TI”U S±
Phan B¶i
Châu trܧc tên là
Phan Væn San, hiŒu Sào Nam, Häi Thu, ThÎ
Hán, ñ¶c Tïnh Tº, Hãn Mån
Tº, quê làng
ñan NhiÍm, huyŒn Nam ñàn, tÌnh NghŒ
An. Næm 1900 LJ giäi nguyên trÜ©ng
thi NghŒ
An. Sau khi thi LJ, ông vào nam ra b¡c
vÆn Ƕng chÓng Pháp. Næm 1904,
ông thành
lÆp h¶I Duy Tân, næm sau, ông cùng
Tæng Båt H° sang Trung quÓc rÒi
NhÆt Bän gây
d¿ng phong trào ñông Du.Næm 1908,
ông bi trøc xuÃt khÕi NhÆt Bän,
ông sang
Trung quÓc và Thái Lan xây d¿ng
cÖ sª.
Næm 1911, sau cách
mång tân h®i, ông thành lÆp
ViŒt Nam Quang Phøc h¶i.
Næm 1922, Ç°I
Viêt Nam Quang Phøc h¶i thành ViŒt Nam
QuÓc Dân Çäng. Næm 1925, ông
bÎ HÒ Chí
Minh báo Pháp b¡t ông ª ThÜ®ng
Häi, giäi vŠ nܧc. Dân chúng phän
ÇÓi, Pháp
không dám gi‰t ông, chúng
giam lÕng ông
ª B‰n Ng¿ Hu‰. Tác phÄm T¿
Phán, LÜu Càu Huy‰t LŒ Tân ThÜ, Häi
Ngoåi Huy‰t
ThÜ, Giác QuÀn ThÜ, Chu DÎch QÓc
Âm Chú Giäi, Phan Sào Nam Tiên Sinh
QuÓc Væn
Thi TÆp, ViŒt Nam QuÓc Sº Khäo, Nam QuÓc
Dân Tu Tri, N» QuÓc Dân Tu Tri, Kh°ng
H†c ñæng, Sào Nam Thi TÆp....
Cao Đẳng Quốc Dân
Dẫn ngôn
Nước ta bây giờ đang cần có sách ho.c. Học
sách Tàu\? Hán văn đã không
còn
thích dụng ở đời naỵ Học sách Tây\? Pháp văn
còn chưa mấy người thông hiểu. Lấy
người mình đọc tiếng mình, thì sách nước
mình ở lúc bây giờ không gì hơn
làm
bằng quốc văn. Tuy nhiên việc làm sách đó
có dễ dàng đâu! Tất phải: dò xét lịch
sử của nước mình đời xưa, thăm dò tệ bệnh của nước
mình ngày nay, trông các
gương liệt cường ở hiện tại, đo tính vận mạng dân tộc ở
tương lai, nghĩ thế
nào, viết một chữ, mở một lời mà hữu ích cho
nhân tâm thế đạo, có thế sách mới
có giá trị...
Tôi viết quyển sách này, chẳng qua dâng một
phần nghĩa vụ với Quốc dân, hay dở,
đúng không, hoặc có công hiệu gì
không, thì quyền ở người đọc sách. Khổng Tử
nói:"Tri ngã giả, kỳ duy Xuân thu hồ, tội
ngã giả, kỳ duy Xuân thu
hồ" , nghĩa là ai biết lòng ta tất ở sách
Xuân thu, ai bắt tội ta tất cũng
ở sách Xuân thu. Quyển sách tôi viết
đây cũng nói như vậy.
Sào Nam,
1927
1. Chương
thứ nhất Nghĩa hai chữ "quốc dân"
Xưa nay người ta thường hay nói đến nước thì trước hết kể
vua, thứ nửa quan,
còn dân không bao giờ kể đến. nhưng đời bây
giờ thì khác thế! Bên Âu, bên Mỹ
cho đến Nhật Bổn, Trung Hoa ở Á Đông, họ không
nói đến nước thì thôi, thoạt nói
đến nước thì tức khắc nói đến dân, tai nghe chữ
Quốc dân, mắt thấy chữ Quốc
dân, miệng đọc chữ Quốc dân. Quốc dân! Quốc
dân! Hai chữ đó như hình cha cha mẹ
mẹ, không bao giờ quên.
Gần mấy năm đây, làn sóng Âu Mỹ tràn
vào nước ta, mà người bảo hộ ta lại là
người nước dân chủ, người ta trông có dân chủ
mà hai chữ quốc dân mới phãng
phất trong óc mình, nhưng miệng đọc hai chữ Quốc
dân mà hỏi nghĩa chữ Quốc dân
là sao chắc không ai trả lời đươ.c.
Chữ "Quốc" vì sao liền chữ "Dân", chữ "Dân"
vì
sao dính chữ "Quốc". Muốn trả lời câu hỏi đó, tất
phải theo lịch sử.
Sử nước ta đến đời Đường Nghêu mới có hai chữ "Việt
thường", đời nhà
Hán mới có hai chữ "Giao chỉ", đời nhà Đường mới
có hai chữ "Yên
Nam". Vậy từ đời nhà Đường Nghêu về trước, đã
có gì nên nước đâu, núi rậm
rừng hoang, đồng không mông hoạnh, bốn mặt chim kêu
vượn hót, một vùng nước bạc
đất vàng, xó này năm ba chú mọi, góc
nọ sáu bảy anh Lào, kể bộ lạc cũng chưa
nên gì, huống gì là nước\? Vì ai
gây dựng, vì ai mở mang, ai dọn đường, ai trổ
lối ai xẻ núi, ai đốt rừng, bỗng chốc núi rậm hóa
nên thôn cử đồng hoang gây
nên thành thị\? Đó chẳng phải ngìn vạn ức
những người tổ tiên cao tằng ta làm
nên ử Huống gì Quãng bình dĩ Nam Cao man dĩ
Bắc, xưa vẫn có đất, mà đất gì của
ta đâu\? Vẫn có người mà người gì của
nòi giống ta!
Nào Lâm Ấp, nào Chiêm Thành,
nào Mên nào Lạp, nếu không dân ta xưa
dắt đoàn kéo
đội, từ Bắc vào Nam, chải gió gội mưa, trèo non
vượt bể, khua nòi Chiêm, đuổi
bầy Lạp, hốt mấy nghìn dặm non sông mà bỏ
vào túi mình, thì cơ đồ gấm vóc như
sau này, chúng ta làm sao trông thấy được\?
Suy thấu lẽ ấy, mới biết rằng Quốc là Quốc của dân ta,
dân là ông chủ tiên
chiếm của Quốc ta. Xưa tôi làm quyễn "Hải ngoại huyết thư"
mà ông Lê
Đại dịch đã có câu rằng: "Nghìn muôn
ức triệu người chung hiê.p. "Gầy
dựng nên cơ nghiêp nước nhà. "Người dân ta,
của dân ta "Dân là dân
nước, nước là nước dân" Đọc mấy câu ấy thời nghĩa
"Quốc dân"
cũng đã rõ lắm.
Anh em thử nghĩ, trên dưới bốn nghìn năm, trong
ngoài ba mươi vạn dặm, biết bao
nhiêu giây máu hột mủ tuôn đổ ra cung cấp cho
nước đó, có một giọt nào là không
phải của dân ta đâủ Biết bao lũ trước đàn sau, dắt
díu nhau kinh dinh cho nước
đó, có người nào không phải dân ta
đâu! Vì vậy nếu không dân thì ai
làm nên nước\?
Nếu không nước thời còn quý gì dân\?
Linh hồn nước là đâu! hẳn là dân đó!
Khu
xác dân ở đâu, hẳn là nước đó! Quốc
tức dân, dân tức Quốc, hai chữ "Quốc
dân" không thể rời nhau đươ.c. Nghĩa hai chữ "Quốc
dân" là thế.
2. Chương
thứ hai Quốc dân với gia nô
Đau đớn thay!
Thãm hại thay! Địa vị mình quốc dân mà chưa
từng một ngày nào được chịu cái ơn
giáo dục cho làm quốc dân; thân phận
mình quốc dân mà chưa từng một ngày
nào
được hưỡng cái quyền lợi quốc dân.
Tục ngữ có câu: "Dân như trùn như dế" lại
có câu thường nói:
"Dân như gổ tròn", điều đó suốt xưa nay, khắp
Đông Tây không một dân
nước nào như dân nước ta cã. Vì sao\? Hay
là trời cách chức quốc dân của nước
mình rồi chăng\? Hay là người nước mình
không đang nổi cái chức quốc dân chăng\?
Hai lẽ tất có một . Đạo trời rất công, lòng trời
rất nhân ái, người nước nào
cũng là con trời cả, trời vẫn xem làm bình đẵng,
trời có thương riêng gì dân
nước Pháp, nước Anh, nước Mỹ, nước Nhật Bản\? Có
ghét riêng gì nước ta\? Cái
chức Quốc dân này, có lẽ nào trời cho ở họ
mà cướp mất ở ta\? Vậy thời cái chức
làm Quốc dân vẫn là trời thưỡng cho ta đó,
nhưng tội tình thay! Trời vẫn ban
cho ta mà ta không biết vâng chịu! Xem lịch sử nước
ta từ xưa đến nay hơn ba
nghìn năm chỉ có gia nô mà không quốc
dân thâ.t. Quyền vua quá nặng, nặng không
biết chừng nào; gia dĩ quyền quan lại hứng đở quyền vua
mà tầng tầng áp chế, từ
cửu phẩm kể lên đến nhất phẩm, chồng càng cao, ép
càng nặng đến dân là vô phẩm,
thân giá lại còn gì. Thằng này
là con ngựa, thằng nọ là con trâu, buộc cương
vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách vào
thì cúi đầu cứ lủi, gặp Đinh thời làm nô với
Đinh, gặp Trần thời làm nô với Trần, gặp Lê
Lý thời làm nô với Lê Lý, phận con
hầu với thằng ở, được đôi miếng cơm thừa canh thải thời đã
lấy làm hớn hở vinh quang,
tối năm đứng đầu ruộng mới được bát cơm, suốt đêm ngồi
trên bàn khung cửi, mới
có tấm áo mặc, mà thoạt mở miệng ra thời chỉ
nói rằng "cơm vua áo
chúa", đồn điền nầy sông núi nọ, mồ hôi lẫn
nước mắt mà cày cấy mở mang,
nhưng mà "chân đạp đất vua", lại giử chặt một câu
hoạt kê vô lý. Than
ôi! Cái tư tưởng gia nô! Bệnh gia truyền làm
nô đó không biết tự bao giờ để lại
cho chúng ta, bắt ta phãi gông đầu khóa
miệng, xiềng tay xích chưn, mà chịu
gánh gia nô cho già đời mãn kiếp! Đau đớn
thật! Thãm hại thật! Anh em ôi!
"Dân vi quý" là câu nói của ông
Mạnh Đại Hiền, "Dân vi ban
bản" là câu nói của ông thánh Hạ Vũ
hai người đó có phải nói lừa ta đâi\?
Ta ngu, ta ngẫn, ta hèn hạ quá chừng!
Mình ta sang trọng nhứt là cái quốc dân
mà ta bỏ xó đi không nhắc tới, khăng
khăng chỉ ôm lấy cái phẩm hàm gia nô
làm vinh quý; Ôi! phẩm hàm làm
gì anh em
ôi! Nhà giàu phỉnh thằng ở thời vất cho một hai
đồng tiền, nhà vua phỉnh đứa
dân thời vất cho một hai trương giấỵ Nhưng nghĩ cho ra kỹ, thời
một đồng tiền
của nhà giàu phỉnh ta đó mà thân
giá ta vẫn còn, đến như một trương giấy của
nhà vua phỉnh ta đó, thời thân giá ta
đã ô hô, ai tai rồi hẳn. Lại còn khi rủi
gặp cơn dâu bể đổi đời, tờ giấy của nhà Đinh trải qua
nhà Lý thời đã không đáng
một xu, tờ giấy của nhà Lý trải qua nhà Lê
hoặc nhà Trần thời cũng không ai ngó
đến, huống gì vì một trương giấy đó mà quỳ
mòn đầu gối, lạy lắm cả cằm râu, lại
phải vất vô số máu me, ép vô số dầu mở cung
cấp cho nhà ai mới hủ hỉ được một
trương giấy đó, thời còn gì vinh quý nữa
đâu! Gia nô! Gia nô! Cái oai kiếp đó,
từ đây nên sám hối là phải.
3. Chương
thứ ba Quốc dân nên tự lập
Ô hô gia nô! Ô hô gia nô! tủi
thân vai ngựa lưng lừa, một kiếp gia nô biết bao
giờ là thôỉ Câu hỏi đó là một
câu hỏi rất thiết ở đời bây giờ. Tôi xin trả lời
rằng:"Gia nô nay đã biết thân, thời lo gánh
chức quốc dân mới là".
Gia nô là thằng ở của một nhà, Quốc dân
là ông chủ của một nuớc, một bên thì ty
tiện rất mực, một bên thì cao quý rất mực, mắt
còn chưa mù, miệng còn nói được
thời chắc cũng muốn lấy phần cao quý mà bỏ phần ty tiện.
Ham cao quý mà chê ty
tiện là gốc tự tấm lòng lương tri của chúng tạ
Người xưa có câu
rằng:"Vương giã dĩ dân vi thiên", nghĩa là
dầu ông vua cũng phải xem
dân bằng trờị Vậy thời không gì cao quý hơn
dân hẳn. Nhưng với cái chúc Quốc
dân đó, chúng ta đã ngu hèn dại dột,
bị ai cướp bóc những tự bao giờ, nay muốn
khôi phục lại cái chức quốc dân, chúng ta
phải gấp lo thế nào mới được.
Chức Quốc dân đó ta muốn khôi phục lại, có lẽ
xin xõ với ai mà được rủ Xin với
trời, thời trời vẫn cho ta tự bao giờ, không cần xin nữạ
Sách Tây có câu: mình
hãy tự giúp lấy mình, thời trời giúp cho
(aide-toi, le ciel t’.aidra). Sách
Đông Phương có câu:"Dân ta muốn điều
gì, trời vẫn nghe theo điều ấy".
Nếu đạo lý ấy mà thật, không cần gì xin ở
trời.
Hay là xin ở người mà được rủ Lòng beo dạ
thú, mắt ó miệng hùm, người thế giới
đời bây giờ không ai thương ta hẳn. Nếu một mai mà
ta lấy chức quốc dân quốc
dân ta lại, thời ách cổ trâu, cương đầu ngựa, tức
khắc phải giải phóng cho ta
ngaỵ Lòng tham dục họ lấy gì đầỷ Tay
hung tàn họ lấy gì
sướng. Nào xe, nào ngựa, nào lầu, nào
đài, nào vợ đẹp hầu non, nào của ngon vật
lạ: những giống ép nặn máu mủ ta mà được
đó, lấy gì như ý sở cầủ Ta một ngày
thoát ngục gia nô thời nó một ngày đổ nền
phú quý, nếu ta rày xin may xõ, lưỡi
rát cổ khan, chúng nó có ân thưỡng
cho ta chỉ qua "ngọn roi" và
"ngòi bút", có đời nào mà
chúng nó đem chức quốc dân cho ta đâụ Huống
hố chức quốc dân là chúc sẵn trời ban cho ta, ta
lấy lại thời còn, ta bỏ đi
thời mất, không cần ai cho, mà ta cũng không cần
gì xin ai cả.
Ôi quốc dân! Ôi! quốc dân! Cái
chúc đó là chức rất cao quý của
chúng ta, vẫn
không ai cách được, mà cũng không ai cho
được, chỉ cốt ở lòng ta cầu, vai ta
gánh, tay ta đỡ, sức ta đua trí khôn ta tìm
tòi, quyết lấy được mà thôị
Thiệt là : "Của ta, ta cậy gì ai Gánh ta ai
có nghiêng vai đỡ
cùng".
Vậy nên tôi nói rằng: Quốc dân nên tự
lập.
4.
Chương thứ tư Bài thuốc tự lập có những vị gì?
Muốn cho quốc dân hay tự lập, trước hết phải biết tệ bệnh của
quốc dân ta những
điều gì. Có biết tệ
bệnh quốc dân ta vậy sau chứng nào thuốc ấy mới bày
ra phương tự lập được. Bây
giờ tôi xin kể những tệ bệnh của quốc dân:
1. Tính ỷ lạị
2. Lòng giả dốị
3. Thói nhút nhát.
4. Tham lợi riêng.
5. Đua những việc hư danh vô vị
6. Không lòng thực yêu nước.
7. Không biết nghĩa hiệp quần.
8. Mê tín những tục hủ cổ.
9. Không biết đường kinh tế.
10. Không thương nòi giống.
Những bệnh đó muốn chữa cho lành, phải theo bệnh
nguyênmà trị cho đến gốc. tôi
xin kê bài thuốc như sau này:
1. Khí tự cường: nặng vô số ki-lô-gờ-ram (kg)
2. Lòng thành thực: mười phần già.
3. Gan quả quyết: hai lá thực lớn
4. Lòng công ích: một tấm rất dày
5. Vai thực nghiệp: một gánh càng nặng càng haỵ
6. Bụng nhiệt thành: mười phân luyện chín.
7. Giãi đồng tâm: một dây càng kiên
thực càng tốt.
8. Trí thúc mới: 100 phân, trộn vào "hoa tự
do" không kỳnhiều ít.
9. Nội hóa: một vạn thức: kiêng ngoại hóa
10. Giống thân ái: hằng hà sa số, hột nào
càng chắc càng haỵ
Hiệp cả bài như trên kia, tổng cộng 10 vị, bài
thuốc đó là hiệp cả Đông Tây lại
một lò, hòa cả tân, cựu làm một tể,
dùng làm thuốc tự lập, chắc là không
bài
nào hơn.Anh em ta muốn biết cái ý dụng được,
tôi xin kể vị thuốc nào chứng ấy
như sau:
5. Chương
thứ năm Chữa chứng bệnh "tính ỷ lại"
Bệnh người nước ta, kể có 10 chứng , tôi đã
nói như bài trên kia mà thăm xét
cho ra chúng gì nặng thứ nhất thời có một chứng
gọi rằng "ỷ lại
tính".
Ỷ lại tính như thế nàỏ Tục ngữ có câu rằng "
Tháp đổ có Ngô xây, việc gìvợ
góa lo ngày lo đêm". Xem như câu ấy thực
đáng nực cười! Tháp đó là tháp
của ta, ta không xây được hay saỏ Nghễnh đầu nghểnh cổ
trông ngóng vào Ngô, nếu
Ngô không xây thời vạn tuế thiên thu chắc
không bao giờ có tháp. Kìa người vợ
góa thấy tháp đổ mà lo ngày, lo đêm,
vẫn là một người có tâm huyết, mà lại bị
những món bàng quan kia mỉa mai chê trách,
thế thời những người đứng xung quanh
tháp đó, tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng
dòm, chém cha món này, nghiễm nhiên
là một đống bồ nhìn rồi hẳn? Hỏi vì can cớ
làm saỏ
Thời chỉ ỷ lại mà thôị Câu tục ngữ ấy thiệt vẽ
đúng tâm tính của người nước tạ
Hai muơi triệu người, ai nấy cũng mắt cũng tai, cũng tay chân
mày mặt, nếu ai
cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của
mình thời có gánh gì không cất nổỉ
Nhưng tội tình thay! Anh nào chị nào trong
óc cũng chất đầy một khối ỹ lại: anh
Cột trông mong vào chú Kèo, cô Hường
trông mong vào thiếm Lục, lại chắc chắn có
anh Cột cô Hường rồị Rày lần mai lửa, tháng đợi năm
chờ, kết cục không một
người làm mà cũng không một người phụ trách
nhiệm. Thế thời 25 triệu người, kỳ
thực thời không người nào cả.
Chao ôi! Ma bệnh tính ỷ lại không xua đuổi cho sạch,
còn mong có nòi giống ta
nữa đâu! Bây giờ muốn chữa bệnh ỷ lại đó, tất cần
phải dùng một vị rất quý
trọng đem dùng chửa bệnh tính ỷ lại chắc kiến hiệu như
thần. Tên vị thuốc này
gọi rằng "khí tự cường". Khí tự cường đó
không phải vay mượn cùa ai
đâu: khi trời đất inh ra ta thời phải phú dữ cho ta một
vừng chính khí. Xưa
thầy Mạnh Tử có câu nói rằng:"chí đại,
chí cường", bốn chử đó tức là
khí tự cường của tạ Xương sắt, gan đồng ngang tàng 7
thước, đã mang tiếng ở trong
trời đất, phải có danh gì với núi sông. Ta
chẳng phải là người hay saỏ Cớ gì
người mạnh mà ta hèn? Người vinh mà ta nhục? Người
chủ nhân mà ta nô lệ? Ta
chẳng oan uỗng kiếp người lắm ru! Thôi cái tội tự bạo, tự
khí, ta quyết rửa
sạch cái vết nhơ này mới thôị
Ỷ lại mà chi! Ỷ lại mà chi! Ta quyết tự cường cho
chúng mày biết. Xin các anh
em! Xin các chị em! Ai nấy cũng nhức nhối tinh thần, rán
vai nong cánh, đồng
một lòng, đều một sức, mình sắp lấy núi sông
mình, tháp mình mình xâỵ Khí
tự
cường đã đầy đủ như thế, thời ma bệnh tính ỷ lại
còn dám dùng dằng nữa đâủ
Vậy nên bài thuốc tự lập, vị thứ nhất phải dùng
khí tự cường nặng vô số
ki-lô-gờ-ram.
6. Chương
thứ sáu Chữa bệnh "giả dối"
Bởi vì có tính ỹ lại mới nảy ra các chứng
bệnh nữa: một chứng là hay giả dốị
Xưa Đức Khổng Tử có câu: "Dân vô tín
bất lập" nghĩa là người không có
thành tín thời không có thể nào đứng
nổị Sách Tây có câu: "Tin thực là một
cục vàng vô giá", nghĩa là người ở đời
không có gì quí trọng hơn tin thực.
Quái gở cho người nước ta thời lại đua nhau giả dối!
Tục ngử có câu "Trăm voi không được bát nước
xáo" lại có câu
"Mười thóc không được một gạo" Xem đó mới biết
tính chất người nước
ta, chứng bệnh giả dối là một chứng rất nặng: Sĩ hay giả dối
thời tìm tòi đạo
lý, không cậy óc mình mà cậy tai;
nông hay giả dối thời cày cấy ruộng trưa,
không cậy mình mà cậy đất; công hay giả dối
thời phấn sức lừa đời mà không cầu
thực dụng; thương hay giả dối thời đua nhau bợm vặt mà mất cả
lợi tọ Thậm chí
mướn đạo đức làm lối cầu danh mà chá vàng ở
ngoài mặt; mướn nhân nghĩa làm mồi
câu lợi mà xức mật ở đầu môị Chẵng những
ngoài đối với xả hội, trên đối với
quốc gia, gốc cây trăm năm đã bị con mọt giả dối kia đục
đổ, bức thành muôn dặm
đã bị con mọt giả dối kia xoi tan, mà lại trong đối với
một nhà, dưới đối với
một mình cũng mắc con ma bệnh giả dối đó đục thấu cao
hoang, khoét vào cốt tủỵ
Tay dối lòng, miệng dối dạ, ăn bánh vẻ mà toan đầy
bụng, mặc áo giấy mà đi với
ma, kết quả không việc gì là thật. Bệnh giả dối
đó mà không chừa, còn mong gì
nước ta phú cường được? Xưa nay đất tốt mới vắt nên
khuôn, đồng tốt mới vắt nên
tượng, người tốt mới làm nên sự nghiệp lớn, mà
lòng tin thực đó là chất rất tốt
của con ngườị Lời tục ngữ có câu: " ngay thật mọi tật mọi
khỏi".
Sự ngay thật đó là bộ xương sống của thân thể
người; nếu người không có xương
sống mà muốn tay chân đẹp đẽ mạnh mẽ, có lẽ
nào được? Vậy nên muốn làm người
tốt cần thứ nhất là lòng thành thực. Nói
một tiếng tất thành thực, dầu ngoài
muôn nghìn dặm, mà lời vàng ngọc không
bao giờ phai; làm một việc tất thành
thực, dầu trải mười trăm năm mà dạ sắc son không bao giờ
dời đổị Mình đã dốc
một lòng thành thực như thế thời phẩm hạnh mình
càng ngày càng chắc, thanh giá
mình càng ngày càng cao, ngưòi ta
tin dụng mình ngày càng nhiều, mà thế lực
mình lớn thời có việc gì không làm
nên. Vì vậy trong bài thuốc "tự
lập" cốt ở chữa chứng bệnh giả dối, tất phải dùng vị thuốc
này: "Lòng
thành thực" mười phân già.
7. Chương
thứ bảy Chữa chứng bệnh nhút nhát
Bệnh giả dối đã chữa lành rồi, nhưng còn có
một chúng bệnh nữa là thói nhút
nhát. Chứng bệnh đó chữa không lành thời
người mạnh hóa người hèn, người khôn
hóa người dại, trăm việc gì ưu thắng nhượng cho người
mà mình cam chịu về đường
liệt bại; biết việc nên nói mà tiếng không
dám hở môi, biết đường nên đi mà một
bước không dám ra khỏi cửa, miệng hùm gan sứa,
thiệt là những bọn anh hùng hào
kiệt của nước ta, mà huống chi những kẻ thôn quê
hèn hạ đó còn maong gì với
chúng nó bàn việc to lớn được?
Xưa ông Hải quân đại tướng nước Anh là Nốt Nhỉ Tốn
có nói: "Trong pho tự
điển của người giỏi không bao giờ viết chử khó." Người anh
hùng nước Pháp
là ông Nã Phá Luân có
nói: "Kìa chử khó đó chỉ thấy trong pho tự
điển của
người ngu mà thôi". Tục ngử ta cũng có câu:
"Có gan thời chọi với trời",
lại có câu hát: " Đố ai lượm đá quăng trời,
đan gàu tát bể, mới người khôn
ngoan". Xem mấy câu nói đó thời thiên hạ
có việc gì khó đâủ Mà thế thật.
Ta có gan xuống vực thời thuồng luồng phải sợ ta; ta có
gan vào rừng thời hùm
beo phải kiêng tạ
Hùm beo với thuồng luồng chỉ bắt nạt được những người
nhát gan mà thôị Bây giờ
người ta chưa thấy bóng thuồng luồng mà đã rỡn ốc,
chưa nghe tiếng hùm beo mà
đã rùng mình!
Ôi! nước ta là một nước thỏ hay saỏ Rụt rụt rè
rè, sợ đầu sợ đít, còn có gì
là tư
cách con người nữa rủ Bệnh nhút nhát còn
đeo lấy một ngày, thời công việc tự
lập tự cuờng không một ngày nào cất nổi, mà
muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải
dùng vị thuốc này mới hay: vị thuốc gan quả quyết.
Xưa nay những người can đãm cũng phải luyện tập mới nên,
mà khi đầu luyện tập
thời phải có một tấm gan quả quyết. Toan vượt núi thời
chớ thấy núi mà gớm cao;
toan qua sông thời chớ thấy sông mà ghê
sông rô.ng.
Bao nhiêu nguy hiểm, ta kể cho là sự rất thường; bao
nhiêu khó khăn ta kể cho là
sự rất dể. Bước con đường muôn dặm phải cậy tấm gan quả quyết
đó làm roi ngựa,
máy xe, dầu chông gai mà quản gì. Đã
có tay chân ta đó, nhứt chết nhì sống,
còn
mình thời việc ấy chắc phải xong, có sợ gì
mà nhút nhát? Vậy nên trong bài
thuốc "Tự lập", phải dùng một vị như sau: "Gan quả quyết"
hai lá rất lớn.
8. Chương thứ tám Chữa Chứng Bệnh "Tham Lợi Riêng"
Lại có chứng bệnh nữa là chứng bệnh "Tham lợi
riêng".
Chứng bệnh ấy, người các nước tuy có ít nhiều,
nhưng người nước ta tất cả 25 triệu
người, ai nấy cũng trúng bệnh ấy đó. Tục ngữ có
câu "cơm ai đầy nồi
ấy", lại có câu "Thử thân bất độ, độ hà
thân", lại có câu rằng
" con vua, con dấu, con chậu chậu yêu". Đọc bấy nhiêu lời
thời biết
rằng: trong ruột người nước ta, viết dọc viết ngang, vạch xuôi
vạch ngược, chỉ
một chử "tham" mà ở trong chử "tham" chỉ có vài
nét
"Lợi riêng" là vừa hết bút mực. Xưa cụ Uy Viễn
có câu rằng:
"Tiền tài hai chủ son khuyên ngược,"
"Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi"
Mười bốn chủ
đó, thật là
vẽ đúng tâm tính người nước tạ Than ôi!
cái lòng tham dục mà muốn cho như ý,
mới nảy ra kế mưu, vì kế mưu mà muốn cho thành
công, mới nảy ra sự nghiệp. Tục
ngữ có câu: "muốn ăn hoét phải đào
trùn", nhất thiết việc đời đều ở
lòng tham dục, bảo cấm tham tuyệt dục không có lẽ
thiệt! Ôi! Các anh em! Các
chị em! Tôi vẫn không cho các ngài biết tham
biết dục. Thà không tham, nếu tham
thời tham cho lớn; thà không dục, nếu dục thời dục cho
hàọ Xưa ông Đế Nghêu
muốn thiên hạ làm của chung mà bỏ ngôi vua
của mình, vì vậy nước Trung Hoa bây
giờ xưng ông Nghêu là đại thánh. Ông
Hoa Thịnh Đốn muốn nước Hoa Kỳ thành một
nước dân chủ, mà bỏ ngôi phú quý của
mình, vì vậy nước Hoa Kỳ bây giờ còn gọi
ông Hoa Thịnh Đốn là "Quốc Phụ". Kìa hai ông
đó há phải không tham
đâu, nhưng tham dục về cái lợi chung của ức muôn
người, thời tham dục càng to,
làm lợi ích cho loài người càng lớn, nhờ
tham dục của một người đó mà gió xuân
mưa hạ tràn trề khắp bốn bể năm châu, đội đức mang ơn
dài đặc đến thiên thu vạn
thế. Tham dục mà được như những bậc người ấy, ai bảo rằng tham
dục là dở đâủ
Đau đớn thay cho những người nước ta, trước mắt không bao giờ
thấy lợi chung,
trong óc không bao giờ có tư tưởng cao thượng,
túi chất đầy tham, mà tham tột
mực, chẳng qua là nghiện hơi đồng, hối vẫn đầy dục, mà
dục kỳ cùng, chẳng qua
là hầu xác thịt, kết quả đến nổi hy sinh hết lương
tâm thiên lý mà làm nô lệ
cho những món tư tình; vì lo sung sướng cho vợ,
vì lo sung suớng cho con, vì lo
sung sướng cho thân mình, suốt đêm suốt ngày
hết khôn hết khéo, nhưng chắc rằng
núi đồng không bao giờ lở, cây tiền không bao
giờ lá rụng hoa rơị Nào hay
"Nhứt đán vô thường vạn sự hưu", của cải tiền tài
không thể nào vào
tay người chêt; vợ vì sẳn của mà vợ hóa
nên vợ hèn, con vì sẳn của mà con hóa
nên con dại, tiền bạc hóa ra của phá nhà,
ruộng vườn hóa ra mồ chôn sống, chẳng
những nhân quần xã hội không lợi ích một
tí gì, mà chính giữ thân với gia cũng
lợi chưa xong mà hại đã tớị Ấy là tử chứng của
những người tham lợi riêng đã
rành rành rồi đó. Người ta mắc bệnh đó gần
đây càng ngày càng nặng thêm, nếu
không gấp chữa cho mau thì nòi tuyệt giống
mòn, không thể nào cứu được. Tôi xin
vì đồng bào dâng một vị thuốc này gọi rằng
"Lòng công ích".
"Lòng công ích" là cầu sự lợi ích
chung cho xã hội, mà cầu lợi chung
xã hội tức là lợi ích cho mình. Đạo
lý đó chẳng phải nói không đâụ Những
người
có tai mắt, có ruột gan chắc cũng hiểụ Bao bọc chung
quanh mình là xã hội, nhờ
ơn xã hội mới có thân mình, mình ăn
thóc thời nhờ có người cầy, mình mặc áo
thời có người dệt, mình cần có công
dùng thời phải nhờ người người thợ thuyền,
mình cần có giao thông thời phải nhờ người
buôn bán; nếu một ngày không xã hội
tức một ngày đó không thân mình. Vun
trồng cho xã hội sung sướng vẻ vang thời
chẳng những một thân mình đã hưỡng hạnh phúc
chung, mà con cháu mình sau cũng
sung sướng chung mãi mãị Vậy thời cái lòng
công ích đó, thật là một phương
thuốc trường xuân bất lão cho người tạ Vậy nên trong
bài thuốc tự lập, phải có
một vị nầy: "Lòng công ích" một tấm rất dàỵ
9. Chương
thứ chín Chữa Chúng Bệnh Đua Đuổi Hư Danh
Còn một chúng bệnh nữa là chứng bệnh người ta hay
đua đuổi theo cái hư danh vô
vi..
Muốn chữa cái chứng bệnh đó thời trước phải giải quyết
một số vấn đề như sau
này: Lòng tham người ta chỉ có hai hạng: một
là lợi, hai là danh.
Danh nên tham hay không? Bảo rằng không nên
tham thời từ xưa đến nay không
người thánh hiền hào kiệt nào mà
không thành danh cả. Sách truyện có
câu:
"Đạo đức giả tất tất đắc kỳ danh", nghĩa là những người đạo đức
lớn,
nhứt định được cái danh dư.. Thế thời danh có phải
không nên tham đâu! Bảo rằng
nên tham ử Thời từ xưa đến nay, những người phấn sức hư danh, kết
quả hữu danh
nhi vô thực, chẳng những không lợi ích gì cho
xã hội, mà cũng không thêm được
giá trị cho mình tạ Thế thời danh có gì
đáng tham. Nói cho đúng lẽ, danh vẫn
đáng tham, mà cũng không đáng tham. Cớ sao
thế? Bởi vì danh có nhỏ, có lón,
danh có gần có xa, danh nhỏ và gần, như lữa lốm
đốm đầu hôm, tiếng ve ve khi
mùa hạ, vẫn cũng lập lòe chòe choẹt ở trong một
lúc, nhưng chẳng bao lâu thời
tắt ngay; danh lớn và xa thời như sấm mùa xuân, nhu
bóng thái dương mùa hạ,
vang một tiếng mà lừng lẫy cả năm châu, dọi môt tia
mà chói chang khắp bốn bể.
Người ta thử cân nhắc hai đường danh đó thời danh
gì đáng tham, danh gì không
đáng tham. Không cần phải nói nữa.
Bây giờ tôi chỉ bệnh người nước tạ Tục ngữ có
câu: "Tiếng lành đồn xa,
tiếng dữ đồn ba ngày đường" lại có câu rằng: "Cọp
chết để da, người
ta chết để tiếng". Xem những câu đó thời danh vẫn
nên quý, người ta cũng
biết dư rồị Nhưng tội tình thay! Óc tí ti như
óc dơi, mắt ti hí như mắt muỗi,
ngoài buồng the bếp núc, vẫn không biết gì
là nước non, trừ sọ bò đầu lợn không
biết gì là rồng rắn, mà huống gì vết xấu
trong gia đình, thói hư ở xã hội gắn
sâu buộc chặc, trải mấy ngàn năm ông Nghè
ông Cử đã tràn đất chó rơm, mà
ông
Đốc ông Tham lại đầy phên rồng vẽ. Đoàn thanh
niên cho đến phường tân tấn, đua
danh cạnh giá, chẳng cu li thượng đẵng, thời nô lệ tối ưu,
ức chưa rời nôi mà
đã ưu mề đay, kim khánh, mệng chưa ráo sữa
mà đã lóc lẽm những thẽ bạc ngà. Ôi!
thế là vinh danh, đáng quý hóa hay sao?
Anh chị em sao không nghĩ, đội mảo mo cho khỉ, mặc áo giấy
cho ma, những giống
ấy là rặc giống của người phỉnh phờ ta, chẳng những không
vinh gì, mà thật là
một cái gương sỉ nhục. Anh gì mà danh như thế,
còn gì đáng quý nữa đâu . Gông
đầu khóa cổ, núi sông đã mãn kiếp
ngựa trâu, mỏi gối chân chồn, cây cỏ cũng
chán vai tôi tớ, thế mà còn bằng sắc, sắc
bằng gì? Thế mà còn hàm, thế mà
còn
phẩm, phẩm hàm gì? Người ta bỏ đi mà ta lượm lấy,
người xem làm rẽ rúng mà ta
xem làm vinh hoa! Óc khôn ngoan ta đi đâủ
Chí khí ta ở đâủ Xin các anh chị em,
chứng bệnh đua hư danh đó, ta phải gấp chữa lành mới
được.
Muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải có một vị thuốc rằng
"vai thực
nghiệp".
Thực nghiệp là những giống gì? Là nghiệp
nông, nghiệp công, nghiệp thương,
nghiệp sâm lâm, nghiệp lục súc, nghiệp ngư
diêm, nói tóm lại là nghiệp lao
đô.ng.
Lao động về nông, nông siêng thời gạo thóc đầy
đủ; lao động về việc công thời
công siêng mà nghề nghiệp mở mang; lao động về việc
thương, thời thương siêng
mà giao thông phát đạt, còn ra các
việc hể lao động hết bổn phận thời việc nào
việc ấy chắc cũng được thành công. Các nước
Âu Mỹ bây giờ, những người quý
trọng là rặt những người rất cần khổ, đắp nền danh giá,
tất lấy thực nghiệp làm
gốc, mở bể phú cường, tất lấy thực nghiệp làm nguồn. Thủ
xem nước Hoa Kỳ mới
đây, những người rất hữu danh rặt là nhà thực
nghiệp; ông Hỏa du đại vương, ông
Thiết lộ đại vương, ông Ngân hàng đại dương, những
người đó là nhà thực nghiệp
lớn. Vì thực nghiệp lớn nên tư bản nhiều, vì tư bản
nhiều nên cất nổi những
việc công ích lớn. Vì vậy mang ơn đội đức, khắp cả
muôn người, trổi tiếng vang
tăm nghe khắp cà vạn quốc.
Lời cổ ngử có câu rằng "Hữu thực dã danh tất qui
chi" nghĩa là những
người có việc thực thời danh tất đến chọ Người ta nếu biết thấu
đạo lý ấy, thời
hư danh còn đua đuổi làm gì! Bắt cân
công lý mà cân, một li thực nghiệp quí
trọng hơn một đồng hư danh, người ta xưa nay quen thói dã
man, đua tuồng huyền
ảo, giấc chiêm bao lợi lộc, ngày tháng say mê
tuồng trò rối hư vinh, trẻ già
hớn hở, những mua chuốc hư danh đó, hao biết bao nhiêu
tiền của, những trau
chuốc cái hư danh đó, tốn bao nhiêu thời giờ,
mà hư danh càng ngày càng múa
men, thời tướng thực nghiệp không bao giờ xuất thế. Kết quả
dân ngày càng
nghèo, nước càng ngày yếu, nòi giống
mình càng ngày càng đê tiện,
mà giá trị
người mình cân đi nhắc lại chỉ có "thân bồi
phận bếp" mà thôi, việc
đáng khóc đáng than, không gì hơn
thế! Anh chị em ta, nếu một mai tỉnh giấc mê,
thay lốt cổ, những tiền của mua hư danh đó, xây nền thực
nghệp, những thời giờ
đuổi hư danh đó dùng vào trường thực nghiệp, thực
nghiệp đã phát đạt thời nền
móng phú cường đã vững bền; giá trị người
lao động nước ta chắc cũng có một
ngày lừng lẫy tiếng tăm cùng thế giớị
Tục ngữ có câu rằng: "Trăm năm bia đá vẫn
mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn
trơ trơ". Người nước ta nếu biết tham danh thời không gì
đáng tham hơn thế
nữạ vậy nên bài thuốc "Tự Lập" lại phải gia vào một
vị như sau này:
"vai thực nghiệp" một gánh càng nặng càng hay.
10. Chương thứ mười Chữa chứng bệnh "ái quốc giả"
Chứng bệnh hay giả dối là chúng bệnh chung của người nước
ta, mà ở trong chứng
bệnh đó lại có một chứng đặc biệt là ái
quốc giả.
Gần mấy năm nay, cuộc Âu chiến cũ vừa xong, mà cuộc "thế
giới đại
chiến" mới đã toan gây núi, chủ nghĩa quốc gia
bành trướng cực điểm, người
nước ta bây giờ, ngoài thời bị làn sóng thế
giới xô đẩy, ngủ không thể nào yên
trong thòi bị dây sắt cường quyền trói đau,
mà sống không thể nào khõẹ Lúc bấy
giờ những bạn thiếu niên với phường học mới, cho đến những người
ngủ say quá độ
mớI đánh thót ở trong giấc chiêm bao; thấy con em
mà đau đớn cho kiếp ngựa thân
trâu, trông non sông mà ngậm ngùi những
ngày mưa sầu gió thảm.
Tiếng hai chử "Ái quốc" mới văng vẳng ở bên tai người ta,
hồn ái quốc
tuy còn dở tỉnh dở say, mà bóng ái quốc
đã nửa mờ nửa tỏ, nào là đám truy điệu,
nào là tiệc hoan nghinh, nào là kỷ niệm anh
hùng, nào là sùng bái chí sĩ,
chuông dồn trống dục, nam bắc hát hò, xem ở trong
một đám rần rần rực rực, cũng
đã có mấy phần người biết quyền nước mất. Biết quyền nước
mất thời tính mạng
không còn, hồn nước có về thời giang sơn mới sống.
Ngòi bút ái quốc cũng đã có
một đôi kẻ múa men, trên tờ giấy nhật trình
cũng đã tô vẻ một vài câu thương
nòi thương nước.
Nếu những tấm lòng ái quốc đó thật thà chắc
chắn, thời giống Tiên Rồng, giống
Hồng Lạc chẳng hạnh phúc lắm saỏ Nhưng tội tình thay!
Người ưu thời mẫn thế
chẳng bao lăm, mà người bán tiếng mua danh thời đầy đường
chật ngõ; giọt nước
mắt khóc vẫn đêm ngày chan chúa, mà
xem cho kỷ thời rặt là nuớc mắt gừng, tiếng
chuông trống kêu hồn, vẫn trong ngoài dóng
dã, mà nghe cho tới nơi thời rặt là
tiếng chuông trống trò bội; ngoài miệng thời
ái quốc mà trong bụng vẫn là ái
kim khánh mề đay, khi trước mặt người vẫn ái quốc,
mà đến đêm thời tính toan
những việc chó săn chim mồị
Chao ôi! Trời ôi! Ái quốc thế ru?
Treo mặt nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời
mua chuốc lấy tiếng
chí sĩ nhân dân, một mặt thời ôm chặt lấy lốt
ông Tham bà Đốc. Ôi! Các anh em!
Ôi các chị em! người Âu châu Nhật Bản, ai
ái quốc nhu thế, thà không ái quốc
còn hơn, chá vàng ngoài mặt làm tai
vạ cho những kẻ chuộng vàng, xức mật đầu
môi, làm khổ cực cho những người say mật, vì
đã vũ phu mà oan đến ngọc, vì
tròng mắt cá mà họa đến châụ
Ôi! Chứng bệnh ái quốc giả kia, chết nước chết nòi
vì chứng bệnh đó, chứng bệnh
đó nếu không trừ khỏi 25 triệu dân tộc chắc
chôn sống ở rày maị Tôi ngồi sâu
nghỉ lặng, khấn nguyện chín phương trời, ước ao thần hộ phật
phù, cứu khổ cứu
nạn cấp cho tôi vị thuốc để chữa chứng bệnh đó cho người
ta, mới được vị thuốc
này: "Bụng nhiệt thành".
Bụng nhiệt thành đó là gốc ở một tấm lòng
đỏ của loài ngườị Khi mẹ mới hoài
thai thời đã đúc sẵn một hòn máu
nóng, đến khi sinh thành trưỡng đại, thời hòn
máu đó càng nuôi nấng càng lớn lao,
càng nấu nung càng tươi thắm, giọt máu đó
xối vào sắt, sắt phải tan, giọt máu đó rưới
vào ma, ma phải tránh. Người Nhật
Bản có câu rằng "Tinh thành sở chí kim thạch
năng khai" nghĩa là khi
tinh thành đã tới nơi, dầu đá vàng cũng nức
nở. Ông Khổng Tử có câu: "Thất
phu bất khả đạt chí", nghĩa là chí vững bền của
một người không ai cướp
được. Những câu nói đó, đều là vẽ cả nết
nhiệt thành người ta, có đầy đủ một
tấm nhiệt thành mới trọn vẹn mười phần ái quốc,
thành mà không nhiệt thời kém
phần nóng sốt, mà cái thành đó dễ
nguội, nhiệt mà không thành kém sức vững
bền,
mà cái nhiệt đó dễ lạnh, đã thành
lại nhiệt, đã nhiệt lại thành thời thần quỷ
phải kinh, gió mưa chông gai cũng phải dẹp, chỉ có
ai sợ ta, mà ta không phải
sợ ai, chỉ có ai ỷ lại vào ta, mà ta không ỷ
lại vào aị
Đã biết nước là mẹ ta, thời dầu hy sinh ta với nước
mà ta không quản, trong óc
chỉ có nước, ngoài việc nước ta không màng
gì lợi, ta không thiết gì danh;
nhiệt thành thế này mới là ái quốc,
ái quốc thế này mới hay cứu quốc.
Ruột tằm máu quốc thề sống thác với non sông, dạ
sắt lòng son chẳng lụt sờn vì
mưa nắng, nhiệt thành như vậy, người nước ta có
khó gì tự lập đâụ Vậy nên trong
bài tự lập lại cần nhất là vị thuốc này: "Bụng
nhiệt thành" 10 phân
luyện chín.
11. Chương
thứ mười một Chữa chứng bệnh "không
biết hợp quần"
Các chứng bệnh như trên kia là các chứng
bệnh cá nhân. Bây giờ lại kể một chúng
bệnh như sau này là bệnh chung về đoàn thể. Người
ngoại quốc thường khinh bỉ
người nước ta, có một câu rằng: "Không có một
đoàn thể nào từ ba người trở
lên". Câu nói đó, thoạt mới nghe, tưỡng chừng
là quá đáng, nhưng xét cho
đến tình hình xả hội nưóc ta, tinh thần người
dân nước ta, tan tan, tác tác,
rạc rạc, ghét nhau, ngờ nhau, ai lo thân nấy, bảo rằng
không đoàn thể từ ba
người trở lên, vẫn có thể thật.
Suy cho đến nguyên cớ bởi vì sau đây, thời chỉ
vì không biết nghĩa hợp quần mà
thôị Hợp quần là saỏ Là hợp cả một bầy lại cho
thành một đoản thể. Ví như tay
chơn tai mắt có hợp mới thành được một thân; cột
kèo rui mèn có hợp mới thành
được một nhà; từ việc nhỏ đến việc to, muốn nên một việc,
tất phải có một bầy;
muốn nên một bầy, tất phải có cách hợp. Thuở xưa
giao thông chật hẹp, núi bể
chia lìa, mưa gió riêng trời mình, bờ cỏi
riêng đất mình, người mình đua đuổi
với người mình, dầu kém dầu hơn, dầu thua dầu được, cũng
chẳng qua là nhà mình
mình ở, của mình mình ăn, nếu không biết hợp
quần cũng chưa lấy gì làm tai hại
lắm. Thử xem đời bây giờ có thể được ử Bể Đông
Tây chung nhau làm một vũng câu;
châu Âu Á chung nhau làm một rừng bắn, người
đem cả trăm chân nghìn tay, trăm
khôn nghìn khéo dắt đoàn kéo lủ
mà áp đến nhà mình, xô cửa phá
buồng, bửa rương
móc túi, bầy người càng đông thời thế người
càng mạnh, bầy mình càng ít thời
thế mình càng cô, lửa đốt nhà đã tận
nóc, nước nuốt thuyền đã tận mui, mà bà
con trong nhà, trong thuyền đây hãy còn anh
với em cắp dao trỏ nhau, lái với
bạn trừng mắt dòm nhau, kể việc rất ngu ở trong loài
người có ai hơn thế nữa!
Than ôi! Thịt nát thì xương cũng tan, môi mất
thì răng cũng la.nh. Nghĩa hợp
quần đó còn mờ mịt thêm một ngày thời họa
diệt chủng càng câp bách thêm một
ngàỵ Ôi! Các anh chị em! Cái chứng bệnh
không biết nghĩa hợp quần đó không biết
chữa mau, còn chờ gặp ma Chiêm Thành mà gục
đầu thú tội saỏ Thấy tình cảnh các
anh chị em mà óc tôi nhức, máu tôi
sôi, tay chân tôi nổi gai gốc. Tổ tiên ta
nếu còn thiêng, nòi giống ta nếu còn
phúc thời chứng bệnh ly quần đó chắc được
một vị thuốc sẽ chũa lành ngaỵ Tôi nghĩ đi nghĩ lại, suốt
mấy đêm ngày mới được
một vị thuốc là giãi "Đồng tâm". Đồng tâm
nghĩa là người nào người
nấy đồng một lòng: giãi đồng tâm nghĩa là ức
muôn triệu người kết hợp nhau làm
một dây, thân thể tuy khác nhau, mà tinh thần
in nhau như hệt. Xưa ông Trụ có
ức muôn người, hưng cũng ức muôn bụng: vua tôi
Võ Vương có mười người, kết quả
thời vua Võ Vương được mà ông Trụ thuạ Đó
mới biết rằng tâm đồng nhau thời
nhược hóa nên cường, tâm chẳng đồng thời cường
hóa nên nhược, Vì sao thế? Lòng
khác nhau thời rẽ bầy, rẽ bầy thời mạnh hóa nên
hèn; lòng đồng nhau thời chung
bầy, chung bầy thời hèn hóa nên ma.nh. Vậy
nên hai chử "Đồng tâm" là
phương thuốc hiệp quần rất thiêng liêng, rất ứng nghiệm.
Tuy nhiên có kẻ nói rằng: "đông ngưòi
thời tất phải nhiều bụng, nhiều bụng
thời không thể nào đồng lòng. Cái sự đồng
tâm đó thật là khó khăn lắm".
Ôi! Các anh chị em! Câu nói đó thật
quá ngu! Xưa nay đồng lòng, không đồng lòng
chỉ vì có một cớ: chủng tộc không đồng, ngôn
ngữ không đồng, tập tục không
đồng, thế mà muốn đồng lòng vẫn khó lắm. Đến như
người nước ta, nòi giống vẫn
đồng với nhau, ngôn ngữ vẫn đồng với nhau, tập tục vẫn đồng với
nhau, mà huống
gì lối tử sinh đường vinh nhục lại đồng với nhau; chim ở chung
một rừng, cá ở
chung một bể, nếu chẳng may bể khô rừng cháy thời một
lồng, một tấm vãy còn
mong sống sót được saỏ May gặp lúc bây giờ rừng
hãy còn cây, bể hãy còn nước,
kết hợp cả bầy, đồng một lòng, chung một dạ, tính đường
đi đứng, lựa bước lên
lui, dắt nhau ra khỏi ngục trầm luân, kéo nhau
thoát khỏi vùng đồ thán, xoay
họa xưa làm phúc, rửa vết dơ trong pho sử củ, thay lấy vẻ
vinh quang biết bao
nhiêu công nghiệp lớn lao chỉ ở trong một gốc lòng
anh chị em mà nên tất cả.
Vậy thời giãi đồng tâm đó thật là phương
thuốc khỡi tử hồi sinh của món ta
không còn gì hơn nữạ Vậy nên trong bài
thuốc "Tự Lập" có một vị thuốc
như sau này: "Giãi đồng tâm" một dây
càng kiên thực càng tốt.
12. Chương
thứ mười hai Chữa chứng bệnh "mê tín
hủ tục"
Nưóc ta kể người có 25 triệu, kể đất có 70 vạn
ngàn thước vuông tây, nếu làm
một nước tự lập chắc không khó gì! Cớ sao mà
hèn hạ suy đồỉ Thuở xưa còn làm
một nước phụ dung, tới bây giờ lại trụt xuống làm một nước
nô lê.. Ôi! Nước ta
không phải một nước hay saỏ Người nước ta không phải
là người hay saỏ
Không phải, nước ta vẫn là một nước, người nước ta vẫn
là người, nhưng chỉ vì
dân không có quyền, nên mỗi bước không
tự lập. Dân vì sao mà không có quyền?
Thời vì dân không trí; dân không
có trí; nên mới mê tín quá
nhiềụ Bệnh mê tín
rất nặng là mê tín quyền vua; vì mê
tín quyền vua, nên mê tín quyền quan,
mà
quyền vua quyền quan lại lợi dụng quyền thần làm xe pháọ
Ba quyền đó một ngày
một nặng, thời quyền dân không còn một tí
gì; quyền dân đã không còn, thời
dân
dại, dân yếu đuối hư hèn, muôn việc chỉ trông
mong vào vua với quan. Vua với
quan không làm xong, thời trông mong vào
thần; đến thần cũng không làm xong,
thời bó tay chịu chết. Mấy ngàn năm trở lại triều
đình là bồi bếp của một nhà,
nhân dân là ngựa trâu của một họ; mấy mươi
triệu đầu đen máu đỏ, còn gì là tư
cách người; rặt là mù mà người mù
có mắt; rặt là điếc, mà người đếc có tai;
rặt
là câm; mà người câm có miệng, rặt
là què mà người què mà ngưới
què có chân
tay; cái việc lạ lùng quái gở ở thế gian,
không ai như người nước ta nữạ Thăm cho
đến gốc bệnh, chỉ vì mê tín những tục hủ cổ
mà thôị Mê tín vua, mê tín quan,
chưa lấ gì làm kỳ, kỳ thứ nhất là mê
tín thần; vì mê tín thần đó mà
sinh ra vô
số việc nực cười; ngày giờ nào cũng là trời
bày định, mà bảo rằng có ngày dử
ngày lành; núi sông nào cũng
là đất tự nhiên, mà bảo rằng có đất tốt đất
xấu;
vì nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng ông thần
táo; vì che mưa gió mới có nhà;
mà
bảo rằng có ông thần nhà; cho đến thần cửa, thần
đường, thần cầu tài, thần cầu
tử, trăm việc gì cũng trông mong vào thần, kết quả
thời thần chẳng thấy đâu,
chỉ thấy cửa nát nhà tan, của mòn người hết.
Tin thần bao nhiêu thời tai họa bấy nhiêụ Kìa xem
như đạo Thiên Chúa chỉ sùng
phụng một vị Đức Chúa Trời ngoài ra không thần
gì cả, nhưng nuớc vẫn mạnh, nhà
vẫn giàu, người họ vẫn sung suớng, họ chỉ thua ta một việc: thần
đã không tế
thời xôi không, thịt không, heo bò cũng
không, mà phần kỉnh phần biếu đều không
tất cả; nhưng họ vì đó mà của hao thời ít,
của nở thời nhiều, tốn phí vô ích
bớt một phân. Ấy mới biết rằng mê tín thần quyền
là tục ngu hủ của người ta,
thật rõ ràng rồi đó. Tục ngu hủ đó
không quét sạch thời nền phú cường kia không
bao giờ dựng nên. Nhân vì ngu mà sinh ra hủ,
nhân vì hủ lại thêm ngu, mắt người
bị người bịt, mà lại bảo rằng trước mí mắt không
nước non; tai bị người bưng mà
lại bảo rằng bên lổ tai không gió sấm; tay
chân bị người người xiềng khóa mà
lại bảo rằng tay chân mình đáng số cu li!
"Chúng tôi dại dột", câu
nói ấy giắt chặc ở bên lưng. Quỳ lạy trước tượng đất
hình bùn mà xem làm quốc
túy; giữ gìn lấy áo hôi mũ thúi
mà bảo rằng gia truyền! Ngẫn ngơ, ngơ ngẫn đến
thế thời thôi! Trông người lại gẫm đến ta, thiệt cười dở
mà khóc cũng dở.
Than ôi! Xưa nay chứng bệnh mê tín hủ tục kia phải
gấp chữa mau mới có lẽ sống.
Tuy nhiên, muốn chữa chúng bệnh đó, phải thế
nàỏ Xưa nay, những tập tục hủ bại
vì có hai lẽ; một thời vì cơ quan giáo dục
chẳng hoàn toàn, một thời vì trí
khôn người ta chưa phát đạt.
Từ thế kỹ 19 trở lại đây, khoa học các nước cảng
ngày càng phát sinh, trí não
các nước càng ngày càng nẫy nở. Thử xem
điện học phát minh mà ông "thần
lôi" đã không dám hống hách; địa học
phát minh mà nhà phong thủy long hổ
đã không dám múa men; sinh lý học
phát minh mà thần rắn quỷ trâu đã
cùng đường
trốn tránh; huống gì học thuyết Lư thoa đã xuất
hiện thời quyền dân với quyền
lao động đã vùn vùn vụt vụt như gió thổi,
như thủy triều lên, dầu ai muốn ngăn
mà ngăn sao đặng? muốn cấm mà sao cấm đặng? Ngọn cờ thần
quyền chắc rày mai
cũng bị trận gió văn minh kia đánh đổ, mà
vách tường hủ tục cũ chắc cũng bị làn
sóng văn minh kia đánh tan.
Thế thời muốn chữa bệnh mê tín ngưới nước ta, không
thuốc gì hơn trí thức mới
nữạ Trí thức đó, nếu tìm tòi suy xét
thăm cho tận gốc, dò cho tận nguồn biết
tính người là thiêng hơn vạn vật thời không
thần gì hơn thần ở tâm; biết nhơn
dân là quí trọng hơn vua với quan, thời không
quyền gì hơn quyền lao đô.ng. Có
óc thời ta dùng sức nghĩ, có tai thời ta
dùng sức nghe, có mắt thời ta dùng sức
thấy, có tay chân thời ta dùng sức hoạt động, đua
khôn đấu mạnh cùng dân các
nước đời nay, 20 triệu con Lạc cháu Hổng bỗng chốc mà tỏ
ra giòng thần giống
thánh.
Người nước ta có khó gì tự lập đâủ Vậy
nên dùng bài thuốc tự lập, phải có một
vị dầy "Trí thức mới" 10 phân, trộn vào "hoa tự do"
không
kỳ nhiều ít.
