Lôi Phong
Tháp
Kỳ
Truyện
雷峰㙮奇傳
NGUY•N
VˆN SÂM PHIÊN ÂM & CHÚ TH´CH
Hồi
Thứ Năm 弟五囬
Mạo
bách hiểm Diêu Trì đạo đan,
Quyết
song thai phủ đường nghị chứng.
(Mạo
hiểm, vào cung Diêu Trì trộm thuốc
Nói
chắc đẻ sinh đôi, nơi phủ đường đoán bịnh.)
Nhắc lại:
Tuồng hát bội Nôm Lôi Phong
Tháp được viết theo truyện Tàu Thanh Xà Bạch Xà, tuồng nầy
được ông Huỳnh Tịnh Của nhắc trong quyển Tự Ðiển 1895 của ông, đây là tài liệu
độc nhất nhắc đến sự hiện diện của tuồng nầy. Chữ Nôm trong toàn bộ tác phẩm
tương đối mới, do đó chắc nó ra đời khoảng chừng từ hậu bán thế kỷ 18 đến tiền
bán thế kỷ 19. Chúng tôi chỉ sưu tầm được có tám hồi đầu thôi,
nhưng may là được hai bản viết tay khác nhau. Bản dùng làm trục để phiên âm xin
gọi là bản A, bản phụ để so sánh chọn chữ khi cần thiết gọi là bản B.
Hồi 6 nầy hai
câu toát yếu của hồi bản B viết:
Hồi Thứ Nhứt
-- Lớp Một
(Ðánh
Bạch Viên đồng tử, Bạch Xà mang họa.)
[Bạch Viên Đồng
Tử:]
Xuân bát thiên hề thu bát thiên, Bàn
Đào tiên dược dưỡng hà niên. Nguyệt minh mộc diễu y phong khiếu, thiên lãng hoa
âm hướng nhựt miên[1].
Lại
nói:
Phụng
khán thủ động tiền, ngã Bạch Viên đồng tử[2].
Lại
nói:
Nơi
kim khuyết dầu say trân quả, chốn Diêu Trì mặc nhẵn kỳ hoa[3].
Học Diên Niên theo chốn tiên gia, vâng pháp chỉ giữ gìn động
khẩu.
Bạch
Trân Nương:
Dám
bày lời bần đạo, xin mở lượng sư huynh. Bạch Trân Nương thị tiện thiếp danh, Lê
Sơn động tiên nương đồ đệ. Vâng sư mệnh giáng lai trần thế, cùng Hứa Tiên hoàn
kiếp tiền duyên[4].
Vì chồng nên phải tới cõi tiên, lời thiếp dám cậy cùng đạo hữu. Số là mần
ni...
Bắc
xướng:
Hứa
lang tiếp bệnh chứng vưu kỳ,
Trần
thế toàn vô dược khả y.
Văn
đạo thần tiên năng khởi tử,
Lai
cầu linh dược cứu phu nguy[5].
(5-2)
Lại
nói:
Phiền
sư huynh vào trước báo tri, thiệt ơn ấy vô cùng cảm tưởng.
Bạch
Viên đồng tử:
Tĩnh
quan nhãn thượng, liễu đắc căn tiền[6].
Dám cả gan lướt tới non tiên, chẳng xét phận vốn là loài quỉ. Bằng đó thiệt Lê
Sơn đồ đệ, cớ sao mà yêu khí mãn thân? Lê Sơn người vừa tới động môn, cùng tiên
mẫu hỡi ngồi thuyết pháp. Hội vừa xảy gặp[7],
mỗ quyết chẳng dung. Kíp bắt nàng đem tới động trung, ngõ đối diện cho tường
chân giả[8].
Trân
Nương:
Dầu
chẳng cho thời chớ, lại khiến bắt cớ sao? Ví dầu[9]
tao rắn trắng non cao, thời mi cũng khỉ già non thẳm.
Lại
nói:
Cứ
đón ngăn chăm bẳm[10],
đã không phép khẩn cầu, kíp phún xuất bảo châu quyết đả lai diện thượng[11].
Bạch
Viên đồng tử:
Quái
sát tha nghiệt đảng, đả trúng ngã tị lương, phụ thống thửa nan đương, nhập động trung cáo cấp[12]!
Bạch
Trân Nương:
Quả
phệ tề bất cập bất cập, chân thố thủ vô phương
vô phương! Nếu Bạch Viên thưa lại vội vàng, (5-3) ắt Tiên mẫu khôn dung mạng
bạc[13].
Ta dầu chậm bước, họa ắt theo chân. Âu là: Thâu bảo châu cấp cấp phi bôn,
giá vân vụ mang mang đào thoát[14]!
Diêu
Trì tiên mẫu:
Thoát kiếp nhân gian trạch diễu mang,
Phước tề thiên địa thọ vô cương,
Thanh thiều tử phủ huyền hư cảnh,
Sái lạc tiêu diêu bất lão hương.
Lại
nói:
Bà sa
diệu cảnh nhứt phương, ngô nãi Diêu Trì tiên mẫu.
Lại
nói:
Bố
địa võng chư tà bất lậu, trương thiên la vạn quái nan di[15].
Tố xưng pháp thuật tinh vi, mạc tỉ thần thông quảng đại[16].
Lại
nói:
Chạy
đi đâu kinh hãi, xem dường có sợ kinh? Lời kia khá kíp bày tình, mũi nọ cớ sao
chảy máu?
Bạch
Viên đồng tử:
Nguyện
tường báo đạo báo đạo, cảm khất trần ngôn trần ngôn!
Hát
khách:
Hữu
nhứt yêu nhân giả đạo cô,
Lê
Sơn lão mẫu mạo môn đồ,
Khẩn
cầu tiểu tử lai thông báo,
Khất
tứ linh đơn cứu bịnh phu[17].
Lại
nói:
Tai
nghe chưa tỏ tình do, mắt thấy ra hình yêu quái. Toan bắt nàng (5-4) đem lại,
trình Tiên mẫu đặng hay. Triển thần oai tôi mới ra tay, thổ độc khí nó phun vào
mặt.
Tiên
mẫu:
Thính
thuyết tâm trung hỏa phát, văn ngôn diện thượng yên sinh[18].
Căm giận thay những đảng yêu tinh, sao mà dám lờn oai tiên thánh[19]!
Nễ tiên đồng phụng mạng, trầm hương liễn tảo bài. Kíp dời chân động ngoại xuất
lai, ngõ xem thử hà phương yêu nghiệt[20]?
Lại
nói:
Giá
yêu vân tẩu thoát, nó chăng Bạch Xà tinh[21]?
Khứng dung tha nghiệt súc đào sinh, truyền địa võng thiên la bố
khởi.
Thiên
thần, thiên tướng, hoàng cân lực sĩ :
Thừa
pháp chỉ thừa pháp chỉ, tốc tuân hành tốc tuân hành! Bả địa võng thiên la mật
bố, bất nhiêu tha súc nghiệt đào sinh.
Cùng
xướng:
Bố
địa võng thiên la trừ quỉ mị diệt yêu xà,
Thần
binh tùy thần tướng,
Thiên
kích dữ thiên qua,
Huy
vụ mạt trục lôi xa,
Lực
hoàn hoàn tận sát tà ma.
Lại
nói:
Nhĩ
yêu xà nhĩ yêu xà, hưu đào độn hưu đào độn[22]!
Lên trời khôn phép trốn, dưới đất khó nẽo chun. Mi chẳng qua tả đạo bàng môn,
sao (5-5) địch đặng thiên cơ diệu pháp?
Trân
Nương:
Thiên
binh vây sổ hiệp, thần phù bố tam tinh. Hướng thiên dã nan xung, nhập địa hề mạc
tẩu[23]!
Thế nói ngọt cũng không ra thấu, quyết hành hung hoặc có lọt vòng. Mạt càn khôn thời để hộ phòng, kiếm song báu kíp mau
kháng cự. Nhứt bất phóng thử, nhị bất vu hưu. Rắn khi không thần nỡ gây cừu,
thần sanh sự rắn liều tử chiến[24].
(Đánh lớn với thần tướng.)
Thiên
Thần,Thiên Tướng:
Hoạch
kích kim qua bố địa võng thiên la, nhứt trường hỗn chiến nguyện trừ nễ yêu
ma!
Bach
Xà hát khách:
Kham
ta ngư võng thọ hồng la,
Sự dĩ
đáo đầu mạc nại hà !
Thần
Tướng cùng xướng :
Hoàn
hoàn tróc nghiệt xà,
Lẫm
lẫm dương thần lực,
Quyết
điễn diệt yêu phân,
Phấn
thân sát thử phương triêu thực.
Trân
Nương hát khách:
Song kiếm thủ huy đương tả hữu,
Nhứt thân phấn dũng cự đông tây.
Thiên
thần, thiên tướng cùng hát :
Lăng
lăng khí thái xung xung,
Nộ
khí nộ xung xung,
Ngã
thần tướng triển khai đại lực,
Diệt
(5-6) cuồng hung, diệt cuồng hung.
Lại
cùng nói:
Dĩ
khốn tại cai trung, kiếm kích mang tề hạ.
(Trân Nương quì xuống, lấy khăn càn
khôn che (đầu), kiếm kích không vào được.
Thiên
thần, thiên tướng:
Quái
dã quái dã, kỳ nhiên kỳ nhiên! Khăn chi chi cũng báu thần tiên, sao mà lại về
tay quỉ mị? Kiếm chém đà không xuể, giáo đâm cũng chẳng vào[25]!
Trân
Nương:
Thần
đà không động rắn chút nào, rắn lại quyết phun thần bỏ ghét. (Phun khí độc,
hóa thành mây khói đầy trời.)
Hai
thần tướng:
Chân
yêu nghiệt yêu nghiệt, dám khoe tài khoe tài! Bả phong lôi nhị cá kỳ khai, tương
yêu khí nhứt tề tận diệt[26].
(Hai tướng phất cờ gió, sấm chớp nổi ầm ầm, gió to diệt hết yêu
khí.)
Trân
Nương:
Khủng
khiếp chân khủng khiếp, tâm kinh thậm tâm kinh! Dĩ vô lộ đào sinh, hướng thiên
trung độn tẩu. (Trân Nương bay lên trời, chạy trốn, vướng vào lưới
trời..)
Lại
nói:
Lên
trời đà khôn thấu, xuống đất kíp tàng hình. (Trân Nương niệm quyết, tàng
hình, chạy trốn xuống đất, vướng vào lưới đất -địa võng.) Bỉ tiên phương quả
thiệt tối linh, ngã tà thuật phiên thành vô dụng. Chun xuống đất bốn bề đều
túng, trổ lên trời một phía khôn bay. Nỗi gian nan chàng hỡi có hay, lòng trinh
chính trời (5-7) soi không thấu.
Hát
khách:
Mạo
hiểm vị phu trí thử nguy,
Hạ
biên nan tẩu thượng nan phi.
Bình
sinh pháp thuật chân vô dụng,
Bất
miễn yêu thân lộ tướng thì.
(Trân Nương ngã xuống đất, biến ra
hình rắn.)
Bạch
Viên đồng tử:
Bấy
chừ qua hỏi bậu[27],
còn phun nữa hay thôi? Mắc lưới trời gã khó tháo lui, biến hình rắn cũng không
trốn khỏi.
Tiên
mẫu:
Dẫu
bởi ngươi tác quái, chớ trách mỗ chẳng lành. Gươm trừ yêu đồng tử thừa hành, tru
xà quái miễn lưu độc khí. (Bỗng thấy ở hướng chánh Nam có đóa mây lành, Quan
Âm hiện hình, làm phép.)
Hồi Thứ Năm
-- Lớp Hai
(Cứu
Trân Nương, Quan Âm chỉ đường xin linh thảo.)
Quan
Âm Bồ Tát:
Hiện
pháp thân nhứt chỉ, tiên kiếm vật thương nhân!
Bạch
Viên đồng tử:
Hải
nhiên hải nhiên, kỳ dã kỳ dã! Tiên kiếm như hà bất hạ, thần cơ mạc thức kỳ
trung?
Lại
nói:
Đài
đầu ngưỡng kiến bán không, kia chẳng Quan Âm Ðại Sĩ?
Quan
Âm:
Tiên
đồng tu sĩ tu sĩ, đao hạ lưu nhân lưu nhân[28]!
Tiên
mẫu:
Khử
loài yêu mong xuống gươm thần, dừng lịnh mỗ vì nghe tiếng Phật, vội vã rước mừng
Bồ Tát, tới đây nhân có việc chi? (5-8)
Quan
Âm:
Vì
việc này nên phải ra đi, khuyên Tiên mẫu khá nghe phân
lại.
Hát
khách:
Thử thị xà tinh, dữ Hứa Hớn Văn nguyên túc đế,
Tương lai hùng mộng, thị Khôi Tinh Tử giáng nhân
hoàn.
Lại
nói:
Đầy
tháng rồi có kẻ lâm trần, yểm nó lại Lôi Phong Tháp hạ. Ngõ đặng ứng theo lời
gã, thề cùng Đại Ðế ngày xưa[29].
Sau Văn Tinh chiếm đỗ khôi khoa, đặng cáo cứu mới nên chánh quả. Nay khá tua tha
gã, chẳng nên hại mạng kia. Bần đạo đà tỏ máy huyền vi, tiên mẫu khá rộng tình
khoan thứ.
Tiên
mẫu:
Luận
một sự đả thương đồng tử, cùng tới đây thâu đạo tiên đan. Như tội kia giết đã
chẳng oan, vì duyên ấy tha cho kẽo ức[30].
La võng nhứt tề phất kiếp, Bạch Xà phóng nhĩ xuất lai. (Dẹp thiên la, địa
võng, thả Bạch Xà ra. Trân Nương hiện nguyên hình người như
cũ.)
Trân
Nương:
Đặng
hiện lại hình người, khỏi hóa ra thân quỉ. Ơn cứu tử hải hà khôn ví, đức nhiêu
sinh Sơn Nhạc khó tày. Mang lập khởi thân lai, kíp hướng tiền trần tạ[31].
Xướng:
Đường
đường bửu toạ khánh kim tiên,
Chiếu
diệu hào quang thấu cửu thiên,
Phước
đẳng hà sa vô số Phật,
Ðê
đầu vọng bái ngọc giai tiền.
Lại
nói:
Xin
Tiên Phật rộng suy, soi súc sanh gang tấc[32].
Phép chi cứu chồng tôi khi ngặt, kẽo đương cơn mang bịnh rất
nghèo!
Quan
Âm:
Lọ
ngươi phải nhiều điều, vốn ta đà biết trước. Tiên đan nọ chử còn ao ước, cảnh
lược nay nghe chỉ mà sang.
Hát
khách:
Tiền
Tử Vi Sơn
Nãi
Nam Cực tu Chân Linh Ðộng.
Hữu
hồi sinh thảo,
Thị
Hớn Văn hoạt mệnh thần đan[33].
Lại
nói:
Nghe
lời ta dặn bảo tỏ tường, giữ lòng gã mựa đừng sai chạy[34].
Tiên mẫu hỡi Diêu Trì tự tại, bần đạo xin Nam Hải thuyên qui[35].
Tiên
mẫu:
Bồ
Tát đà vân lộ cao phi, tiên đồng kíp động trung hồi phản.
Tiên
Đồng, Ngọc Nữ:
Diệu
pháp khai, xứ xứ giai.
Địa
võng phọc tà hề hoành lộ thượng,
Thiên
la tróc quỉ hề lạc trần ai.
Bạch
hổ thanh long hề phân hàng lưỡng dực,
Tiên
động hồi qui hề giá tảo lai,
Viễn
cách trần tục hề Diêu Trì (5-10) thiên cảnh,
Thụy
thảo kì hoa hề tối diệu tai!
Trân
Nương:
Nấm
nấm vâng lời chỉ dặn, khăng khăng giữ[36]
dạ ân cần, kíp giá vân lộ phi thân, mang hướng Tử Vi trực tiến[37].
Hát
nam:
Mang
hướng Tử Vi trực tiến,
Quyết
liều mình cho đặng linh đan.
Mang
sao đội nguyệt băng ngàn,
Sương
tô mặt phấn gió đàn mình hương[38].
Tiết
trinh cho trọn cùng chàng,
Gian
tân chịu vậy nghèo nàn sá chi[39].
Hồi
Thứ Năm -- Lớp Ba
(Ðộng
Tử Vi, Trân Nương cầu được linh đơn.)
Lại
nói:
Non
Tử Vi xưa hỡi tai nghe, cung Nam Cực nay đà mắt thấy. Một áng mây lành khí toại,
đòi nơi gác tía lầu hồng. Kỳ hoa thụy thảo kể khôn cùng, trân quả giai cầm xem
chẳng xiết. Toan cầu dược lòng đương bức thiết, dễ ham vui tưởng việc quan du[40].
Kíp vào chốn sơn môn, đặng tới nơi động khẩu.
Bạch
Lộc đồng tử dẫn:
Cơ
tầm dược hữu khát vân tuyền, linh hữu sinh lai
bất kể niên. Mộ bạn yên hà quy động khẩu, triêu tùy hoa thảo quá sơn
biên.
Lại
nói:
Phụng
tiên sư khán thủ động tiền, (5-11) ngã Bạch Lộc tiên đồng thị
dã!
Lại
nói:
Nễ hà
phương tục tử, cảm lai đáo tiên sơn[41]?
Khá tua bày tỏ căn nguơn, ngõ đặng tường chưng bản mạt.
Trân
Nương nói:
Thiếp
nay gọi Trân Nương chữ đặt, cùng Hứa Tiên kết nghĩa phu thê. Nay tới đây là
vì mần ri:
Hát
khách:
Phu
bệnh hiềm vô dược khả y,
Quan
Âm chỉ thị thủy tường tri.
Nhứt
chi tiên thảo phương năng cứu,
Ngưỡng
khẩn Tiên ông vọng quảng thi[42].
Lại
nói:
Xin
tiên đồng mở lượng từ bi, vào chuyển báo ngõ nhờ đức
thạnh.
Bạch
Lộc đồng tử:
Lời
nghe thảm thiết, lòng rất bi thương . Phật hẵn đà dạy đó tầm sang, nàng tua khá
chờ đây thưa lại.
Nam Cực
tiên ông:
Đảo
cùng giáp tí bất tri niên,
Ðối
trĩ thiên khu thái sán nhiên,
Thùy
tượng li phương chiếu thọ diệu,
Niên
niên củng chiếu ngọc giai tiền.
Lại
nói:
Tử Vi
cung nhàn dưỡng thiên nhiên, ngã Nam Cực tiên ông thị dã.
Bạch
Lộc đồng tử:
Cung
ngoại có một người nữ tử, biểu tự xưng là Bạch Trân Nương, căn do tôi đã hỏi
tường, chung thủy (5-12) dám xin bày tỏ.
Hát
khách:
Xưng
vị y phu hiệu Hứa Tiên,
Thái
tân ưu trọng chính nguy nhiên.
Quan
Âm chỉ điểm lai tư cảnh,
Tiên
thảo hồi sinh hạnh cứu thuyên.
Lại
nói:
Nên
phải vào bày tỏ căn nguyên, vốn chẳng dám riêng làm chen tiện.
Tiện
ông:
Lọ
ngươi phải tỏ bày ngành ngọn, vốn ta đà rõ biết căn nguyên. Thả thử yêu tu dĩ đa
niên, nhiên chánh quả vị năng thành tựu. Tượng bởi trần duyên vị liễu, vậy nên
nghiệp trái hỡi mang[43].
Vả lại mần ri. [44]
Lại
nói:
Chốn
vân phòng đồng tử kíp sang, hồi sinh thảo cho nàng một
nhánh.
Bạch
lộc :
Khâm
thừa sư lịnh, phụng mạng bôn hành.
Lại
nói:
Một
nhánh này là cỏ hồi sinh, nay Tiên ông người dạy rằng... cho nhà gã đem
về cứu tử.
Trân
Nương nói:
Hoang
mang bái tạ bái tạ, hoan hỉ nan thăng nan thăng! Tiếp lãnh lai tiên thảo ân cần,
kíp giá khởi vân trình hồi phản.
Hát
:
Kíp
giá vân khởi không trung khoảnh khắc,
Tam
thiên lý tu du bách vạn trùng,
Yên
mạc mạc, vụ xung xung a! (5-13)
Hồi
Thứ Năm -- Lớp Bốn
(Gian
nan nguy hiểm đường về.)
Bạch
Hạc đồng tử :
Vũ y
như tuyết đỉnh như đan,
Trường
bạn tiên gia nhựt nguyệt nhàn,
Vạn
lý phi hàn phù thụy sắc,
Cửu
cao thanh lệ hướng vân đoan.
Lại
nói:
Nam
Cực cung giá hạ tùy ban, ngã Bạch Hạc tiên đồng thị dã.
Lại
nói:
Nhân
thuở tiên cung vô sự, vậy nên vân ngoại nhàn du. Chốn thanh tiêu ngao ngán dầu
ta, miền bích thủy dạo chơi mặc mỗ[45].
Hát:
Tam
sơn cửu đảo mạc sương xâm, sương xâm
Nhứt
phiến thanh vân vạn lí tâm, lý tâm.
Thân
hóa thiên trì bồng đảo vãng,
Dực
hoành hải tế dĩ can tầm.
Hát
khách:
Cử
túc khinh khinh động ngoại lâm,
Ðiều
điều vân
lộ giá xâm xâm,
Kỳ
hoa dị thảo tùy du thưởng,
Ngũ
nhạc tam sơn xứng ngã tâm.
Lại
nói:
Chòm
mây đen đâu tới xăm xăm, mùi tanh khét đưa qua rực rực. Gần xem hãn thiệt, quả
giống yêu tinh. Kíp lướt mây đón hỏi phân minh, chi dung đó về qua đường
đột.
Lại
nói:
Hỡi
nghiệt súc khá tua dừng gót, (5-14) có tiên đồng đón lại vấn minh[46].
(Bạch thị nghe tiếng Bạch Hạc đồng tử, hết hồn hết vía ngã xuống
.)
Trân
Nương nói:
Nghe
kêu phút chốc dùn mình, mắng tiếng[47]
thoạt bèn mọc ốc. Hạc truy lai tật tốc tật tốc, xà vô lộ nan hành nan hành! Ba
hồn đà bay dõi mây xanh, chín phách lại[48]
nương theo ngút bạc. (Sợ quá, té xuống đất, hiện nguyên hình
rắn.)
Bạch
Hạc đồng tử :
(Đồng tử biến nguyên hình hạc
trắng.)
Sao
chẳng ở trên mây xông lướt, lại phải sa xuống núi mà chun. Gặp tay min ắt chẳng
còn hồn, giương mỏ tớ mổ cho nát xác. (Giương mỏ sắc tính mổ bỗng Bạch Oanh
hiện ra trong không trung.)
Bạch
Oanh nói:
Hưu
uổng sát, hưu uổng sát, khá nhiêu sinh, khá nhiêu sinh! Khá nghiêng tai nghe mỗ
thuyết minh, đừng mạnh mỏ nở lòng gia hại. Vâng Ðại Sĩ Quan Âm truyền dạy, e sư
huynh vi diệu chưa tường. Mà hại thửa mình nàng, ắt uổng chưng số gã. Sai tiểu
đệ kíp đi vội vã, tới chốn này trước đứng đợi chờ. Khuyên thuận dõi số kia, mà
dung chưng mạng nó.
Bạch
Hạc đồng tử :
Vốn
đệ tử không hay tật đố, ghét yêu tinh chẳng khác cừu thù. Nay đà nghe Phật chỉ
truyền cho (5-15), thời tua phải hồi tâm vâng dõi. Tiên Sơn hạ cúi từ ở lại, Nam
Cực cung âu kíp trở về.
Bạch
Oanh đồng tử :
Hạc
đồng đã nương gió hồi qui, Bạch thị hãy kinh hồn tử khứ. Âu là: Niệm khởi
tử hồi sinh mật chúc, tương khẩu trung tiên khí suy lai. (Đứng trước đôi má
của Bạch thị, thổi khí tiên vào.)
Trân
Nương:
Ngỡ
hồn đà nương dõi theo mây, hay phách đặng trở về nhập xác. Cứu tử chi ân mạc
trắc, hồi sinh chi đức nan lường. Nguyện trăm năm dạ tạc nhớ ơn, dâng bốn lạy
cúi đầu làm lễ.
Hát
nam:
Bốn lạy cúi đầu làm lễ,
Chỉ biển trời khôn kể công ơn.
Bạch
Oanh đồng tử :
Ngã
tiên sơn trực khứ, nễ trần thế phản hoàn. Cứu kỳ phu bịnh, lại thử tiên
đan.
Hát
nam:
Một lòng nắm giữ tiên đan,
Bồng Lai đây lại trần hoàn đó qua.
Hồi
Thứ Năm -- Lớp Năm
(Dối
lang quân chị em bày xão kế.)
Trân
Nương:
Cởi
mây người đã thoảng xa, nương gió ta mau dong ruổi.
Lại
tán :
Gian
nan vô hậu hối (4-16) hậu hối, nguy hiểm diệc an tâm an tâm! Ðản đắc hoàn sanh
cải tử, hà ưu lý cựu lâm thâm.
Lại
hát nam:
Tưởng
nghèo lệ ngọc khôn cầm[49],
Dốc
tròn đạo nghĩa, sá lầm gian nguy[50].
Mãng
còn[51]
cởi gió xa đi,
Phút
đâu đã tới hương quê chốn này.
Tiểu
Thanh thán:
Chích
ảnh thê lương
Ðối
nguyệt lâm,
Phong
trường dạ hận,
Cô
đăng tịch mịch.
Hòa
khâm bạn chẩm đối sầu miên,
Na
thức u sầu kết[52],
Thùy
tri lạc lệ liên!
Lại
nói:
Đứng
trông mây trông chẳng thấy tin, ngồi xem gió xem càng thêm bực. Dầu xa lắc đi
không mấy khắc, sao chậm chầy cho đến nỗi nầy[53]?
Những riêng lo áy náy đêm ngày, e lỡ bước vương mang la
võng.
Lại
nói:
Mãng
còn tưởng vọng, phút đã hồi qui. Chẳng hay là phản trở cớ chi, cho nên nỗi trì
diên dường ấy[54]?
Trân
Nương:
Tai
xảy nghe han hỏi, lòng nghĩ lại rụng rời. Phen nay mà cầu đặng cỏ này, chút nữa
chẳng còn mạng nọ. Nói chi xiết ghe đường (5-17) tân khổ, kể khôn cùng mọi nỗi
gian truân.
Lại
nói:
Kinh
gian quan vạn tử chi trung, phương thủ đắc hồi sinh chi thảo. Phó nhà ngươi kíp
liệu, lấy nước sắc vội vàng. Cứu quan nhơn ngõ đặng hồi dương, phiền tiểu tì khá
tua cẩn mật: (Tiểu Thanh nghe xong, trầm ngâm không nói, đứng tần ngần ở bên,
Bạch thị giận quá quát mắng.)
Lại
nói:
Căm
thay đầy tớ chết, đứng như xác nêm chong. Như
ta nay: Cỏ thần tiên dốc đặng cứu chồng, vòng sinh tử chẳng rời đoái mạng[55].
Về khiến ả sắc cho mau mắn, cớ sao ngươi đứng vậy tần ngần? Hay là quên đôi
phượng bạn loan, mà lại mộng lòng lang nết cáo?
Tiểu
Thanh:
Vậy
thời chị lý chưa suy thấu, nào phải tôi dạ có trớ trinh. Số là mần
ri:
Hát
khách:
Quan
nhân thử nhựt kiến nguyên hình,
Kinh
đắc Nam Kha nhứt mộng thành.
Kim
nhựt tiên thang tương cứu hoạt,
Tất
vân ngã bối thị yêu tinh[56].
Lại
nói:
Dầu
miệng nhiều chẳng rắp đổi hình, thời cũng khôn lẽ chối thoát cho khỏi
ruột. Ví chăng liệu trước, chi khỏi lụy sau. Khuyên kíp toan một phép chi mầu,
ngõ nói dối (5-18) tướng công cho nhẹm[57].
Bạch
Trân Nương:
Nghe
lời gã phân đà rất nhiệm, luận kế min liệu cũng khác thường. Âu là:
Kíp mở rương lấy đoạn bạch lăng, quyết làm phép ra tài huyền
diệu. Niệm mật chú thổi qua khẩu khí, (Thổi lên tấm lụa trắng rồi hô
biến.) phút bạch lăng biến lại bạch xà. Gươm kíp giơ bèn chém làm ba, sân
đem bỏ chớ cho hợp một.
Tiểu
Thanh:
Nan
thăng hỉ duyệt hỉ duyệt, dị khánh xưng dương xưng dương. Dường ấy nên pháp lực
cao cường, chi còn sợ tướng công nghi hoặc. Kế nọ đã tường nhiệm nhặt, cỏ này
phải sắc cho mau.
Hồi
Thứ Năm --- Lớp Sáu
(Hớn
Văn hết ngờ, thương hiền phụ.)
Lại
nói:
Sắc
vừa rồi âu kíp bưng vào, ngõ cho uống dường nào đặng biết. (Uống vào
chưa được nửa khắc, tứ chi Hứa Văn máy động, Hứa Văn hoàn hồn tỉnh lại, la lên,
ngồi dậy.)
Bạch
Trân Nương, Tiểu Thanh:
Uống
vào chưa nửa khắc, phút thấy động tứ chi. Thị tiên thuật chi nan khuy, quả thần
cơ chi mạc trắc.
Hứa
Hớn Văn:
Hồn
hoa mê mệt, phách quế mơ màng. Kìa Tiểu Thanh còn đứng bên giường, nọ Bạch thị
hỡi ngồi trước trướng. Chân quái đản chân quái đản, thị xà tinh
thị xà tinh! (5-19) Bấy lâu giả dạng giả hình, luống những mê tâm mê tạng. Nay
thấy gã rõ ràng hiện tướng, làm cho min kinh sợ mất hồn. Nhờ tổ tông cứu mới
đặng còn, vì số mạng hỡi chưa đến thác. Khá kíp lánh đi chỗ khác, chớ còn vấn
vít chốn này. Bằng một phen chẳng cứ lời này, gươm ba thước chi dung đảng quái[58].
Trân
Nương:
Nghe
rằng nên tức tối, thấy nói bỗng ngán ngang. Khó
mở lời phân thốt tỏ tường, phút ứa lệ dầm dề tuôn chảy[59].
Tiểu
Thanh:
Lời
phụ bạc làm chi lắm bấy, nỗi trước sau sao chẳng hỏi han. Khi rứa
chừ: Tướng công ra xem chúng đua thuyền, tiểu thư phút vừa khi tỉnh rượu.
Bèn lại hậu phòng bước dạo, ngõ thăm tiểu tất lành chưa. Ngờ bỗng đâu một cái
bạch xà[60],
chạy tới đó vào nơi cẩm trướng. Xảy nghe đặng tướng công lên tiếng, bèn vội vàng
trở lại tiền phòng. Thấy rắn kia mong hại tướng công. Tiểu thư tôi bèn
mới....tuốt gươm chém bỏ ngoài tỉnh hạ[61].
Nhận thấy tướng công kinh tử, xiết chi tâm thượng ưu phiền[62].
Vậy nên tiểu thư tôi mới mần ri...
Hát
khách:
Vạn
khổ thiên (5-20) tân bất tận ngôn,
Yết
lai lão mẫu tố căn nguyên,
Ai
cầu hạnh hữu hồi sinh thảo,
Cứu
liễu quan nhơn đắc phản hồn[63].
Lại
nói:
Nay
cớ sao phụ ngãi phụ ân, mà lại mắng rằng yêu rằng quái[64].
Xin tướng công tưởng lại, kẽo luống chịu tiếng oan. Ví tâm trung còn hỡi nghi
nan, xem tỉnh ngoại thời tường chân giả[65].
Hớn
Văn:
Thoáng
nghe qua lời gã, thêm ngại thửa lý kia. Phải một phen đình ngoại xem qua, ngõ
hai lẽ thiệt hư đặng rõ. (Bèn ngồi dậy muốn đi, Trân Nương níu tay áo Hớn
Văn).
Trân
Nương:
Tua
chỉ trụ tua chỉ trụ, vật khinh hành vật khinh hành! Nay mới an chưa mạnh trong
mình, chẳng nên vội đi ra ngoài gió[66].
Hớn
Văn:
Tiểu
Thanh khiến đi ra mà ngó, Bạch Thị thời níu chẳng cho coi. Quả một đoàn chập rập
ngược xuôi, âu là: xô ra kẽo còn chi điên đảo. (Xô Bạch thị qua
một bên, đẩy cửa phòng ra ngoài, đến giếng, thấy...)
Lại
nói:
Đình
trung thanh thảo, quả hữu bạch xà. Dấu nguyên hình mới chém làm ba, đất rơi máu
còn tươi như một. Việc xem đà hản thiệt, lòng mới hết hồ nghi. (5-21) Phải lại
nhà nhẹ tiếng vỗ về, kẽo luống đã quá lời thành phụ.
Hồi
Thứ Năm -- Lớp Bảy
(Hết
hoạn nạn, phu phụ vui xuân tình.)
Lại
nói:
Nay
mới biết ơn hiền phụ, thật là hết đạo sự phu[67].
Trót lỡ lời mắng tiếng đuổi xua, chịu lầm lỗi đây cam vạ phạt.
Trân
Nương:
Chẳng
nghĩ thiếp phô[68]
loài yêu nghiệt, cũng ơn người tưởng nghĩa cương thường. Phụ cùng chăng việc ở
tại chàng, hận với giận thiếp đâu dám nói. Tiểu Thanh vâng dạy, đình hạ kíp ra!
Khá đem xác bạch xà, lấp chôn nơi không địa[69].
Lại
nói:[70]
Nghĩ
thân phận châu rơi lai láng, tưởng tình duyên giọt nhỏ chứa chan. Thiếp chẳng
nài vạn khổ thiên tân, mới cầu đặng hồi sinh tiên thảo. Trông sống lại chồng hòa
vợ hảo, ngờ sanh nghi quái vật yêu đồ. Tượng vì ta căn trước chẳng tu, nên khiến
nỗi kiếp này dường ấy. Rày phải liệu gọt đầu làm vãi, đặng kíp mang chuỗi hột áo
dà. Lánh cõi trần xa chốn phồn hoa, nương cửa Phật ngõ tu kiếp khác[71].
Hớn
Văn:
Ta
trót đà thất lật, nàng chớ khá chấp nê[72].
Đứa chết đi (5- 22) sống lại biết chi, mà tiếng nói lời ăn theo trách. Thấy rắn
nọ lòng đà minh bạch, xét công nàng dạ những ai hoài. Vãi mặc ai, sư cũng mặc
ai. Một ở lại, hai xin ở lại.
Bạch
Xà :
Thiếp
vốn thiệt yêu tinh tác quái[73],
chẳng phải là nhơn loại sanh ra. Xin nghe lời cho thiếp xuất gia, ngõ khỏi nỗi
hại chàng lâm ách[74].
Hớn
Văn:
Cứ
đem lòng chấp trách, chẳng nghe tiếng khuyên lơn. Tu là cầu đặng phước gặp
duyên, tu sao muốn lìa chồng rẽ vợ. Tóc xanh đó gọt đi bao nỡ, má phấn kia đầu
Phật sao đành! Vui vẻ chi tiếng kệ tiếng kinh, nong nã bấy làm sư làm vãi. Tua
khá nghĩ đi nghĩ lại, chẳng nên cưu giận cưu hờn. Bắt vạ chi thời cũng thọ cam,
cúi đầu chịu dọi chơi ba cái. (Nói xong quì gối, Bạch thị thấy vậy cũng quì
theo.)
Bạch
xà :
Quan
nhơn thỉnh khởi thỉnh khởi, tiện thiếp thất ngôn thất ngôn[75].
Thưa, thưa: Dầu cho biển cạn non mòn, nói
thiệt: cũng nguyện lòng ghi dạ tạc. (Hớn Văn kéo Bạch thị đứng dậy. Hai
người dựa đầu vào nhau. Tiểu Thanh nhìn xuống đất, cười mím
chi...)
Hớn
Văn:
Mặt
đà hãn mặt, (5-23) lòng hết ngờ lòng. Trăm năm ghi ơn vợ nghĩa chồng, muôn kiếp
giữ thề sông hẹn núi.
Tiểu
Thanh:
Nín
cười nên tức tối, gẫm việc thiệt cứ trào. Ðuôi dài mèo lại khen mèo, chước nhiệm
mỗ thời khoe mỗ.
Hồi
Thứ Năm -- Lớp Tám
(Tri
Phủ phu nhân đau tiền sản, thầy lang địa hạt bó tay.)
Tuấn
Khanh:
Chức
lạm chịu Tô Châu tri phủ, tôi Trần Luân biểu tự Tuấn Khanh. Trên bảng vàng chói
chói danh lành, dưới con đỏ hây hây lòng duyệt. Rày gặp phu nhơn lâm sản, chỉn
hiềm phúc thống bất an. Nấy cho quân chúng vâng truyền, kíp thỉnh lương y điều
trị. (Quân vâng lịnh đi mời.)
Lại
nói:
Rày
nhân nội tử, vừa thuở lâm bồn. Ngờ bỗng đâu phúc thống bất an, phiền kíp liệu
lương phương cho vội.
Một
thầy thuốc:
Chứng
tuy nghe nói, mặt hỡi chưa tường. Xin đồng nhập nội đường, ngõ vấn minh bịnh
thể.
Lại
nói:
Chưa
quen làm bịnh đẻ, mắt trông thấy khôn đương. Cớ sao chỉ trời chỉ đất mà kêu van,
lại hỏi quan phủ quan tri mà ngán ngẩm. Giỡ khắp sách gia truyền ra kiếm, chẳng
một phương trị sản mà coi. Bịnh này thời ắt chết mà thôi (5-24), ai chịu chớ tôi
xin chạy trước.
Một
thầy thuốc:
Nghề
làm thuốc nhờ duyên nhờ phước, chứng tôi ưa đặt cuộc đặt đàn. Như bịnh này người
ra giá mấy quan, liều thuốc nọ tôi bổ thêm hai vị
nữa?
Tuấn
Khanh:
Thầy
hãy hết lòng điều trị, rồi ta kiếm của đem cho!
Thầy
thuốc :
Tôi
có phương người chẳng phải lo, nó như hoa tới chừng thời nở. Áo khăn người sắm
sửa, phương pháp mỗ truyền cho. Kíp tới trước sàng đầu, thành tâm mà thi lễ.
Vái rằng: Nay phu nhơn người sanh người đẻ, nhờ mụ bà cho dễ cho mau.
Thiệt phép ấy rất mầu, tôi những thường kiến hiệu.
Tuấn
Khanh:
Thầy
này nên lếu, quân kíp đuổi ra[76].
Còn mấy thầy ở lại cùng ta, kíp hội luận điều thang cho
vội.
Một
thầy thuốc :
Quả
tích tụ lâu ngày nên khối, nên phúc trung thường bữa thời đau. Cấp tắc trị kỳ
tiêu, huỡn tắc trị kỳ bổn. Một tôi trước lên thang lập luận, các thầy sau gia
giảm hội đồng. Dùng tía tô hợp với (5- 25) nhị trần, nhị trần gia bạch truật bội
nhiều bán hạ.
Một
ông thầy khác:
Khéo
thỉnh tới những thầy rất dở, quen làm vạy phỉnh
chúng kiếm ăn[77].
Thang danh đọc đã sái tên, vị thuốc[78]
nói không nhằm chữ. Ai uống nhằm thuốc gã, cũng bằng uống dao phay. Giờ phải
toan kíp dụng an thai, thời ắt đặng tự nhiên phân miễn. (Tri Phủ sai thị tì
đem thuốc cho phu nhơn uống.)
Mấy
thầy thuốc nói:
Chứng
chẳng sai chẳng chuyển, lòng thêm hãi thêm kinh. Nhẫn dầu Biển Thước tái sanh,
ắt cũng vô phương khả trị.
Tuấn
Khanh:
Thầy
cũng đà hết ý, ta há dễ ép lòng. Như thuốc này dầu chẳng thành công, thôi
thời rước thầy khác[79]
họa may thuyên dũ.
Hồi
Thứ Năm -- Lớp Tám
(Trân
Nương dàn cảnh cho chồng có cơ hội trị bịnh
khó.)
Trân
Nương:
Nghe
vợ quan Tri Phủ, lâm phải chứng sản nan. Âu ta phải dụng thần phương, ngõ đặng
cứu an bịnh ngặt. Kíp giả dạng Quan Âm Bồ Tát, đến ứng lời hiện hiển mộng trung.
Lén Hứa lang giấc điệp vừa nồng, nương vân lộ dinh lang kíp
tới.
Tuấn
Khanh:
Tưởng
phu nhơn dạ luống bàng hoàng, lo thang thuốc
lòng thêm rầu rĩ. Đã mời khắp (5-26) danh y điều trị, thảy đều là diệu dược vô
phương. Thuốc linh đan khó nỗi hỏi han, phương Biển Thước biết đâu cầu khẩn.
Thốn thức bữa ăn nào ổn, bồi hồi thức nhắp chẳng an. Vậy khiến nên khốn quyện
tâm thần, tạm nương án nghỉ an phế phủ[80].
Trân
Nương:
Cả
kêu Trần Tri Phủ, ta nay Phật Quan Âm[81].
Thương nhà ngươi nên đã thành tâm, cứu vợ gã khỏi khi tai nạn. Vậy nên mỗ tới
đây bảo dặn, khá sai người tới Bảo An Ðường. Rước danh y là Hứa Hớn Văn, ắt gã
ấy cứu an chứng nọ. Khá nghe lời cho rõ, tua giữ dạ đừng quên. Kíp giá nhứt vân
biền, vọng thinh không hồi khứ.
Tuấn
Khanh:
Giấc
tỉnh vừa bợ ngợ, lòng còn nhớ như ghi. Thấy Quan Âm mình mặc bạch y, đứng trước
trướng tay cầm trần vĩ. Trong chiêm bao chỉ vẽ, mọi lời rất tỏ tường. Dạy ta
thời mời Hứa Hớn Văn, rằng gã ắt cứu an chứng ấy. Nào hai gã trưởng ban nghe
vậy, nầy một tờ thỉnh thiếp vội vàng. Kíp tới Bảo An Ðường, rước Hớn Văn cho
(5-27) đặng.
Hai
ông trưởng ban :
Ngửa
vâng sai khiến, đâu dám khiên trì. Lãnh thiếp tử bôn phi, vọng điếm môn trực
chí.
(Hồi
Thứ Năm -- Lớp Chín
(Hớn
Văn được mời trỗ tài đoán trị bịnh. )
Hớn
Văn:
Rày
thanh nhàn vô sự, đặng thong thả tư đình. Vài tuần châm chén cúc tiệc quỳnh, hai
ta khá ngâm thơ thưởng cảnh.
Trân
Nương:
Quan
nhơn đã khiến, tiện thiếp lạm tường. Ca tay rót
chén pha lê[82],
đồng vận tả ngâm châu ngọc.
Cùng
ngâm :
Giải
cấu Tây Hồ hội ngộ kỳ,
Nam tài
nữ mạo hợp tương ti (tư),
Tặng
ngân tá tán Tô Châu nhựt,
Tục
hảo tầm minh hạng điếm kỳ[83].
Lưỡng
ý châu hoàn thiên tác hợp,
Bách
niên thân thế lão vi kỳ.
Tương
lân đản nguyện trường tương đối,
Xuân
tại đình giai, nhật ảnh trì[84].
Hớn
Văn:
Xướng
hòa hợp bạn trúc mai, vui vẻ thỏa lòng tiêu khiển.
Đào
Nhân:
Đồng
quân sĩ hai tên mới đến, vâng phủ gia một thiếp ân cần. Rằng phu nhân lâm sản
chẳng an, vậy nên: tới dược điếm rước thầy điều trị.
(5-28)
Hớn
Văn:
Nghe
lời thêm mất vía, thấy rước bỗng kinh hồn. Vả ta tuy dược tính thường quen, vốn
mỗ thiệt mạch kinh không rõ. Huống chi lại vợ quan Tri Phủ, chẳng ví như dân
chúng bình thường. Nếu mà ngộ dụng dược phương, thời ắt khôn toàn tánh mạng[85]!
Trân
Nương:
Quân
thả hưu kinh hãn, thiếp dĩ liễu nguyên lai. Vả phu nhơn phúc nội song thai, nên
giao cốt bào y nan sản. Tôi luyện[86]
trước hai hoàn đã sẵn, uống vào thời song tử hạ lai.
Lại
nói:
Cứu
phu nhơn sanh sản an sàng, ắt lễ tạ tặng đưa chan chứa. Tiểu Thanh tua vội vã,
lời ta khá kíp vâng. Vào mở rương lấy thuốc hai hoàn, đem bỏ đãy cho thầy nhứt
khắc[87].
Hớn
Văn:
Quả
hiền phụ thần cơ mạc trắc, hữu tiên phương diệu dụng vô cùng. Đơn cứu ôn trước
đã thành công, hoàn bảo sản há không kiến hiệu[88].
Kíp cất vào tay áo, mau ra tới cửa ngoài. Cùng trưởng ban chóng chóng giang tay,
trông phủ lý phăng phăng dời bước. (5-29)
Hát
Nam
:
Trông
phủ lý phăng phăng dời bước,
Mình
hay mình có chước y dân.
Sẵn
dành thuốc hiệu phương thần,
Chẳng
hơn Biển Thước cũng gần Đào Công,
Ðường
hoè ngõ hạnh lướt xông,
Muốn
nên danh cả dễ trông của nhiều.
(Hồi
Thứ Năm -- Lớp Mười
(Nơi
phủ đường Hớn Văn trỗ tài trị bịnh. )
Tuấn
Khanh:
Xin
cứu lấy bịnh nghèo, kẽo mình đà rất ngặt.
Hớn
Văn:
Nghe
đòi lật đật, chẳng dám trì hồi[89].
Song chưa tường quí dạng là ai, xin phân lại tiểu nhân đặng
hãn.
Tuấn
Khanh:
Vì
một nỗi phu nhân lâm sản, đã ba ngày phúc thống bất an[90].
Phương chi cứu đặng toàn, ắt là ta trọng báo.
Hớn
Văn:
Người
xin đừng sầu não, tớ[91]
ra sức ân cần. Chúng tôi là đài hạ tý dân, một phen nguyện liều công khuyển mã.
Bịnh dữ bằng không cứu chữa, danh lành sao đặng xa nghe. Đã ba ngày chúng thảy
đều chê, quyết một tể đành tôi trị đặng.
Tuấn
Khanh:
Bấy
lâu mỗ[92]
thường lòng lơ lãng[93],
đến nay nghe lời thầy dạ chút mở mang. Xin dang tay đều tới phòng hương,
ngõ chẩn mạch sẽ dùng thang dược. (5-30) (Hớn Văn coi
mạch.)
Hớn
Văn:
Vào
xem mạch mới tường kinh lạc, mừng cho người rày đặng hai trai[94].
Nguyên vì một sự song thai, nên nỗi khó bề phân miễn. Thuốc nuốt trộng hai hoàn chớ tán, nước uống đưa một chén
tống theo. Chừng nửa khắc chẳng lâu, ắt thai sanh tức tốc. (Đưa Tri Phủ hai
hoàn thuốc, biểu tì nữ đưa cho phu nhân uống.)
Tuấn
Khanh:
Đem
dược hoàn cho phục, nấy thị tì vâng truyền. Y phép thầy mựa chớ tán nghiền, phó
tay tớ[95]
khá tua cẩn thận.
Thị
nhi :
Bà
tôi nên phước lớn, ông rước đặng thầy hay. Thuốc uống vào chưa đặng một giây,
phu nhơn đã sanh hai công tử. Phép chi rất lạ, thấy cũng nực cười. Trong tay
trái hai người, cầm thuốc ra một dạng[96].
Tuấn
Khanh:
Thính
thuyết ưu sầu đốn tận, văn ngôn khánh hạnh vô cùng[97].
Thầy chân quốc thủ vô song, thuốc thiệt tiên thần đệ nhứt[98].
Hớn
Văn:
Ấy
tượng bởi đại gia hồng phước, cùng phu nhân hỉ khánh xui nên. Xét tôi vốn tài
hèn, thiệt công chi chẳng có.
Tuấn
Khanh:
(5-31)
Đã hay rằng phước chủ, song cũng bởi may thầy. Ví dầu không gặp phải thuốc hay,
làm sao gọi đặng nên phước lớn.
Lại
nói:
Dùng
tinh ngân ngàn lượng, cùng thái đoạn bốn cây. Lễ kính đưa xin đáp ơn thầy, xin
dùng lấy cho đành lòng chủ.
Hớn
Văn:
Há dễ
mấy công lao chi đó, mà dám vâng thạnh lễ dường này! E cố từ lại mích lòng
người, phải phụng lãnh đặng lui gót tớ[99].
Tuấn
Khanh:
Nấy
gia nhân hai gã, đem tạ nghi theo dõi tiên sinh[100].
Cùng cổ thủ tám tên[101],
đài kiệu tử đưa về quí điếm[102].
(Hớn Văn rời khỏi phủ)
Hớn
Văn:
(Hứa
Hớn Văn ra khỏi phủ, nói: ) Mới biết thời lại phong tống[103],
đành hay phước chí tâm linh. Từ trước nha ren rén lui mình, bước lên kiệu thênh
thênh về phố.
Lại
nói:
Nhứt
triêu hạnh ngộ, lưỡng hạ giai hân. Dục tri hậu sự minh trần, thả thính hạ hồi
phân giải.
Hết
Hồi Năm
[1]
Cảnh tiên, thiên nhiên đẹp. người nhàn.
[2]
Tiểu đồng nguyên là vượn trắng giữ cửa động.
[3]
Nơi cung ngọc say sưa thưởng thức các trái cây quí, chốn ao Diêu Trì quá quen
thuộc với các hoa lạ hiếm. Ý nói cảnh sung sướng của thần tiên.
[4]
Trân Nương nói rằng mình xuống trần vì vâng theo thánh ý của tôn sư, lập gia
đình cũng là vì có tiền duyên phải nối mà thôi.
[5]
Chồng tôi bị bịnh lạ, ở cõi trần không thể có thuốc trị được, Nghe thần tiên ở
đây có thể giúp cho khỏi chết, nên đến xin thuốc thần để cứu chồng.
[6]
Nhìn kỹ thì biết tiền căn của ngươi.
[8]
Bắt ngươi đi đối chất cho biết thiệt hư. Dữ quá, người ta đến xin thuốc cũng nói
chuyện tử tế. Thế mà!
[10]
Chăm bẳm : chầm chập.
[11]
Bị phun ngọc rắn ra thẳng vô mặt. Đáng đời kẻ làm phách!
[12]
Đau quá phải vào động mét thầy!
[13]
Gì mà dữ vậy? Đánh người bị thương đâu có gì đến phải tội chết. Thật ra đây là
sự nói quá trong tuồng thôi.tuồng mọi sự đều nói phòng đại hơn, chẳng hạn nhớ ơn
thì muôn kiếp không phải, giận thì như lửa bừng cháy trong lòng...
[14]
Thâu bảo châu lại, cỡi mây mà chạy trốn. Mang mang 恾恾: vội
vàng, mau mau.
[15]
Giăng lưới đất lưới trời thì bắt không sót kẻ tà, kẻ quái.
[16]
Pháp thuật và thần thông của mình thì quá cao cường!
[17]
Có một con yêu quái giả làm đạo cô, mạo xưng là môn đồ của bà Lê Sơn, đến đây
nhờ con thông báo với tiên mẫu để xin linh đơn. Bạch Viên đã khi khổng khi không
xác nhận người ta là giả nầy giả nọ mà không trưng dẫn bằng chứng!
[18]
Người tu hành coi vậy mà dễ nóng giận ha. Chỉ mới nghe học trò báo cáo đã nộ khí
xung thiên!
[19]
Đánh đệ tử không kiên thầy. Cái điệu lý luận nầy biết bao nhiêu tiên ông của phe
triệt giáo đã mất mạng và lên bảng phong thần rồi. Xem truyện Phong Thần
Diễn Nghĩa.
[20]
Ra ngoài coi con yêu nầy ở đâu tới!
[21]
Cỡi mây mà chạy trốn, phải nó là Bạch Xà Tinh hay không? Chữ chăng
庄dùng
trong câu hỏi. Ngày nay chữ chăng không đi một mình mà đi vớI các từ đặc
biệt như: phải, đúng, có…
[22]
Con rắn quỷ kia, mi đừng có trốn.
[23]
Thiên binh vây phủ, bùa dán mọi nơi cho nên thoát ra lên trời cũng không được,
chun xuống đất cũng không xong! Ðại nạn đại nạn!
[24]
Ðối với Trân Nương, cuộc chiến nầy vẫn là cuộc chiến vô lý và tự vệ, nhưng thật
ra nguyên nhân căn bản của cuộc chiến đã nằm sẵn trong con người của nàng:
vốn là thú vật tu thành tinh…
[25]
Ðao kiếm không làm gì được vì có khăn càn khôn che đầu. Chữ xuể bản nầy dùng xỉ
齒, bản B
dùng nạch + thể 体rất thú vị
về mặt chữ Nôm.
[27]
Bây chừ qua hỏi bậu, giọng thiệt là cầu cao đáng ghét. Nhưng như thế mới
nhiều kịch tính, sự cần thiết của tuồng.
[28]
Tiên đồng tu sĩ tu sĩ 童童修俟須俟: khoan
đã tiên đồng! Tu sĩ : hãy đợi. Đao hạ lưu nhân lưu
nhân 刀下留留仁: xuống
đao phải có lòng nhân. (Nôm dùng nhân 人thay vì nhân
仁.)
[29]
Người xưa nói thề là mắc, thắt là
dính!
[30] Bà tiên nầy chằn quá, binh học trò
lăn-xăn mắng người, còn đòi giết người.
[31] Mau mau đứng dậy, hướng về phía trước mà
tạ ơn.
[32] Soi súc sanh gang tấc: xin
xét thiệt là kỷ cho phận hèn mọn nầy.
[33] Trước núi Tử Vi có ông
Nam Cực tu ở động Chân Linh.
Ông có cỏ hồi sinh, đó là thuốc thần để cứu mạng Hớn Văn.
[34] Giữ lòng, phiên theo bản B, rõ
hơn.
[35] Quan Âm vừa từ giả vừa khuyến cáo tiên
mẫu hãy về đi, đừng có lộn xộn nữa. Cách nói rất khôn
khéo!
[37] Bay lên trên mây đi về phía núi Tử
Vi.
[38] Nói là mình đi đêm cực khổ, sương dính
vào mặt, gió tạt vào mình. Cũng chỉ là cách nói thôi, Trân Nương cỡI mây! Chữ
đàn 彈, chúng tôi không tường nghĩa cho minh
bạch. Cả hai bản A, B đều dùng đàn.
[39] Tội nghiệp thân gái hết lòng với
chồng!
[40]
Cảnh non tiên quá đẹp, nhưng mình
đang có sứ mạng phảI làm nên không còn tâm trí đâu mà thưởng thức. Rất đáng trân
trọng cái tình cảm nầy.
[41] Nhà ngươi là ngườI ở đâu dưới trần, sao
lạI dám đến non tiên? Theo bản B thêm chữ lai 來, vốn bản A không có. Phật Quan Âm trước
đây đã mách bảo cho biết, rằng có một loại cỏ tiên có thể cứu được, nên xin
thỉnh cầu tiên ông cứu giúp…
[42] Chồng bệnh mà không có thuốc để trị,
[43]
Ta đà biết: con yêu nầy tu đã nhiều
năm nhưng không thành chánh quả. Vì nghiệp trần chưa dứt nên còn nhiều trái
oan.
[44] Hình như chỗ nầy ngườI viết tuồng bỏ
trống chỗ cho gánh hát thêm vô một đoạn hát khách.
[45] Chốn thanh tiêu ngao ngán dầu
ta: mặc tình ta ngao du thoả thích nơi tiên cảnh. Miền bích thủy
dạo chơi mặc mỗ: thỏa ý ta dạo nơi nước biếc (non
xanh).
[46]
Hình như những tiên đồng trong
tuồng nầy hơi làm mất cảm tình của người đời bằng những nhanh nhẩu quá đáng.
Thật ra đây là sự dàn cảnh của tác giả để cho thấy sự cực khổ bên bờ sống chết
của Trân Nương trong việc tìm thuốc cứu
chồng.
[47] Mắng tiếng thoạt liền mọc
óc: nghe tiếng tức
thì quá sợ hãi. Mắng tiếng 𠻵
㗂: từ cổ có nghĩa là nghe. Nhiều
người phiên chữ mắng âm là mảng, không đúng.
[50] Dốc tròn đạo nghĩa, sá lầm gian
nguy: quyết long làm tròn chuyện đạo nghĩa, không kể chi đến việc mắc
phải nguy hiểm. Lầm: mắc phải.
[51] Mãng (còn): Mắc bận bịu chuyện gì. CD:
Bước xuống ruộng sâu em mãng sầu tất dạ….
[53] Nghĩ rằng đi mau sao mà lâu quá! Chữ xa
lắc được viết bằng xa xác
[54] Bị chuyện gì cản trở mà chậm quá như
vậy?
[55] Chẳng rời đoái mạng, phiên theo B rõ
ràng hơn, nghĩ rằng A viết sai…
[56]
Cô nầy lo xa và suy luận cũng hợp
luận lý lắm.
[57] Phải liệu kế hay để nói dối. Bản A viết
: … toan một phép chi mầu, ngõ hỏi dối… chữ hỏi như là làm
cho tối nghĩa chỗ nầy, chúng tôi dùng bản B: … ngõ nói dối. Rõ
ràng hơn. Ðoạn nầy chữ nhẹm 冉 nầy rất đắc địa. Nhẹm có
nghĩa là hoàn thành.
[58] Anh nầy nói khứa kháo lổ miệng, anh trói
gà không chặc làm sao đánh lại tinh!
[59] Nước mắt phụ nữ đời nào cũng xiêu lòng
anh hùng, huống chi Hớn Văn chỉ là một kẻ thường thường thường bậc
trung!
[61] Bỏ ngoài tỉnh hạ: bỏ xuống
giếng.
[63] Trăm cay ngàn đắng không thể nói
được,
[65] Còn nghi thời ra ngoài giếng kia coi tất
biết. Bản B: thiên tỉnh, thay vì tỉnh ngoạI như
A.
[66] Thương quá xá là
thương.
[68] Phô loài yêu nghiệt
哺𩔖
夭孽: nói rằng thiếp là loài quỉ..Phô
哺, tiếng xưa có nghĩa là nói. Lục Vân
Tiên: Trong xe chật hẹp khó phô.
[69] Chỗ nầy thiệt là hay: biểu Tiểu Thanh đi
chôn rắn giả để phi tang sau nầy, vừa cho cô ta vắng mặt để mình dễ eo-xèo, nũng
nịu…
[70] Ðể ý, chỗ nầy là lại nói. Trong
tuồng hầu hết là người xem phải tưởng tượng đây là cảnh khác. Có thể là loan
phòng, vì trên sân khấu diễn viên đã đi hai ba vòng tượng trưng cho sự di
chuyển.
[71] Bây giờ tới lúc làm giận làm hờn, làm
màu làm mè.Chẳng vậy mà Hớn văn chết mệt.
[72] Ta trót đà thất lật
些卒它失栗: anh trót làm điều làm lỗi. Nàng chớ
khá chấp nê
娘渚呵𢩾
泥:
xin em đừng cố
chấp.
[73] Nũng nịu đây! Dễ thương và dễ sợ chỗ
nầy! Bản B. Thiếp vốn hẵn yêu tinh 妾本罕妖精…. Thay vì thiếp vốn thiệt
妾本寔妖精…
[74] Ðược mợi thì càng làm
già!
[75] Thấy chàng ‘quì gối’ nàng sợ
quá!
[76] Thầy chỉ xạo, bịnh trị bằng lễ vái…nên
bị đuổi ra.
[77]
Quen làm vạy, phỉnh chúng
kiếm ăn: lằm điều
sái quấy, gạt người. Phỉnh chúng 𠶏
眾: gạt người , chữ nầy trong
Nam không có
dùng.
[78] Vị thuốc, bản B: thuốc
tánh.
[79] Trị dỡ cho nên chúng đuổi ra rước thầy
khác. Bản Nôm viết sai rước 逴thành trên.𨕭 Bản B viết
đúng.
[80]
Lo lắng và mệt mỏi, bèn ngủ ở chỗ
bàn sách.
[81]
Con bé thương chồng quá nên làm
nhiều chuyện sằng.
[82]
Ở đây chúng tôi theo bản B: Ca tay
chuốt chén pha lê
歌𢬣
捽𥗜
玻璃:
Tay rót chén pha lê. Ca 歌: từ cổ có nghĩa là ở tại. Bản A
viết sai chữ ca 歌
thành hân 欣.
Hân không có nghĩa gì hết ở chỗ
nầy. Nhờ bản B, không thì không thể nào đính chánh được chỗ nầy, mà đọc hân thì
ngặt quá!
[85]
Nghe nói như vậy thì thấy cái mạng
của dân đen chẳng đáng giá chút nào. Thầy thuốc có quyền chửa trị làng nhàng để
ăn tiền!
[86] Bản Nôm viết chữ lệnh
令, tạm đọc luyện trong khi chữ Nôm
có nhiều cách viết chữ luyện đúng hơn!
[87] Ðem bỏ đãy cho thầy nhứt
khắc: bỏ vô bị cho thầy ngay. Vì cần đối với chữ hai hoàn tác giả
dùng cưỡng ép chữ nhứt khắc. Thường người ta nói tức
khắc.
[88] Hoàn bảo sản há không kiến
hiệu: thuốc viên dưỡng thai chẳng lẽ không hiệu nghiệm? Hớn Văn tin
tưởng vợ vì thấy nàng quá hay…
[89] Chẳng dám trì hồi : không
dám chậm trễ.Trì hồI cũng như trì diên.
[90] Phúc thống bất an: bụng
đau chẳng yên.
[91] Ðể ý, từ tớ đây là từ nhún
nhường, đầy tớ, chứ không phải mày tao mi tớ…
[92] Chữ mỗ ở đây cho thấy quan Tri
Phủ vẫn chưa tin tưởng tài ông thầy lang nầy
[93]
Bấy lâu mỗ thường lòng lơ
lãng: từ trước đến
giờ ta không để ý đến thầy… Chúng tôi phiên là lơ lãng thay vì lo lắng
chỗ nầy, nghĩ rằng hợp với tình huống của câu chuyện hơn.
[94]
Chàng Hớn Văn nầy đóng kịch cũng
giỏi lắm. Biết trước tin rồi mà vẫn còn làm màu mè bắt
mạch..
[95] Phó tay tớ: giao cho các
thị tì. Tác giả muốn cho đối chữ thầy ở trên với tớ ở
đây.
[96]
Chỗ nầy lạ quá, thuốc uống vào thì
trẻ con nó cầm ra khỏI long mẹ. Chắc là thuốc của tinh cho nên con trẻ nó phảI
trả lại. Chưa có điều kiện đọc truyện Thanh Xà Bạch Xà nên không biết chi tiết
nầy ra làm sao!
[97] Nghe nói thì đổi buồn làm vui. Mừng
quá!
[98] Thầy hay đệ nhất, thuốc thiệt thuốc
tiên.
[99] Hớn Văn dùng chữ tớ thay vì chữ
khách để đối với chữ chủ của quan Tri Phủ, đây cũng là cái nguyên
nhân cứu mạng anh ta sau nầy.
[100] Ðem tạ nghi theo dõi tiên sinh
𡧄
謝蹺唯先生quí trọng quá
nên cho người đem của tạ theo thầy về nhà!
[101]
Nguyên văn viết tám danh
糝名. Chúng tôi đọc là tám tên
như trường hợp chữ ba niên đọc là ba năm
ở trong tác phẩm khác.
[102] Lại sai nhóm trống kèn đưa về-- rình
rang, vinh dự-- có cả kiệu đưa.
[103] Thời lai phong tống,
時來風送 thời mình đến thì có gió đưa đi, chỉ sự
may mắn. Từ câu thơ cổ: Thời lai phong tống Ðằng Vương các: Lúc may mắn
thì gió đưa đến gác Ðằng Vương…
No comments:
Post a Comment