc vốn có từ chiến tranh càng bị khoét sâu hơn, chưa biết bao giờ nguôi ngoai.
Tổn thất, tất nhiên, bất kỳ cuộc chiến tranh nào cũng có, nhưng tiến hành chiến tranh mà dân tộc phải trả giá quá đắt mà hậu quả lại tệ hại, thì ý nghĩa của nó cần phải được mổ xẻ.
L. Kolakowski, triết gia Ba Lan, một trong số ít triết gia Đông Âu giành được sự thừa nhận ở đỉnh cao tri thức ở châu Âu và thế giới nói:
Nhiều người đã chết với tên của Stalin trên môi, có nghĩa rằng họ đã chết với niềm tin rằng, Stalin là lãnh tụ vĩ đại dẫn dắt thế giới tới một ngày mai tốt đẹp hơn. Thế nhưng thật ngạc nhiên khi nói rằng, niềm tin vào sự trung thành đối với Stalin là sự thật để có thể vì nó mà chết“.
Điều này giống như hàng triệu người con của Việt Nam đã chết với khẩu hiệu trên môi “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước“, nhưng “sự thật” mà vì nó họ đã ngã xuống để có lãnh thổ thống nhất hôm nay ra sao?
Thiết nghĩ nên để những người gắn bó với chế độ, từng dấn thân quên mình vì chế độ, hiện sống trong nước, nhận định sẽ thuyết phục hơn:
- “Rõ ràng là nhân dân VN, dân tộc VN đã hi sinh biết bao xương máu để đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc nhưng nền độc lập, tự chủ đó đang bị nhà cầm quyền Bắc Kinh đe dọa nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực. Lũng đoạn về chính trị, kinh tế, gây hấn ở Biển Đông. Nhân dân VN trải qua biết bao hi sinh của các thế hệ để mong ước có một chế độ xã hội tốt đẹp hơn nhưng nay lại có nhiều điều còn tồi tệ hơn các chế độ cũ. Con thuyền VN đang bị lái chệch hướng vào con đường của thời kỳ chủ nghĩa tư bản nguyên thủy, tư bản man rợ chỉ biết đấu đá, giẫm đạp lên nhau mà sống bất kể những tiếng kêu thấu trời của quần chúng. Họ đã quên những mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội để biến cải đất nước ta thành một nước phát triển, văn minh, công bằng và tiến bộ xã hội, hòa nhập vào xu thế chung không thể đảo ngược hiện nay của thời đại. Họ đặt lợi ích của Đảng mà thực chất là lợi ích của cá nhân, của gia đình các nhóm lợi ích lên trên lợi ích của quần chúng, của xã hội, lên trên sự tồn vong của đất nước, của Tổ quốc” – Luật gia Lê Hiếu Đằng, cựu Phó chủ tịch Mặt trận Tổ quốc VN tại TPHCM.[1]
- “Nếu không có cuộc chiến tranh tương tàn giữa hai miền trước 1975 thì dân tộc này không có cái bất hạnh, đau khổ như ngày hôm nay. Bây giờ nhìn lại, con đường chúng tôi đã đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc” – Huỳnh Nhật Hải, cựu Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt kiêm Thành ủy viên.
- “Tôi còn nhớ trong lá đơn xin ra khỏi Đảng lúc đó tôi có viết một câu: “Tôi không tin ĐCSVN có thể lãnh đạo đưa đất nước đạt được những điều tốt đẹp như Đảng thường nói. Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để bảo đảm tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công sức đưa những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân bản tại miền Nam VN” – Huỳnh Nhật Tấn, cựu Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng.[2]
- “Đã sống qua thời VN còn chịu ách cai trị của phong kiến, ách đô hộ của thực dân, phát-xít, đã hoạt động hậu địch trong kháng chiến, đã xem phim ảnh, nghe kể lại hoặc trực tiếp chứng kiến hàng trăm, hàng ngàn vụ chính quyền “của dân, do dân, vì dân” cưỡng chế, thu hồi đất đai, nhà cửa, tài sản đối với người dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, song tôi chưa bao giờ thấy người dân bị đàn áp một cách man rợ đến như thế, với quy mô lớn như thế“. Bà Lê Hiền Đức, công dân chống tham nhũng và bảo vệ dân oan nổi tiếng, viết trong bài “Phản cách mạng rõ ràng“.[3]
Chúng ta có thể trích dẫn thêm rất nhiều nữa những nhận định của các nhà văn, nhà thơ, của các vị nhân sĩ, trí thức, hay của các vị lão thành cách mạng về sự trở mặt, sự phản bội và hệ thống chính trị thối nát vì tham nhũng của tập đoàn lãnh đạo CSVN, thời của cái Ác đè bẹp cái Thiện, “thời đểu cáng lên ngôi” tới tận cùng của sự lưu manh, côn đồ và hèn hạ. Thời mà người phụ nữ Việt Nam vì bị khủng bố tinh thần, bị chiếm nguồn sống, uất ức đến mức phải phản kháng bằng hình thức cởi truồng hay tự thiêu.
