Thursday, September 6, 2012

ĐẶNG PHÙNG QUÂN * XUÂN THÌ

XUÂN THÌ
ĐẶNG PHÙNG QUÂN


Thuở nàng còn là một thiếu nữ mới lớn, tuổi của con nàng bây giờ, nhhững chiều cuối tuần nàng thường đi lang thang trên hè phố có những quầy sách cũ dựng che kín khoảng tường thành một trụ sở chính quyền (mãi về sau này lục lọi ký ức, nàng vẫn không nghĩ ra tên cơ quan đó, dường như những hàng cây, những tên sách lộng lẫy nhiều màu sắc đã lôi cuốn trí nhớ vào một ốc đảo của kỷ niệm đầy thanh khiết, một giấc mơ, cơn mộng mị sương ảo, cũng đắm đuối, cũng vật vờ thơ dại mà (cuộc thăm thú thế giới của chữ nghĩa đã biến nàng thành một kẻ phiêu lưu đi tìm cuộc hẹn hò với người tình chưa gặp mặt). Nhớ, mẹ nàng hay than thở với mấy bà bạn “đẻ ra con nhỏ lộn giống, nó là con trai mới phải, chỉ ham sách vở, chẳng chịu học may vá thêu thùa, thật khổ”. Dường như những tạp chí đặt mua hàng năm gửi đến tận nhà, những bìa sách mới còn thơm mùi mực trông kiêu sa đã ám ảnh nàng ngay từ những ngày tháng tuổi nhỏ đã kéo nàng ra khỏi thời thơ ấu với búp bê và kim chỉ – lỗi ấy đâu phải tại nàng. Nỗi đam mê sách vở cũng khiến nàng quên cả thói làm dáng. Thuở, những chị bạn lớp trên tha thướt trong tà áo dài, cỡi Solex lượn trên đường phố, buông một tay cầm nón nghiêng nghiêng dưới nắng, cho vạt áo tung bay thì nàng vẫn bận chiếc váy xanh đồng phục đơn giản, áo trắng, cột tóc đuôi ngựa lếch thếch đạp xe với năm bảy quyển sách giằng buộc phía sau. Nàng cũng chẳng thèm để ý đến bọn con trai tụ tập ngoài cổng trường xuýt xoa khi nàng chạy ngang (thỉnh thoảng, có kẻ côn đồ hơn, huýt gió, buông một câu trêu ghẹo); nàng cũng không để ý đến dung nhan kiều mị tự nhiên của mình. Sắc đẹp đã lôi cuốn những bạn gái cùng lớp kết thân với nàng, chia sẻ dấm dúi những trái cóc dầm, những chùm tầm ruột cay chát muối ớt trong giờ học, những mẩu tâm sự vụn vặt – nhưng sao nàng vẫn chẳng cảm thấy thân tình với một ai, nàng chưa gặp người nào chung một nỗi băn khoăn xao xuyến về một thế giới của nàng, cái khung cảnh thế giới mà nàng kết dệt bằng trí tưởng và những ý nghĩ đến từ những điều nàng đọc, dường như quá xa lạ với bạn bè. Đôi khi, nàng nhủ thầm, mình đã trưởng thành rồi sao? Thật tình, nàng cũng không hiểu, nàng vẫn cảm thấy bé bỏng trong tình thương yêu của mẹ, nàng vẫn còn nhiều điều phải hỏi mẹ và mẹ như sông núi chập chùng bao phủ lấy tuổi thơ dại của nàng. Mẹ là câu chuyện cổ tích của nàng. Một gang tấc thời gian. Chỉ mới ba năm trước, khi chưa đam mê sách vở, nàng còn đắm chìm vào cái khí hậu mơ màng, thần tiên với những lâu đài thủy tinh lóng lánh, những ngả đường rừng hoa mộng, những não đường sương rực ánh trăng. Nàng đã ru những bước chân theo bóng trăng đi mãi cho đến quên cả đường về, đã đứng khóc một mình tơi lúc người phu xe già chạy ngang thấy lạ dừng hỏi han và bảo ngồi lên xích lô chở lại nhà. Thế mà cô bé vẫn không tởn, vẫn mê mải theo bóng trăng lạc nhà như vậy. (Sau này, nàng kể có một lần nàng đã thề dưới ánh trăng rằng nàng chỉ yêu một người hiểu nàng và sẽ chết nếu người đo vô tình xa lánh nàng. Năm đó, nàng mới mười ba). Rồi một ngày, từ một bài tùy bút, một truyện ngắn hay một bài thơ nào đó bỗng dưng ám ảnh và quyến rũ nàng vào một cuộc hành trình dài đặc: đọc. Nàng đọc và tập cho mình một thói quen (nhất định không bao giờ để ý tên tác giả trước khi chấm dứt dòng cuối cùng của bài viết) – và nàng lại ghét nhất giờ luận văn trong lớp, nàng không thích những bài giảng văn lê thê, buồn tẻ (một chớm nổi loạn trong tâm hồn, có phải?) đời sống đã khởi sự một màu sắc nóng và sinh động không phải cái khung cổ kính với một điệu máy hát rè. Một quãng cách giữa căn phần học và khung cửa mở ra bên ngoài thế giới. Cái hình ảnh người thiếu phụ đi trong sương tuyết của một bài thơ cổ cũng gần gũi thân quen đối với nàng, cũng mênh mông những bang khuâng tìm kiếm như mấy bài thơ bốn mùa của Ngô Chi Lan của một thuở nào. Đọc, đưa nàng bay bổng lên với những chuyến phi hành trong đêm sa mạc giăng mắc trăng, sao cũng xa lạ như cõi thanh bình tiền chiến trên quê hương. Đọc, đi tìm những trang sách bỏ quên, những tạp chí đã cũ từ những năm tháng nàng chưa chào đời. Và nàng làm quen với những hè phố quầy sách. Như một chốn hẹn hò.

Thật tội ngiệp, nếu nàng biết cuộc gặp gỡ ấy chẳng phải tình cờ. Chàng cũng thường đi lang thang trên con đường quen thuộc của nàng. Sách vở khiến chàng nhức nhối, ý chí thôi thúc đốt một ngọn lửa cháy rụi những trang kinh kệ đã đọc, một đối thủ lởn vởn trước mắt, như đình dập đe dọa, như khiêu khích thách đố. Muốn ghét bỏ, quay lưng nhưng không sao đàn áp được cái ý nghĩ xuẩn động ấy. Thế nên, chàng vẫn trở lại lối cũ, rồi một ngày bỗng nhiên để ý đến cái bóng dáng nhỏ bé, xuất hiện lạ lùng giữa những hàng tường sách vở. Nhất định không phải tại cái dung nhan hàm tiếu đó. Nhưng những quyển sách, những tạp chí cô thiếu nữ để mắt tới, cầm lên xem. Không dung dị với cái tuổi của nàng. (Chàng thầm nghĩ, trong đầu óc xinh xắn ấy chất chứa một cái gì khác thường. Cô bé học ở đâu vậy kìa? Tuy vậy, chàng không phải là người dễ bị sắc đẹp lung lạc. Cái xã hội bất ổn vây quanh, chàng lãnh đạm. Sá gì cái hình ảnh của một vẻ đẹp còn e ấp. Nhưng sao từ lần quan tâm ấy, cuối tuần nào chàng cũng ghé con đường đó. Như một cuộc hẹn hò.) Bắt đầu cho cái bóng dáng thân quen từ xa, mái tóc óng mượt tự nhiên của tuổi mới lớn. Màu áo nhã, hợp thời trang (Mẹ chọn cho đấy, mẹ bắt con gái phải làm dáng). Cái tướng đi nhanh nhẹn biểu lộ sức sống, phơi phới tuổi dậy thì. Gặp, bất chợt, chàng dừng lại ở bên này đường nhìn cái bóng thoáng qua đó, rồi chàng quay đi vào ngõ rẽ khác, ngồi ở một quán cóc hè đường uống một ly cà phê đen nóng chát chờ thời gian chậm dần trên những tàng cây me, mới quay lại khu sách cũ. Khi nàng đã đi khuất. Có một buổi chiều, mưa ủ dột kéo xuống thành phố không đủ lớn để ngập đường mà rả rich từ giờ này qua giờ khác, chàng ngồi trong tiệm nước nhìn qua khung cửa kính chờ đợi. Nàng không xuất hiện, có phải trận mưa giăng mắc đã làm bay đi những con chim sẻ thường sà xuống trên những mái cao ốc, cũng đã cầm chân nàng ở lại nhà, trong hướng nào của thành phố? Chợt, chàng nhận ra rằng một cảm xúc đã đọng lại sâu trong tiềm thức…Nhớ. Như nhớ một người bạn thật xa xăm. Chàng cười thầm tự chế diễu, hỏng thật tại sao lại để tình cảm vụn vặt chi phối mình như vậy, đồ ngốc. Hãy nhìn ra ngoài đường phố! Những lầm than đang che giấu dưới cái thanh bình của trận mưa hiền hòa đó. Cơn mưa cũng qua đi, và những rác rưởi của đời sống sẽ đầy ngập dưới ánh nắng gay gắt. Những xung đột tự nhiên ấy như chống chỏi nhau mà sao chàng vẫn cảm thấy không thể cưỡng lại được. Có thật, mi đang tự đánh lừa. Đương đầu với thực tế đi. Thủ xem nàng thơ của mình (a, bỗng dưng chàng đã tô điểm cái hình ảnh ấy một tên gọi yêu dấu, và cuộc phiêu lưu kỳ thú của nàng. Khi những trận mưa giao mùa đã qua, nàng lại có thể ra khỏi nhà vào cuối tuần, không sợ mẹ la rầy, trở lại con đường của những quay sách cũ, buổi chiều nắng còn vương trên những tàng cây, hơi thở khô hanh như người vừa ốm dậy, trong lòng tự nhiên hớn hở. Những tuần lễ xa vắng, hẳn mấy người bán hàng tìm được về nhiều sách mới. Chim sẻ về mùa này trên những cành hoang trong vườn cây – nghe như một câu thơ của người nào đó. Lần đầu, chàng cố tình đi theo sát nàng qua những hàng sách. Cộ bé dường như hôm nay vui (chàng nghĩ thế). Có thể họ đã nhìn thấy tập thơ ấy cùng lúc, khi bàn tay chàng vừa định với ra thì nàng đã cầm quyển sách lên, chăm chú đọc những trang đầu. Chàng đứng khựng lại, dùng dằng không biết nên bỏ đi ? (Cô bé, cô có biết tôi cũng đang tìm kiếm tập thơ đó). Để giữ vẻ bình thản, chàng lật một quyển sách gần tầm tay. Như một tình cờ sửng sốt, bởi vì nàng vừa ngẩng lên, ngó sâu vào mắt chàng, nói một lời thật tự nhiên. “Ông có thể dịch cho em đoạn thơ này được không? Em không hiểu.” Giọng nói trong như ngọc, mà nhẹ như hơi thở trẻ thơ. Ngón tay nhỏ, xinh xắn chỉ trên trang sách:
“Portes ouvertes sur les sables, portes ouvertes sur l’exil
Les clés aux gens du phare, et l’astre roué vif sur la pierre du seuil;
Mon hôte, laissez-moi votre maison de verre dans les sables…
L’Été de gypse aiguise ses fers de lance dans ses plaies
J’élis un lieu flagrant et nul comme l’ossuaire des saisons,
Et, sur toutes grèves de ce monde, l’esprit du dieu fumant déserte sa couche d’amiante.
Les spasms de l’éclaire sont pour le ravissement des Princes en Tauride.
Bài thơ khó dịch thật – chàng thú nhận, nhưng Perse lại là thi sĩ chàng ưa thích. Những cánh cửa mở ra trên cát, những cánh cửa mở ra trên lưu đày. Như giao ngộ của biển và đất liền, thềm đá, vì tinh tú lấp lánh, những chiếc khóa của căn nhà kính với những người gác hải đăng, những chiếc khóa biểu trưng sự lưu đày, chọn lựa một thinh không như ngôi nhà quàn trọn đời, trên mỗi bãi biển của trần gian này, Exil đến và đi như những chiếc bóng vô hình, nhưng họ vẫn hiện diện trong căn nhà lá của chàng. Những bức phác thảo để lại. Những bài thơ viết trên mặt vỏ bao thuốc lá. Những ý tưởng dữ tợn lạ lẫm đối với nàng (Thế giới của đàn ông, có phải?) Dường như có một thỏa hiệp ngầm của họ với chàng, không bao giờ xuất hiện trong những giờ giấc của nàng. Mà hình ảnh nàng đối với họ chắc là thân quen lắm. Trên khung giá vẽ còn dở dang. Trên cánh cửa, nét phấn tiên mơ hồ huyền ảo. Thấp thoáng trong câu thơ của một người bạn chàng, viết để hình dung bông hạnh nở giữa bầu trời bão tố (một lời khen ý nhị, có phải? – nhưng ý nghĩ thật kỳ dị). Khi mùa mưa tới, nước dâng ngập đường mương, ngoài vườn cỏ cây sũng ướt, nàng không thể ngồi bên bờ mương đong đưa đôi chân lắng nghe chàng kể những giấc mơ thần tiên của một xã hội mới. Đời sống hiện tại, chưa là hạnh phúc sao. Chợt bừng tỉnh trong óc nàng, những khó khăn vấn nạn xao xuyến giữa mộng, thực tương lai chập chùng diệu vợi. Dù chàng hiện diện đó, nhưng sao nàng vẫn lo nghĩ. Liệu có ngày, chàng cũng đi biền biệt như những người bạn kia. Bỗng dưng nàng sợ hãi nếu mất bạn. Có phải, tình yêu là thế. Mưa, bầu trời mù hơi nước dăng dăng khắp không gian. Trận mưa đầu mùa kéo ập tới lúc nào không hay, khi nàng ngồi tựa hai khuỷu tay vào khung cửa sổ nhìn mông ra ngoài. Chắc hẳn khuôn mặt tư lự phải ủ dột lắm khi chàng tiến lại ôm vai nàng. Cơn lạnh như biến đi trong vòng tay chàng, lần đầu, họ thân mật với nhau (Anh muốn ghi lại nét buồn phiền, nụ hôn đầu lạ lẫm, ngọn nến thắp nóng châu thân, hãy cởi bỏ những gì còn ràng buộc trên vết son ngà ngọc, thân thể em đó như thuở ban sơ, đôi mắt anh trở thành tấm gương để em nhìn thấy rõ bản thể, sao em không thấy ngượng ngùng đối với anh, không gợn một chút e dè như thể mình đã quen biết rõ nhau từ tiền kiếp, khi em dựa đầu vào ngực anh, vòng tay chàng quanh bờ hông, đôi mắt chàng rực một ánh lửa đam mê nồng thiếp em-con-gái-dậy-thì như bồng đảo nhũ hoa căng cứng, sự sống có phải dội lên trong con người anh, người đàn ông thứ nhất em thấy không phải trong những câu chuyện tình hoang đường, tiếng nói đang thầm thì trong trí tưởng nàng, em sẽ dâng hiến anh như một người đàn bà cho một người đàn ông, như nhụy hoa quyến luyến loài ong mật, hãy thăm thú thế giới em bằng đôi tay anh đó, có thể đôi má em đang ửng hồng vì hạnh phúc, vì tình yêu cháy sáng, vì mùa xuân đang tỏa rực nơi những đường gân huyết mạch, nàng cảm thấy như chắp thêm đôi cánh bay giữa thinh không vắng lặng, ý nghĩ tiếp theo ý nghĩ, hạnh phúc sắp đến đó sao, một cái gì tưởng chừng gọi tên là đôi lứa…) Bỗng chàng vươn dậy thoát khỏi hai thân thể đang áp chặt lấy nhau. Một âm động nhẹ như tiếng thở dài. Chàng khoác vội chiếc áo choàng đầy những dấu sơn vào người chạy ra ngoài khung cửa ngỏ, giữa trời mưa. Mãi về sau, nàng còn nhớ hình ảnh lúc đó, nàng ngồi lặng như thể trong cơn hư vô tĩnh mịch, chợt thấy thân thể rùng mình như tự trời cao bay xuống thấp, trước khi mặc lại vào người tất cả nhung phục của một đời con gái. Tại sao chàng lại xa rời. Lạnh lùng như thể không phải là tình yêu. Nhưng anh ơi, nỗi sượng sùng này sẽ đeo đuổi suốt cuộc đời còn lại. Một kỷ niệm không cùng. Thời khắc như dừng sâu mãi tới khi chàng xuất hiện bên nàng. Mưa đã ngớt ngoài trời. Đầu tóc chàng ướt đẫm. Anh xin lỗi – chàng thì thầm. Sau này, em sẽ hiểu. Em hiểu. Chúng mình vẫn là của nhau, sẽ không bao giờ xa cách. Như một lời thề nguyền. Em sẽ không bao giờ giận anh cả. Nhưng hình ảnh này, một phải chăng là tiếng vọng lưu đày của những người biệt xứ khi đất nước bị chiếm đóng ? (sau này,nhiều lần chàng trở lại bài thơ bất hủ đó, nhưng biết đâu chẳng phải một kỷ niệm khó quên của cuộc gặp gỡ ban đầu, tập thơ xuất bản lần thứ nhất ở Chicago vào năm sinh của chàng, bài thơ mang ý nghĩa cuộc sống thực tại, em có thấy chúng mình cũng đang đọa đày trên một đất nước bị đế quốc chiếm đóng.) Những ý nghĩ của chàng thật bất ngờ. Khiến nàng lo ngại từ những lần hẹn hò về sau. Nàng cảm thấy bé bỏng trở lại trước cá tính bướng bỉnh, ương ngạnh của chàng. Cuộc sống – chàng như một con sói cô độc. Họ đã ngồi với nhau ở quán nước, nơi chàng đã nhìn qua khung cử kính chờ đợi nàng xuất hiện trong cơn mưa (và nhớ, đã tương tư nàng từ thuở đó), sau khi đi qua những gian hàng sách, để nàng chọn một vài quyển sách mới, vào những buổi hẹn hò cuối tuần. Chàng cũng lắng nghe nàng kể những điều mơ ước, những câu chuyện nhỏ xảy ra trong đời nàng, trong ngưỡng cửa lớp học, trong gia đình. Nàng để ý, dường như từ khi quen chàng, nàng bắt đầu biết làm dáng. Nàng cười đùa với bạn bè trong lớp hơn lúc trước. Những cuộc gặp gỡ êm đềm ấy, nàng vẫn giữ kín một mình. Như một niềm bí mật, thăm thú một thế giới mới lạ. Thế giới của chàng. Không, nàng nghĩ, cái thế giới ấy phải của hai đứa, với một biên cương ngăn cách với xã hội bên ngoài. Từ cái lối đi qua một phố chợ, những bức tượng tôn giáo cao lớn hơn người thật bầy ngổn ngang bên lề đường của mấy tiệm tạc tượng, khi cơn mưa đầu mùa làm ngập lụt, nàng phải vén cao ống quần trắng, tay sách dép khi tới căn nhà của chàng. Căn nhà lá phủ một lớp tôn trên mái, cửa nhìn ra những bụi chuối bên một con mương đầy lá xanh. Thế giới của chàng đó, những nét vẽ đầy khắp, trên vách, trên hai cánh cửa, trên giá gỗ ở ngoài trời. Những mẫu phác họa vội vã, còn nguyên sơ hình ảnh vừa bắt gặp, như những sợi tơ trời bay lượn trong không gian tinh khôi. Và bây giờ, thêm sự hiện diện của nàng. Con người chàng, sự nổi loạn vô trật tự. (Tại sao anh đang theo học Y Khoa, lại bỏ ngang sang bên Văn Khoa. Rồi chưa đầy một năm, anh lại xin vào Mỹ Thuật. Tại sao anh lại bỏ học. Những thắc mắc tìm hiểu về sự hoang đàng phá phách đang diễn ra trong tâm hồn chàng). Không gian như chưa đủ kích thước cho chàng. Những kinh kệ – nói theo ngôn ngữ của chàng – như ám ảnh chàng thường trực, ru chàng vào một võng lưới hoài nghi khôn cùng. Kiến thức đời không giữ gìn chàng yên phận. Chàng không muốn giam mình trong bốn bức tường trắng bệnh viện, khi những vết đau da thịt không trầm trọng bằng cơn nội thương xã hội – con người cá thể có nghĩa lý gì trong hạnh phúc khi toàn bộ đại thể đang đắm chìm trong khổ nạn. Mà xã hội, viên thầy thuốc không còn đủ thiên chức, khi mảnh bằng chuyên môn được đánh giá bằng tiền bạc. Sách vở từ chương cũng chẳng tạo thêm niềm tin cho thế giới trước mặt hiện tại. Học vẽ, không gian của thẩm mỹ như đưa nhãn quan vào một cảnh giới khác, những tạo hình đoạn lìa với thực tế trước mặt. Trốn lánh thực tại, có phải ? Không, chàng đang đi tìm một chân trời tự do chưa hiện nét. Nàng với trực giác linh khiếu nào đó, như thầm hiểu điều đó. Như tình yêu vừa chớm nở. Kể cả, tính bướng bỉnh vô cùng của chàng. Trong cái guồng máy xã hội nhập nhằng, những quán lệ bàn giấy giăng mắc, cuộc chiến tàn bạo đến đâu, chàng đã từ khước tuân hành, kể cả một thủ tục đơn giản như khai báo bằng cấp. Điều này, nàng không biết và thật tình không bao giờ để ý. Bạn bè chàng – nàng cũng không gặp mặt. Họ nỗi khắc không rời. Nàng tự hứa, thân thể này sẽ là của anh mãi mãi. Thoáng hạnh phúc vừa tìm thấy, như một ẩn số mơ hồ. Nàng cảm thấy trưởng thành, chưa bao giờ lớn lao, chin chắn đến thế. Kể cả mai này, tương lai mù mịt. Không, nàng sẽ không bao giờ quên, khoảnh khắc tương thân duy nhất ấy đã trói buộc tâm hồn nàng vào một định mệnh không ngờ. Như những đường nét còn bỏ dở trên khung vải. Khuôn mặt nàng còn phủ một lớp sương chưa tạo hình. Khi nàng quay trở lại, mở khóa cửa ngồi đợi chàng suốt một ngày hẹn cuối tuần. Vắng lặng. Không mẫu giấy viết dặn dò. Chàng có bao giờ đi lâu như vậy. Nhìn những lớp màng nhện giăng góc phòng, nhìn những tập sách để bừa bộn. Chiếc tẩu gác giá bút. Những mẫu thuốc trong lòng chiếc khay gỗ nhỏ. Sự hiện diện của chàng còn đầm ấm, nồng nàn trong căn phòng nhỏ, trong lòng nàng. Mãi cho tới khi bóng tối ập xuống ngoài trời, nàng phải về. Ngày hôm sau, nàng bỏ giờ học cuối để quay trở lại. Không thể chịu đựng hơn nữa. Nàng biết, có một ngày chàng sẽ bỏ đi, như người xưa đi tìm một vùng thiên thai hứa hẹn. Đi như thể chia lìa với thực tại. Nhưng không thể vào lúc này, nàng nhủ thầm. Bỗng dưng, không gian như tỏa xuống nỗi trầm thân khổ sở, nghe như trong trái tim bé nhỏ của nàng. Hình ảnh chàng càng đầm ấm, nồng nhiệt. Thời khắc qua thật mau, nàng lắng trông bước chân nhẹ trên lối đi bên ngoài, nàng tưởng tượng một giọng nói thì thầm vây quanh. Một tâm cảm lắng sâu, lạ lùng. Nàng muốn nói lớn một mình, anh không thể xa em như vậy. Nàng viết ý nghĩ đó trên trang giấy tập vở và để lại trên bàn trước khi ra về. Những ngày sau không thể bỏ học được. Nàng tưởng tượng thấy bóng dáng chàng đứng đợi trước cổng trường. Nỗi giận hờn tràn ngập trong thất vọng. Khi nàng trở lại chốn cũ, một bức thư lạ tin cho nàng rõ, chàng đã bị bắt đưa lên quân trường, người ta phát hiện ra chàng đã ngoan cố không khai báo bằng cấp nên bị tống ra một trung tâm huấn luyện ngoài miền Trung. Phải đợi một thời gian mới được liên lạc với bên ngoài. Người bạn chàng viết, tôi không tin anh ta chấp nhận tình trạng áp bức bất công này. Nàng đứng lặng người, từ thuở lớn lên chưa bao giờ bàng hoàng não nùng kinh động như vậy. Tâm cảm thảng thốt, trước thực tế phũ phàng. Nỗi bất lực yếu đuối. Không biết ngỏ cùng ai. Nhìn quanh, những kỷ niệm nhạt nhòa mộng ảo. Làm sao giữ trọn những kỷ vật này, trong khi nàng còn quá nhỏ bé. Bỗng như một tia chớp lóe trong đầu, nàng ghi lại mấy dòng nhờ những bằng hữu chưa gặp mặt của chàng giữ gìn mọi vật trong nhà cho chàng. Khi phải trở lại nhà, gặp mặt mẹ, nàng muốn chạy lại ôm lấy mẹ để nói một câu tâm sự, mẹ ơi con khổ sở quá. Nhưng không thể, nàng chưa hề nói chuyện quen chàng cho mẹ. Nàng vẫn chỉ là con gái nhỏ của mẹ. Nhưng thuở xuân thì, đối với nàng, từ nay vĩnh viễn biền biệt.
(MỘT DẶM TƯƠNG THÂN)

  

No comments: