Hiểm họa Trung Quốc và bài học Tiệp Khắc
Áo và Tiệp Khắc là hai quốc gia bị Đức cưỡng
chiếm đầu tiên ngay cả trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ.
Trong lúc Đức chiếm Áo không gây nhiều phản ứng vì Áo có nhiều
liên hệ với Đức về lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa và chính bản thân
Hitler vốn là người Áo, việc cưỡng chiếm Tiệp Khắc là một biến
cố lớn vì Tiệp Khắc là một nước độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và được xem là một trong số mười cường quốc châu Âu
thời đó.
Suốt thời gian dài hơn sáu năm dưới ách thống
trị của Đức Quốc Xã, nhân dân Tiệp đã chịu đựng vô số thương
vong, thiệt hại. Hàng trăm ngàn người bị giết và hàng trăm ngàn
người khác bị đày ải trong các trại tập trung. Thế nhưng phải
chăng ngày đó Tiệp Khắc yếu đến mức không bắn được phát súng
nào?
Không. Trước Thế chiến thứ hai, thừa hưởng các
thành tựu kỹ thuật của thời đế quốc Áo Hung, Tiệp Khắc là một
trong sốt ít quốc gia có một quân đội đông đảo nhất và được
trang bị tối tân nhất châu Âu. Việc Tiệp Khắc rơi vào tay Đức
nhẹ nhàng như chiếc lá mùa thu phát xuất từ ba lý do chính. Hai
lý do khách quan:
(1) Bành trướng về hướng đông là chủ trương
truyền thống của Đức,
(2) Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các lãnh đạo chủ hòa châu Âu đứng đầu là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain, và một lý do chủ quan:
(3) Tiệp Khắc là một quốc gia ô hợp, phân hóa, suy yếu, có nhiều chính khách làm tôi mọi cho ngoại bang và giới lãnh đạo chính phủ không có quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước.
(2) Chính sách nhân nhượng (appeasement policy) của các lãnh đạo chủ hòa châu Âu đứng đầu là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain, và một lý do chủ quan:
(3) Tiệp Khắc là một quốc gia ô hợp, phân hóa, suy yếu, có nhiều chính khách làm tôi mọi cho ngoại bang và giới lãnh đạo chính phủ không có quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất nước.
Bành trướng về hướng đông là chủ trương
truyền thống của Đức.
Sau giai đoạn cách mạng 1848, Đức trở thành
cường quốc. Sức mạnh của Đức thể hiện không chỉ trong các lãnh
vực kinh tế, quân sự, dân số mà cả khoa học. Tổng số giải Nobel
các khoa học gia Đức được tặng thưởng trong giai đoạn 47 năm tồn
tại nhiều hơn tổng số giải Nobel của các khoa học gia Anh, Pháp,
Nga và Mỹ cộng lại. Năm 1871, Đế Quốc Đức bao gồm 27 khu vực,
dưới sự lãnh đạo của Otto von Bismarck đã vượt qua đế quốc Anh.
Giống như mọi đế quốc khác trong lịch sử, để tiếp tục lớn mạnh
cần phải có tài nguyên thiên nhiên.
Đức là quốc gia nằm ngay giữa châu Âu và về
mặt địa lý chính trị, suốt nhiều thế kỷ, các chế độ quân chủ Đức
cũng chủ trương các quốc gia phía Đông trong đó có Tiệp Khắc, Ba
Lan, Hungary là hàng rào an ninh của Đức để đương đầu với hai
nước lớn khác là Pháp và Nga.
Sau khi sáp nhập Áo vào tháng Ba năm 1938
không cần dùng đến võ lực, Hitler tập trung vào chiến lược chiếm
Tiệp Khắc bất chấp sự chống đối của nhiều tướng lãnh cao cấp
trong đó có tướng Ludwig Beck, Tổng Tham Mưu Trưởng quân đội
Đức. Bản thân của Hitler cũng đánh giá Tiệp rất cao nên không
dám công khai đưa quân vượt biên giới xâm lăng quốc gia này. Vì
vùng Sudetenland có đông dân Đức và có nguồn dự trữ nguyên liệu
lớn nhất của Tiệp Khắc, Hitler nghĩ đến việc chiếm vùng
Sudetenland trước và dùng khu vực giàu có này làm bàn đạp thôn
tính toàn bộ Tiệp Khắc.
Chính sách nhân nhượng (appeasement policy)
của các các lãnh đạo Anh, Pháp đứng đầu là Thủ tướng Nevill
Chamberlain đã “khuyến khích” Đức chiếm Tiệp
Khắc.
Sau Thế chiến thứ nhất, dù thắng hay bại, các
quốc gia đều phải chịu đựng một thời kỳ suy thoái kinh tế trầm
trọng. Khuynh hướng chủ hòa chế ngự trong sinh hoạt chính trị
tại các cường quốc dân chủ và lãnh tụ hàng đầu của khuynh hướng
này là thủ tướng Anh, Nevill Chamberlain. Thủ tướng Nevill
Chamberlain tìm cách hòa giải mối thù địch với Đức. Khi Đức sáp
nhập Áo, Chamberlain không có phản ứng cụ thể
nào.
Khi Hitler công khai bày tỏ ý định sáp nhập
vùng Sudetenlan của Tiệp Khắc đang có hơn ba triệu người gốc
Đức, vào lãnh thổ Đức, vấn đề trở nên phức tạp vì Tiệp Khắc có
liên minh quân sự với Pháp và Pháp có liên minh quân sự với Anh.
Thủ tướng Anh Nevill Chamberlain qua trung gian của Sir Horace
Wilson chuẩn bị đàm phán với Đức và qua trung gian của Lord
Runciman thuyết phục Tiệp Khắc nhượng bộ. Trong lúc Hitler thông
đồng với các nước nhỏ như Hungary và Ba Lan để xẻ thịt Tiệp,
Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt tuyên bố chủ trương trung lập
của Mỹ về tranh chấp Sudetenland.
Ngày 15 tháng Chín năm 1938, Thủ tướng Nevill
Chamberlain bay sang Đức để thương thuyết với Hitler. Các cuộc
thương thuyết giằng co cho đến sáng sớm 30 tháng 9 năm 1939,
thỏa hiệp Munich được ký kết giữa Đức, Anh, Pháp và Ý, trong đó,
cho phép Đức sáp nhập vùng Sudetenland trù phú và chiến lược vào
lãnh thổ Đức.
Tiệp Khắc không được mời tham dự hội nghị và
chỉ được Anh Pháp thông báo kết quả. Chính phủ Tiệp nghĩ rằng
Tiệp Khắc không có hy vọng gì thắng được Đức bằng sức mạnh của
riêng mình, đã đồng ý với nội dung của thỏa hiệp Munich. Theo
thỏa hiệp này, tướng Đức Wilhelm Keitel được cử vào chức thống
đốc quân sự vùng Sudetenland. Những người dân Tiệp không phải
gốc Đức phải rời Sudetenland trong vòng 10 ngày và không được
mang theo bất cứ một món sở hữu nào. Câu Phản bội Tiệp Khắc để
chỉ sự phản bội của đồng minh đối với Tiệp ra đời từ
đó.
Mất Sudetenland, Tiệp Khắc không chỉ bỏ trống
biên giới chiến lược phía nam mà còn mất 70% dự trữ sắt thép,
70% điện và 3 triệu công dân Tiệp. Trong lúc hiệp ước Munich là
một thành quả ngoại giao lớn của Nevill Chamberlain, đối với
Hitler lại là một bước lùi. Mục tiêu của Hitler không phải chỉ
chiếm vùng Sudetenland mà cả nước Tiệp như Wilson Churchill tiên
đoán. Đầu năm sau, Hitler lần lượt chiếm các vùng Bohemia,
Moravia và phần còn lại của Tiệp Khắc.
Cả hai lý do trên không thể làm Tiệp Khắc mất
một cách nhanh chóng nhưng chính sâu mọt và phản bội ngay trong
lòng nước Tiệp và một chính phủ phân hóa, yếu kém, thiếu quyết
tâm mới là những lý do chính làm tan rã Tiệp
Khắc.
Rất nhiều sâu mọt trong nội bộ Tiệp và đứng
đầu là Konrad Henlein lãnh đạo của đảng Sudeten gốc
Đức.
Konrad Henlein một thầy giáo bậc trung học,
lúc đó đang hoạt động dưới danh nghĩa đảng Sudeten quy tụ đa số
dân Tiệp gốc Đức. Konrad Henlein sinh tại Bohemia, Tiệp Khắc có
cha là người Đức và mẹ là người Czech. Đảng Sudeten của Konrad
Henlein thông đồng với đảng Quốc Xã Đức và được đảng này tài trợ
và huấn luyện. Mỗi tháng đảng Sudeten nhận 15 ngàn Đức Mã để
trang trải các chi phí hoạt động. Ngày 28 tháng Ba năm 1938,
Hiter gọi Konrad Henlein sang Đức và đích thân ra chỉ thị cho
tên Tiệp gian này phải đưa ra những điều kiện mà Tiệp Khắc không
thể thỏa mãn được. Mặc khác, Joseph Goebbels, Bộ trưởng Tuyên
truyền của Đức Quốc Xã, tung một chiến dịch tuyên truyền ồ ạt về
việc chính phủ Tiệp bạc đãi, đàn áp dân gốc Đức trong vùng
Sudetenlan và xúi dục người dân Tiệp gốc Đức đứng lên đòi quyền
tự trị.
Về lại Tiệp, Tiệp gian Konrad Henlein đòi
chính phủ Tiệp phải để vùng Sudetenlan hoàn toàn tự trị, thay
đổi chính sách đối ngoại của chính phủ Tiệp và toàn quyền phổ
biến lý thuyết Quốc Xã. Dĩ nhiên, đòi hỏi tự trị còn có thể đàm
phán được nhưng việc tự do tuyên truyền tư tưởng Quốc Xã khó có
thể chấp nhận. Khi đàm phán bắt đầu, Tiệp gian Konrad Henlein và
đảng của y lại tạo nhiều xáo trộn bạo động trong vùng và tiếp
tục làm khó dễ chính phủ trung ương cho đến khi hiệp ước Munich
được ký kết. Ngày 1 tháng Mười năm 1938, các đơn vị tiền phương
của quân đội Đức vượt qua biên giới Tiệp giữa tiếng hò reo ủng
hộ của các đảng viên đảng Sudeten, và cũng trong lúc đó hàng
chục sư đoàn Tiệp được trang bị đầy đủ được chính phủ ra lịnh
rút lui. Phía sau đoàn quân Đức là các đơn vị mật vụ Gestapo và
lực lượng anh ninh SS. Chỉ trong thời gian ngắn 10 ngàn người
dân Tiệp, kể cả dân nói tiếng Đức nhưng chống Hitler, bị đày vào
các trại tập trung vừa mới xây ở Sudetenland.
Konrad Henlein gia nhập lực lượng an ninh Đức
và tham gia vào đảng Quốc Xã. Mặc dù sinh ra, lớn lên trên đất
Tiệp, Konrad Henlein đã góp phần quan trọng trong việc rước voi
Đức giày lên Tiệp Khắc. Y được thưởng nhiều chức vụ và được cho
phép làm công dân Đức. Sau khi Tiệp Khắc được đồng minh giải
phóng, tên Tiệp gian phản quốc Konrad Henlein bị bắt và y đã tự
sát bằng cách cắt gân máu ở cổ tay.
Kẻ phản bội thứ hai là tổng thống bù nhìn
Emil Hacha. Sau khi Edvard Benes, tổng thống thứ hai của
Tiệp Khắc từ chức, tân tổng thống Emil Hacha là một người nhu
nhược. Buổi tối ngày 11 tháng Ba năm 1939, Hitler cho triệu
Hacha đến Bá Linh và thông báo cho ý định chiếm toàn bộ Tiệp
Khắc bằng võ lực và hứa nếu Hacha chịu hợp tác, Tiệp Khắc sẽ
được hưởng quyền tự trị rộng rãi còn nếu nghịch sẽ bị đoàn quân
Hitler tấn công Tiệp bằng mọi phương tiện trong đó có cả việc
không quân của Đức cày nát thủ đô Prague. Emil Hacha quy thuận
Hitler. Dưới thời Đức Quốc Xã chiếm đóng y được giữ chức vụ tổng
thống bù nhìn nhưng buộc phải tuyên thệ trung thành trước
Hitler. Mặc dù có nhiều tài liệu cho thấy Emil Hacha trong thời
gian phục vụ Hitler cũng lén lút giúp cho phong trào kháng chiến
chống Đức thuộc chính phủ lưu vong của Edvard Benes nhưng công
không đủ để chuộc tội cho y. Sau khi Prague được giải phóng vào
tháng Năm năm 1945, Emil Hacha bị bắt và chết hơn hai tháng sau
đó trong hoàn cảnh bí mật. Y được chôn trong một ngôi mộ không
đề bia tại nghĩa trang Vinohrady. Hiện nay, tại nghĩa trang
Vinohrady có một tấm bảng ghi dấu nơi chôn của Emil
Hacha.
Jozef Tiso là một kẻ phản quốc đội lốt tôn
giáo. Mặc dù thụ phong linh mục nhưng y cũng là một trong những
đảng viên nòng cốt của đảng Nhân Dân Slovak. Lợi dụng sự suy yếu
của Tiệp Khắc sau hiệp ước Munich, đảng Nhân Dân Slovak do Tiso
lãnh đạo tuyên bố Slovak tự trị trong vòng Tiệp Khắc. Vào 13
tháng Ba năm 1939, giống như vừa đe dọa Emil Hacha vài hôm trước
đó, Hitler triệu Jozef Tiso đến Bá Linh và buộc y phải tuyên bố
Slovak độc lập, tách rời khỏi Tiệp Khắc, nếu không Hitler sẽ
thúc giục Hungary và Ba Lan chiếm đóng phần lãnh thổ còn lại của
Slovakia. Jozef Tiso cũng tuân phục Hitler và trở nên một cộng
tác viên trung thành cho chế độ Quốc Xã. Từ năm 1939 đến năm
1945, Tiso là tổng thống bù nhìn Slovakia chư hầu của Đức. Đảng
Nhân Dân Slovak do y lãnh đạo liên kết chặt chẽ với đảng Quốc Xã
Đức và chia sẻ quan điểm diệt Do Thái. Khi hồng quân Liên Xô
tiến vào chiếm Slovakia tháng Tư năm 1945, Tiso bị bắt và bị kết
án phản quốc. Jozef Tiso bị treo cổ ngày 18 tháng Tư năm 1947.
Chính phủ Tiệp Khắc chôn y tại một nơi bí mật.
Chính phủ Tiệp Khắc nhu nhược không quyết tâm
bảo vệ đất nước. Phân hóa và thiển cận trong thành phần lãnh đạo
của hai sắc dân Slovak và Czecho trong chính phủ Tiệp đã làm
thượng tầng kiến trúc lãnh đạo sụp đổ nhanh
chóng.
Tiệp Khắc trong giai đoạn năm 1938-1939 đứng
trước những khó khăn và áp lực quá lớn không những từ quốc tế mà
ngay cả tại trong nội bộ Tiệp, nhưng thay vì đoàn kết để đương
đầu với ngoại xâm, các sắc dân Tiệp đã phân hóa, chia rẽ và tiếp
tay làm yếu khả năng đối đầu với Đức.
Xét về tương quan quân sự. Theo tổng kết của
Giáo sư Sử học Carroll Quigley, đại học Georgetown dựa theo các
tài liệu thuộc văn khố quân sự Mỹ sau Thế chiến thứ hai, trong
giai đoạn đầu thù địch Đức Tiệp bùng nổ, Đức có 36 sư đoàn nhưng
không được trang bị đầy đủ trong lúc Tiệp Khắc có 35 sư đoàn
thiện chiến và được trang bị một trăm phần trăm hỏa lực. Vào
tuần lễ thứ ba của tháng Chín năm 1939, quân đội Tiệp Khắc đã có
một triệu quân với 34 sư đoàn tinh nhuệ trong lúc toàn bộ quân
Đức để phối trí tại hành lang châu Âu chỉ có từ khoảng 31 đến 36
sư đoàn. Về không quân, vào tháng Chín năm 1938, Đức trội hơn
Tiệp Khắc chút ít. Đức có 1500 máy bay trong lúc Tiệp có gần
1000 chiếc nhưng nếu tính cả Anh, Pháp số lượng phi cơ của ba
nước cộng lại vượt xa Đức. Liên Xô ủng hộ Tiệp nên cũng gởi 36
phi cơ chiến đấu đến Tiệp qua ngã Rumania. Về chiến xa, tăng của
Đức còn yếu hơn tăng của Tiệp Khắc. Ngoại trừ loại tăng thuộc
thế hệ Mark III có trang bị pháo 37 li, phần lớn tăng thế hệ
Mark II của Đức chỉ trang bị đại liên. Tiệp Khắc có mấy trăm xe
tăng hạng nặng 38 tấn trang bị pháo 75 li hiện đại nhất thời
đó.
Nếu đánh nhau với Đức trong một cuộc chiến
tranh quy ước, chưa chắc Tiệp đã thua. Mà dù có thua, Tiệp Khắc
cũng kéo dài cuộc chiến được một hai năm đủ thời gian cho quốc
tế can thiệp hay tìm cách lôi kéo các nước châu Âu vào ván cờ
sinh tử. Khi tràn ngập Tiệp Khắc vào tháng Ba năm 1939, Đức tịch
thu của Tiệp 469 xe tăng, 1500 phi cơ chiến đấu đủ loại, 43 ngàn
súng máy và nhiều triệu súng trường. Số lượng vũ khí đó Đức đã
phải tốn hàng năm mới sản xuất được.
Tiệp Khắc, một quốc gia có điều kiện kỹ thuật
tiên tiến nhất châu Âu và từng là một phần của đế quốc Áo Hung
hùng mạnh đã bị Hitler xóa tên khỏi bản đồ thế giới không tốn
một viên đạn. Với một quân lực cả triệu người và phương tiện đầy
đủ nhưng chỉ vì sự yếu hèn của cấp lãnh đạo, Tiệp Khắc trở thành
đỉa thịt bò tươi trong bữa cơm chiều của nhiều khách
lạ.
Sau khi Tiệp bị Hitler cưỡng chiếm, hàng ngàn
người dân Tiệp yêu nước phải tự phát rút vào chiến tranh du kích
chỉ bằng vài tạc đạn và vài khẩu súng ngắn. Nguồn tiếp tế quá xa
và kho súng đạn khổng lồ đã bị tịch thu, họ đã phải chiến đấu
trong điều kiện hết sức khó khăn. Hàng trăm ngàn người Tiệp đã
chết dưới bàn tay sắt của tử thần SS Reinhard Heydrich. Tướng SS
Reinhard Heydrich, cai trị Bohemia và Moravia (vùng đất Tiệp sau
khi sáp nhập vào Đức) được các sử gia đánh giá là tên tướng độc
ác nhất trong hàng tướng lãnh công an mật vụ SS Đức. Y là một
trong những kiến trúc sư của kế hoạch tiêu diệt dân Do Thái
Holocaust. Hitler ca ngợi Heydrich là “con người có trái tim
bằng sắt”. Y bị kháng chiến quân Tiệp ám sát tại Prague vào cuối
tháng Năm năm 1942. Đức trả thù tàn bạo. Hai làng Lidice và
Lezaky, tình nghi che giấu kháng chiến quân, bị đốt thành tro,
tất cả đàn ông đều bị bắn chết, chỉ còn một ít phụ nữ và trẻ em
bị đày vào các trại tập trung.
Sự chịu đựng của nhân dân Tiệp đã để lại
nhiều bài học cho Việt Nam khi đương đầu với chủ nghĩa bành
trướng Trung Quốc.
Tương tự như Đức Quốc Xã đối với Tiệp Khắc,
Trung Quốc chủ trương bành trướng xuống vùng Đông
Á
Như đã trình bày trong bài “Hiểm họa Trung
Quốc và bài học Thổ Nhĩ Kỳ”, vì các lý do an ninh, chính trị,
kinh tế, Trung Quốc phải tìm mọi cách khống chế biển Đông. Hai
nỗi lo lớn của giới lãnh đạo CS Trung Quốc là sợ bị bao vây từ
bên ngoài và diễn biến hòa bình bên trong nội bộ Trung Quốc.
Nhìn quanh, họ chỉ thấy kẻ thù. Thật vậy, hầu hết các quốc gia
dân chủ trong vùng từ Ấn Độ đến Nhật Bản, Đài Loan, Nam Hàn,
Thái Lan, tuy mức độ khác nhau nhưng đều là các quốc gia đang có
những mâu thuẫn căn bản với Trung Quốc, không những về quyền lợi
kinh tế mà cả chế độ chính trị. Sự lệ thuộc về chính trị của
Việt Nam vào Trung Quốc không chỉ giúp giữ an toàn phòng tuyến
phía nam mà còn tránh sự sụp đổ dây chuyền trong trường hợp cách
mạng dân chủ tại Việt Nam diễn ra trước. Tuy nhiên, khác với Đức
Quốc Xã, Trung Quốc không dám tung một cuộc tấn công toàn lực
như Hitler chuẩn bị cho Tiệp mà chủ trương gậm nhấm từng phần
đất, từng ngọn núi và từng hải lý của Việt
Nam.
Nắm được yếu điểm của CSVN, trong lúc tiếp tục
phát triển kinh tế, mở rộng ngoại giao với hầu hết các quốc gia
từ năm 1978, Đặng Tiểu Bình vẫn tiếp tục phát động chiến tranh
xoi mòn biên giới Việt Nam như trận Cao Bằng năm 1980, Lạng Sơn
và Hà Tuyên năm 1981, Vị Xuyên Hà Tuyên năm 1984, Lão Sơn Hà
Giang năm 1984, Vị Xuyên lần nữa vào năm 1985 và năm 1986. Trên
mặt biển Trung Quốc tiếp tục xâm phạm chủ quyền Việt Nam, bắn
thủng ghe tàu, thành lập thành phố Tam Sa, đưa hàng ngàn tàu
đánh cá ra khơi, tàn sát ngư dân Việt Nam.
Lãnh đạo CS Trung Quốc biết những hành động
lấn ép đó không đủ mạnh, đủ lớn để làm quốc tế lưu tâm. Không
một Hội Đồng An Ninh Liên Hiệp Quốc nào rảnh rỗi để bàn chuyện
vài chiếc ghe đánh cá của ngư dân Việt Nam bị “tàu lạ” húc ngoài
Quảng Ngãi hay đặt vấn đề tại sao các tàu đánh cá Trung Quốc cứ
tiếp tục thả lưới trong vùng biển Việt Nam. Những sự kiện ghe
tàu đó đối với các cường quốc là chuyện vặt nhưng với một nước
nhỏ như Việt Nam nơi có nhiều triệu dân gắn liền với ngư nghiệp
lại là chuyện lớn. Đặc tính hèn hạ, nhỏ mọn đó của Trung Quốc là
sản phẩm của chế độ độc tài CS và đừng ai hy vọng gì các đặc
tính đó thay đổi một khi chế độ sinh ra chúng còn tồn
tại.
Đàm phán với Trung Quốc ư? Đàm phán đa phương
quốc tế Trung Quốc không tham dự nhưng đàm phán song phương là
rơi vào chiếc bẫy của Trung Quốc. Nếu ai theo dõi chuyện Trung
Quốc và Liên Xô tranh cãi nhau về chủ quyền của các đảo Trân
Bảo, Ẩn Long và Hắc Hạt Tử trong khu vực sông Ussuri sẽ thấy.
Các phiên họp tranh cãi chủ quyền kéo dài tới 20 năm, từ thập
niên 1970 cho đến 1990 nhưng không đem lại kết quả nào. Mỗi lần
có một cuộc họp giữa hai nước, phái đoàn Trung Quốc chở theo một
toa xe lửa chứa đầy tài liệu và đồ vật để chứng minh chủ quyền
Trung Quốc trên các đảo này. Trung Quốc biết dù chở cả xe bằng
chứng cũng chưa hẳn thuyết phục được Liên Xô nhưng chỉ muốn kéo
dài thời gian đàm phán để chờ đợi thời cơ.
Tương tự như Hitler, lãnh đạo CS Trung Quốc
lợi dụng chính sách ngoại giao mềm của Mỹ
Trong bài viết Tranh chấp Mỹ – Trung, một cảnh
giác cho lòng yêu nước tôi có dịp trình bày chính sách Mỹ hiện
nay là sự bước tiếp nối của chính sách ngăn chận thời Chiến
tranh lạnh trong điều kiện toàn cầu hóa. Nhiều người Việt lầm
lẫn nghĩ rằng hàng không mẫu hạm George Washington hùng mạnh thả
neo ngoài khơi Đà Nẵng là để bảo vệ Việt Nam. Thật ra, cả Trung
Quốc và Mỹ đều biết dù áp dụng chính sách nào hay dù có thái độ
nào, xung đột võ trang giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới có
phụ thuộc quá sâu, quá phức tạp về kinh tế không thể xảy ra
trong một giai đoạn ngắn tới đây.
Về phía Trung Quốc, không giống Đức Quốc Xã
cần chiến tranh để phục hồi và phát triển, Trung Quốc phải đương
đầu với hàng loạt khó khăn trên trong cũng như bên ngoài, việc
phát động một cuộc chiến tranh quy mô ở Á châu và Thái Bình
Dương như Hitler đã làm với Tiệp Khắc là một điều giới lãnh đạo
CS Trung Quốc không dám thực hiện. Hơn ai hết, giới lãnh đạo CS
Trung Quốc biết họ phải cần nhiều chục năm kỹ thuật và một ngân
sách hải quân khổng lồ mới mong đuổi kịp Mỹ. Ngoài ra, chủ nghĩa
Cộng Sản đã chết, Trung Quốc hiện đang sống nhờ vào chủ nghĩa
dân tộc cực đoan và Thế chiến thứ nhất 1914-1918 dẫn đến tự sụp
đổ của Đế Quốc Đức, Đế Quốc Áo Hung, Đế Quốc Ottoman đã dạy họ
một bài học: Các đế quốc gây chiến trên nền tảng của chủ nghĩa
dân tộc cực đoan chẳng những không thắng mà đều tan rã từ bên
trong.
Về phía Mỹ, ngoài các lý do kinh tế, riêng
trong lãnh vực quân sự cũng không phải dễ dàng. Chính phủ Mỹ
trong lúc muốn duy trì ảnh hưởng trong vùng, cũng không muốn bị
cuốn vào các xung đột mang màu sắc chủ nghĩa dân tộc đối đầu với
chủ nghĩa dân tộc như trường hợp Trung Quốc và Việt Nam. Tháng
Giêng 2011, Tổng thống Barack Obama trải thảm đỏ tiếp đón Chủ
tịch Trung Cộng Hồ Cẩm Đào như quốc khách với 21 phát đại bác
chào mừng. Trong buổi tiếp tân, TT Obama ca ngợi “sự hợp tác tốt
đẹp giữa hai nước”. Khi trả lời buổi phỏng vấn dành cho tờ Wall
Street Journal, Hồ Cẩm Đào công nhận sự quan trọng trong quan hệ
tốt giữa Trung Quốc và Hòa Kỳ. Họ Hồ cũng nhấn mạnh đến việc hai
quốc gia phải “hành động phù hợp với quyền lợi căn bản của nhân
dân hai nước, và tôn trọng quyền lợi chung của hòa bình và phát
triển thế giới”.
Dân biểu Ileana Ros-Lehtinen, thuộc đảng Cộng
Hòa, Chủ tịch Ủy ban Ngoại Giao Hạ Viện trong một văn bản công
bố cho báo chí sau đó, đã nghiêm khắc phê bình Trung Quốc không
xứng đáng là một cường quốc vì nhiều lý do và một trong những lý
do, Trung Quốc đã ngang nhiên xem Biển Đông như là “quyền lợi
chính” và xem thường quyền hàng hải và lãnh thổ của các quốc gia
vùng Đông Nam Á. Các lãnh đạo Cộng Hòa cũng tố cáo TT Obama đã
thực thi chính sách “Nhân nhượng” của Nevill Chamberlain để đối
phó với Trung Quốc. Dĩ nhiên, TT Barack Obama phủ nhận những lời
kết án này.
Tương tự như Đức Quốc Xã đối với Tiệp Khắc,
Trung Quốc nắm chắc các thành phần lãnh đạo cam thân làm nô bộc
cho ngoại bang và không quyết tâm bảo vệ chủ quyền đất
nước.
Trung Quốc biết rất rõ tham vọng cố bám vào
chiếc ghế quyền lực của giới lãnh đạo CSVN. Chủ trương “hợp tác
hổ tương bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các quốc gia” của
lãnh đạo CSVN chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền che đậy sự sợ
hãi trước đàn anh CS Trung Quốc. Ngay cả các cường quốc Anh,
Nhật, Pháp cũng không chủ trương như vậy đừng nói chi là những
nước mang số phận sân sau như Việt Nam. Các nước nhỏ như Phần
Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Thụy Điển, Đài Loan, Nam Hàn vượt qua được
những nhược điểm khách quan và chủ quan của đất nước họ bởi vì
họ biết cách vận dụng chính sách đối ngoại của các cường quốc để
phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Không chỉ Thổ Nhỉ Kỳ cần
Anh Quốc mà Anh Quốc cũng cần Thổ Nhĩ Kỳ và tương tự không chỉ
Đài Loan cần Mỹ nhưng Mỹ cũng cần Đài Loan.
Quan hệ Trung Quốc và Việt Nam không giống như
quan hệ giữa Mỹ và Philippine hay Mỹ và Nam Hàn. Giới lãnh đạo
CSVN không có vị trí độc lập về chính sách đối ngoại. Mọi chính
sách trước khi đưa ra đều phải đo lường phản ứng từ phía Trung
Quốc. CS Trung Quốc và CS Việt Nam chia sẻ nhau một lịch sử lâu
dài từ ngày đảng Cộng sản hai nước được thành lập. Hai đảng gắn
bó về cả vật chất lẫn tinh thần. Câu nói của Mao “Nhiệm vụ trung
tâm và hình thức cao nhất của cách mạng là nắm lấy quyền lực
thông qua đấu tranh võ trang và giải quyết vấn đề bằng chiến
tranh” là tư tưởng chỉ đạo của đảng CSVN trong khi vạch định
đường lối suốt hai cuộc chiến. Năm 1950, Trung Quốc là nước đầu
tiên công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Cả hai nước đã thừa
nhận sự đóng góp của và người của Trung Quốc vào mục đích thiết
lập chế độ Cộng sản tại Việt Nam. Nợ máu xương chồng chất. Tuy
không dính dáng gì đến dân tộc Việt Nam nhưng nhân dân Việt Nam
đã và đang phải trả bằng máu của bao nhiêu thế hệ từ trước năm
1975 cho đến nay và chưa biết ngày nào mới trả
hết.
Bài học từ chủ nghĩa dân tộc cực
đoan
Bài học lớn nhất mà nhân loại học được từ Thế
chiến thứ hai là sự thụ động, tiêu cực của con người trước hiểm
họa của chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
Những kẻ chịu trách nhiệm cho cái chết của 70
triệu người không chỉ là Adolf Hitler, Benito Mussolini và
Kideki Tojo nhưng còn là Thủ tướng Anh Neville Chamberlain và
Tổng thống Pháp Édouard Daladier. Chính người dân Đức đã bỏ
phiếu cho Hitler và người dân Anh đã nhảy nhót vui mừng khi lãnh
thổ Tiệp rơi vào tay của Đức. Trong một thời gian ngắn trước Thế
chiến thứ hai, không chỉ Đức thôi mà cả nước yếu kém hơn Tiệp
như Ba Lan, Hungary cũng dự phần vào bữa tiệc nấu bằng thịt
xương Tiệp Khắc. Thế chiến thứ hai có thể đã không xảy ra hay
xảy ra với mức độ tác hại thấp hơn nếu số lớn nhân loại ngày đó
không thỏa hiệp, không đồng lõa với cái ác.
Từ đó để thấy, việc ngăn chận chủ nghĩa dân
tộc cực đoan Trung Quốc ngày nay phải là trách nhiệm hàng đầu
của nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý bởi vì lịch sử
chứng minh chủ nghĩa dân tộc cực đoan dẫn đến chiến tranh ngay
cả trong trường hợp các kẻ chủ trương cực đoan không muốn. Chưa
từng có một trường hợp nào ngược lại. Giới lãnh đạo CS Trung
Quốc là những người nhúm lên ngọn lửa dân tộc cực đoan nhưng lửa
cháy mạnh hay yếu tùy thuộc vào nhiều yếu tố có khi không nằm
trong vòng kiểm soát của họ.
Các chủ trương đồng hóa và diệt chủng các dân
tộc yếu thế là phó sản của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Từ giai
đoạn sau cách mạng Pháp 1789 đến Thế chiến thứ nhất rồi Thế
chiến thứ hai cho tới các cuộc chiến đẫm máu vùng Balkans giữa
các nước thuộc liên bang Nam Tư cũ, máu nhân loại đã đổ liên tục
vì chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Sau cực tả là cực hữu, bản đồ thế
giới chưa bao giờ thay đổi nhanh chóng như trong vòng một phần
tư thế kỷ vừa qua.
Các nhà phân tích thường dựa vào hậu quả hơn
là tìm hiểu nguyên nhân nên không lấy làm lạ ít người so sánh
Hitler với Đặng Tiểu Bình. Đa số vẫn đánh giá họ Đặng như một
nhà lành đạo CS tiến bộ, mở cửa hiện đại hóa, làm dịu căng thẳng
giữa hai khối. Tuy nhiên, quan điểm của Hitler và Đặng Tiểu Bình
có nhiều điểm giống nhau hơn cả giữa Hitler và Stalin, Hitler và
Mussolini hay Hilter và Mao bởi vì cả hai đã dùng chủ nghĩa dân
tộc như một phương tiện để kích thích “niềm kiêu hãnh quốc gia”,
vẽ lên trong nhận thức con người về “một loại đất nước huy hoàng
tưởng tượng”, làm gia tăng nhất thời sức mạnh kinh tế và tạo áp
lực thường xuyên trên các nước yếu hơn trong
vùng.
Nhân loại nguyền rủa Hitler, kết án Mao và phỉ
nhổ Stalin, tuy nhiên, nếu chiến tranh bùng nổ tại Á Châu, với
dân số 1.3 tỉ người mà bầu nhiệt huyết được đun sôi bằng ngọn
lửa hận thù, hậu quả của chủ nghĩa dân tộc cực đoan Trung Quốc
do Đặng Tiểu Bình nhóm lên từ năm 1978 sẽ khủng khiếp đến dường
nào. Giữa Hitler và Đặng Tiểu Bình ai tàn ác hơn ai, chưa biết
được.
Có hy vọng nào cho dân tộc Việt
Nam?
Nhìn lại Việt Nam, chưa bao giờ dân tộc lại
phải chịu đựng sự phân hóa, chia rẽ trầm trọng như hôm nay. Một
người Việt quan tâm đến tiền đồ dân tộc nào cũng đau lòng nhận
ra điều đó. Tuy nhiên, dù có thể còn khác nhau trong cách trả
lời, chúng ta không thể không đồng ý rằng, để cứu đất nước,
trước hết phải tháo gỡ chiếc gông độc tài chuyên chính ra khỏi
cổ người dân và trả lại cho họ những quyền bẩm sinh mà ai cũng
có, đó là quyền làm người, quyền quyết định sinh mệnh của chính
mình và của dân tộc mình. Bởi vì, chỉ có một Việt Nam đoàn kết
dưới ngọn cờ dân chủ, tự chủ, cường thịnh mới mong thắng được
chủ nghĩa bá quyền Trung Quốc.
© Trần Trung Đạo
11/08/12 | Tác giả: Lê Diễn Đức
Giải pháp tối ưu cho Việt Nam hiện nay trước Trung Quốc: Xoá bỏ hệ thống chính trị đương thời. Nhưng bằng cách nào?

Xuống đường
trên Quảng trường Tahrir (Ai Cập) lật đổ chế độ độc tài Mubarak,
tháng 1/2011 - Foto: OnTheNet
Trên Facebook khi một bạn đọc lập luận rằng
nếu không có Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) thì VN làm sao thống
nhất đất nước, thoát khỏi nô lệ Pháp, Mỹ và có ngày nay, tôi đã
phản ứng bằng hình tượng hoá ĐCSVN trong một câu chuyện đơn
giản:
Căn nhà của bạn bị cướp, một người đứng ra
đuổi tên cướp đó, nhưng chỉ ít lâu sau, người này bỗng trở mặt,
chiếm nhà bạn làm sở hữu riêng, cưỡng hiếp, đánh đập vợ con bạn
tàn nhẫn hơn cả tên cướp ban đầu, rồi còn kéo cả đồng đảng đến
chiếm ao vườn nhà bạn, bức hiếp gia đình bạn thêm, liệu bạn sẽ
ôm mãi ơn huệ với tên cướp/”ân nhân” ấy?
Câu chuyện trên tương tự với dân tộc Ba Lan
thoát khỏi ách phát xít Đức thì rơi vào ách cai trị của chế độ
máu sắt khác, đó là hệ thống độc tài toàn trị do Liên Xô đứng
đầu mà cuối cùng họ phải vùng lên xoá bỏ vào năm
1989.
Để thống nhất VN, thực hiện mục tiêu giành độc
lập và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tức là nhuộm đỏ ý thức hệ CS
trên cả nước, ĐCSVN đã phát động cuộc cách mạng bạo lực, làm 3
đến 5 triệu người chết, hàng triệu người tàn tật và bị thương
trong một cuộc chiến gây tàn phá nhất của lịch sử
VN.
Nghịch chướng trong cảnh phò Trung Quốc
Sau chiến tranh, ĐCSVN thực thi chính sách cải
tạo công thương nghiệp, di dân tới vùng kinh tế mới và cải tạo
giam giữ không xét xử hàng trăm ngàn quân, dân, cán chính của
Việt Nam Cộng Hoà khiến hàng triệu người đã phải bỏ nước ra đi
với hàng chục ngàn bị chết trên biển cả, đã làm những chia rẽ
sâu sắc vốn có từ chiến tranh càng bị khoét sâu hơn, chưa biết
bao giờ nguôi ngoai.
Tổn thất, tất nhiên, bất kỳ cuộc chiến tranh
nào cũng có, nhưng tiến hành chiến tranh mà dân tộc phải trả giá
quá đắt mà hậu quả lại tệ hại, thì ý nghĩa của nó cần phải được
mổ xẻ.
L. Kolakowski, triết gia Ba Lan, một trong số
ít triết gia Đông Âu giành được sự thừa nhận ở đỉnh cao tri thức
ở châu Âu và thế giới nói:
“Nhiều người đã chết với tên của Stalin
trên môi, có nghĩa rằng họ đã chết với niềm tin rằng, Stalin là
lãnh tụ vĩ đại dẫn dắt thế giới tới một ngày mai tốt đẹp hơn.
Thế nhưng thật ngạc nhiên khi nói rằng, niềm tin vào sự trung
thành đối với Stalin là sự thật để có thể vì nó mà
chết“.
Điều này giống như hàng triệu người con của
Việt Nam đã chết với khẩu hiệu trên môi “xẻ dọc Trường Sơn đi
cứu nước“, nhưng “sự thật” mà vì nó họ đã ngã xuống để có
lãnh thổ thống nhất hôm nay ra sao?
Thiết nghĩ nên để những người gắn bó với chế
độ, từng dấn thân quên mình vì chế độ, hiện sống trong nước,
nhận định sẽ thuyết phục hơn:
- “Rõ ràng là nhân dân VN, dân tộc VN đã hi
sinh biết bao xương máu để đấu tranh giành độc lập cho Tổ quốc
nhưng nền độc lập, tự chủ đó đang bị nhà cầm quyền Bắc Kinh đe
dọa nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực. Lũng đoạn về chính
trị, kinh tế, gây hấn ở Biển Đông. Nhân dân VN trải qua biết bao
hi sinh của các thế hệ để mong ước có một chế độ xã hội tốt đẹp
hơn nhưng nay lại có nhiều điều còn tồi tệ hơn các chế độ cũ.
Con thuyền VN đang bị lái chệch hướng vào con đường của thời kỳ
chủ nghĩa tư bản nguyên thủy, tư bản man rợ chỉ biết đấu đá,
giẫm đạp lên nhau mà sống bất kể những tiếng kêu thấu trời của
quần chúng. Họ đã quên những mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội
để biến cải đất nước ta thành một nước phát triển, văn minh,
công bằng và tiến bộ xã hội, hòa nhập vào xu thế chung không thể
đảo ngược hiện nay của thời đại. Họ đặt lợi ích của Đảng mà thực
chất là lợi ích của cá nhân, của gia đình các nhóm lợi ích lên
trên lợi ích của quần chúng, của xã hội, lên trên sự tồn vong
của đất nước, của Tổ quốc” – Luật gia Lê Hiếu Đằng, cựu Phó
chủ tịch Mặt trận Tổ quốc VN tại TPHCM.[1]
- “Nếu không có cuộc chiến tranh tương tàn
giữa hai miền trước 1975 thì dân tộc này không có cái bất hạnh,
đau khổ như ngày hôm nay. Bây giờ nhìn lại, con đường chúng tôi
đã đi trước 1975 là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó
của chúng tôi đã đem lại bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân
tộc” – Huỳnh Nhật Hải, cựu Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân
Thành phố Đà Lạt kiêm Thành ủy viên.
- “Tôi còn nhớ trong lá đơn xin ra khỏi
Đảng lúc đó tôi có viết một câu: “Tôi không tin ĐCSVN có thể
lãnh đạo đưa đất nước đạt được những điều tốt đẹp như Đảng
thường nói. Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt
huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã
vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản
để bảo đảm tự do cho nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi
cũng đã vô tình góp công sức đưa những người mang danh là “cách
mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực tới phá bỏ một chế độ đã
được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân chủ và nhân bản
tại miền Nam VN” – Huỳnh Nhật Tấn, cựu Phó Giám đốc Trường
Đảng tỉnh Lâm Đồng.[2]
- “Đã sống qua thời VN còn chịu ách cai trị
của phong kiến, ách đô hộ của thực dân, phát-xít, đã hoạt động
hậu địch trong kháng chiến, đã xem phim ảnh, nghe kể lại hoặc
trực tiếp chứng kiến hàng trăm, hàng ngàn vụ chính quyền “của
dân, do dân, vì dân” cưỡng chế, thu hồi đất đai, nhà cửa, tài
sản đối với người dân dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, song tôi
chưa bao giờ thấy người dân bị đàn áp một cách man rợ đến như
thế, với quy mô lớn như thế“. Bà Lê Hiền Đức, công dân chống
tham nhũng và bảo vệ dân oan nổi tiếng, viết trong bài “Phản
cách mạng rõ ràng“.[3]
Chúng ta có thể trích dẫn thêm rất nhiều nữa
những nhận định của các nhà văn, nhà thơ, của các vị nhân sĩ,
trí thức, hay của các vị lão thành cách mạng về sự trở mặt, sự
phản bội và hệ thống chính trị thối nát vì tham nhũng của tập
đoàn lãnh đạo CSVN, thời của cái Ác đè bẹp cái Thiện, “thời đểu
cáng lên ngôi” tới tận cùng của sự lưu manh, côn đồ và hèn hạ.
Thời mà người phụ nữ Việt Nam vì bị khủng bố tinh thần, bị chiếm
nguồn sống, uất ức đến mức phải phản kháng bằng hình thức cởi
truồng hay tự thiêu.
Một người VN bình thường cũng có thể đặt câu
hỏi vì sao hơn 90% tổng thầu EPC các dự án quốc gia lớn quan
trọng như khai thác bô-xít, xây dựng thủy điện, nhiệt điện, hoá
chất, làm các tuyến đường huyết mạch và nhiều dự án xây dựng cơ
bản khác đã dễ dàng lọt vào tay Trung Quốc? Tại sao tập đoàn
lãnh đạo ĐCSVN lại đưa nền kinh tế và an ninh của đất nước lâm
vào thế lệ thuộc lâu dài vào Trung Quốc?
Trung Quốc đã và đang xâm thực VN bằng mọi
cách nham hiểm nhất với sự tiếp tay thầm lặng của tập đoàn lãnh
đạo ĐCSVN. Người Hoa được quyền quản lý và sử dụng gần 300 ngàn
hécta rừng đầu nguồn tới 50 năm. Theo thống kê năm 2009 của Tổng
cục 3, Bộ Công an, thì có ít nhất 35 ngàn lao động Trung Quốc
tại VN, chưa kể số nhập cư trái phép, giả vờ đi du lịch rồi tìm
cách gia hạn ở lại VN làm việc. 20 tỷ đôla hàng hoá từ Trung
Quốc (năm 2011) trong đó nhiều mặt hàng phẩm chất kém và độc hại
không thể kiểm soát tràn ngập thị trường VN. Vì sao lực lượng
quản lý an ninh VN không kiểm soát được trong khi họ có dư lực
lượng chìm nổi khổng lồ trên khắp ba miền theo dõi sát mỗi bước
chân của từng người tham gia biểu tình yêu
nước?
Tình trạng phò Trung Quốc không phải diễn ra
gần đây mà có hệ thống, bắt đầu từ hội nghị Thành Đô năm 1990
sau khi hệ thống cộng sản tại châu Âu sụp đổ, buộc tập đoàn lãnh
đạo CSVN phải bám vào Trung Quốc trên thế yếu.
- Tờ Hà Nội Mới, cơ quan ngôn luận của Đảng bộ
CS Hà Nội ngày 19/8/2008 đã đăng bài báo ca ngợi Hứa Thế Hữu,
tướng chỉ huy đội quân Trung Quốc đánh chiếm Lạng Sơn và Cao
Bằng trong năm 1979.[4]
- Hà Nội dời ngày 10/10 đã lên kế hoạch để kỷ
niệm Lễ Ngàn năm Thăng Long vào đúng ngày 1/10, ngày quốc Khánh
Trung Quốc, trong năm 2010. Phụ hoạ thêm cho màn hợp xướng này,
tỉnh Lào Cai đã âm thầm sửa ngày tái thành lập tỉnh, cũng để kỷ
niệm đúng vào ngày 1/10 tràn ngập màu sắc Trung Hoa trong năm
2011.
- Trong khi vào ngày 17/2/2012, báo chí của
ĐCSVN lặng câm, không ai từ phía lãnh đạo nói tới hoặc thắp một
nét hương tưởng niệm hơn 10 ngàn quân nhân 6 tỉnh phía Bắc đã hy
sinh bảo vệ Tổ quốc trong chiến tranh năm 1979, thì ngày
27/7/2012, người đứng đầu quân đội CSVN làm lễ kỷ niệm hoành
tráng mừng ngày thành lập quân đội Trung Quốc và “ghi nhớ công
ơn” Trung Quốc.
Còn vô số nghịch chướng khác nữa diễn ra trong
khi Trung Quốc đã gây tội ác, đánh chiếm đảo Hoàng Sa (năm
1974), một phần Trường Sa (năm 1988), khiêu khích thô bạo, chặt
cáp tàu dân sự của VN, bắt giữ, cướp đoạt, xua đuổi ngư dân VN,
đặc biệt gần đây leo thang nghiêm trọng: thành lập thành phố Tam
Sa, cho đấu thầu khai thác tài nguyên thuộc vùng kinh tế VN và
xua hàng chục ngàn tàu đánh cá (không loại trừ khả năng có vũ
trang) tràn ngập vùng biển thuộc chủ quyền của
VN.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Trung
viết:
“Tổng hợp tình hình hơn 20 năm qua, thực tế
đang diễn ra là quan hệ Việt – Trung càng phát triển, thì Việt
Nam càng lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc về kinh tế và chính
trị, bị uy hiếp nhiều hơn về đối ngoại và quốc phòng. Thực tế
này, cùng với ảnh hưởng chính trị nói chung của Trung Quốc vào
đối nội của Việt Nam một mặt đang kìm hãm nghiêm trọng toàn bộ
sự phát triển của Việt Nam nói chung, mặt khác gây ly tán đến
mức nguy hiểm giữa nhân dân và lãnh đạo đất nước, khiến cho trấn
áp và mất dân chủ trong đối nội phải gia tăng, đồng thời thực tế
này cũng khuyến khích tham nhũng tiêu cực phát triển. Những vụ
trấn áp biểu tình vừa qua chống yêu sách của Trung Quốc trên
Biển Đông nói lên nhiều điều và càng đổ dầu thêm vào lửa bức xúc
trong nhân dân”.[5]
Ông Hạ Đình Nguyên, cựu tù chính trị Côn Đảo,
cựu Chủ tịch Ủy ban Hành động của Tổng hội Sinh viên Sài Gòn
trước 1975, phẫn nộ trước cảnh “nhà nước VN kiên nhẫn và chịu
nhục công khai” đã gọi kẻ bỡ đợ Tàu, vu khống, bôi nhọ người
biểu tình yêu nước là “sai nha tầm thường” và
viết:
“Các vấn đề lớn nhỏ của đất nước, thay cho
một xã hội, bị thâu tóm trong tay một nhóm người có quyền lực,
chỉ biết vơ vét làm cho xã hội ngày càng tồi tệ, tham nhũng
hoành hành, giặc cướp đã vào trước cửa, mà trong nhà cuộc đỏ đen
vẫn còn náo nhiệt!”.[6]
Trong bài “Trung cộng sợ nhất ở Việt Nam
điều gì?” trên trang Bauxite VN, tác giả Nguyễn Hữu Quý nhắm
thẳng vào tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN:
“Trong điều kiện đất nước đang trong tình
thế “ngàn cân treo sợi tóc” như hiện nay, ta không thể không
cảnh báo đến các vị có trách nhiệm, rằng: Nếu không tỉnh ngộ,
thì rất có thể các vị sẽ là danh sách nối dài của những Trần Ích
Tắc, Lê Chiêu Thống, để lịch sử nguyền rủa muôn
đời”.[7]
Thực sự tập đoàn lãnh đạo ĐCSVN không thể nào
tỉnh ngộ được nữa, vì hai thứ lợi ích sống còn đã gắn chặt vào
máu thịt họ: Lợi ích duy trì độc quyền cai trị và lợi ích kinh
tế riêng từ hàng loạt các dự án khổng lồ đã trao cho Trung
Quốc.
Vậy thì có giải pháp nào cho Việt Nam
không?
Nhà văn Thuỳ Linh viết:
“Lời thần Kim Qui: “Giặc chính là người
ngồi sau lưng ngươi đó”. Trảm giặc ngoài biên ải cũng quan trọng
như phải trảm giặc đang hoành hành ngay trong lòng Tổ quốc
này“.[8]
Với tất cả những dữ kiện trên, rõ ràng sơn hà
nguy biến, ĐCSVN đã mất hoàn toàn khả năng đoàn kết nhân dân,
trong bối cảnh nông dân, lực lượng đã gửi con em ra mặt trận
nhiều nhất trong các cuộc chiến tranh, ý thức rằng, máu của con
em họ không thể tiếp tục đổ xuống như đã đổ để dựng nên chế độ
bất công ngút trời hôm nay.
Giải pháp tối ưu
Phải giải quyết tận gốc nguyên nhân của mọi
vấn đề hôm nay là, dân tộc VN chỉ có thể tự cứu mình bằng một
cuộc cách mạng xoá bỏ hệ thống chính trị đương thời, xây dựng
một thể chế dân chủ thực sự do dân và vì dân.
Một khi VN là nước tự do, dân chủ chắc chắn VN
sẽ là bạn của cộng đồng các quốc gia dân chủ đông đảo và văn
minh bao gồm Hoa Kỳ, 27 quốc gia của Liên minh Âu châu (EU),
Canada, Nhật Bản, Úc, Hàn Quốc, New Zealand, Ấn Độ, v.v… và tiến
tới có thể trở thành đồng minh chiến lược của các nước này tại
khu vục châu Á-Thái Bình Dương.
Khó có ai có thể kết bạn với chế độ CSVN, vì
không thể có tình bạn tin cậy khi không có chung các giá trị dân
chủ, đạo đức và nhân quyền. Ngoài ra, bản thân chế độ CSVN được
biết đến như là một tay chơi lèo lái, đu giây láu
cá.
Tiến sĩ Walter Lohman, giám đốc Nghiên cứu Châu Á của Quỹ
Heritage, một think tank có ảnh hưởng lớn tại Hoa Kỳ nói: “VN
rất muốn mua vũ khí của Hoa Kỳ nhưng hiện tại luật pháp Hoa Kỳ
lại không cho phép họ mua các loại vũ khí sát thương. Nhưng trở
ngại hiện nay chính là vấn đề nhân quyền mà Chính phủ Hoa Kỳ vẫn
đang rất quan tâm. Tuy nhiên, theo tôi đánh giá thì vấn đề lớn
nhất lại nằm ở vấn đề hợp tác chiến lược của VN với Hoa Kỳ vẫn
không rõ ràng, chúng tôi thực sự không biết là ĐCSVN có toàn tâm
toàn ý liên kết với Hoa Kỳ trước sự đe doạ của Trung Quốc hay
không. Tôi nghĩ chính vì lý do đó mà vấn đề mua bán vũ khí vẫn
bị đình lại”.[9]
Nếu là một thành viên của cộng đồng các quốc
gia dân chủ, VN sẽ có vị thế mạnh mẽ khi đưa vấn đề tranh chấp
lãnh thổ với Trung Quốc ra trọng tài quốc tế, giống như
Phillipines đang chuẩn bị, để ngăn chặn âm mưu xâm chiếm bằng vũ
lực bất hợp pháp của Trung Quốc.
Trong bối cảnh quốc tế hôm nay, Trung Quốc
không dễ dàng đơn phương mở cuộc chiến xâm lược VN bất hợp pháp.
Vấn đề can thiệp quân sự của nước ngoài vào Libya đã phải tìm
được sự đồng thuận của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc và các
định chế quốc tế khác, cho thấy điều này. Ở Syria cũng tương
tự.
Nhưng, kể cả trường hợp Trung Quốc tuyên bố
chiến tranh thì cũng không có gì phải sợ hãi. Tôi tin rằng, bành
trướng Bắc Kinh không xua quân xâm lược VN trên bộ vì tinh thần
chống giặc phương Bắc của người Việt đã ngấm vào máu thịt ngàn
đời, kiểu gì quân Trung Quốc cũng sẽ lãnh đủ, mọi vật dụng đều
có thể trở thành vũ khí đánh trả giặc xâm
lược.
Nhưng nếu Trung Quốc tấn công chiếm nốt phần
còn lại của Trường Sa nhằm xây dựng tiền đồn kiểm soát giao
thông hàng hải và khai thác tài nguyên? Thực lực hải quân VN non
kém hơn nhiều, đối đầu trực tiếp trên biển sẽ thất bại. Nhưng
khi VN là nước dân chủ bị xâm lược, có thể mua và nhận chi viện
vũ khí của Hoa Kỳ và EU. Thiết nghĩ, đủ một số lượng cần thiết
tên lửa patriot đối không và hệ thống hoả tiễn Tomahawk đối hạm
được dẫn đường bằng radar với tầm hoạt động 1.350 hải lý đặt
trên bờ biển tỉnh Quảng Ngãi, chúng ta có thể nướng chảy bất cứ
tàu nào xâm lược biển đảo VN và đánh bại các cuộc tấn công đất
liền từ trên không.
Nhưng lấy tiền đâu mua vũ khí hiện đại tốn kém
này? Một tập đoàn cai trị yếu kém, tham nhũng, đã sẵn sàng chi
60 tỷ đôla cho dự án đường tàu cao tốc hay ông cựu y tá Nguyễn
Tấn Dũng kiếm ra số tiền 69-70 tỷ đôla cho giai đoạn 2011-2015
và 110-120 tỷ đôla cho “tầm nhìn” 2016-2020 để quy hoạch mở rộng
Hà Nội, thì lẽ nào chúng ta không kiếm ra một số tiền tuơng
đương cho việc trang bị vũ khí bảo vệ an ninh chủ quyền đất
nước?
Một cuộc cách mạng thay đổi thể chế, thậm chí
qua tranh đấu bất bạo động cũng khó tránh đuợc đổ máu, chỉ là ít
hay nhiều từ sự đàn áp của chế độ độc tài. Tuy nhiên một cuộc
cách mạng lại ít tổn thất nhân mạng nhất, tối ưu hiện nay cho
nhân dân VN, tránh được hỗn loạn xã hội chỉ có thể là cuộc cách
mạng đường phố song song với một cuộc cách mạng nổ ra ngay từ
trong lòng chế độ.
Tôi có kịch bản: Một (hay nhiều) sư đoàn thiện
chiến với xe tăng và thiết giáp bao vây các cơ quan đầu não của
tập đoàn lãnh đạo CSVN tại Hà Nội, buộc họ đầu hàng và trao lại
quyền lực cho nhân dân. Tôi không phải là nhà quân sự để có thể
vạch kế hoạch tác chiến, nhưng tôi tin rằng có nhiều sĩ quan
quân đội đủ kinh nghiệm và tài ba để thực hiện vai trò chỉ
huy.
Một hội đồng quân sự cứu nuớc được thành lập,
qua đài truyền hình và phát thanh, sẽ ra thông báo trấn an dân
chúng, cam kết từ bỏ hoàn toàn ý thức hệ mác-xít cộng sản ngoại
lai, vong bản, đưa đất nước vào lộ trình dân chủ trên cơ sở sự
ủng hộ và tham vấn của toàn xã hội qua các bước: thay đổi hiến
pháp, tiến hành bầu cử tự do, xây dựng các định chế dân chủ bền
vững để kiểm soát hoạt động của nhà nước, tránh lạm quyền, đặc
biệt thực thi triệt để quyền tự do ngôn luận với truyền thông
báo chí tự do.
Tôi tin rằng người Việt có đủ trí tuệ sáng
suốt tìm được cho VN một lộ trình dân chủ phù hợp với thực tế,
tránh cho VN rơi vào một hệ thống chuyên chế khác như nước Nga
của Putin.
Tôi không cho kịch bản trên là ảo tưởng, bởi
vì ở thời nào, quốc gia nào trong lịch sử ta cũng đã thấy có
những người lính yêu nước, trước hôn quân nhu nhược vẫn luôn có
những vị tướng tài, khảng khái và can đảm.
VN không thể là ngoại lệ của quy luật này. Từ
bé chúng ta đã được học câu nói nổi tiếng trong sách sử: “Bệ
hạ muốn đầu hàng trước hết hãy chém đầu tôi đã” của Hưng Đạo
Vương. Đã có nhiều sĩ quan quân đội Nhân dân VN lên tiếng công
khai về tình trạng thoái hoá của hệ thống chính trị hiện nay và
sự tồn vong của dân tộc như cố trung tướng Trần Độ, trung ướng
Nguyễn Quốc Thước, thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, đại tá Phạm
Đình Trọng, v.v…
Trong một lần tâm tình với tôi, một bạn học cũ
hiện đang giữ chức vụ cao ở Hà Nội nói rằng, nếu VN có một
“Boris Jeltsin”, không những chỉ quần chúng, mà đông đảo đảng
viên trong ĐCSVN cũng sẽ ủng hộ. Đây là mong muốn và hy vọng của
nhiều người Việt có khát vọng thay đổi.
Tôi tin rằng trong quân đội VN hiện tại không
thiếu những tầm vóc “Boris Jeltsin”, nhưng điều kiện để xuất
hiện chưa đủ.
Điều kiện tiên quyết cần và đủ cho sự xuất
hiện một “Boris Jeltsin VN” là sự hậu thuẫn mạnh mẽ của quần
chúng, của một cao trào xuống đường tranh đấu làm rung động ý
thức xã hội, đủ thuyết phục để những người lính tuân theo lệnh
vị chỉ huy rằng, họ cầm súng là đứng về phía nhân dân, chĩa súng
vào những kẻ phản bội và như thế thì cũng mới thu phục được lực
lượng trung thành với chế độ, ngăn ngừa thảm kịch xung đột vũ
trang.
Một Boris Jeltsin VN chắc chắn sẽ được tôn
vinh là anh hùng với nét son đậm trong trang sử bi kịch của dân
tộc Việt, sẽ được nhìn nhận với lòng kính trọng giống như tướng
Thein Sein của Miến Điện, người được Time bầu chọn trong năm
2012 là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất thế
giới.
Với các định chế và nguyên tắc dân chủ, VN vừa
có thể củng cố vị thế mạnh hơn trong quan hệ quốc tế và trong
cuộc chơi bình đẳng với các cường quốc, vừa có thể mở ra nhiều
cơ hội phát triển kinh tế.
Sau khi chế độ CS bị sụp đổ, Ba Lan đã được
các nước dân chủ xoá hơn 20 tỷ đôla nợ. Miến Điện bước vào lộ
trình dân chủ đã được Nhật Bản xoá nợ 4,6 tỷ đôla và tiếp tục
được hỗ trợ tín dụng xây dựng đất nước. Không có lý do gì nhà
nước dân chủ VN lại không hy vọng một sự hỗ trợ kinh tế tương tự
từ cộng đồng các quốc gia dân chủ.
Tôi đồng ý với nhận định của André Menras Hồ
Cương Quyết trong một bài được nhà văn Nguyên Ngọc
dịch:
“Thật khủng khiếp cho nhân dân Việt Nam khi
không còn lựa chọn nào khác ngoài cách hoặc là co rúm lại trong
sợ hãi và hổ thẹn, hoặc là bước vào kháng cự, một cuộc kháng
chiến lần thứ ba sau hai cuộc chống chủ nghĩa thực dân và chủ
nghĩa thực dân mới. Những người yêu nước dấn mình vào cuộc kháng
chiến này và sẽ dấn mình vào ngày càng đông, theo gương tổ tiên
và tự dọn mình cho những hy sinh mới chống lại kẻ thù bên ngoài
và bên trong. Quả là tấn bi kịch của Việt Nam phải sống bên cạnh
Trung Hoa!”.
“Dù muốn dù không cuộc chiến đấu yêu nước
hôm nay đã đi đến chỗ hòa làm một với cuộc chiến đấu chống tham
nhũng và vì dân chủ, để một lần nữa cứu đất nước. Tất cả các
cuộc chiến đấu đó gắn liền với nhau như môi với răng. Nếu thái
độ của những người lãnh đạo Việt Nam xứng đáng với tên gọi đó,
nếu các lực lượng trong sạch và yêu nước trong ĐCSVN, công an,
quân đội không tỉnh thức để nhổ tận rễ đám cỏ dại sinh ra từ
cộng tác với Trung Quốc và được nó nuôi dưỡng, nếu lực lượng đó
không gắn chặt với nhân dân để chặn đứng những hành xử gần như
mafia đang tồn tại trên hàng chục khu vực vô pháp luật của lãnh
thổ đất nước, thì Việt Nam sẽ đi vào một thời kỳ chia xé đau
đớn. Đã đến lúc thực hiện cuộc cách mạng của sự tinh sạch và
sáng tỏ dân chủ!”.[10]
Vâng, một Boris Jeltsin VN sẽ xuất hiện như
một vị cứu tinh chỉ có thể trong bối cảnh toàn dân vùng lên làm
cách mạng, một cuộc cách mạng mà Andres Hồ Cương Quyết gọi chính
xác là “cuộc kháng chiến lần thứ ba sau hai cuộc chống chủ nghĩa
thực dân và chủ nghĩa thực dân mới”.
Lời dưới đây trong bài ca “Xuống đường”
của nhạc sĩ Huỳnh Minh Siêng phổ biến thời chiến tranh chống Mỹ
ở miền Bắc, hơn lúc nào hết phải là của hôm
nay:
“Xuống đường, xuống đường đập tan mọi xích
xiềng, quyết kết đoàn tiến lên giành chính quyền. Giành lấy
chính quyền về tay nhân dân“!
©
Lê Diễn Đức – RFA Blog: http://www.rfavietnam.com/node/1294
No comments:
Post a Comment