Một người VN bình thường cũng có thể đặt câu hỏi vì sao hơn 90% tổng thầu EPC các dự án quốc gia lớn quan trọng như khai thác bô-xít, xây dựng thủy điện, nhiệt điện, hoá chất, làm các tuyến đường huyết mạch và nhiều dự án xây dựng cơ bản khác đã dễ dàng lọt vào tay Trung Quốc? Tại sao tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN lại đưa nền kinh tế và an ninh của đất nước lâm vào thế lệ thuộc lâu dài vào Trung Quốc?
Trung Quốc đã và đang xâm thực VN bằng mọi cách nham hiểm nhất với sự tiếp tay thầm lặng của tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN. Người Hoa được quyền quản lý và sử dụng gần 300 ngàn hécta rừng đầu nguồn tới 50 năm. Theo thống kê năm 2009 của Tổng cục 3, Bộ Công an, thì có ít nhất 35 ngàn lao động Trung Quốc tại VN, chưa kể số nhập cư trái phép, giả vờ đi du lịch rồi tìm cách gia hạn ở lại VN làm việc. 20 tỷ đôla hàng hoá từ Trung Quốc (năm 2011) trong đó nhiều mặt hàng phẩm chất kém và độc hại không thể kiểm soát tràn ngập thị trường VN. Vì sao lực lượng quản lý an ninh VN không kiểm soát được trong khi họ có dư lực lượng chìm nổi khổng lồ trên khắp ba miền theo dõi sát mỗi bước chân của từng người tham gia biểu tình yêu nước?
Tình trạng phò Trung Quốc không phải diễn ra gần đây mà có hệ thống, bắt đầu từ hội nghị Thành Đô năm 1990 sau khi hệ thống cộng sản tại châu Âu sụp đổ, buộc tập đoàn lãnh đạo CSVN phải bám vào Trung Quốc trên thế yếu.
- Tờ Hà Nội Mới, cơ quan ngôn luận của Đảng bộ CS Hà Nội ngày 19/8/2008 đã đăng bài báo ca ngợi Hứa Thế Hữu, tướng chỉ huy đội quân Trung Quốc đánh chiếm Lạng Sơn và Cao Bằng trong năm 1979.[4]
- Hà Nội dời ngày 10/10 đã lên kế hoạch để kỷ niệm Lễ Ngàn năm Thăng Long vào đúng ngày 1/10, ngày quốc Khánh Trung Quốc, trong năm 2010. Phụ hoạ thêm cho màn hợp xướng này, tỉnh Lào Cai đã âm thầm sửa ngày tái thành lập tỉnh, cũng để kỷ niệm đúng vào ngày 1/10 tràn ngập màu sắc Trung Hoa trong năm 2011.
- Trong khi vào ngày 17/2/2012, báo chí của ĐCSVN lặng câm, không ai từ phía lãnh đạo nói tới hoặc thắp một nét hương tưởng niệm hơn 10 ngàn quân nhân 6 tỉnh phía Bắc đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc trong chiến tranh năm 1979, thì ngày 27/7/2012, người đứng đầu quân đội CSVN làm lễ kỷ niệm hoành tráng mừng ngày thành lập quân đội Trung Quốc và “ghi nhớ công ơn” Trung Quốc.