13. Chương thứ mười ba Chữa chứng bệnh "không biết đường kinh tế"
Nếu có ai hỏi rằng: nước vì sao mà mạnh, dân
vì sao mà giàủ Thời tôi xin trả
lời rằng: "Nguồn bể phú cường chỉ cốt ở đường kinh tế." Người ta
nghe
hai chử "kinh tế", chưa hiểu nghĩa ra làm sao, huống gì
là đường kinh
tế. Xưa truyện Đại học có câu rằng: "Sinh chi giả
chúng, thực chi giả quả,
vi chi giả tật, dụng chi giả thư", nghĩa là của sinh nở ra thời
nhiều, của
ăn tiêu đi thời ít, người làm của thời cần
kíp, người dùng của thời dè dặt. Sách
Tây cũng có câu: "Những hạng người sinh ra lợi thời
nhiều, những hạng
người chia mất lợi thời ít", Góp hai câu nói
đó thời cách đường kinh tế,
dầu đông tây cũng chẳng khác gì. Nói
tóm lại, chỉ có một cách sinh nở thời
thường vô cùng, mà tiêu hao thời thường phải
hạn, của trời đất sinh ra thời
biết đường lợi dụng, của nhân lực làm ra thời biết đường
mở mang, có thế mới
gọi là "Kinh Tế". Người nuớc ta thời thế nàỏ Việc
tiêu dùng thời
không biết đường hạn chế, cách làm ăn thời
không biết đường cải lương, sự
nghiệp dân sinh trong một nước chỉ nhờ cậy về nông,
chân lấm tay bồng, kẻ làm
khôn hết mực, cày sâu cuốc bẩm, xem làm
khéo cùng kỳ. Ngoài mấy đám đồng cạn
ruộng sâu, nào khoáng sản, nào sơn
lâm, nào công trình nào thủy lợi chẳng
biết
một tí gì. Người ngoại quốc lấy máy móc đở
tay chân tay, mà mình thời không
biết đua, của sinh sản ngày không một hào một li,
mà của tiêu xài ngày có hàng
nghìn hàng vạn; thấy người ta sang trọng, ta cũng sang
trọng, nhưng cái đồ sang
trọng đó rặt là cắt thịt nhà để vá
cánh giặc; thấy người ta sung sướng, ta cũng
sung sướng nhưng cái mồi sung sướng đó, rặt là nặn
sữa mẹ để nuôi người dưng.
Bao nhiêu vật lạ của ngon, nào rượụ nào thuốc,
nào trà, nào vải bông, gấm vóc,
không một thức gì là tay chân mình chế
tạo, mà cũng không một đồng tiền nào
không phải máu mủ mình ép ra; tiền của người
không một đồng nào vào tay mình,
mà máu mủ mình thời trót tháng quanh
năm chỉ những trét miệng hùm, no bụng sấụ
Trí khôn người ta như thế, còn nói "Kinh Tế"
được đâu! Than ôi! Thiên
thời ta vẫn tốt, địa lợi ta vẫn giàu, mà tay mắt tay
chân ta vẫn không kém gì
ai cả! thuốc ta, rượu ta, trà ta, vải vóc ta, không
dùng được hay saỏ
Không chế tạo được hay saỏ Cớ sao thợ thuyền buôn
bán thời không thấy tới, mà
chỉ thấy lui; xài phí ăn tiêu thời chỉ thấy
thêm mà không thấy bớt, đã một mặt
thời quen nết tham thanh chuộng lạ, một mặt thời giử nết ở nể ăn
không; bể toan
khô nước mà ngồi đợi trời mưa, đèn toan hết dầu
mà nằm chờ trăng mọc.
Người ngu ngẩn đến thế, không chết rày thời chết mai, chỉ
e mấy tấm ván hòm
chưa dự bị bao giờ đă.ng. Tôi nghỉ đến nông nổi thế
mà khóc than cho vận mệnh
người nước ta, chúng bệnh về đường kinh tế nếu không lo
chạy chữa cho mau thời
nòi giống chúng ta chẳng tuyệt diệt về thủy hỏa, binh
đao, mà tuyệt diệt về đồ
ăn thức mặc! Ai là người có tâm huyết, chắc cũng
lấy lời nói làm đúng rồị Bây
giờ xin nghĩ một vị thuốc để chữa chứng bệnh nàỵ Vị thuốc ấy
là giải đấỷ Là vị
"Nội Hóa" Trình độ dân ta còn thấp
trí thức dân ta còn non, bảo nhờ
cậy việc công, việc thương, sẽ đấu mạnh đua giàu với
các nước, cái hy vọng đó,
ở ngày nay thiệt chưa có được ngay, song e tục ngữ
có câu rằng "Khéo ăn
thời no, khéo co thời ấm", đồng bào ta bây giờ
mà muốn cho được điều no,
điều ấm thời phải có một cách khéo mà
thôi.
Đường sanh lợi chưa có thể phát đạt được đến mười
phân thời đường tiêu xài phải
dè dặt từ một li, một mảy cần thứ nhứt là dùng nội
hóạ Đó thiệt là một vị cứu
cho chứng bệnh người tạ Đồ ăn ta; ta ăn, đồ mặc ta; ta mặc, đồ
dùng ta; ta
dùng, dầu mỡ máu mủ ta, ta bồi bổ cho ta, bớt một li của
ra tức là thêm một li
của vào, bớt một đồng tiền chết, tức là thêm một
đồng tiền sống. Nội hóa tiêu
dùng ngày càng chảy, thời các món
công thương nghề nghiệp cũng nhân đó mà cạnh
khéo đua khôn, đắp tư cơ sẽ tạo nên thời, đúc
trí tuệ sẽ gây nên thế, họa may
bụng đà khỏi đói, mà óc cũng thêm no;
dân sinh đã khỏi nỗi khốn cùng thời dân
trí cũng có cơ tấn bô.. Theo tạo nhân
mà tìm đường kết quả, cái việc chấn hưng
nội hóa đó chẳng phải là gấp lắm saỏ Vậy nên
trong bài thuốc tự lập phải có một
vị thuốc như sau này "Nội hóa" một vạn thức, kiêng
ngoại hóạ
14. Chương thứ mười bốn "Chữa chứng bệnh" "không biết thương nòi giống"
Người ta còn một chứng bệnh rất to, là chứng bệnh
"không biết thương nòi
giống ". Người ta mắc lấy chứng bệnh đó, chẳng những trái
hẵn tính loài
người, mà với các giống vật có một điễm trí
khôn cũng còn thua kém nữạ
Kể chứng bệnh ác độc thứ nhất, không gì hơn chứng
bệnh này: Kìa con ong vẫn có
nọc, mà ong ở chung một ổ không bao giờ cắn nhau; cọp vẫn
hay ăn thịt, mà cọp ở
chung một xứ không bao giờ ăn nhaụ Thường xem bầy kiến, nó
vẫn là một loài vật
rất nhỏ nhen, mà cũng có một điễm tốt rất lạ: nó ở
chung nhau một bộng, có hàng
trăm hàng ngàn con, một con đi ra thoạt thấy được mồi ăn,
thời tức khắc chạy về
tin cho anh em mình cả; tha mồi thời khó nhọc chia với
nhau, ăn mồi thời ngon
ngọt chung với nhau, không bao giờ được mồi mà ăn
riêng cả; lại có khi tránh
mưa trốn gió, dắt đoàn kéo lũ đi chung, con nhỏ,
con lớn, đoàn trước, đoàn sau,
dắt nhau đi không khác gì một đội quân
lính; chẳng may giữa đường có con nào bị
tử thương thời chúng kiến xúm nhau cõng nó
về hang, không bao giờ bỏ bạn chết
mà đi cả! Thế mới biết thương nòi giống, dầu loài
vật cũng có tấm lòng thành,
chung một máu mủ thời họa phúc chia nhau, nghĩa đồng
tO17; đồng sinh vẫn trước
sau một mực.
Vật còn như thế, người có lẽ thua nó hay saỏ
Quái ngán thay! Lạ lùng thay! Đến
người nưóc ta thời khác hẵn! Tục ngữ có câu
rằng: "Gà một chuồng bôi mặt
đá nhau!" lại có câu: "Kẻ chết đã xanh,
người nhăn nanh mà
cười!" lại có câu: "Đi ra tưỡng bắt trâu cò,
trâu cò không bắt, bắt
bò, bò ôi!", mấy câu thí dụ đó,
ngẫm nghĩ cho kỹ thiệt là về nết xấu của
người nước ta quá đúng rồi đó.
Ôi! Các anh chị em! Máu in nhau giọt đỏ, da in nhau
sắc vàng, đầu in nhau tóc
đen, mắt in nhau tròng mắt, giống
Tiên Rồng, nòi Hồng Lạc trãi qua mấy nghìn
năm mới có bây giờ con một họ, cháu
một giòng, nếu cứ như lẽ thường chắc máu ai thấm thịt
nấy, đánh đá thời đau đến
lòng gạch, chết thỏ thời sa nước mắt hồ; vẫn đạo trời có
thế mới đương nhiên,
mà tính người cũng có thế mới chính
đáng. Cớ sao mấy mươi năm gần đây tình hình
ở xã hội, cách hành động các anh chị em ta,
thương nhau, bênh nhau, chẳng bao
lăm người, mà ghét nhau, hại nhau thời không xiết
kê?? Rước voi dầy mồ ông vải,
cõng rắn về cắn gà nhà, việc đó thiệt bất
nhân vô đạo đã quá chừng, mà người
mình trở lại nhận làm khôn làm khéo!
Xin ai thử nghĩ, mồ ông vải trúc, mà voi có
ơn gì đến mình không? Một mai gió
mây biến hóa, dâu bể đổi dời, voi đã tan
xương, rắn cũng đứt nọc, các ngài lúc
bấy giờ đêm khuya mò bụng hỏi bóng thăm
hình, mồ tan hoang vì aỉ Gà nhao nhác
vì aỉ Mình còn mặt mũi nào thấy ông
bà ở dưới đất, trông cô bác ở trên đờỉ
Đau
đớn thay! Tội tình thay! Cái chút bệnh không
biết thương nòi giống đó, hú ba
hồn chín vía các ngài, nên thang
thuốc cho mau mới phải! Bây giờ tôi xin làm ơn
cho các ngài vị thuốc này: "Giống thân
ái" đó, vào trong lòng ngườị
Người v ` có hột giống ấy mới khai nên hoa, mới kết
nên quả, mà nòi giống người
mới sinh trưỡng vô cùng. Nếu lòng người mà
không có hạt giống ấy thời gọi rằng
"Lòng chết" .
Ông Lão Tử có câu: "Ai mạc đại ư tâm
tử", nghĩa là người ta lòng chết
không gì đau đớn hơn; nếu thiệt lòng người thời bao
giờ chết đặng! Lòng mà đến
chết, vì không hột "giống thân ái" mà
thôị
Đức Gia Tổ có câu: "Ái nhân như kỹ", nghĩa
là thương yêu người như
thương yêu mình. Đức Phật Tổ có câu: "Nhất
thiết từ bi", nghĩa là
không kể người không kể ta, nhứt nhứt luật thương yêu
cả.
Đạo Nho cũng có hai chử "Khiêm ái". Nhà
triết học Tây cũng chủ trương
hai chử "Bác ái". Xem chừng như những đạo lý
các thánh hiền nói đó,
thời hể chung một loài người dầu ai cũng nên thân
ái, huống gì chung một nòi
giống nữa ru! Nòi giống ta, ta thương yêu lấy nhau;
có cơm ta no chung, có áo
ta ấm chung, có nhà cửa ta ở chung, gặp việc vui ta vui
chung, vì hột giống
thân ái đó càng ngày càng nẩy
nở, hoa tự do nhân đó mà muôn tía
ngàn hồng, Nam
reo Bắc thổị Việc đồng tâm của 25 triệu nòi giống ta chắc
cũng do ta rày mai mà
trông được hẳn! Vậy nên ở trong bài thuốc tự lập lại
còn có một vị như sau này:
giống "thân ái". Hằng hà sa số hột, hột nào
càng chắc càng hay!
15. Chương sau hết Bài tóm cách làm việc
Các chứng bịnh đã chữa lành rồi bây giờ mới
tính cách làm việc.
Thứ nhất là phải có chủ nghĩa, thứ nhì là
phải có chương trình, thứ ba là phải
có kế hoạch. Có đủ ba điều đó thời việc mới
có thể làm nên.
Bây giờ xin giãi thích điều thứ nhất:
Hể phàm làm một việc, tất trước phải có chủ nghĩạ
Chủ nghĩa có tốt có xấu, có
phải có chẳng, Khi ta bắt đầu sắp sửa làm việc thời ta
phải hết sức kén chọn
Thấy chủ nghĩa gì đã tốt lại phải, thời ta phải giử chặc
chủ nghĩa ấy mà làm;
ví như bắn bia phải nhìn các trung tâm bia
cho chắc chắn; ví như vượt bể tất
phải dòm xét cái mũi châm phương hướng cho
kỹ càng. Trung tâm bia đó đã nhìn
được chắc chắn bắn mới không sai, châm phương hướng
đó xét được rành thời
thuyền đi mới không lỗị Người làm việc mà có
chủ nghĩa, đó là vào trường bắn mà
xem thấu bia, vặn máy thuyền mà định chắc hướng, Vậy
nên người làm việc, trước
hết phải kén chọn chủ nghĩa cho vững vàng. Bây giờ
lại giãi thích điều thứ nhì:
Khi sắp sửa làm việc thời kén chọn chủ nghĩa vẫn cần lắm;
nếu đã có chủ nghĩa
mà khi bắt tay vào làm mà không
có chương trình, thời như người đánh cờ mà
không tính suốt cả bàn, vội vàng lụp chụp,
thấy nước thời đi, nước sau đem lại
nước trước, nước trước đem lại nước sau, thời bàn cờ đó
tất nhiên phải thuạ Vì
vậy, làm một việc gì, tất phải định một cái chương
trình cho việc ấỵ Ví như
muốn đi một lối đường từ Huế ra Hà Nội, tất phải tính
toan từ khi bước chân ra
đi, cho đến khi tới Hà Nội, tiền đi xe lửa tốn hết bao
nhiêu, tiền đi ô tô hết
bao nhiêu, tiền đi xe tay và tổn phí ở trên
xe hết bao nhiêu, lại phải nghĩ
trước cả mọi điều, như giấy thông hành, giấy căn cước, đồ
hành trang, người đày
tớ, với giữa đường phải xuống ga nào; đến nơi thời trú
những nhà nào; vả lại,
khi giữa đường hoặc khi đến nơi, có điều gì trở ngại hay
không, thời phải tính
làm cách gì cho trơn chảỵ Lại như tiền tổn
phí, tất phải phòng dự, chớ "đo
bò làm chuồng", lỡ khi thiếu thời dang dở; việc
phòng bị tất phải sắp đặt
sẵn sàng, chớ "bắc nước đòi gà"; sợ khi gấp thời
không xong.
Người trỏ lối đưa đường phải lựa cho thập phần chắc chắn, chớ có
rước thầy mù
coi đất mà đến khi lỡ làng. Tính toán
các điều ấy đủ rồi thời ta định sẵn một
cái chương trình, việc gì trước ta làm
trước, việc gì sau ta làm sau, việc gì
lành ta theo, việc dữ thời ta tránh. Chương trình
chắc chắn, noi đó mà đi, có
sợ gì đi không tới nơi đâủ Bây giờ lại
giãi thích về điều ba: Hể phàm một chủ
nghĩa vẫn chính đáng, chương trình vẫn tinh tường,
còn một điều đáng lo là còn
sợ kế hoạch không được hoàn thiện, vậy nên cần
có kế hoa.ch. Ông Khổng tử có
câu rằng:
"Hiếu mưu nhi thành", nghĩa là làm việc phải
có tìm mưu mẹo, mà mưu
mẹo phải tìm cho đến chốn đến nơị Sách Binh thư có
câu: "Đa toán thắng,
thiểu toán bất thắng", nghĩa là tính toán
được nhiều nước thời ăn hơn,
tính toán được ít nước thời phải thuạ Ví
như hai người vật nhau một người sức
mạnh mà không có mẹo, một người sức yếu mà
có nhiều mẹo, thời người sức yếu
chắc ăn hơn. Cái mẹo đó, tức là kế hoạch;
mà trong khi tính toán kế hoạch, thời
phải đủ ba điều: một là cân nhắc về phần trí
khôn; hai là cân nhắc về phần lực
lượng; ba là cân nhắc về phần thời thế. Lựa trong ba điều
đó, mà tính toan bày
đặt cho đủ cả mọi đường, như làm một bài tính,
không bỏ sót một con số nàọ Đó
là kế hoa.ch. Việc thiên hạ đầu nhỏ đầu to, nhưng mỗi một
việc tất phải có một
kế hoạch; nếu kế hoạch được tinh tường chu đáo, thời có
việc gì là chẳng nên?
Nói tóm lại, làm việc phải có chủ nghĩa,
mà mình đối với chủ nghĩa tất phải hết
sức trung thành, thà là vì chủ nghĩa
mà giết mình, chẳng nên vì mình
mà giết
chủ nghĩa. Như ông Tôn Văn trót một đời người hết
sức trung thành với "Tam
Dân chủ nghĩa", thật là gương cho ta đó. Còn
ngoài ra như chương trình tất
phải châm chước cho kỹ càng, tổ chức cho hoàn
thiện, mà lại phải có kế hoạch
cho kỹ càng thời chương trình mới thực hành được;
nếu có chủ nghĩa mà không có
chương trình, thời chủ nghĩa không bao giờ thực hiện; nếu
có chưong trình mà
không kế hoạch thời chương trình không bao giờ
thành công. Vậy nên ở trong cách
làm việc phải cần có cả ba điều đó.
Lại còn có một lẽ người ta cần phải biết, biết
không thấu thời làm không xong.
Ông Tôn Văn có câu nói rằng "Tri nan
hành dị", nghĩa là biết được
rành thời khó; đã biết rồi mà làm
thời dễ. Nếu anh em làm việc cần phải biết
cho rành. Lại còn một tệ bệnh, người ta càng
nên biết lắm.
Thí dụ: Muốn lấy trộm một nhà ông giàu thời
làm thế nàỏ những khi bình thường
phải giả ngẫn giả ngơ, giả khờ giả dại, chớ cho ông nhà
giàu đó biêt mình là kẻ
trộm bợm. Vậy sau khi thực hành mới dễ được thành
công. Ông Lão Tử có câu nói
rằng: "Đại trí nhược ngu", Nghĩa là những người
khôn rất to thời phải
làm như hình người ngụ Lại có câu rằng: "Đại
xảo nhược chuyết", nghĩa
là những người khéo rất to, thời phải làm như
hình người vu.ng. Vậy nên những
người muốn làm việc, trước phải bồi dưỡng hai cái tinh
thần:
1 Tinh thần nín nhịn;
2 Tinh thần tránh tiếng.
Hay nín nhịn thời chớ có giận vặt với hung hăng những
thói vũ phu; hay tránh
tiếng thời chớ có bán tiếng mua danh, để cho những người
tầm thường không kể
mình là giỏi mới là haỵ
Sách Binh Thư có câu rằng: "Tịnh như xử nử, động
như thoát thố". Câu
trên nghĩa là: Khi ta hãy còn lặng lẽ, thời
êm đềm kín đáo như chị con gái chưa
lấy chồng ở trong một chốn buồng sâu, vẫn mình là
rất muốn lấy chồng, mà không
để cho ai biết". Câu nói đó là bày vẻ
cách kế hoạch cho người ta làm việc.
Câu nói dưới nghĩa là: "Khi ta hành động tất
phải nhìn theo thời thế mà
theo cho gấp, như con thỏ ở trong lồng mà được xổ ra, thời bổng
chốc mà chạy
rất mau, dầu ai lanh đến mấy cũng không có thể bắt được
nó". Câu nói đó là
bày vẻ cho cách người ta hành động. Cách
làm việc nếu được như hai câu nói đó
thời việc gì cũng thành công; nếu không được
như hai câu nói đó, thời việc gì
cũng thất bại.
Tuy nhiên, lại có một lẽ: Hể phàm tính việc
thời tất muốn thành công, mà đã có
gan làm việc thời lại phảI không sợ thất bại; bởi
vì, hể làm việc tất phải trải
qua một lối thất bại mới đến thành công.
Sách Tây có câu: "Thất bại là mẹ đẻ ra
thành công". Tục ngữ ta có câu
rằng: "Đứt tay mới hay thuốc", Vây nên những việc thất bại,
chính là
trường học thiên nhiên mà dạy bảo cho mình
đến thành công. Người ta chỉ sợ mình
không có gan làm việc, còn thất bại thời
không nên sợ gì; càng thất bại càng
làm, càng làm càng sinh ra khôn
khéo; trải qua một phen thất bại thời thêm ra
được một mối thành công. Vậy mới biết: Thất bại là
mẹ đẻ ra thành công, có thế
thật!
Chung
Cao
Đẳng Quốc Dân này.
Dẫn ngôn
Nước ta bây giờ đang cần có sách ho.c. Học
sách Tàu\? Hán văn đã không
còn
thích dụng ở đời naỵ Học sách Tây\? Pháp văn
còn chưa mấy người thông hiểu. Lấy
người mình đọc tiếng mình, thì sách nước
mình ở lúc bây giờ không gì hơn
làm
bằng quốc văn. Tuy nhiên việc làm sách đó
có dễ dàng đâu! Tất phải: dò xét lịch
sử của nước mình đời xưa, thăm dò tệ bệnh của nước
mình ngày nay, trông các
gương liệt cường ở hiện tại, đo tính vận mạng dân tộc ở
tương lai, nghĩ thế
nào, viết một chữ, mở một lời mà hữu ích cho
nhân tâm thế đạo, có thế sách mới
có giá trị...
Tôi viết quyển sách này, chẳng qua dâng một
phần nghĩa vụ với Quốc dân, hay dở,
đúng không, hoặc có công hiệu gì
không, thì quyền ở người đọc sách. Khổng Tử
nói:"Tri ngã giả, kỳ duy Xuân thu hồ, tội
ngã giả, kỳ duy Xuân thu
hồ" , nghĩa là ai biết lòng ta tất ở sách
Xuân thu, ai bắt tội ta tất cũng
ở sách Xuân thu. Quyển sách tôi viết
đây cũng nói như vậy.
Sào Nam,
1927
1. Chương
thứ nhất Nghĩa hai chữ "quốc dân"
Xưa nay người ta thường hay nói đến nước thì trước hết kể
vua, thứ nửa quan,
còn dân không bao giờ kể đến. nhưng đời bây
giờ thì khác thế! Bên Âu, bên Mỹ
cho đến Nhật Bổn, Trung Hoa ở Á Đông, họ không
nói đến nước thì thôi, thoạt nói
đến nước thì tức khắc nói đến dân, tai nghe chữ
Quốc dân, mắt thấy chữ Quốc
dân, miệng đọc chữ Quốc dân. Quốc dân! Quốc
dân! Hai chữ đó như hình cha cha mẹ
mẹ, không bao giờ quên.
Gần mấy năm đây, làn sóng Âu Mỹ tràn
vào nước ta, mà người bảo hộ ta lại là
người nước dân chủ, người ta trông có dân chủ
mà hai chữ quốc dân mới phãng
phất trong óc mình, nhưng miệng đọc hai chữ Quốc
dân mà hỏi nghĩa chữ Quốc dân
là sao chắc không ai trả lời đươ.c.
Chữ "Quốc" vì sao liền chữ "Dân", chữ "Dân"
vì
sao dính chữ "Quốc". Muốn trả lời câu hỏi đó, tất
phải theo lịch sử.
Sử nước ta đến đời Đường Nghêu mới có hai chữ "Việt
thường", đời nhà
Hán mới có hai chữ "Giao chỉ", đời nhà Đường mới
có hai chữ "Yên
Nam". Vậy từ đời nhà Đường Nghêu về trước, đã
có gì nên nước đâu, núi rậm
rừng hoang, đồng không mông hoạnh, bốn mặt chim kêu
vượn hót, một vùng nước bạc
đất vàng, xó này năm ba chú mọi, góc
nọ sáu bảy anh Lào, kể bộ lạc cũng chưa
nên gì, huống gì là nước\? Vì ai
gây dựng, vì ai mở mang, ai dọn đường, ai trổ
lối ai xẻ núi, ai đốt rừng, bỗng chốc núi rậm hóa
nên thôn cử đồng hoang gây
nên thành thị\? Đó chẳng phải ngìn vạn ức
những người tổ tiên cao tằng ta làm
nên ử Huống gì Quãng bình dĩ Nam Cao man dĩ
Bắc, xưa vẫn có đất, mà đất gì của
ta đâu\? Vẫn có người mà người gì của
nòi giống ta!
Nào Lâm Ấp, nào Chiêm Thành,
nào Mên nào Lạp, nếu không dân ta xưa
dắt đoàn kéo
đội, từ Bắc vào Nam, chải gió gội mưa, trèo non
vượt bể, khua nòi Chiêm, đuổi
bầy Lạp, hốt mấy nghìn dặm non sông mà bỏ
vào túi mình, thì cơ đồ gấm vóc như
sau này, chúng ta làm sao trông thấy được\?
Suy thấu lẽ ấy, mới biết rằng Quốc là Quốc của dân ta,
dân là ông chủ tiên
chiếm của Quốc ta. Xưa tôi làm quyễn "Hải ngoại huyết thư"
mà ông Lê
Đại dịch đã có câu rằng: "Nghìn muôn
ức triệu người chung hiê.p. "Gầy
dựng nên cơ nghiêp nước nhà. "Người dân ta,
của dân ta "Dân là dân
nước, nước là nước dân" Đọc mấy câu ấy thời nghĩa
"Quốc dân"
cũng đã rõ lắm.
Anh em thử nghĩ, trên dưới bốn nghìn năm, trong
ngoài ba mươi vạn dặm, biết bao
nhiêu giây máu hột mủ tuôn đổ ra cung cấp cho
nước đó, có một giọt nào là không
phải của dân ta đâủ Biết bao lũ trước đàn sau, dắt
díu nhau kinh dinh cho nước
đó, có người nào không phải dân ta
đâu! Vì vậy nếu không dân thì ai
làm nên
nước\? Nếu không nước thời còn quý gì
dân\? Linh hồn nước là đâu! hẳn là dân
đó! Khu xác dân ở đâu, hẳn là nước
đó! Quốc tức dân, dân tức Quốc, hai chữ
"Quốc dân" không thể rời nhau đươ.c. Nghĩa hai chữ "Quốc
dân" là thế.
2. Chương
thứ hai Quốc dân với gia nô
Đau đớn thay!
Thãm hại thay! Địa vị mình quốc dân mà chưa
từng một ngày nào được chịu cái ơn
giáo dục cho làm quốc dân; thân phận
mình quốc dân mà chưa từng một ngày
nào
được hưỡng cái quyền lợi quốc dân.
Tục ngữ có câu: "Dân như trùn như dế" lại
có câu thường nói:
"Dân như gổ tròn", điều đó suốt xưa nay, khắp
Đông Tây không một dân
nước nào như dân nước ta cã. Vì sao\? Hay
là trời cách chức quốc dân của nước
mình rồi chăng\? Hay là người nước mình
không đang nổi cái chức quốc dân
chăng\? Hai lẽ tất có một . Đạo trời rất công, lòng
trời rất nhân ái, người
nước nào cũng là con trời cả, trời vẫn xem làm
bình đẵng, trời có thương riêng
gì dân nước Pháp, nước Anh, nước Mỹ, nước Nhật
Bản\? Có ghét riêng gì nước ta\?
Cái chức Quốc dân này, có lẽ nào trời
cho ở họ mà cướp mất ở ta\? Vậy thời cái
chức làm Quốc dân vẫn là trời thưỡng cho ta
đó, nhưng tội tình thay! Trời vẫn
ban cho ta mà ta không biết vâng chịu! Xem lịch sử
nước ta từ xưa đến nay hơn
ba nghìn năm chỉ có gia nô mà không
quốc dân thâ.t. Quyền vua quá nặng, nặng
không biết chừng nào; gia dĩ quyền quan lại hứng đở quyền
vua mà tầng tầng áp
chế, từ cửu phẩm kể lên đến nhất phẩm, chồng càng cao,
ép càng nặng đến dân là
vô phẩm, thân giá lại còn gì. Thằng
này là con ngựa, thằng nọ là con trâu, buộc
cương vào thì cắm cổ cứ đi, gác ách
vào thì cúi đầu cứ lủi, gặp Đinh thời làm
nô với Đinh, gặp Trần thời làm nô với Trần, gặp
Lê Lý thời làm nô với Lê Lý,
phận con hầu với thằng ở, được đôi miếng cơm thừa canh thải thời
đã lấy làm hớn
hở vinh quang, tối năm đứng đầu ruộng mới được bát cơm, suốt
đêm ngồi trên bàn
khung cửi, mới có tấm áo mặc, mà thoạt mở miệng ra
thời chỉ nói rằng "cơm
vua áo chúa", đồn điền nầy sông núi nọ, mồ
hôi lẫn nước mắt mà cày cấy mở
mang, nhưng mà "chân đạp đất vua", lại giử chặt một
câu hoạt kê vô
lý. Than ôi! Cái tư tưởng gia nô! Bệnh gia
truyền làm nô đó không biết tự bao
giờ để lại cho chúng ta, bắt ta phãi gông đầu
khóa miệng, xiềng tay xích chưn,
mà chịu gánh gia nô cho già đời mãn
kiếp! Đau đớn thật! Thãm hại thật! Anh em
ôi! "Dân vi quý" là câu nói của
ông Mạnh Đại Hiền, "Dân vi ban
bản" là câu nói của ông thánh Hạ Vũ
hai người đó có phải nói lừa ta đâi\?
Ta ngu, ta ngẫn, ta hèn hạ quá chừng!
Mình ta sang trọng nhứt là cái quốc dân
mà ta bỏ xó đi không nhắc tới, khăng
khăng chỉ ôm lấy cái phẩm hàm gia nô
làm vinh quý; Ôi! phẩm hàm làm
gì anh em
ôi! Nhà giàu phỉnh thằng ở thời vất cho một hai
đồng tiền, nhà vua phỉnh đứa
dân thời vất cho một hai trương giấỵ Nhưng nghĩ cho ra kỹ, thời
một đồng tiền
của nhà giàu phỉnh ta đó mà thân
giá ta vẫn còn, đến như một trương giấy của
nhà vua phỉnh ta đó, thời thân giá ta
đã ô hô, ai tai rồi hẳn. Lại còn khi rủi
gặp cơn dâu bể đổi đời, tờ giấy của nhà Đinh trải qua
nhà Lý thời đã không đáng
một xu, tờ giấy của nhà Lý trải qua nhà Lê
hoặc nhà Trần thời cũng không ai ngó
đến, huống gì vì một trương giấy đó mà quỳ
mòn đầu gối, lạy lắm cả cằm râu, lại
phải vất vô số máu me, ép vô số dầu mở cung
cấp cho nhà ai mới hủ hỉ được một
trương giấy đó, thời còn gì vinh quý nữa
đâu! Gia nô! Gia nô! Cái oai kiếp đó,
từ đây nên sám hối là phải.
3. Chương
thứ ba Quốc dân nên tự lập
Ô hô gia nô! Ô hô gia nô! tủi
thân vai ngựa lưng lừa, một kiếp gia nô biết bao
giờ là thôỉ Câu hỏi đó là một
câu hỏi rất thiết ở đời bây giờ. Tôi xin trả lời
rằng:"Gia nô nay đã biết thân, thời lo gánh
chức quốc dân mới là".
Gia nô là thằng ở của một nhà, Quốc dân
là ông chủ của một nuớc, một bên thì ty
tiện rất mực, một bên thì cao quý rất mực, mắt
còn chưa mù, miệng còn nói được
thời chắc cũng muốn lấy phần cao quý mà bỏ phần ty tiện.
Ham cao quý mà chê ty
tiện là gốc tự tấm lòng lương tri của chúng tạ
Người xưa có câu
rằng:"Vương giã dĩ dân vi thiên", nghĩa là
dầu ông vua cũng phải xem
dân bằng trờị Vậy thời không gì cao quý hơn
dân hẳn. Nhưng với cái chúc Quốc
dân đó, chúng ta đã ngu hèn dại dột,
bị ai cướp bóc những tự bao giờ, nay muốn
khôi phục lại cái chức quốc dân, chúng ta
phải gấp lo thế nào mới được.
Chức Quốc dân đó ta muốn khôi phục lại, có lẽ
xin xõ với ai mà được rủ Xin với
trời, thời trời vẫn cho ta tự bao giờ, không cần xin nữạ
Sách Tây có câu: mình
hãy tự giúp lấy mình, thời trời giúp cho
(aide-toi, le ciel t’.aidra). Sách
Đông Phương có câu:"Dân ta muốn điều
gì, trời vẫn nghe theo điều ấy".
Nếu đạo lý ấy mà thật, không cần gì xin ở
trời.
Hay là xin ở người mà được rủ Lòng beo dạ
thú, mắt ó miệng hùm, người thế giới
đời bây giờ không ai thương ta hẳn. Nếu một mai mà
ta lấy chức quốc dân quốc
dân ta lại, thời ách cổ trâu, cương đầu ngựa, tức
khắc phải giải phóng cho ta
ngaỵ Lòng tham dục họ lấy gì đầỷ Tay
hung tàn họ lấy gì
sướng. Nào xe, nào ngựa, nào lầu, nào
đài, nào vợ đẹp hầu non, nào của ngon vật
lạ: những giống ép nặn máu mủ ta mà được
đó, lấy gì như ý sở cầủ Ta một ngày
thoát ngục gia nô thời nó một ngày đổ nền
phú quý, nếu ta rày xin may xõ, lưỡi
rát cổ khan, chúng nó có ân thưỡng
cho ta chỉ qua "ngọn roi" và
"ngòi bút", có đời nào mà
chúng nó đem chức quốc dân cho ta đâụ Huống
hố chức quốc dân là chúc sẵn trời ban cho ta, ta
lấy lại thời còn, ta bỏ đi
thời mất, không cần ai cho, mà ta cũng không cần
gì xin ai cả.
Ôi quốc dân! Ôi! quốc dân! Cái
chúc đó là chức rất cao quý của
chúng ta, vẫn
không ai cách được, mà cũng không ai cho
được, chỉ cốt ở lòng ta cầu, vai ta
gánh, tay ta đỡ, sức ta đua trí khôn ta tìm
tòi, quyết lấy được mà thôị
Thiệt là : "Của ta, ta cậy gì ai Gánh ta ai
có nghiêng vai đỡ
cùng".
Vậy nên tôi nói rằng: Quốc dân nên tự
lập.
4.
Chương thứ tư Bài thuốc tự lập có những vị gì?
Muốn cho quốc dân hay tự lập, trước hết phải biết tệ bệnh của
quốc dân ta những
điều gì. Có biết tệ
bệnh quốc dân ta vậy sau chứng nào thuốc ấy mới bày
ra phương tự lập được. Bây
giờ tôi xin kể những tệ bệnh của quốc dân:
1. Tính ỷ lạị
2. Lòng giả dốị
3. Thói nhút nhát.
4. Tham lợi riêng.
5. Đua những việc hư danh vô vị
6. Không lòng thực yêu nước.
7. Không biết nghĩa hiệp quần.
8. Mê tín những tục hủ cổ.
9. Không biết đường kinh tế.
10. Không thương nòi giống.
Những bệnh đó muốn chữa cho lành, phải theo bệnh
nguyênmà trị cho đến gốc. tôi
xin kê bài thuốc như sau này:
1. Khí tự cường: nặng vô số ki-lô-gờ-ram (kg)
2. Lòng thành thực: mười phần già.
3. Gan quả quyết: hai lá thực lớn
4. Lòng công ích: một tấm rất dày
5. Vai thực nghiệp: một gánh càng nặng càng haỵ
6. Bụng nhiệt thành: mười phân luyện chín.
7. Giãi đồng tâm: một dây càng kiên
thực càng tốt.
8. Trí thúc mới: 100 phân, trộn vào "hoa tự
do" không kỳnhiều ít.
9. Nội hóa: một vạn thức: kiêng ngoại hóa
10. Giống thân ái: hằng hà sa số, hột nào
càng chắc càng haỵ
Hiệp cả bài như trên kia, tổng cộng 10 vị, bài
thuốc đó là hiệp cả Đông Tây lại
một lò, hòa cả tân, cựu làm một tể,
dùng làm thuốc tự lập, chắc là không
bài
nào hơn.Anh em ta muốn biết cái ý dụng được,
tôi xin kể vị thuốc nào chứng ấy
như sau:
5. Chương
thứ năm Chữa chứng bệnh "tính ỷ lại"
Bệnh người nước ta, kể có 10 chứng , tôi đã
nói như bài trên kia mà thăm xét
cho ra chúng gì nặng thứ nhất thời có một chứng
gọi rằng "ỷ lại
tính".
Ỷ lại tính như thế nàỏ Tục ngữ có câu rằng "
Tháp đổ có Ngô xây, việc gìvợ
góa lo ngày lo đêm". Xem như câu ấy thực
đáng nực cười! Tháp đó là tháp
của ta, ta không xây được hay saỏ Nghễnh đầu nghểnh cổ
trông ngóng vào Ngô, nếu
Ngô không xây thời vạn tuế thiên thu chắc
không bao giờ có tháp. Kìa người vợ
góa thấy tháp đổ mà lo ngày, lo đêm,
vẫn là một người có tâm huyết, mà lại bị
những món bàng quan kia mỉa mai chê trách,
thế thời những người đứng xung quanh
tháp đó, tháp đổ mặc tháp, khoanh tay đứng
dòm, chém cha món này, nghiễm nhiên
là một đống bồ nhìn rồi hẳn? Hỏi vì can cớ
làm saỏ
Thời chỉ ỷ lại mà thôị Câu tục ngữ ấy thiệt vẽ
đúng tâm tính của người nước tạ
Hai muơi triệu người, ai nấy cũng mắt cũng tai, cũng tay chân
mày mặt, nếu ai
cũng lo gánh vác một phần trách nhiệm của
mình thời có gánh gì không cất nổỉ
Nhưng tội tình thay! Anh nào chị nào trong
óc cũng chất đầy một khối ỹ lại: anh
Cột trông mong vào chú Kèo, cô Hường
trông mong vào thiếm Lục, lại chắc chắn có
anh Cột cô Hường rồị Rày lần mai lửa, tháng đợi năm
chờ, kết cục không một
người làm mà cũng không một người phụ trách
nhiệm. Thế thời 25 triệu người, kỳ
thực thời không người nào cả.
Chao ôi! Ma bệnh tính ỷ lại không xua đuổi cho sạch,
còn mong có nòi giống ta
nữa đâu! Bây giờ muốn chữa bệnh ỷ lại đó, tất cần
phải dùng một vị rất quý
trọng đem dùng chửa bệnh tính ỷ lại chắc kiến hiệu như
thần. Tên vị thuốc này
gọi rằng "khí tự cường". Khí tự cường đó
không phải vay mượn cùa ai
đâu: khi trời đất inh ra ta thời phải phú dữ cho ta một
vừng chính khí. Xưa
thầy Mạnh Tử có câu nói rằng:"chí đại,
chí cường", bốn chử đó tức là
khí tự cường của tạ Xương sắt, gan đồng ngang tàng 7
thước, đã mang tiếng ở
trong trời đất, phải có danh gì với núi
sông. Ta chẳng phải là người hay saỏ Cớ
gì người mạnh mà ta hèn? Người vinh mà ta
nhục? Người chủ nhân mà ta nô lệ? Ta
chẳng oan uỗng kiếp người lắm ru! Thôi cái tội tự bạo, tự
khí, ta quyết rửa
sạch cái vết nhơ này mới thôị
Ỷ lại mà chi! Ỷ lại mà chi! Ta quyết tự cường cho
chúng mày biết. Xin các anh
em! Xin các chị em! Ai nấy cũng nhức nhối tinh thần, rán
vai nong cánh, đồng
một lòng, đều một sức, mình sắp lấy núi sông
mình, tháp mình mình xâỵ Khí
tự
cường đã đầy đủ như thế, thời ma bệnh tính ỷ lại
còn dám dùng dằng nữa đâủ
Vậy nên bài thuốc tự lập, vị thứ nhất phải dùng
khí tự cường nặng vô số
ki-lô-gờ-ram.
6. Chương
thứ sáu Chữa bệnh "giả dối"
Bởi vì có tính ỹ lại mới nảy ra các chứng
bệnh nữa: một chứng là hay giả dốị
Xưa Đức Khổng Tử có câu: "Dân vô tín
bất lập" nghĩa là người không có
thành tín thời không có thể nào đứng
nổị Sách Tây có câu: "Tin thực là một
cục vàng vô giá", nghĩa là người ở đời
không có gì quí trọng hơn tin thực.
Quái gở cho người nước ta thời lại đua nhau giả dối!
Tục ngử có câu "Trăm voi không được bát nước
xáo" lại có câu
"Mười thóc không được một gạo" Xem đó mới biết
tính chất người nước
ta, chứng bệnh giả dối là một chứng rất nặng: Sĩ hay giả dối
thời tìm tòi đạo
lý, không cậy óc mình mà cậy tai;
nông hay giả dối thời cày cấy ruộng trưa,
không cậy mình mà cậy đất; công hay giả dối
thời phấn sức lừa đời mà không cầu
thực dụng; thương hay giả dối thời đua nhau bợm vặt mà mất cả
lợi tọ Thậm chí
mướn đạo đức làm lối cầu danh mà chá vàng ở
ngoài mặt; mướn nhân nghĩa làm mồi
câu lợi mà xức mật ở đầu môị Chẵng những
ngoài đối với xả hội, trên đối với
quốc gia, gốc cây trăm năm đã bị con mọt giả dối kia đục
đổ, bức thành muôn dặm
đã bị con mọt giả dối kia xoi tan, mà lại trong đối với
một nhà, dưới đối với
một mình cũng mắc con ma bệnh giả dối đó đục thấu cao
hoang, khoét vào cốt tủỵ
Tay dối lòng, miệng dối dạ, ăn bánh vẻ mà toan đầy
bụng, mặc áo giấy mà đi với
ma, kết quả không việc gì là thật. Bệnh giả dối
đó mà không chừa, còn mong gì
nước ta phú cường được? Xưa nay đất tốt mới vắt nên
khuôn, đồng tốt mới vắt nên
tượng, người tốt mới làm nên sự nghiệp lớn, mà
lòng tin thực đó là chất rất tốt
của con ngườị Lời tục ngữ có câu: " ngay thật mọi tật mọi
khỏi".
Sự ngay thật đó là bộ xương sống của thân thể
người; nếu người không có xương
sống mà muốn tay chân đẹp đẽ mạnh mẽ, có lẽ
nào được? Vậy nên muốn làm người
tốt cần thứ nhất là lòng thành thực. Nói
một tiếng tất thành thực, dầu ngoài
muôn nghìn dặm, mà lời vàng ngọc không
bao giờ phai; làm một việc tất thành
thực, dầu trải mười trăm năm mà dạ sắc son không bao giờ
dời đổị Mình đã dốc
một lòng thành thực như thế thời phẩm hạnh mình
càng ngày càng chắc, thanh giá
mình càng ngày càng cao, ngưòi ta
tin dụng mình ngày càng nhiều, mà thế lực
mình lớn thời có việc gì không làm
nên. Vì vậy trong bài thuốc "tự
lập" cốt ở chữa chứng bệnh giả dối, tất phải dùng vị thuốc
này: "Lòng
thành thực" mười phân già.
7. Chương
thứ bảy Chữa chứng bệnh nhút nhát
Bệnh giả dối đã chữa lành rồi, nhưng còn có
một chúng bệnh nữa là thói nhút
nhát. Chứng bệnh đó chữa không lành thời
người mạnh hóa người hèn, người khôn
hóa người dại, trăm việc gì ưu thắng nhượng cho người
mà mình cam chịu về đường
liệt bại; biết việc nên nói mà tiếng không
dám hở môi, biết đường nên đi mà một
bước không dám ra khỏi cửa, miệng hùm gan sứa,
thiệt là những bọn anh hùng hào
kiệt của nước ta, mà huống chi những kẻ thôn quê
hèn hạ đó còn maong gì với
chúng nó bàn việc to lớn được?
Xưa ông Hải quân đại tướng nước Anh là Nốt Nhỉ Tốn
có nói: "Trong pho tự
điển của người giỏi không bao giờ viết chử khó." Người anh
hùng nước Pháp
là ông Nã Phá Luân có
nói: "Kìa chử khó đó chỉ thấy trong pho tự
điển của
người ngu mà thôi". Tục ngử ta cũng có câu:
"Có gan thời chọi với
trời", lại có câu hát: " Đố ai lượm đá quăng
trời, đan gàu tát bể,
mới người khôn ngoan". Xem mấy câu nói đó
thời thiên hạ có việc gì khó đâủ
Mà thế thật. Ta có gan xuống vực thời thuồng luồng phải
sợ ta; ta có gan vào
rừng thời hùm beo phải kiêng tạ
Hùm beo với thuồng luồng chỉ bắt nạt được những người
nhát gan mà thôị Bây giờ
người ta chưa thấy bóng thuồng luồng mà đã rỡn ốc,
chưa nghe tiếng hùm beo mà
đã rùng mình!
Ôi! nước ta là một nước thỏ hay saỏ Rụt rụt rè
rè, sợ đầu sợ đít, còn có gì
là
tư cách con người nữa rủ Bệnh nhút nhát còn
đeo lấy một ngày, thời công việc tự
lập tự cuờng không một ngày nào cất nổi, mà
muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải
dùng vị thuốc này mới hay: vị thuốc gan quả quyết.
Xưa nay những người can đãm cũng phải luyện tập mới nên,
mà khi đầu luyện tập
thời phải có một tấm gan quả quyết. Toan vượt núi thời
chớ thấy núi mà gớm cao;
toan qua sông thời chớ thấy sông mà ghê
sông rô.ng.
Bao nhiêu nguy hiểm, ta kể cho là sự rất thường; bao
nhiêu khó khăn ta kể cho
là sự rất dể. Bước con đường muôn dặm phải cậy tấm gan quả
quyết đó làm roi
ngựa, máy xe, dầu chông gai mà quản gì.
Đã có tay chân ta đó, nhứt chết nhì
sống, còn mình thời việc ấy chắc phải xong, có sợ
gì mà nhút nhát? Vậy nên
trong bài thuốc "Tự lập", phải dùng một vị như sau: "Gan
quả
quyết" hai lá rất lớn.
8. Chương thứ tám Chữa Chứng Bệnh "Tham Lợi Riêng"
Lại có chứng bệnh nữa là chứng bệnh "Tham lợi
riêng".
Chứng bệnh ấy, người các nước tuy có ít nhiều,
nhưng người nước ta tất cả 25
triệu người, ai nấy cũng trúng bệnh ấy đó. Tục ngữ
có câu "cơm ai đầy nồi
ấy", lại có câu "Thử thân bất độ, độ hà
thân", lại có câu rằng
" con vua, con dấu, con chậu chậu yêu". Đọc bấy nhiêu lời
thời biết
rằng: trong ruột người nước ta, viết dọc viết ngang, vạch xuôi
vạch ngược, chỉ
một chử "tham" mà ở trong chử "tham" chỉ có vài
nét
"Lợi riêng" là vừa hết bút mực. Xưa cụ Uy Viễn
có câu rằng:
"Tiền tài hai chủ son khuyên ngược,"
"Nhân nghĩa đôi đường nước chảy xuôi"
Mười bốn chủ
đó, thật là
vẽ đúng tâm tính người nước tạ Than ôi!
cái lòng tham dục mà muốn cho như ý,
mới nảy ra kế mưu, vì kế mưu mà muốn cho thành
công, mới nảy ra sự nghiệp. Tục
ngữ có câu: "muốn ăn hoét phải đào
trùn", nhất thiết việc đời đều ở
lòng tham dục, bảo cấm tham tuyệt dục không có lẽ
thiệt! Ôi! Các anh em! Các
chị em! Tôi vẫn không cho các ngài biết tham
biết dục. Thà không tham, nếu tham
thời tham cho lớn; thà không dục, nếu dục thời dục cho
hàọ Xưa ông Đế Nghêu
muốn thiên hạ làm của chung mà bỏ ngôi vua
của mình, vì vậy nước Trung Hoa bây
giờ xưng ông Nghêu là đại thánh. Ông
Hoa Thịnh Đốn muốn nước Hoa Kỳ thành một
nước dân chủ, mà bỏ ngôi phú quý của
mình, vì vậy nước Hoa Kỳ bây giờ còn gọi
ông Hoa Thịnh Đốn là "Quốc Phụ". Kìa hai ông
đó há phải không tham
đâu, nhưng tham dục về cái lợi chung của ức muôn
người, thời tham dục càng to,
làm lợi ích cho loài người càng lớn, nhờ
tham dục của một người đó mà gió xuân
mưa hạ tràn trề khắp bốn bể năm châu, đội đức mang ơn
dài đặc đến thiên thu vạn
thế. Tham dục mà được như những bậc người ấy, ai bảo rằng tham
dục là dở đâủ
Đau đớn thay cho những người nước ta, trước mắt không bao giờ
thấy lợi chung,
trong óc không bao giờ có tư tưởng cao thượng,
túi chất đầy tham, mà tham tột
mực, chẳng qua là nghiện hơi đồng, hối vẫn đầy dục, mà
dục kỳ cùng, chẳng qua
là hầu xác thịt, kết quả đến nổi hy sinh hết lương
tâm thiên lý mà làm nô lệ
cho những món tư tình; vì lo sung sướng cho vợ,
vì lo sung suớng cho con, vì lo
sung sướng cho thân mình, suốt đêm suốt ngày
hết khôn hết khéo, nhưng chắc rằng
núi đồng không bao giờ lở, cây tiền không bao
giờ lá rụng hoa rơị Nào hay
"Nhứt đán vô thường vạn sự hưu", của cải tiền tài
không thể nào vào
tay người chêt; vợ vì sẳn của mà vợ hóa
nên vợ hèn, con vì sẳn của mà con hóa
nên con dại, tiền bạc hóa ra của phá nhà,
ruộng vườn hóa ra mồ chôn sống, chẳng
những nhân quần xã hội không lợi ích một
tí gì, mà chính giữ thân với gia cũng
lợi chưa xong mà hại đã tớị Ấy là tử chứng của
những người tham lợi riêng đã
rành rành rồi đó. Người ta mắc bệnh đó gần
đây càng ngày càng nặng thêm, nếu
không gấp chữa cho mau thì nòi tuyệt giống
mòn, không thể nào cứu được. Tôi xin
vì đồng bào dâng một vị thuốc này gọi rằng
"Lòng công ích".
"Lòng công ích" là cầu sự lợi ích
chung cho xã hội, mà cầu lợi chung
xã hội tức là lợi ích cho mình. Đạo
lý đó chẳng phải nói không đâụ Những
người
có tai mắt, có ruột gan chắc cũng hiểụ Bao bọc chung
quanh mình là xã hội, nhờ
ơn xã hội mới có thân mình, mình ăn
thóc thời nhờ có người cầy, mình mặc áo
thời có người dệt, mình cần có công
dùng thời phải nhờ người người thợ thuyền, mình
cần có giao thông thời phải nhờ người buôn
bán; nếu một ngày không xã hội tức
một ngày đó không thân mình. Vun trồng
cho xã hội sung sướng vẻ vang thời chẳng
những một thân mình đã hưỡng hạnh phúc
chung, mà con cháu mình sau cũng sung
sướng chung mãi mãị Vậy thời cái lòng
công ích đó, thật là một phương thuốc
trường xuân bất lão cho người tạ Vậy nên trong
bài thuốc tự lập, phải có một vị
nầy: "Lòng công ích" một tấm rất dàỵ
9. Chương
thứ chín Chữa Chúng Bệnh Đua Đuổi Hư Danh
Còn một chúng bệnh nữa là chứng bệnh người ta hay
đua đuổi theo cái hư danh vô
vi..
Muốn chữa cái chứng bệnh đó thời trước phải giải quyết
một số vấn đề như sau
này: Lòng tham người ta chỉ có hai hạng: một
là lợi, hai là danh.
Danh nên tham hay không? Bảo rằng không nên
tham thời từ xưa đến nay không
người thánh hiền hào kiệt nào mà
không thành danh cả. Sách truyện có
câu:
"Đạo đức giả tất tất đắc kỳ danh", nghĩa là những người đạo đức
lớn,
nhứt định được cái danh dư.. Thế thời danh có phải
không nên tham đâu! Bảo rằng
nên tham ử Thời từ xưa đến nay, những người phấn sức hư danh, kết
quả hữu danh
nhi vô thực, chẳng những không lợi ích gì cho
xã hội, mà cũng không thêm được
giá trị cho mình tạ Thế thời danh có gì
đáng tham. Nói cho đúng lẽ, danh vẫn
đáng tham, mà cũng không đáng tham. Cớ sao
thế? Bởi vì danh có nhỏ, có lón,
danh có gần có xa, danh nhỏ và gần, như lữa lốm
đốm đầu hôm, tiếng ve ve khi
mùa hạ, vẫn cũng lập lòe chòe choẹt ở trong một
lúc, nhưng chẳng bao lâu thời
tắt ngay; danh lớn và xa thời như sấm mùa xuân, nhu
bóng thái dương mùa hạ,
vang một tiếng mà lừng lẫy cả năm châu, dọi môt tia
mà chói chang khắp bốn bể.
Người ta thử cân nhắc hai đường danh đó thời danh
gì đáng tham, danh gì không
đáng tham. Không cần phải nói nữa.
Bây giờ tôi chỉ bệnh người nước tạ Tục ngữ có
câu: "Tiếng lành đồn xa,
tiếng dữ đồn ba ngày đường" lại có câu rằng: "Cọp
chết để da, người
ta chết để tiếng". Xem những câu đó thời danh vẫn
nên quý, người ta cũng
biết dư rồị Nhưng tội tình thay! Óc tí ti như
óc dơi, mắt ti hí như mắt muỗi,
ngoài buồng the bếp núc, vẫn không biết gì
là nước non, trừ sọ bò đầu lợn không
biết gì là rồng rắn, mà huống gì vết xấu
trong gia đình, thói hư ở xã hội gắn
sâu buộc chặc, trải mấy ngàn năm ông Nghè
ông Cử đã tràn đất chó rơm, mà
ông Đốc
ông Tham lại đầy phên rồng vẽ. Đoàn thanh niên
cho đến phường tân tấn, đua danh
cạnh giá, chẳng cu li thượng đẵng, thời nô lệ tối ưu, ức
chưa rời nôi mà đã ưu
mề đay, kim khánh, mệng chưa ráo sữa mà đã
lóc lẽm những thẽ bạc ngà. Ôi! thế
là vinh danh, đáng quý hóa hay sao?
Anh chị em sao không nghĩ, đội mảo mo cho khỉ, mặc áo giấy
cho ma, những giống
ấy là rặc giống của người phỉnh phờ ta, chẳng những không
vinh gì, mà thật là
một cái gương sỉ nhục. Anh gì mà danh như thế,
còn gì đáng quý nữa đâu . Gông
đầu khóa cổ, núi sông đã mãn kiếp
ngựa trâu, mỏi gối chân chồn, cây cỏ cũng
chán vai tôi tớ, thế mà còn bằng sắc, sắc
bằng gì? Thế mà còn hàm, thế mà
còn
phẩm, phẩm hàm gì? Người ta bỏ đi mà ta lượm lấy,
người xem làm rẽ rúng mà ta
xem làm vinh hoa! Óc khôn ngoan ta đi đâủ
Chí khí ta ở đâủ Xin các anh chị em,
chứng bệnh đua hư danh đó, ta phải gấp chữa lành mới
được.
Muốn chữa chứng bệnh đó, thời phải có một vị thuốc rằng
"vai thực
nghiệp".
Thực nghiệp là những giống gì? Là nghiệp
nông, nghiệp công, nghiệp thương,
nghiệp sâm lâm, nghiệp lục súc, nghiệp ngư
diêm, nói tóm lại là nghiệp lao
đô.ng.
Lao động về nông, nông siêng thời gạo thóc đầy
đủ; lao động về việc công thời
công siêng mà nghề nghiệp mở mang; lao động về việc
thương, thời thương siêng
mà giao thông phát đạt, còn ra các
việc hể lao động hết bổn phận thời việc nào
việc ấy chắc cũng được thành công. Các nước
Âu Mỹ bây giờ, những người quý
trọng là rặt những người rất cần khổ, đắp nền danh giá,
tất lấy thực nghiệp làm
gốc, mở bể phú cường, tất lấy thực nghiệp làm nguồn. Thủ
xem nước Hoa Kỳ mới
đây, những người rất hữu danh rặt là nhà thực
nghiệp; ông Hỏa du đại vương, ông
Thiết lộ đại vương, ông Ngân hàng đại dương, những
người đó là nhà thực nghiệp
lớn. Vì thực nghiệp lớn nên tư bản nhiều, vì tư bản
nhiều nên cất nổi những
việc công ích lớn. Vì vậy mang ơn đội đức, khắp cả
muôn người, trổi tiếng vang
tăm nghe khắp cà vạn quốc.
Lời cổ ngử có câu rằng "Hữu thực dã danh tất qui
chi" nghĩa là những
người có việc thực thời danh tất đến chọ Người ta nếu biết thấu
đạo lý ấy, thời
hư danh còn đua đuổi làm gì! Bắt cân
công lý mà cân, một li thực nghiệp quí
trọng hơn một đồng hư danh, người ta xưa nay quen thói dã
man, đua tuồng huyền
ảo, giấc chiêm bao lợi lộc, ngày tháng say mê
tuồng trò rối hư vinh, trẻ già
hớn hở, những mua chuốc hư danh đó, hao biết bao nhiêu
tiền của, những trau
chuốc cái hư danh đó, tốn bao nhiêu thời giờ,
mà hư danh càng ngày càng múa
men, thời tướng thực nghiệp không bao giờ xuất thế. Kết quả
dân ngày càng nghèo,
nước càng ngày yếu, nòi giống mình
càng ngày càng đê tiện, mà giá
trị người
mình cân đi nhắc lại chỉ có "thân bồi phận
bếp" mà thôi, việc đáng
khóc đáng than, không gì hơn thế! Anh chị em
ta, nếu một mai tỉnh giấc mê, thay
lốt cổ, những tiền của mua hư danh đó, xây nền thực nghệp,
những thời giờ đuổi
hư danh đó dùng vào trường thực nghiệp, thực
nghiệp đã phát đạt thời nền móng
phú cường đã vững bền; giá trị người lao động nước
ta chắc cũng có một ngày
lừng lẫy tiếng tăm cùng thế giớị
Tục ngữ có câu rằng: "Trăm năm bia đá vẫn
mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn
trơ trơ". Người nước ta nếu biết tham danh thời không gì
đáng tham hơn thế
nữạ vậy nên bài thuốc "Tự Lập" lại phải gia vào một
vị như sau này:
"vai thực nghiệp" một gánh càng nặng càng hay.
10. Chương thứ mười Chữa chứng bệnh "ái quốc giả"
Chứng bệnh hay giả dối là chúng bệnh chung của người nước
ta, mà ở trong chứng
bệnh đó lại có một chứng đặc biệt là ái
quốc giả.
Gần mấy năm nay, cuộc Âu chiến cũ vừa xong, mà cuộc "thế
giới đại
chiến" mới đã toan gây núi, chủ nghĩa quốc gia
bành trướng cực điểm, người
nước ta bây giờ, ngoài thời bị làn sóng thế
giới xô đẩy, ngủ không thể nào yên
trong thòi bị dây sắt cường quyền trói đau,
mà sống không thể nào khõẹ Lúc bấy
giờ những bạn thiếu niên với phường học mới, cho đến những người
ngủ say quá độ
mớI đánh thót ở trong giấc chiêm bao; thấy con em
mà đau đớn cho kiếp ngựa thân
trâu, trông non sông mà ngậm ngùi những
ngày mưa sầu gió thảm.
Tiếng hai chử "Ái quốc" mới văng vẳng ở bên tai người ta,
hồn ái quốc
tuy còn dở tỉnh dở say, mà bóng ái quốc
đã nửa mờ nửa tỏ, nào là đám truy điệu,
nào là tiệc hoan nghinh, nào là kỷ niệm anh
hùng, nào là sùng bái chí sĩ,
chuông dồn trống dục, nam bắc hát hò, xem ở trong
một đám rần rần rực rực, cũng
đã có mấy phần người biết quyền nước mất. Biết quyền nước
mất thời tính mạng
không còn, hồn nước có về thời giang sơn mới sống.
Ngòi bút ái quốc cũng đã có
một đôi kẻ múa men, trên tờ giấy nhật trình
cũng đã tô vẻ một vài câu thương
nòi thương nước.
Nếu những tấm lòng ái quốc đó thật thà chắc
chắn, thời giống Tiên Rồng, giống
Hồng Lạc chẳng hạnh phúc lắm saỏ Nhưng tội tình thay!
Người ưu thời mẫn thế
chẳng bao lăm, mà người bán tiếng mua danh thời đầy đường
chật ngõ; giọt nước
mắt khóc vẫn đêm ngày chan chúa, mà
xem cho kỷ thời rặt là nuớc mắt gừng, tiếng
chuông trống kêu hồn, vẫn trong ngoài dóng
dã, mà nghe cho tới nơi thời rặt là
tiếng chuông trống trò bội; ngoài miệng thời
ái quốc mà trong bụng vẫn là ái
kim khánh mề đay, khi trước mặt người vẫn ái quốc,
mà đến đêm thời tính toan
những việc chó săn chim mồị
Chao ôi! Trời ôi! Ái quốc thế ru?
Treo mặt nạ ái quốc để phỉnh chúng lừa đời, một mặt thời
mua chuốc lấy tiếng
chí sĩ nhân dân, một mặt thời ôm chặt lấy lốt
ông Tham bà Đốc. Ôi! Các anh em!
Ôi các chị em! người Âu châu Nhật Bản, ai
ái quốc nhu thế, thà không ái quốc
còn hơn, chá vàng ngoài mặt làm tai
vạ cho những kẻ chuộng vàng, xức mật đầu
môi, làm khổ cực cho những người say mật, vì
đã vũ phu mà oan đến ngọc, vì
tròng mắt cá mà họa đến châụ
Ôi! Chứng bệnh ái quốc giả kia, chết nước chết nòi
vì chứng bệnh đó, chứng bệnh
đó nếu không trừ khỏi 25 triệu dân tộc chắc
chôn sống ở rày maị Tôi ngồi sâu
nghỉ lặng, khấn nguyện chín phương trời, ước ao thần hộ phật
phù, cứu khổ cứu
nạn cấp cho tôi vị thuốc để chữa chứng bệnh đó cho người
ta, mới được vị thuốc
này: "Bụng nhiệt thành".
Bụng nhiệt thành đó là gốc ở một tấm lòng
đỏ của loài ngườị Khi mẹ mới hoài
thai thời đã đúc sẵn một hòn máu
nóng, đến khi sinh thành trưỡng đại, thời hòn
máu đó càng nuôi nấng càng lớn lao,
càng nấu nung càng tươi thắm, giọt máu đó
xối vào sắt, sắt phải tan, giọt máu đó rưới
vào ma, ma phải tránh. Người Nhật
Bản có câu rằng "Tinh thành sở chí kim thạch
năng khai" nghĩa là khi
tinh thành đã tới nơi, dầu đá vàng cũng nức
nở. Ông Khổng Tử có câu: "Thất
phu bất khả đạt chí", nghĩa là chí vững bền của
một người không ai cướp
được. Những câu nói đó, đều là vẽ cả nết
nhiệt thành người ta, có đầy đủ một
tấm nhiệt thành mới trọn vẹn mười phần ái quốc,
thành mà không nhiệt thời kém
phần nóng sốt, mà cái thành đó dễ
nguội, nhiệt mà không thành kém sức vững
bền,
mà cái nhiệt đó dễ lạnh, đã thành
lại nhiệt, đã nhiệt lại thành thời thần quỷ
phải kinh, gió mưa chông gai cũng phải dẹp, chỉ có
ai sợ ta, mà ta không phải
sợ ai, chỉ có ai ỷ lại vào ta, mà ta không ỷ
lại vào aị
Đã biết nước là mẹ ta, thời dầu hy sinh ta với nước
mà ta không quản, trong óc
chỉ có nước, ngoài việc nước ta không màng
gì lợi, ta không thiết gì danh;
nhiệt thành thế này mới là ái quốc,
ái quốc thế này mới hay cứu quốc.
Ruột tằm máu quốc thề sống thác với non sông, dạ
sắt lòng son chẳng lụt sờn vì
mưa nắng, nhiệt thành như vậy, người nước ta có
khó gì tự lập đâụ Vậy nên trong
bài tự lập lại cần nhất là vị thuốc này: "Bụng
nhiệt thành" 10 phân
luyện chín.
11. Chương
thứ mười một Chữa chứng bệnh "không
biết hợp quần"
Các chứng bệnh như trên kia là các chứng
bệnh cá nhân. Bây giờ lại kể một chúng
bệnh như sau này là bệnh chung về đoàn thể. Người
ngoại quốc thường khinh bỉ
người nước ta, có một câu rằng: "Không có một
đoàn thể nào từ ba người trở
lên". Câu nói đó, thoạt mới nghe, tưỡng chừng
là quá đáng, nhưng xét cho
đến tình hình xả hội nưóc ta, tinh thần người
dân nước ta, tan tan, tác tác,
rạc rạc, ghét nhau, ngờ nhau, ai lo thân nấy, bảo rằng
không đoàn thể từ ba
người trở lên, vẫn có thể thật.
Suy cho đến nguyên cớ bởi vì sau đây, thời chỉ
vì không biết nghĩa hợp quần mà
thôị Hợp quần là saỏ Là hợp cả một bầy lại cho
thành một đoản thể. Ví như tay
chơn tai mắt có hợp mới thành được một thân; cột
kèo rui mèn có hợp mới thành
được một nhà; từ việc nhỏ đến việc to, muốn nên một việc,
tất phải có một bầy;
muốn nên một bầy, tất phải có cách hợp. Thuở xưa
giao thông chật hẹp, núi bể
chia lìa, mưa gió riêng trời mình, bờ cỏi
riêng đất mình, người mình đua đuổi
với người mình, dầu kém dầu hơn, dầu thua dầu được, cũng
chẳng qua là nhà mình
mình ở, của mình mình ăn, nếu không biết hợp
quần cũng chưa lấy gì làm tai hại
lắm. Thử xem đời bây giờ có thể được ử Bể Đông
Tây chung nhau làm một vũng câu;
châu Âu Á chung nhau làm một rừng bắn, người
đem cả trăm chân nghìn tay, trăm
khôn nghìn khéo dắt đoàn kéo lủ
mà áp đến nhà mình, xô cửa phá
buồng, bửa rương
móc túi, bầy người càng đông thời thế người
càng mạnh, bầy mình càng ít thời
thế mình càng cô, lửa đốt nhà đã tận
nóc, nước nuốt thuyền đã tận mui, mà bà
con trong nhà, trong thuyền đây hãy còn anh
với em cắp dao trỏ nhau, lái với
bạn trừng mắt dòm nhau, kể việc rất ngu ở trong loài
người có ai hơn thế nữa!
Than ôi! Thịt nát thì xương cũng tan, môi mất
thì răng cũng la.nh. Nghĩa hợp
quần đó còn mờ mịt thêm một ngày thời họa
diệt chủng càng câp bách thêm một
ngàỵ Ôi! Các anh chị em! Cái chứng bệnh
không biết nghĩa hợp quần đó không biết
chữa mau, còn chờ gặp ma Chiêm Thành mà gục
đầu thú tội saỏ Thấy tình cảnh các
anh chị em mà óc tôi nhức, máu tôi
sôi, tay chân tôi nổi gai gốc. Tổ tiên ta
nếu còn thiêng, nòi giống ta nếu còn
phúc thời chứng bệnh ly quần đó chắc được
một vị thuốc sẽ chũa lành ngaỵ Tôi nghĩ đi nghĩ lại, suốt
mấy đêm ngày mới được
một vị thuốc là giãi "Đồng tâm". Đồng tâm
nghĩa là người nào người
nấy đồng một lòng: giãi đồng tâm nghĩa là ức
muôn triệu người kết hợp nhau làm
một dây, thân thể tuy khác nhau, mà tinh thần
in nhau như hệt. Xưa ông Trụ có
ức muôn người, hưng cũng ức muôn bụng: vua tôi
Võ Vương có mười người, kết quả
thời vua Võ Vương được mà ông Trụ thuạ Đó
mới biết rằng tâm đồng nhau thời
nhược hóa nên cường, tâm chẳng đồng thời cường
hóa nên nhược, Vì sao thế? Lòng
khác nhau thời rẽ bầy, rẽ bầy thời mạnh hóa nên
hèn; lòng đồng nhau thời chung
bầy, chung bầy thời hèn hóa nên ma.nh. Vậy
nên hai chử "Đồng tâm" là
phương thuốc hiệp quần rất thiêng liêng, rất ứng nghiệm.
Tuy nhiên có kẻ nói rằng: "đông ngưòi
thời tất phải nhiều bụng, nhiều bụng
thời không thể nào đồng lòng. Cái sự đồng
tâm đó thật là khó khăn lắm".
Ôi! Các anh chị em! Câu nói đó thật
quá ngu! Xưa nay đồng lòng, không đồng lòng
chỉ vì có một cớ: chủng tộc không đồng, ngôn
ngữ không đồng, tập tục không
đồng, thế mà muốn đồng lòng vẫn khó lắm. Đến như
người nước ta, nòi giống vẫn
đồng với nhau, ngôn ngữ vẫn đồng với nhau, tập tục vẫn đồng với
nhau, mà huống
gì lối tử sinh đường vinh nhục lại đồng với nhau; chim ở chung
một rừng, cá ở
chung một bể, nếu chẳng may bể khô rừng cháy thời một
lồng, một tấm vãy còn
mong sống sót được saỏ May gặp lúc bây giờ rừng
hãy còn cây, bể hãy còn nước,
kết hợp cả bầy, đồng một lòng, chung một dạ, tính đường
đi đứng, lựa bước lên
lui, dắt nhau ra khỏi ngục trầm luân, kéo nhau
thoát khỏi vùng đồ thán, xoay
họa xưa làm phúc, rửa vết dơ trong pho sử củ, thay lấy vẻ
vinh quang biết bao
nhiêu công nghiệp lớn lao chỉ ở trong một gốc lòng
anh chị em mà nên tất cả.
Vậy thời giãi đồng tâm đó thật là phương
thuốc khỡi tử hồi sinh của món ta
không còn gì hơn nữạ Vậy nên trong bài
thuốc "Tự Lập" có một vị thuốc
như sau này: "Giãi đồng tâm" một dây
càng kiên thực càng tốt.
12. Chương
thứ mười hai Chữa chứng bệnh "mê tín
hủ tục"
Nưóc ta kể người có 25 triệu, kể đất có 70 vạn
ngàn thước vuông tây, nếu làm
một nước tự lập chắc không khó gì! Cớ sao mà
hèn hạ suy đồỉ Thuở xưa còn làm
một nước phụ dung, tới bây giờ lại trụt xuống làm một nước
nô lê.. Ôi! Nước ta
không phải một nước hay saỏ Người nước ta không phải
là người hay saỏ
Không phải, nước ta vẫn là một nước, người nước ta vẫn
là người, nhưng chỉ vì
dân không có quyền, nên mỗi bước không
tự lập. Dân vì sao mà không có quyền?
Thời vì dân không trí; dân không
có trí; nên mới mê tín quá
nhiềụ Bệnh mê tín
rất nặng là mê tín quyền vua; vì mê
tín quyền vua, nên mê tín quyền quan,
mà
quyền vua quyền quan lại lợi dụng quyền thần làm xe pháọ
Ba quyền đó một ngày
một nặng, thời quyền dân không còn một tí
gì; quyền dân đã không còn, thời
dân
dại, dân yếu đuối hư hèn, muôn việc chỉ trông
mong vào vua với quan. Vua với quan
không làm xong, thời trông mong vào thần; đến
thần cũng không làm xong, thời bó
tay chịu chết. Mấy ngàn năm trở lại triều đình là
bồi bếp của một nhà, nhân dân
là ngựa trâu của một họ; mấy mươi triệu đầu đen máu
đỏ, còn gì là tư cách
người; rặt là mù mà người mù có mắt;
rặt là điếc, mà người đếc có tai; rặt là
câm; mà người câm có miệng, rặt là
què mà người què mà ngưới què
có chân tay;
cái việc lạ lùng quái gở ở thế gian, không
ai như người nước ta nữạ Thăm cho
đến gốc bệnh, chỉ vì mê tín những tục hủ cổ
mà thôị Mê tín vua, mê tín quan,
chưa lấ gì làm kỳ, kỳ thứ nhất là mê
tín thần; vì mê tín thần đó mà
sinh ra vô
số việc nực cười; ngày giờ nào cũng là trời
bày định, mà bảo rằng có ngày dử
ngày lành; núi sông nào cũng
là đất tự nhiên, mà bảo rằng có đất tốt đất
xấu;
vì nấu ăn mới có bếp mà bảo rằng ông thần
táo; vì che mưa gió mới có nhà;
mà
bảo rằng có ông thần nhà; cho đến thần cửa, thần
đường, thần cầu tài, thần cầu
tử, trăm việc gì cũng trông mong vào thần, kết quả
thời thần chẳng thấy đâu,
chỉ thấy cửa nát nhà tan, của mòn người hết.
Tin thần bao nhiêu thời tai họa bấy nhiêụ Kìa xem
như đạo Thiên Chúa chỉ sùng
phụng một vị Đức Chúa Trời ngoài ra không thần
gì cả, nhưng nuớc vẫn mạnh, nhà
vẫn giàu, người họ vẫn sung suớng, họ chỉ thua ta một việc: thần
đã không tế
thời xôi không, thịt không, heo bò cũng
không, mà phần kỉnh phần biếu đều không
tất cả; nhưng họ vì đó mà của hao thời ít,
của nở thời nhiều, tốn phí vô ích
bớt một phân. Ấy mới biết rằng mê tín thần quyền
là tục ngu hủ của người ta, thật
rõ ràng rồi đó. Tục ngu hủ đó không
quét sạch thời nền phú cường kia không bao
giờ dựng nên. Nhân vì ngu mà sinh ra hủ,
nhân vì hủ lại thêm ngu, mắt người bị
người bịt, mà lại bảo rằng trước mí mắt không nước
non; tai bị người bưng mà
lại bảo rằng bên lổ tai không gió sấm; tay
chân bị người người xiềng khóa mà
lại bảo rằng tay chân mình đáng số cu li!
"Chúng tôi dại dột", câu
nói ấy giắt chặc ở bên lưng. Quỳ lạy trước tượng đất
hình bùn mà xem làm quốc
túy; giữ gìn lấy áo hôi mũ thúi
mà bảo rằng gia truyền! Ngẫn ngơ, ngơ ngẫn đến
thế thời thôi! Trông người lại gẫm đến ta, thiệt cười dở
mà khóc cũng dở.
Than ôi! Xưa nay chứng bệnh mê tín hủ tục kia phải
gấp chữa mau mới có lẽ sống.
Tuy nhiên, muốn chữa chúng bệnh đó, phải thế
nàỏ Xưa nay, những tập tục hủ bại
vì có hai lẽ; một thời vì cơ quan giáo dục
chẳng hoàn toàn, một thời vì trí
khôn người ta chưa phát đạt.
Từ thế kỹ 19 trở lại đây, khoa học các nước cảng
ngày càng phát sinh, trí não
các nước càng ngày càng nẫy nở. Thử xem
điện học phát minh mà ông "thần
lôi" đã không dám hống hách; địa học
phát minh mà nhà phong thủy long hổ
đã không dám múa men; sinh lý học
phát minh mà thần rắn quỷ trâu đã
cùng đường
trốn tránh; huống gì học thuyết Lư thoa đã xuất
hiện thời quyền dân với quyền
lao động đã vùn vùn vụt vụt như gió thổi,
như thủy triều lên, dầu ai muốn ngăn
mà ngăn sao đặng? muốn cấm mà sao cấm đặng? Ngọn cờ thần
quyền chắc rày mai
cũng bị trận gió văn minh kia đánh đổ, mà
vách tường hủ tục cũ chắc cũng bị làn
sóng văn minh kia đánh tan.
Thế thời muốn chữa bệnh mê tín ngưới nước ta, không
thuốc gì hơn trí thức mới
nữạ Trí thức đó, nếu tìm tòi suy xét
thăm cho tận gốc, dò cho tận nguồn biết
tính người là thiêng hơn vạn vật thời không
thần gì hơn thần ở tâm; biết nhơn
dân là quí trọng hơn vua với quan, thời không
quyền gì hơn quyền lao đô.ng. Có
óc thời ta dùng sức nghĩ, có tai thời ta
dùng sức nghe, có mắt thời ta dùng sức
thấy, có tay chân thời ta dùng sức hoạt động, đua
khôn đấu mạnh cùng dân các
nước đời nay, 20 triệu con Lạc cháu Hổng bỗng chốc mà tỏ
ra giòng thần giống
thánh.
Người nước ta có khó gì tự lập đâủ Vậy
nên dùng bài thuốc tự lập, phải có một
vị dầy "Trí thức mới" 10 phân, trộn vào "hoa tự do"
không
kỳ nhiều ít.
13. Chương thứ mười ba Chữa chứng bệnh "không biết đường kinh tế"
Nếu có ai hỏi rằng: nước vì sao mà mạnh, dân
vì sao mà giàủ Thời tôi xin trả
lời rằng: "Nguồn bể phú cường chỉ cốt ở đường kinh tế." Người ta
nghe
hai chử "kinh tế", chưa hiểu nghĩa ra làm sao, huống gì
là đường kinh
tế. Xưa truyện Đại học có câu rằng: "Sinh chi giả
chúng, thực chi giả quả,
vi chi giả tật, dụng chi giả thư", nghĩa là của sinh nở ra thời
nhiều, của
ăn tiêu đi thời ít, người làm của thời cần
kíp, người dùng của thời dè dặt.
Sách Tây cũng có câu: "Những hạng người sinh
ra lợi thời nhiều, những hạng
người chia mất lợi thời ít", Góp hai câu nói
đó thời cách đường kinh tế,
dầu đông tây cũng chẳng khác gì. Nói
tóm lại, chỉ có một cách sinh nở thời
thường vô cùng, mà tiêu hao thời thường phải
hạn, của trời đất sinh ra thời biết
đường lợi dụng, của nhân lực làm ra thời biết đường mở
mang, có thế mới gọi là
"Kinh Tế". Người nuớc ta thời thế nàỏ Việc tiêu
dùng thời không biết
đường hạn chế, cách làm ăn thời không biết đường
cải lương, sự nghiệp dân sinh
trong một nước chỉ nhờ cậy về nông, chân lấm tay bồng, kẻ
làm khôn hết mực, cày
sâu cuốc bẩm, xem làm khéo cùng kỳ.
Ngoài mấy đám đồng cạn ruộng sâu, nào
khoáng sản, nào sơn lâm, nào công
trình nào thủy lợi chẳng biết một tí gì.
Người ngoại quốc lấy máy móc đở tay chân tay,
mà mình thời không biết đua, của
sinh sản ngày không một hào một li, mà của
tiêu xài ngày có hàng nghìn
hàng
vạn; thấy người ta sang trọng, ta cũng sang trọng, nhưng cái đồ
sang trọng đó
rặt là cắt thịt nhà để vá cánh giặc; thấy
người ta sung sướng, ta cũng sung sướng
nhưng cái mồi sung sướng đó, rặt là nặn sữa mẹ để
nuôi người dưng. Bao nhiêu
vật lạ của ngon, nào rượụ nào thuốc, nào
trà, nào vải bông, gấm vóc, không một
thức gì là tay chân mình chế tạo, mà
cũng không một đồng tiền nào không phải
máu mủ mình ép ra; tiền của người không một
đồng nào vào tay mình, mà máu mủ
mình thời trót tháng quanh năm chỉ những
trét miệng hùm, no bụng sấụ Trí khôn
người ta như thế, còn nói "Kinh Tế" được đâu! Than
ôi! Thiên thời ta
vẫn tốt, địa lợi ta vẫn giàu, mà tay mắt tay chân
ta vẫn không kém gì ai cả!
thuốc ta, rượu ta, trà ta, vải vóc ta, không
dùng được hay saỏ
Không chế tạo được hay saỏ Cớ sao thợ thuyền buôn
bán thời không thấy tới, mà
chỉ thấy lui; xài phí ăn tiêu thời chỉ thấy
thêm mà không thấy bớt, đã một mặt
thời quen nết tham thanh chuộng lạ, một mặt thời giử nết ở nể ăn
không; bể toan
khô nước mà ngồi đợi trời mưa, đèn toan hết dầu
mà nằm chờ trăng mọc.
Người ngu ngẩn đến thế, không chết rày thời chết mai, chỉ
e mấy tấm ván hòm
chưa dự bị bao giờ đă.ng. Tôi nghỉ đến nông nổi thế
mà khóc than cho vận mệnh
người nước ta, chúng bệnh về đường kinh tế nếu không lo
chạy chữa cho mau thời
nòi giống chúng ta chẳng tuyệt diệt về thủy hỏa, binh
đao, mà tuyệt diệt về đồ
ăn thức mặc! Ai là người có tâm huyết, chắc cũng
lấy lời nói làm đúng rồị Bây
giờ xin nghĩ một vị thuốc để chữa chứng bệnh nàỵ Vị thuốc ấy
là giải đấỷ Là vị
"Nội Hóa" Trình độ dân ta còn thấp
trí thức dân ta còn non, bảo nhờ
cậy việc công, việc thương, sẽ đấu mạnh đua giàu với
các nước, cái hy vọng đó,
ở ngày nay thiệt chưa có được ngay, song e tục ngữ
có câu rằng "Khéo ăn
thời no, khéo co thời ấm", đồng bào ta bây giờ
mà muốn cho được điều no,
điều ấm thời phải có một cách khéo mà
thôi.
Đường sanh lợi chưa có thể phát đạt được đến mười
phân thời đường tiêu xài phải
dè dặt từ một li, một mảy cần thứ nhứt là dùng nội
hóạ Đó thiệt là một vị cứu
cho chứng bệnh người tạ Đồ ăn ta; ta ăn, đồ mặc ta; ta mặc, đồ
dùng ta; ta
dùng, dầu mỡ máu mủ ta, ta bồi bổ cho ta, bớt một li của
ra tức là thêm một li
của vào, bớt một đồng tiền chết, tức là thêm một
đồng tiền sống. Nội hóa tiêu
dùng ngày càng chảy, thời các món
công thương nghề nghiệp cũng nhân đó mà cạnh
khéo đua khôn, đắp tư cơ sẽ tạo nên thời, đúc
trí tuệ sẽ gây nên thế, họa may
bụng đà khỏi đói, mà óc cũng thêm no;
dân sinh đã khỏi nỗi khốn cùng thời dân
trí cũng có cơ tấn bô.. Theo tạo nhân
mà tìm đường kết quả, cái việc chấn hưng
nội hóa đó chẳng phải là gấp lắm saỏ Vậy nên
trong bài thuốc tự lập phải có một
vị thuốc như sau này "Nội hóa" một vạn thức, kiêng
ngoại hóạ
14. Chương thứ mười bốn "Chữa chứng bệnh" "không biết thương nòi giống"
Người ta còn một chứng bệnh rất to, là chứng bệnh
"không biết thương nòi
giống ". Người ta mắc lấy chứng bệnh đó, chẳng những trái
hẵn tính loài người,
mà với các giống vật có một điễm trí
khôn cũng còn thua kém nữạ
Kể chứng bệnh ác độc thứ nhất, không gì hơn chứng
bệnh này: Kìa con ong vẫn có
nọc, mà ong ở chung một ổ không bao giờ cắn nhau; cọp vẫn
hay ăn thịt, mà cọp ở
chung một xứ không bao giờ ăn nhaụ Thường xem bầy kiến, nó
vẫn là một loài vật
rất nhỏ nhen, mà cũng có một điễm tốt rất lạ: nó ở
chung nhau một bộng, có hàng
trăm hàng ngàn con, một con đi ra thoạt thấy được mồi ăn,
thời tức khắc chạy về
tin cho anh em mình cả; tha mồi thời khó nhọc chia với
nhau, ăn mồi thời ngon
ngọt chung với nhau, không bao giờ được mồi mà ăn
riêng cả; lại có khi tránh
mưa trốn gió, dắt đoàn kéo lũ đi chung, con nhỏ,
con lớn, đoàn trước, đoàn sau,
dắt nhau đi không khác gì một đội quân
lính; chẳng may giữa đường có con nào bị
tử thương thời chúng kiến xúm nhau cõng nó
về hang, không bao giờ bỏ bạn chết
mà đi cả! Thế mới biết thương nòi giống, dầu loài
vật cũng có tấm lòng thành,
chung một máu mủ thời họa phúc chia nhau, nghĩa đồng
tO17; đồng sinh vẫn trước sau
một mực.
Vật còn như thế, người có lẽ thua nó hay saỏ
Quái ngán thay! Lạ lùng thay! Đến
người nưóc ta thời khác hẵn! Tục ngữ có câu
rằng: "Gà một chuồng bôi mặt
đá nhau!" lại có câu: "Kẻ chết đã xanh,
người nhăn nanh mà
cười!" lại có câu: "Đi ra tưỡng bắt trâu cò,
trâu cò không bắt, bắt
bò, bò ôi!", mấy câu thí dụ đó,
ngẫm nghĩ cho kỹ thiệt là về nết xấu của
người nước ta quá đúng rồi đó.
Ôi! Các anh chị em! Máu in nhau giọt đỏ, da in nhau
sắc vàng, đầu in nhau tóc
đen, mắt in nhau tròng mắt, giống
Tiên Rồng, nòi Hồng Lạc trãi qua mấy nghìn
năm mới có bây giờ con một họ, cháu
một giòng, nếu cứ như lẽ thường chắc máu ai thấm thịt
nấy, đánh đá thời đau đến
lòng gạch, chết thỏ thời sa nước mắt hồ; vẫn đạo trời có
thế mới đương nhiên,
mà tính người cũng có thế mới chính
đáng. Cớ sao mấy mươi năm gần đây tình hình
ở xã hội, cách hành động các anh chị em ta,
thương nhau, bênh nhau, chẳng bao
lăm người, mà ghét nhau, hại nhau thời không xiết
kê?? Rước voi dầy mồ ông vải,
cõng rắn về cắn gà nhà, việc đó thiệt bất
nhân vô đạo đã quá chừng, mà người
mình trở lại nhận làm khôn làm khéo!
Xin ai thử nghĩ, mồ ông vải trúc, mà voi có
ơn gì đến mình không? Một mai gió
mây biến hóa, dâu bể đổi dời, voi đã tan
xương, rắn cũng đứt nọc, các ngài lúc
bấy giờ đêm khuya mò bụng hỏi bóng thăm
hình, mồ tan hoang vì aỉ Gà nhao nhác
vì aỉ Mình còn mặt mũi nào thấy ông
bà ở dưới đất, trông cô bác ở trên đờỉ
Đau
đớn thay! Tội tình thay! Cái chút bệnh không
biết thương nòi giống đó, hú ba
hồn chín vía các ngài, nên thang
thuốc cho mau mới phải! Bây giờ tôi xin làm ơn
cho các ngài vị thuốc này: "Giống thân
ái" đó, vào trong lòng ngườị
Người v ` có hột giống ấy mới khai nên hoa, mới kết
nên quả, mà nòi giống người
mới sinh trưỡng vô cùng. Nếu lòng người mà
không có hạt giống ấy thời gọi rằng
"Lòng chết" .
Ông Lão Tử có câu: "Ai mạc đại ư tâm
tử", nghĩa là người ta lòng chết
không gì đau đớn hơn; nếu thiệt lòng người thời bao
giờ chết đặng! Lòng mà đến
chết, vì không hột "giống thân ái" mà
thôị
Đức Gia Tổ có câu: "Ái nhân như kỹ", nghĩa
là thương yêu người như
thương yêu mình. Đức Phật Tổ có câu: "Nhất
thiết từ bi", nghĩa là
không kể người không kể ta, nhứt nhứt luật thương yêu
cả.
Đạo Nho cũng có hai chử "Khiêm ái". Nhà
triết học Tây cũng chủ trương
hai chử "Bác ái". Xem chừng như những đạo lý
các thánh hiền nói đó,
thời hể chung một loài người dầu ai cũng nên thân
ái, huống gì chung một nòi
giống nữa ru! Nòi giống ta, ta thương yêu lấy nhau;
có cơm ta no chung, có áo
ta ấm chung, có nhà cửa ta ở chung, gặp việc vui ta vui
chung, vì hột giống
thân ái đó càng ngày càng nẩy
nở, hoa tự do nhân đó mà muôn tía
ngàn hồng, Nam
reo Bắc thổị Việc đồng tâm của 25 triệu nòi giống ta chắc
cũng do ta rày mai mà
trông được hẳn! Vậy nên ở trong bài thuốc tự lập lại
còn có một vị như sau này:
giống "thân ái". Hằng hà sa số hột, hột nào
càng chắc càng hay!
15. Chương sau hết Bài tóm cách làm việc
Các chứng bịnh đã chữa lành rồi bây giờ mới
tính cách làm việc.
Thứ nhất là phải có chủ nghĩa, thứ nhì là
phải có chương trình, thứ ba là phải
có kế hoạch. Có đủ ba điều đó thời việc mới
có thể làm nên.
Bây giờ xin giãi thích điều thứ nhất:
Hể phàm làm một việc, tất trước phải có chủ nghĩạ
Chủ nghĩa có tốt có xấu, có
phải có chẳng, Khi ta bắt đầu sắp sửa làm việc thời ta
phải hết sức kén chọn
Thấy chủ nghĩa gì đã tốt lại phải, thời ta phải giử chặc
chủ nghĩa ấy mà làm;
ví như bắn bia phải nhìn các trung tâm bia
cho chắc chắn; ví như vượt bể tất
phải dòm xét cái mũi châm phương hướng cho
kỹ càng. Trung tâm bia đó đã nhìn
được chắc chắn bắn mới không sai, châm phương hướng
đó xét được rành thời
thuyền đi mới không lỗị Người làm việc mà có
chủ nghĩa, đó là vào trường bắn mà
xem thấu bia, vặn máy thuyền mà định chắc hướng, Vậy
nên người làm việc, trước
hết phải kén chọn chủ nghĩa cho vững vàng. Bây giờ
lại giãi thích điều thứ nhì:
Khi sắp sửa làm việc thời kén chọn chủ nghĩa vẫn cần lắm;
nếu đã có chủ nghĩa
mà khi bắt tay vào làm mà không
có chương trình, thời như người đánh cờ mà
không tính suốt cả bàn, vội vàng lụp chụp,
thấy nước thời đi, nước sau đem lại
nước trước, nước trước đem lại nước sau, thời bàn cờ đó
tất nhiên phải thuạ Vì
vậy, làm một việc gì, tất phải định một cái chương
trình cho việc ấỵ Ví như
muốn đi một lối đường từ Huế ra Hà Nội, tất phải tính
toan từ khi bước chân ra
đi, cho đến khi tới Hà Nội, tiền đi xe lửa tốn hết bao
nhiêu, tiền đi ô tô hết
bao nhiêu, tiền đi xe tay và tổn phí ở trên
xe hết bao nhiêu, lại phải nghĩ
trước cả mọi điều, như giấy thông hành, giấy căn cước, đồ
hành trang, người đày
tớ, với giữa đường phải xuống ga nào; đến nơi thời trú
những nhà nào; vả lại,
khi giữa đường hoặc khi đến nơi, có điều gì trở ngại hay
không, thời phải tính
làm cách gì cho trơn chảỵ Lại như tiền tổn
phí, tất phải phòng dự, chớ "đo
bò làm chuồng", lỡ khi thiếu thời dang dở; việc
phòng bị tất phải sắp đặt
sẵn sàng, chớ "bắc nước đòi gà"; sợ khi gấp thời
không xong.
Người trỏ lối đưa đường phải lựa cho thập phần chắc chắn, chớ có
rước thầy mù
coi đất mà đến khi lỡ làng. Tính toán
các điều ấy đủ rồi thời ta định sẵn một
cái chương trình, việc gì trước ta làm
trước, việc gì sau ta làm sau, việc gì
lành ta theo, việc dữ thời ta tránh. Chương trình
chắc chắn, noi đó mà đi, có
sợ gì đi không tới nơi đâủ Bây giờ lại
giãi thích về điều ba: Hể phàm một chủ
nghĩa vẫn chính đáng, chương trình vẫn tinh tường,
còn một điều đáng lo là còn
sợ kế hoạch không được hoàn thiện, vậy nên cần
có kế hoa.ch. Ông Khổng tử có
câu rằng:
"Hiếu mưu nhi thành", nghĩa là làm việc phải
có tìm mưu mẹo, mà mưu
mẹo phải tìm cho đến chốn đến nơị Sách Binh thư có
câu: "Đa toán thắng,
thiểu toán bất thắng", nghĩa là tính toán
được nhiều nước thời ăn hơn,
tính toán được ít nước thời phải thuạ Ví
như hai người vật nhau một người sức
mạnh mà không có mẹo, một người sức yếu mà
có nhiều mẹo, thời người sức yếu
chắc ăn hơn. Cái mẹo đó, tức là kế hoạch;
mà trong khi tính toán kế hoạch, thời
phải đủ ba điều: một là cân nhắc về phần trí
khôn; hai là cân nhắc về phần lực
lượng; ba là cân nhắc về phần thời thế. Lựa trong ba điều
đó, mà tính toan bày
đặt cho đủ cả mọi đường, như làm một bài tính,
không bỏ sót một con số nàọ Đó
là kế hoa.ch. Việc thiên hạ đầu nhỏ đầu to, nhưng mỗi một
việc tất phải có một
kế hoạch; nếu kế hoạch được tinh tường chu đáo, thời có
việc gì là chẳng nên?
Nói tóm lại, làm việc phải có chủ nghĩa,
mà mình đối với chủ nghĩa tất phải hết
sức trung thành, thà là vì chủ nghĩa
mà giết mình, chẳng nên vì mình
mà giết
chủ nghĩa. Như ông Tôn Văn trót một đời người hết
sức trung thành với "Tam
Dân chủ nghĩa", thật là gương cho ta đó. Còn
ngoài ra như chương trình tất
phải châm chước cho kỹ càng, tổ chức cho hoàn
thiện, mà lại phải có kế hoạch
cho kỹ càng thời chương trình mới thực hành được;
nếu có chủ nghĩa mà không có
chương trình, thời chủ nghĩa không bao giờ thực hiện; nếu
có chưong trình mà
không kế hoạch thời chương trình không bao giờ
thành công. Vậy nên ở trong cách
làm việc phải cần có cả ba điều đó.
Lại còn có một lẽ người ta cần phải biết, biết
không thấu thời làm không xong.
Ông Tôn Văn có câu nói rằng "Tri nan
hành dị", nghĩa là biết được
rành thời khó; đã biết rồi mà làm
thời dễ. Nếu anh em làm việc cần phải biết
cho rành. Lại còn một tệ bệnh, người ta càng
nên biết lắm.
Thí dụ: Muốn lấy trộm một nhà ông giàu thời
làm thế nàỏ những khi bình thường
phải giả ngẫn giả ngơ, giả khờ giả dại, chớ cho ông nhà
giàu đó biêt mình là kẻ
trộm bợm. Vậy sau khi thực hành mới dễ được thành
công. Ông Lão Tử có câu nói
rằng: "Đại trí nhược ngu", Nghĩa là những người
khôn rất to thời phải
làm như hình người ngụ Lại có câu rằng: "Đại
xảo nhược chuyết", nghĩa
là những người khéo rất to, thời phải làm như
hình người vu.ng. Vậy nên những
người muốn làm việc, trước phải bồi dưỡng hai cái tinh
thần:
1 Tinh thần nín nhịn;
2 Tinh thần tránh tiếng.
Hay nín nhịn thời chớ có giận vặt với hung hăng những
thói vũ phu; hay tránh
tiếng thời chớ có bán tiếng mua danh, để cho những người
tầm thường không kể
mình là giỏi mới là haỵ
Sách Binh Thư có câu rằng: "Tịnh như xử nử, động
như thoát thố". Câu
trên nghĩa là: Khi ta hãy còn lặng lẽ, thời
êm đềm kín đáo như chị con gái chưa
lấy chồng ở trong một chốn buồng sâu, vẫn mình là
rất muốn lấy chồng, mà không
để cho ai biết". Câu nói đó là bày vẻ
cách kế hoạch cho người ta làm việc.
Câu nói dưới nghĩa là: "Khi ta hành động tất
phải nhìn theo thời thế mà
theo cho gấp, như con thỏ ở trong lồng mà được xổ ra, thời bổng
chốc mà chạy
rất mau, dầu ai lanh đến mấy cũng không có thể bắt được
nó". Câu nói đó là
bày vẻ cho cách người ta hành động. Cách
làm việc nếu được như hai câu nói đó
thời việc gì cũng thành công; nếu không được
như hai câu nói đó, thời việc gì
cũng thất bại.
Tuy nhiên, lại có một lẽ: Hể phàm tính việc
thời tất muốn thành công, mà đã có
gan làm việc thời lại phảI không sợ thất bại; bởi
vì, hể làm việc tất phải trải
qua một lối thất bại mới đến thành công.
Sách Tây có câu: "Thất bại là mẹ đẻ ra
thành công". Tục ngữ ta có câu
rằng: "Đứt tay mới hay thuốc", Vây nên những việc thất bại,
chính là
trường học thiên nhiên mà dạy bảo cho mình
đến thành công. Người ta chỉ sợ mình
không có gan làm việc, còn thất bại thời
không nên sợ gì; càng thất bại càng
làm, càng làm càng sinh ra khôn
khéo; trải qua một phen thất bại thời thêm ra
được một mối thành công. Vậy mới biết: Thất bại là
mẹ đẻ ra thành công, có thế
thật!
No comments:
Post a Comment