Còn vô số nghịch chướng khác nữa diễn ra trong khi Trung Quốc đã gây tội ác, đánh chiếm đảo Hoàng Sa (năm 1974), một phần Trường Sa (năm 1988), khiêu khích thô bạo, chặt cáp tàu dân sự của VN, bắt giữ, cướp đoạt, xua đuổi ngư dân VN, đặc biệt gần đây leo thang nghiêm trọng: thành lập thành phố Tam Sa, cho đấu thầu khai thác tài nguyên thuộc vùng kinh tế VN và xua hàng chục ngàn tàu đánh cá (không loại trừ khả năng có vũ trang) tràn ngập vùng biển thuộc chủ quyền của VN.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Trung viết:
“Tổng hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực tế đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển, thì Việt Nam càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị, bị uy hiếp nhiều hơn về đối ngoại và quốc phòng. Thực tế này, cùng với ảnh hưởng chính trị nói chung của Trung Quốc vào đối nội của Việt Nam một mặt đang kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ sự phát triển của Việt Nam nói chung, mặt khác gây ly tán đến mức nguy hiểm giữa nhân dân và lãnh đạo đất nước, khiến cho trấn áp và mất dân chủ trong đối nội phải gia tăng, đồng thời thực tế này cũng khuyến khích tham nhũng tiêu cực phát triển. Những vụ trấn áp biểu tình vừa qua chống yêu sách của Trung Quốc trên Biển Đông nói lên nhiều điều và càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc trong nhân dân”.[5]
Ông Hạ Đình Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo, cựu Chủ tịch Ủy ban Hành động của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước 1975, phẫn nộ trước cảnh “nhà nước VN kiên nhẫn và chịu nhục công khai” đã gọi kẻ bỡ đợ Tàu, vu khống, bôi nhọ người biểu tình yêu nước là “sai nha tầm thường” và viết:
“Các vấn đề lớn nhỏ của đất nước, thay cho một xã hội, bị thâu tóm trong tay một nhóm người có quyền lực, chỉ biết vơ vét làm cho xã hội ngày càng tồi tệ, tham nhũng hoành hành, giặc cướp đã vào trước cửa, mà trong nhà cuộc đỏ đen vẫn còn náo nhiệt!”.[6]
Trong bài “Trung cộng sợ nhất ở Việt Nam điều gì?” trên trang Bauxite VN, tác giả Nguyễn Hữu Quý nhắm thẳng vào tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN:
“Trong điều kiện đất nước đang trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” như hiện nay, ta không thể không cảnh báo đến các vị có trách nhiệm, rằng: Nếu không tỉnh ngộ, thì rất có thể các vị sẽ là danh sách nối dài của những Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, để lịch sử nguyền rủa muôn đời”.[7]
Thực sự tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN không thể nào tỉnh ngộ được nữa, vì hai thứ lợi ích sống còn đã gắn chặt vào máu thịt họ: Lợi ích duy trì độc quyền cai trị và lợi ích kinh tế riêng từ hàng loạt các dự án khổng lồ đã trao cho Trung Quốc.
Vậy thì có giải pháp nào cho Việt Nam không?
Nhà văn Thuỳ Linh viết:
Lời thần Kim Qui: “Giặc chính là người ngồi sau lưng ngươi đó”. Trảm giặc ngoài biên ải cũng quan trọng như phải trảm giặc đang hoành hành ngay trong lòng Tổ quốc này“.[8]
Với tất cả những dữ kiện trên, rõ ràng sơn hà nguy biến, ĐCSVN đã mất hoàn toàn khả năng đoàn kết nhân dân, trong bối cảnh nông dân, lực lượng đã gửi con em ra mặt trận nhiều nhất trong các cuộc chiến tranh, ý thức rằng, máu của con em họ không thể tiếp tục đổ xuống như đã đổ để dựng nên chế độ bất công ngút trời hôm nay.
Giải pháp tối ưu
Phải giải quyết tận gốc nguyên nhân của mọi vấn đề hôm nay là, dân tộc VN chỉ có thể tự cứu mình bằng một cuộc cách mạng xoá bỏ hệ thống chính trị đương thời, xây dựng một thể chế dân chủ thực sự do dân và vì dân.
Một khi VN là nước tự do, dân chủ chắc chắn VN sẽ là bạn của cộng đồng các quốc gia dân chủ đông đảo và văn minh bao gồm Hoa Kỳ, 27 quốc gia của Liên minh Âu châu (EU), Canada, Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, New Zealand, Ấn Độ, v.v… và tiến tới có thể trở thành đồng minh chiến lược của các nước này tại khu vục châu Á-Thái Bình Dương.
Khó có ai có thể kết bạn với chế độ CSVN, vì không thể có tình bạn tin cậy khi không có chung các giá trị dân chủ, đạo đức và nhân quyền. Ngoài ra, bản thân chế độ CSVN được biết đến như là một tay chơi lèo lái, đu giây láu cá.
Tiến sĩ Walter Lohman, giám đốc Nghiên cứu Châu Á của Quỹ Heritage, một think tank có ảnh hưởng lớn tại Hoa Kỳ nói: “VN rất muốn mua vũ khí của Hoa Kỳ nhưng hiện tại luật pháp Hoa Kỳ lại không cho phép họ mua các loại vũ khí sát thương. Nhưng trở ngại hiện nay chính là vấn đề nhân quyền mà Chính phủ Hoa Kỳ vẫn đang rất quan tâm. Tuy nhiên, theo tôi đánh giá thì vấn đề lớn nhất lại nằm ở vấn đề hợp tác chiến lược của VN với Hoa Kỳ vẫn không rõ ràng, chúng tôi thực sự không biết là ĐCSVN có toàn tâm toàn ý liên kết với Hoa Kỳ trước sự đe doạ của Trung Quốc hay không. Tôi nghĩ chính vì lý do đó mà vấn đề mua bán vũ khí vẫn bị đình lại”.[9]
Nếu là một thành viên của cộng đồng các quốc gia dân chủ, VN sẽ có vị thế mạnh mẽ khi đưa vấn đề tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ra trọng tài quốc tế, giống như Phillipines đang chuẩn bị, để ngăn chặn âm mưu xâm chiếm bằng vũ lực bất hợp pháp của Trung Quốc.
Trong bối cảnh quốc tế hôm nay, Trung Quốc không dễ dàng đơn phương mở cuộc chiến xâm lược VN bất hợp pháp. Vấn đề can thiệp quân sự của nước ngoài vào Libya đã phải tìm được sự đồng thuận của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và các định chế quốc tế khác, cho thấy điều này. Ở Syria cũng tương tự.
Nhưng, kể cả trường hợp Trung Quốc tuyên bố chiến tranh thì cũng không có gì phải sợ hãi. Tôi tin rằng, bành trướng Bắc Kinh không xua quân xâm lược VN trên bộ vì tinh thần chống giặc phương Bắc của người Việt đã ngấm vào máu thịt ngàn đời, kiểu gì quân Trung Quốc cũng sẽ lãnh đủ, mọi vật dụng đều có thể trở thành vũ khí đánh trả giặc xâm lược.
Nhưng nếu Trung Quốc tấn công chiếm nốt phần còn lại của Trường Sa nhằm xây dựng tiền đồn kiểm soát giao thông hàng hải và khai thác tài nguyên? Thực lực hải quân VN non kém hơn nhiều, đối đầu trực tiếp trên biển sẽ thất bại. Nhưng khi VN là nước dân chủ bị xâm lược, có thể mua và nhận chi viện vũ khí của Hoa Kỳ và EU. Thiết nghĩ, đủ một số lượng cần thiết tên lửa patriot đối không và hệ thống hoả tiễn Tomahawk đối hạm được dẫn đường bằng radar với tầm hoạt động 1.350 hải lý đặt trên bờ biển tỉnh Quảng Ngãi, chúng ta có thể nướng chảy bất cứ tàu nào xâm lược biển đảo VN và đánh bại các cuộc tấn công đất liền từ trên không.
Nhưng lấy tiền đâu mua vũ khí hiện đại tốn kém này? Một tập đoàn cai trị yếu kém, tham nhũng, đã sẵn sàng chi 60 tỷ đôla cho dự án đường tàu cao tốc hay ông cựu y tá Nguyễn Tấn Dũng kiếm ra số tiền 69-70 tỷ đôla cho giai đoạn 2011-2015 và 110-120 tỷ đôla cho “tầm nhìn” 2016-2020 để quy hoạch mở rộng Hà Nội, thì lẽ nào chúng ta không kiếm ra một số tiền tuơng đương cho việc trang bị vũ khí bảo vệ an ninh chủ quyền đất nước?
Một cuộc cách mạng thay đổi thể chế, thậm chí qua tranh đấu bất bạo động cũng khó tránh đuợc đổ máu, chỉ là ít hay nhiều từ sự đàn áp của chế độ độc tài. Tuy nhiên một cuộc cách mạng lại ít tổn thất nhân mạng nhất, tối ưu hiện nay cho nhân dân VN, tránh được hỗn loạn xã hội chỉ có thể là cuộc cách mạng đường phố song song với một cuộc cách mạng nổ ra ngay từ trong lòng chế độ.
Tôi có kịch bản: Một (hay nhiều) sư đoàn thiện chiến với xe tăng và thiết giáp bao vây các cơ quan đầu não của tập đoàn lãnh đạo CSVN tại Hà Nội, buộc họ đầu hàng và trao lại quyền lực cho nhân dân. Tôi không phải là nhà quân sự để có thể vạch kế hoạch tác chiến, nhưng tôi tin rằng có nhiều sĩ quan quân đội đủ kinh nghiệm và tài ba để thực hiện vai trò chỉ huy.
Một hội đồng quân sự cứu nuớc được thành lập, qua đài truyền hình và phát thanh, sẽ ra thông báo trấn an dân chúng, cam kết từ bỏ hoàn toàn ý thức hệ mác-xít cộng sản ngoại lai, vong bản, đưa đất nước vào lộ trình dân chủ trên cơ sở sự ủng hộ và tham vấn của toàn xã hội qua các bước: thay đổi hiến pháp, tiến hành bầu cử tự do, xây dựng các định chế dân chủ bền vững để kiểm soát hoạt động của nhà nước, tránh lạm quyền, đặc biệt thực thi triệt để quyền tự do ngôn luận với truyền thông báo chí tự do.
Tôi tin rằng người Việt có đủ trí tuệ sáng suốt tìm được cho VN một lộ trình dân chủ phù hợp với thực tế, tránh cho VN rơi vào một hệ thống chuyên chế khác như nước Nga của Putin.
Tôi không cho kịch bản trên là ảo tưởng, bởi vì ở thời nào, quốc gia nào trong lịch sử ta cũng đã thấy có những người lính yêu nước, trước hôn quân nhu nhược vẫn luôn có những vị tướng tài, khảng khái và can đảm.
VN không thể là ngoại lệ của quy luật này. Từ bé chúng ta đã được học câu nói nổi tiếng trong sách sử: “Bệ hạ muốn đầu hàng trước hết hãy chém đầu tôi đã” của Hưng Đạo Vương. Đã có nhiều sĩ quan quân đội Nhân dân VN lên tiếng công khai về tình trạng thoái hoá của hệ thống chính trị hiện nay và sự tồn vong của dân tộc như cố trung tướng Trần Độ, trung ướng Nguyễn Quốc Thước, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, đại tá Phạm Đình Trọng, v.v…
Trong một lần tâm tình với tôi, một bạn học cũ hiện đang giữ chức vụ cao ở Hà Nội nói rằng, nếu VN có một “Boris Jeltsin”, không những chỉ quần chúng, mà đông đảo đảng viên trong ĐCSVN cũng sẽ ủng hộ. Đây là mong muốn và hy vọng của nhiều người Việt có khát vọng thay đổi.
Tôi tin rằng trong quân đội VN hiện tại không thiếu những tầm vóc “Boris Jeltsin”, nhưng điều kiện để xuất hiện chưa đủ.
Điều kiện tiên quyết cần và đủ cho sự xuất hiện một “Boris Jeltsin VN” là sự hậu thuẫn mạnh mẽ của quần chúng, của một cao trào xuống đường tranh đấu làm rung động ý thức xã hội, đủ thuyết phục để những người lính tuân theo lệnh vị chỉ huy rằng, họ cầm súng là đứng về phía nhân dân, chĩa súng vào những kẻ phản bội và như thế thì cũng mới thu phục được lực lượng trung thành với chế độ, ngăn ngừa thảm kịch xung đột vũ trang.
Một Boris Jeltsin VN chắc chắn sẽ được tôn vinh là anh hùng với nét son đậm trong trang sử bi kịch của dân tộc Việt, sẽ được nhìn nhận với lòng kính trọng giống như tướng Thein Sein của Miến Điện, người được Time bầu chọn trong năm 2012 là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế giới.
Với các định chế và nguyên tắc dân chủ, VN vừa có thể củng cố vị thế mạnh hơn trong quan hệ quốc tế và trong cuộc chơi bình đẳng với các cường quốc, vừa có thể mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế.
Sau khi chế độ CS bị sụp đổ, Ba Lan đã được các nước dân chủ xoá hơn 20 tỷ đôla nợ. Miến Điện bước vào lộ trình dân chủ đã được Nhật Bản xoá nợ 4,6 tỷ đôla và tiếp tục được hỗ trợ tín dụng xây dựng đất nước. Không có lý do gì nhà nước dân chủ VN lại không hy vọng một sự hỗ trợ kinh tế tương tự từ cộng đồng các quốc gia dân chủ.
Tôi đồng ý với nhận định của André Menras Hồ Cương Quyết trong một bài được nhà văn Nguyên Ngọc dịch:
“Thật khủng khiếp cho nhân dân Việt Nam khi không còn lựa chọn nào khác ngoài cách hoặc là co rúm lại trong sợ hãi và hổ thẹn, hoặc là bước vào kháng cự, một cuộc kháng chiến lần thứ ba sau hai cuộc chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thực dân mới. Những người yêu nước dấn mình vào cuộc kháng chiến này và sẽ dấn mình vào ngày càng đông, theo gương tổ tiên và tự dọn mình cho những hy sinh mới chống lại kẻ thù bên ngoài và bên trong. Quả là tấn bi kịch của Việt Nam phải sống bên cạnh Trung Hoa!”.
“Dù muốn dù không cuộc chiến đấu yêu nước hôm nay đã đi đến chỗ hòa làm một với cuộc chiến đấu chống tham nhũng và vì dân chủ, để một lần nữa cứu đất nước. Tất cả các cuộc chiến đấu đó gắn liền với nhau như môi với răng. Nếu thái độ của những người lãnh đạo Việt Nam xứng đáng với tên gọi đó, nếu các lực lượng trong sạch và yêu nước trong ĐCSVN, công an, quân đội không tỉnh thức để nhổ tận rễ đám cỏ dại sinh ra từ cộng tác với Trung Quốc và được nó nuôi dưỡng, nếu lực lượng đó không gắn chặt với nhân dân để chặn đứng những hành xử gần như mafia đang tồn tại trên hàng chục khu vực vô pháp luật của lãnh thổ đất nước, thì Việt Nam sẽ đi vào một thời kỳ chia xé đau đớn. Đã đến lúc thực hiện cuộc cách mạng của sự tinh sạch và sáng tỏ dân chủ!”.[10]
Vâng, một Boris Jeltsin VN sẽ xuất hiện như một vị cứu tinh chỉ có thể trong bối cảnh toàn dân vùng lên làm cách mạng, một cuộc cách mạng mà Andres Hồ Cương Quyết gọi chính xác là “cuộc kháng chiến lần thứ ba sau hai cuộc chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa thực dân mới”.
Lời dưới đây trong bài ca “Xuống đường” của nhạc sĩ Huỳnh Minh Siêng phổ biến thời chiến tranh chống Mỹ ở miền Bắc, hơn lúc nào hết phải là của hôm nay:
Xuống đường, xuống đường đập tan mọi xích xiềng, quyết kết đoàn tiến lên giành chính quyền. Giành lấy chính quyền về tay nhân dân“!
© Lê Diễn Đức – RFA Blog: http://www.rfavietnam.com/node/1294

No comments: