Vài nhận xét về Trà Lũ

Tác phẩm đã xuất bản: Kẻ đưa đường (1986), Pulau Bidong Miền đất lạ (1992).
Ái hữu ĐHSP Sàigòn hân hạnh giới thiệu bài viết sau đây của Võ Kỳ Điền đã đăng trên trang Web "Thư Viện Việt Nam" (http://tvvn.org)
Tôi quen nhà văn Trà Lũ đâu chừng trên
dưới hai mươi năm. Trong khoảng thời gian đó tôi đã nhận được từ nhà
văn, tất cả là mười cuốn sách quý được gởi tặng. Lẽ ra tôi phải gọi nhà
văn Trà Lũ bằng thầy, bởi vì tôi xuất thân từ trường Sư Phạm mà nhà
văn Trà Lũ đã từng là Giáo Sư dạy ở đó. Lần đầu tiên khi gặp nhau, tôi
gọi nhà văn Trà Lũ là thầy với tất cả những gì kính trọng, quý mến.
Nhưng mà nhà văn đã không cho tôi xưng hô như vậy và chỉ muốn tôi gọi
bằng anh trong tình văn hữu - cung kính bất như tùng mạng, tôi bắt buộc
phải nghe theo, từ đó về sau tôi thường gọi nhà văn Trà Lũ bằng anh,
tiếng anh thân kính, tuy bên ngoài là anh mà bên trong vẫn là thầy.
Dầu tôi không được may mắn học trực tiếp
với thầy Trần Trung Lương ở trường nhưng bù lại được học hỏi rất nhiều
những gì thầy đã viết ra trong sách. Hôm nay nhân ngày thầy Trà Lũ ra
mắt cuốn thứ mười, tôi xin phép được khoe với quý vị những nét tài hoa
của nhà văn Trà Lũ. Mà chắc là tôi không cách gì nói hết được đâu, bởi
vì Trà Lũ viết hay lắm. Quý vị thử suy nghĩ một chút thì thấy ngay,
giáo sư của trường Sư Phạm là thầy của các vị thầy, nói theo ngôn ngữ
phim bộ - sư phụ của sư phụ, thì làm sao mà không hay cho được!
Quen biết nhà văn Trà Lũ một khoảng thời
gian khá dài, con người, tánh tình và nếp sinh hoạt của ông, tôi biết
được chút ít. Ðọc văn thì biết người. Mà đã biết người rồi, thì thấy
văn cũng giống y như vậy. Có thể coi Trà Lũ như một người cực kỳ thông
minh, dáng vẻ điềm đạm, khéo giao thiệp, dễ hòa mình với mọi người,
nhứt là tánh tình giản dị, tươi vui, yêu đời đầy nét duyên dáng, hóm
hỉnh. Ông đến với xứ Canada nầy như cá gặp nước biển hồ vậy. Ông đối với
đời đẹp quá và đời đối với ông cũng đẹp nữa. Cứ nhìn ông giao tiếp với
bạn thì biết, cụ Chánh, cụ B.95, ông ODP, ông H.O, ông Từ Hòe, chị ba
Biên Hòa, anh John, cha Paolo,... có nam, có bắc, có đông, có tây, có
liền ông và liền bà, có già có trẻ. Người nào cũng hiền lành tử tế, đối
xử nhau tương thân, tương kính, thuận thảo, có món ngon vật lạ cùng
nhau thưởng thức chia sẻ, có chuyện gì vui cùng kể cho nhau nghe, có
chuyện gì lạ cũng báo cho nhau biết,… rồi xúm nhau cười ào ào. Ðời
thiệt là vui và đáng sống hết sức. Chưa bao giờ tôi thấy các nhân vật
Trà Lũ cau có, quạu quọ, giận hờn, tranh chấp hơn thua, cãi vã, gièm
pha, ganh tị, chửi rủa nhau, bơi móc nói xấu nhau...
Mười cuốn sách đã phát hành, nhan đề đều
có chữ "Ðất" như vậy là tác giả có dụng ý khi đặt tên tác phẩm. Nhà
văn Trà Lũ muốn gởi gấm điều gì qua các đứa con tinh thần của mình? Rõ
lắm, tác giả hết lời ca tụng đất nước Canada rộng lớn vĩ đại, giàu có
và thanh bình. Canada là vùng đất tác giả đã chọn lựa khi định cư, được
coi như là quê hương thứ hai. Tất cả các quyển được viết theo cùng một
khí văn nhất quán - hơi văn đi một mạch, mười cuốn như một, một cuốn
như mười. Lối hành văn lưu loát, nhẹ nhàng, tự nhiên, lôi cuốn, ý nhị,
câu chuyện thoắt biến thoắt hiện, tài tình. Tác giả viết tự nhiên như
là đang kể chuyện trực tiếp cho độc giả, là chúng ta nghe. Nghe hoài
nhưng không chán, trái lại còn say mê theo dõi nữa. Khó có ai cầm quyển
truyện trên tay rồi, lại bỏ xuống cho được. Câu chuyện liên tục, nồng
ấm, hấp dẫn quá sức lẽ mình! Ông thường tường thuật lại những buổi hợp
mặt thân hữu vào những ngày lễ hội, ngày Tết, ngày kỷ niệm, và cùng
nhau bàn luận chuyện đông tây kim cổ, chuyện nọ chuyện kia, những bài
thơ, bài báo, sách vở, đôi khi tiếu lâm nữa, khiến buổi họp mặt sôi
nổi, hào hứng, xen vào đó vài chuyện tiếu lâm lạt hay mặn mà có khi mặn
tới quéo lưỡi, khiến các bà đỏ mặt mà vui.
Nội dung câu chuyện lúc nào nhà văn Trà
Lũ cũng ca ngợi quê hương mới là đất Canada, hăng say, nồng nhiệt,
không hề rụt rè, không đắn đo so bì, Canada là số một, Canada là thiên
đường. Ban đầu tên các tác phẩm được đặt là Miền Ðất Hạnh Phúc, rồi Ðất
Mới, Ðất Hứa, Ðất Thiên Ðàng, Ðất Yêu Thương, Ðất Lạnh Tình Nồng, Ðất
Quê Ngoại, Ðất Anh Em và cho mãi tới cuốn thứ mười, cuối cùng thì Trà Lũ
mới dám gọi Canada là Ðất Nhà. Tại sao phải tới cuốn thứ mười tác giả
mới gọi như vậy? Cái lý do nào mà Trà Lũ đi loanh quanh lẩn quẩn, gọi
Canada là đất nầy đất kia, đi lòng vòng mãi ở ngoại ô mà không dám tiến
thẳng vào thủ đô, không dám ôm Canada vào lòng mà hôn hít nó, gọi là
đất của mình, tuy tác giả đã có quốc tịch Canadian đã trên 30 năm rồi?
Rất là dễ hiểu, bởi vì trong đầu tác
giả, còn đầy ắp một đất nước Việt Nam, trong trái tim tác giả còn đập
nhịp tư tưởng, tình cảm Việt Nam thiệt là lớn, làm sao một sớm một
chiều mà quên phắt cho được. Quê hương chỉ có hai chữ đơn giản vậy
thôi, sao lại khiến người ta khắc khoải. Trà Lũ đã viết: - Nếu định
nghĩa quê hương là chùm khế ngọt, là con diều biếc, là con đò nhỏ, thì ở
hải ngoại nầy chúng ta không có quê hương sao? Cụ Chánh tiên chỉ làng
đáp ngay - có quê hương chứ, có nhiều chứ. Chúng ta đi mang theo quê
hương mà. Bao lâu chúng ta và con cháu chúng ta còn nói tiếng Việt,
ngâm thơ Nguyễn Du, đọc thơ Nguyễn Công Trứ là bấy lâu chúng ta còn có
quê hương. Bao lâu chúng ta còn ăn Tết nguyên đán, còn cúng giỗ tổ
tiên, còn tri ân quốc tổ, là bấy lâu chúng ta còn có quê hương. Bao lâu
chúng ta còn nấu phở, chiên chả giò, ăn nước mắm là bấy lâu chúng ta
còn có quê hương.
Nhà văn Trà Lũ đã bổ túc cái nhìn thiếu
sót giùm cho tác giả chùm khế ngọt Ðỗ Trung Quân, quê hương không phải
chỉ là dãi đất hình chữ S bên bờ Thái Bình Dương với núi non, cây cỏ,
hoa thảo, sông nước, mà quê hương còn bao gồm cả con người Việt Nam với
tất cả những nét văn hóa đặc thù từ cách sống, cách ăn, mặc, đi đứng
cùng phong tục, tập quán, văn học, nghệ thuật,... và các hình thái sinh
hoạt tinh thần nữa.
Các bài viết trong tác phẩm là những
chứng minh hùng hồn của Trà Lũ về lòng thương nhớ quê hương đó. Không
phải tự nhiên rảnh rỗi mà viết nhiều tới mười cuốn như vậy. Ông muốn
chứng minh cho chúng ta, những độc giả quen thuộc, hình ảnh của quê
hương yêu dấu khi dứt áo bỏ nước ra đi, chúng ta đã mang theo được và
suốt đời không bao giờ quên, qua các món ăn, chả giò, phở, bánh cuốn,
nem nướng, chả nướng, thịt bò, thịt heo, thịt chó, đến chiếc áo dài tha
thướt, chiếc nón lá bài thơ, cái yếm phụ nữ thơ mộng, chiếc váy cùng
cái quần cũn cỡn... Ði du lịch Alaska hai tuần, nhà văn Trà Lũ ăn uống
toàn món ngon vật lạ, cuối cùng rồi cũng nhớ tới nước mắm, thèm thuồng
và ước ao, nhắc nhở cho những người đi sau đừng quên mang theo. Ôi,
nước mắm là món ăn thuần túy quê hương, nước mắm là Việt Nam, dù ở góc
biển chưn trời, làm sao mà quên cho được.
Nhà văn Trà Lũ cũng đã bổ túc cho chúng
ta nhiều lắm, ngoài tình yêu quê hương tha thiết, chúng ta còn học hỏi
nhiều qua cái kiến thức rộng rãi của ông. Ông đã có lần nhắc tới cha Ðỗ
Minh Vọng, khiến tôi xao xuyến. Ðó là một vị giáo sư mà tôi kính mến.
Tôi đã may mắn được học với cha ba năm tròn. Cha người Pháp tên Cras,
to lớn con, tánh tình hiền lành dễ thương, đi dạy thường mặc áo chùng
thâm và lái chiếc xe Lambretta cũ. Kiến thức của cha rất rộng, nhờ cha
giảng dạy cấu trúc câu văn và tiếng Việt Nam mình so với các ngôn ngữ
khác trên thế giới mà tôi hiểu thêm tiếng Việt, qua hai môn Văn Chương
Tỉ Giảo (Littérature Comparée) và Ngữ Nguyên Học (EÔtymologie). Không
biết phải cần bao nhiêu năm học hỏi nữa, bao nhiêu công sức nữa, tôi,
một người Việt Nam rặt ròng, mới hiểu biết được ngôn ngữ Việt Nam như
cha đã hiểu biết!
Cha Cras giỏi tiếng Việt bao nhiêu thì
nhà văn Trà Lũ cũng đâu có thua kém. Khi bàn về cái váy của dân tộc,
chúng ta thấy nhà văn cực kỳ thông minh và bén nhạy, chúng ta cùng cười
xòa khi Trà Lũ nhắc tới bài thơ Vũng Lội Làng Ngang của Nguyễn Khuyến.
Bài thơ đó như vầy:
Ðầu làng Ngang có một chỗ lội
Có đền ông Cuội cao vòi vọi
Ðàn bà đến đó vén quần lên,
Chỗ thì đến háng, chỗ đến gối,
Ông Cuội ngồi trên mỉm mép cười,
Cái gì trăng trắng như con cúi
Thời cụ Nguyễn Khuyến, đàn bà Bắc Kỳ vẫn còn mặc váy. Rõ ràng cụ bà mặc váy. Chữ vén quần trong bài thơ tôi ngờ là nhà in chép sai. Tiếng VN nói vén váy chứ không nói vén quần bao giờ. Lại nữa, theo mạch văn, nếu mặc quần mà xắn lên thì Ông Cuội chỉ thấy bắp đùi là cùng, không thể thấy con cúi được, do đó câu trên phải là "đàn bà đến đó vén váy lên" Ôi chao, cái váy làm phiền Ông Cuội và cụ Nguyễn Khuyến quá.
Bài thơ đó như vầy:
Ðầu làng Ngang có một chỗ lội
Có đền ông Cuội cao vòi vọi
Ðàn bà đến đó vén quần lên,
Chỗ thì đến háng, chỗ đến gối,
Ông Cuội ngồi trên mỉm mép cười,
Cái gì trăng trắng như con cúi
Thời cụ Nguyễn Khuyến, đàn bà Bắc Kỳ vẫn còn mặc váy. Rõ ràng cụ bà mặc váy. Chữ vén quần trong bài thơ tôi ngờ là nhà in chép sai. Tiếng VN nói vén váy chứ không nói vén quần bao giờ. Lại nữa, theo mạch văn, nếu mặc quần mà xắn lên thì Ông Cuội chỉ thấy bắp đùi là cùng, không thể thấy con cúi được, do đó câu trên phải là "đàn bà đến đó vén váy lên" Ôi chao, cái váy làm phiền Ông Cuội và cụ Nguyễn Khuyến quá.
Nhận xét trên của nhà văn Trà Lũ thật là
tinh tế, sự thật là -vén váy chớ không phải vén quần. Nhưng câu thơ
viết -đàn bà đến đó vén váy lên, nghe không được, vén quần lên, êm tai
hơn. Tiếc một điều, thơ văn VN mình vào cuối thế kỷ 19 chưa có trường
phái "Bút Tre", trường phái nầy sanh sau đẻ muộn, mãi đến thời văn minh
Xã Hội Chủ Nghĩa mới phát minh ra lận. Dù sao thì váy và quần hình thức
tuy có khác nhưng nội dung giống nhau, mặc để che kín phần dưới con
người. Có điều nhà văn Trà Lũ không giải nghĩa cho chúng ta hiểu chữ
con cúi, nhắc tới con cúi thì ông Cuội cười trước, chúng ta cười sau...
Cứ xúm nhau tưởng tượng rồi cười, cười mà không hiểu rõ, con cúi là
con gì? Tôi tò mò lật tự điển Lê văn Ðức và Lê Ngọc Trụ, rồi Ðại Nam
Quốc Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của, đọc rõ tự điển ghi con cúi có 4
nghĩa:
1/ cá cúi: cá có nhiều mỡ như heo biển
2/ heo cúi: con heo
3/ con cúi: rơm cổ vấn dài để làm hỏa mai.
4/ bông cán bắn ra rồi, xe tròn từng con dài để mà kéo chỉ = cũng hiểu là con heo.
1/ cá cúi: cá có nhiều mỡ như heo biển
2/ heo cúi: con heo
3/ con cúi: rơm cổ vấn dài để làm hỏa mai.
4/ bông cán bắn ra rồi, xe tròn từng con dài để mà kéo chỉ = cũng hiểu là con heo.
Như vậy dầu là rơm vấn để làm mồi lửa
hay là bông vải vấn tròn để xe chỉ (cả hai đều có hình dáng con heo),
bốn nghĩa cũng là con heo. Con heo và thịt heo, tiếng Tây là cochon, là
porc. Từ chữ cochon có chữ cochonner (làm bậy) cochonnerie (dơ dáy,
bẩn thỉu, thô tục): dâm ô, dâm uế.. Việt Nam hay Tây dù là nghĩa nào thì
cũng là con heo, đồ con heo với chuyện con heo... xấu thiệt là xấu,
nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Trong quyển Người Tù Khổ Sai Papillon,
bản tiếng Pháp, tôi nhớ có đoạn ông Papillon khi bị giam ở quần đảo
Guyane thuộc Pháp, có nhắc đến chuyện mượn con heo của một người tù Bắc
Kỳ (Tonkinois) mà người tù nầy gọi con heo nhỏ của ông ta là "con
cui". "Con cui" ủn ỉn đi trước, Papillon lò dò theo sau từng bước, thì
tránh được nguy hiểm, khỏi lọt xuống các bãi sình vắt võng xung quanh
trại giam, trốn thoát được ra ngoài. Ông Papillon đã dùng chữ "le con
cui" rõ ràng trong tác phẩm. Tôi đọc ngang đây thì biết rõ ông Papillon
viết đúng sự thật, không hề thêu dệt như một số nhà văn ngồi nhà mà
tưởng tượng... Ông không dùng chữ annamite và cochon, mà dùng chữ
"Tonkinois" và "con cui" trong câu chuyện. Trong Nam hồi tôi còn nhỏ,
nghe mấy bà hàng xóm thường nói -chiều rồi phải lo cho heo cúi ăn. Như
vậy ở ngoài Bắc thời Nguyễn Khuyến gọi con heo là con con cúi là đúng.
Nhưng con heo của Papillon là heo Việt Nam, loại heo mọi nhỏ và đen,
còn heo của Nguyễn Khuyến, tại sao lại trăng trắng, thiệt tình tôi
không biết (heo Việt Nam bây giờ trắng to là giống heo ngoại quốc mới
nhập cảng sau nầy). Có vị nào biết được, xin được chỉ giáo, thành tâm
đa tạ.
Bàn về giọng Nam, giọng Bắc, nhà văn Trà
Lũ khá công bình, ông viết không thiên vị, mỗi miền đều có cái hay cái
dỡ, tùy theo trường hợp mà dùng giọng nầy hay giọng kia. Giọng nào ông
cũng yêu hết:
- Ông bồ chữ ODP góp thêm ý. Rằng hát tân nhạc, các ca sĩ người Nam cũng phải hát theo tiếng Bắc thì mới hay. Ví dụ lời ca "Anh ơi anh, chuyện chúng mình ta tính đi thôi.." nếu hát theo tiếng Nam "ăn ơi ăn, chuyện chúng mìn ta tín đi thui" thì không thấy hay gì hết. Nhưng khi ngâm vọng cổ thì anh nghệ sĩ Bắc Kỳ phải theo tiếng Nam thì mới thấy mùi ...
- Ông bồ chữ ODP góp thêm ý. Rằng hát tân nhạc, các ca sĩ người Nam cũng phải hát theo tiếng Bắc thì mới hay. Ví dụ lời ca "Anh ơi anh, chuyện chúng mình ta tính đi thôi.." nếu hát theo tiếng Nam "ăn ơi ăn, chuyện chúng mìn ta tín đi thui" thì không thấy hay gì hết. Nhưng khi ngâm vọng cổ thì anh nghệ sĩ Bắc Kỳ phải theo tiếng Nam thì mới thấy mùi ...
Nhà văn Trà Lũ đã có nhận xét thật chí
lý. Quả là đúng như vậy, chuyện hát tân nhạc và vọng cổ chứng minh rõ
ràng tùy theo trường hợp nào thì nên dùng giọng Nam, khi nào nên dùng
giọng Bắc. Nhưng viết ngang đây tôi xin đóng góp vài nhận xét, đa số
nhạc sĩ đặt bài hát (compositeur) là người Bắc, nên ca sĩ phải hát theo
giọng Bắc, nhạc sĩ là người Trung thì ca sĩ phải hát theo giọng Trung,
nhạc sĩ là người Nam phải hát theo giọng Nam (như Phương Dung hát nhạc
Lam Phương) Có một số nhạc sĩ người Nam khi viết nhạc bắt chước viết
theo lối văn Bắc thì ca sĩ cũng phải hát theo giọng Bắc.
Hình thể đất nước ta thiếu chiều ngang
mà phát triển theo chiều dọc, thời chúa Nguyễn chế độ doanh điền tổ
chức các đợt di dân từng vùng ở đất Bắc vô đàng trong khai thác đất
mới. Vùng châu thổ sông Hồng, vùng trung du, vùng thượng du Bắc Việt,
vùng biên giới, đồng bằng, núi non cao thấp, xa gần khác nhau, giọng
nói có khác nhau, khi vào trong Nam thì định cư từng đợt một, từng tỉnh
một, theo chánh sách tằm ăn, nên giọng nói từng tỉnh, từng vùng trong
Nam cũng lại biến đổi thêm chút nữa... Huế khác, Quảng Trị khác, Quảng
Nam khác, Quảng Ngãi khác, Bình Ðịnh khác, Lục Tỉnh khác... Giọng nói
có biến đổi và tiếng nói cũng khác biệt đôi chút, theo thời gian. Trà
Lũ đã chứng minh...
Tiếng Bắc xưa nay vẫn được xem như là
tiếng gốc tiêu chuẩn, thực sự đã biến thái do ảnh hưởng của tiếng Hán
và sau nầy của tiếng Âu Châu. Tiếng Việt nguyên thủy đã từ miền Bắc
theo chân lớp di dân vào miền Nam. Khoa ngôn ngữ học đã cho thấy: các
di dân bao giờ cũng mang theo và bảo tồn tiếng mẹ đẻ. Cách đây mấy trăm
năm, những người di dân vào miền Nam này thuộc gia đình vợ con lính
tráng và những tù nhân phải lưu đày. Tiếng nói của họ là tiếng nói ban
đầu, tiếng Việt tinh ròng và bình dân. Một chứng cớ rõ ràng nhất về
việc nầy là tiếng Việt miền Nam có rất nhiều từ giống y như tiếng người
Mường miền thượng du Bắc Việt. Mà người Mường được coi là nhóm người
Việt cổ.
Anh John trưng dẫn một bằng chứng. Trong bài ca dao nói lên nỗi lòng của anh con trai xứ Ðàng Ngoài nhớ người yêu đã vào xứ Ðàng Trong, anh đã nói thế nầy:
Ðường vô xứ Nghệ loanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang...
Trong mấy câu thơ nầy, tiếng Vô và tiếng Thương là tiếng Bắc Kỳ rõ ràng chứ không phải tiếng miền Nam đẻ ra sau nầy. Lời anh Bắc Kỳ mà. Tiếng Vô và tiếng Thương nầy, cũng như trăm ngàn tiếng Bắc khác, đã theo lớp di dân từ Bắc vào Nam...
Anh John trưng dẫn một bằng chứng. Trong bài ca dao nói lên nỗi lòng của anh con trai xứ Ðàng Ngoài nhớ người yêu đã vào xứ Ðàng Trong, anh đã nói thế nầy:
Ðường vô xứ Nghệ loanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Thương em anh cũng muốn vô
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang...
Trong mấy câu thơ nầy, tiếng Vô và tiếng Thương là tiếng Bắc Kỳ rõ ràng chứ không phải tiếng miền Nam đẻ ra sau nầy. Lời anh Bắc Kỳ mà. Tiếng Vô và tiếng Thương nầy, cũng như trăm ngàn tiếng Bắc khác, đã theo lớp di dân từ Bắc vào Nam...
Ðọc ngang đây tôi thấy nhà văn Trà Lũ
thiệt là có lý và đâm nhớ lại một định luật căn bản của môn ngữ học
(linguistique) -dân tộc nào càng đi xa khỏi quê hương thì càng giữ lấy
cái gốc của quê hương. Người miền Nam là những người bỏ xứ ra đi vào
các thế kỷ 16, 17, 18... thì họ là những người giữ lấy tiếng nói quê
hương vào thời kỳ đó. Còn ở đất Bắc quê hương gốc, thì ngôn ngữ mỗi ngày
mỗi thay đổi, phát triển... Có thể ví người miền Nam nói tiếng Việt
khác người Bắc, giống như dân Canada, dân Mỹ, Úc, nói tiếng Anh, dân
Quebecois nói tiếng Pháp, khác hẳn dân Anh và dân Pháp chánh gốc.
Viết ngang đây thì tôi sực nhớ tới chúng
ta, những người tị nạn xa xứ gần 30 năm nay, nếu có dịp mà trở về quê
hương, đôi lúc chúng ta phải ngỡ ngàng vì mình và người trong xứ, nói
chuyện khác biệt nhau nhiều lắm. Khác biệt về giọng nói như nhà văn Trà
Lũ nhận xét: -Ðó là cái giọng the thé của người Hà Nội bây giờ. Nó
ngọng như người Mường nói tiếng Kinh. Khi vợ tôi đến thăm và nghe vợ tôi
nói chuyện thì cụ ôm chầm lấy vợ tôi rồi kêu ầm lên: "Các con ơi, các
cháu ơi, ra đây mà nghe tiếng Hà Nội nầy. Cô đây mới thực là người Hà
Nội và nói đúng tiếng Hà Nội thời xưa nầy."
Bà cụ nói -tiếng Hà Nội ngày xưa, là
muốn ám chỉ ngôn ngữ Hà Nội những năm trước 1954. Có một nhạc sĩ đã
nhận xét về giọng Hà Nội bây giờ cao hơn ngày trước một phần tư (1/4)
octave. Cũng vậy nếu bà con trong Nam bây giờ mà gặp chúng ta từ Mỹ,
Canada Úc về thì họ sẽ kêu lên là chúng ta nói đúng ngôn ngữ Sài Gòn
trước 1975. Nếu không khác biệt về giọng nói thì cũng khác biệt nhau về
tiếng nói. Có nhiều tiếng Việt bây giờ lạ lùng lắm, trong đối thoại
hoặc trên sách báo, chúng ta hoàn toàn không hiểu. Hay hay dở, đúng hay
sai, phát triển hay thoái hóa, thời gian sẽ gạn lọc. Duy có điều chúng
ta, những người tị nạn xa xứ có thể tự hào -chúng ta là những người
bảo tồn nguồn gốc dân tộc. (đọc Mười Ngàn Năm, thuật chuyện cô Mùi, gốc
gác người Việt xa xăm ở Quảng Tây, Ðất Quê Ngoại, trang 167).
________________________
Sau khi đọc qua tất cả
các bài viết và ghi chép vài nhận xét chúng ta thấy ngay sở trường Trà
Lũ là viết theo thể loại tùy bút, loại văn nầy có từ thời Lê mạt
Nguyễn sơ, cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19. Các tác phẩm buổi ấy phần
nhiều ghi chép những điều tác giả mắt thấy tai nghe, tùy bút là theo
ngọn bút, gặp cái gì chép cái ấy. Hai quyển Vũ Trung Tùy Bút (theo ngọn
bút viết khi mưa) và Tang Thương Ngẫu Lục (ghi nhanh các chuyện tang
thương, viết chung với Nguyễn Án) của Phạm Ðình Hổ là hai tác phẩm tiêu
biểu, mẫu mực. Sau nầy thể loại tùy bút là sở trường của nhà văn
Nguyễn Tuân (Chiếc Lư Ðồng Mắt Cua, Chùa Ðàn, Vang Bóng Một Thời...
Tùy bút dễ viết mà khó hay. Tại sao vậy?
Bởi vì khi viết một truyện ngắn, tác giả phải suy nghĩ cho có lớp
lang, câu chuyện phải đặc biệt, phải hấp dẫn, bên trong phải có một
thông điệp, phải có tình cảm đậm đà hoặc tư tưởng cao xa để gởi gấm, bố
cục phải chặt chẽ, các ý tưởng phải mạch lạc, thông suốt. Chuyện và
văn không được giống những gì người đi trước đã viết. Trong khi đó thì
tùy bút không đòi hỏi bất cứ điều gì, cứ đặt bút xuống, thấy gì viết
nấy, đôi khi không cần đến mạch lạc, miễn sao tác giả và độc giả vui
thích là được. Ðọc tùy bút ta có cảm tưởng như đọc một cuốn sổ tay, tác
giả ghi những điều chợt xảy ra trong óc hay nhân một việc gì đó mà nhớ
đến chuyện nầy chuyện kia... Vì dễ viết và viết nhanh nên muốn cho
hay, cho xuất sắc là điều rất khó. Văn bản cần giản dị nhưng phải làm
sao đạt được tánh chất sinh động và hấp dẫn, bộc lộ được hết nét tài
hoa, nét đặc thù... Nguyễn Tuân thành công lớn được nhờ nét khinh thế
ngạo vật, Võ Phiến nhờ tánh thâm trầm, quan sát tỉ mỉ, tinh tế...
Hiện nay thì có Tưởng Năng Tiến ngang
tàng, cười cợt, châm biếm (Sổ Tay Phó Thường Dân). Bùi Bảo Trúc thông
minh, sắc sảo, tài hoa (Thư Gởi Bạn Ta) ... Ở Canada mình cũng có hai
nhà văn viết tùy bút nổi danh, được mọi người yêu mến, nhà văn Song
Thao ở Montréal và nhà văn Trà Lũ của chúng ta.
Ngòi bút Song Thao thì kỹ lưỡng, tỉ mỉ,
viết truyện nào ra chuyện đó, mỗi đề tài là một trọng tâm, các tài
liệu được dẫn chứng đầy đủ, thượng thông thiên văn, hạ đạt địa lý,
trung quán nhân sự. Nhà văn tài hoa vùng đất nói tiếng Tây thiệt là
giỏi, bao nhiêu chuyện của nhân gian nầy ông viết hết không thiếu món
ăn chơi nào. Ông gọi thể loại tùy bút là chuyện phiếm. Phiếm có nghĩa
là nói chơi, nói tào lao, nói bao đồng, nói lông bông... Tuy là nói
chơi mà nét tài hoa là thiệt, nếu không thiệt tại sao có nhiều người
mê, không tin quí vị mua các quyển Phiếm (1, 2...) mà xem qua cho biết.
Ngòi bút của Trà Lũ cũng tung hoành
không kém Song Thao, nếu đem ra so sánh thì không biết ai cao ai thấp,
thôi đành phải nhờ đến câu -xấu đẹp tùy người đối diện. Nhà văn tài hoa
của vùng tiếng Anh xứ Canada cũng thiệt là giỏi, chuyện đông, chuyện
tây, chuyện kim, chuyện cổ, ông đều biết hết không sót một món nào.
Nhưng khác với cách viết xoáy vào trọng tâm đề tài của nhà văn tiếng
Tây kể trên, các câu chuyện trong bài viết Trà Lũ thoắt biến thoắt hiện
nối tiếp nhau, xoay chuyển lẫn nhau, quấn quít lấy nhau... độc giả
không biết đâu mà rờ! Ta có thể ví Trà Lũ dẫn dắt độc giả đi dạo phố
Tàu, chưa kịp nhìn ngắm, ăn uống cho đã thèm thì ông đã kéo ngay đến
tháp CN Tower cao nhứt thế giới, vừa chưa kịp leo lên tháp ngắm thành
phố Toronto bát ngát dưới kia thì ông đưa chúng ta qua thác Niagara
Falls hùng vĩ, bụi nước của thác chưa kịp làm ta ướt áo thì ông đã đẩy
ta lên xe đi nếm rượu tuyết ngọt lịm ở thành phố cạnh bên...
Ưu điểm hay là khuyết điểm, khó mà trả
lời. Nhưng mà cái tài hoa Trà Lũ là ở chỗ đó. Tôi tin cách viết thoắt
biến thoắt hiện đó Trà Lũ vô tình mà đạt được, tuy có mức độ. Tôi còn
nhớ Kim Thánh Thán khi phê bình Tam Quốc Chí đã khen cách viết của La
Quán Trung là thiên cổ kỳ văn. Gọi kỳ văn là nhờ tánh cách -thoắt biến
thoắt hiện, đương đánh nhau long trời lở đất thì xoay qua nói chuyện
pháp thuật trừ ma ếm quỉ, vừa nói chuyện mưu kế thì xoay qua bàn chuyện
danh nho tiết tháo, vừa bàn chuyện mỹ nhân xong thì nói chuyện soán
ngôi giết vua, vừa nói chuyện bói toán xong thì quay qua thuốc men, mổ
xẻ, vừa tả cảnh quân reo ngựa hí vang vang thì xen vào cảnh đạp tuyết
bời bời, khoanh tay đứng chờ bậc ẩn sĩ cao tọa... Vua, quan, anh hùng,
gian hùng, mỹ nhân, hòa thượng, đạo sĩ, y nho lý số, cường hào ác bá và
đám dân đen đủ mặt,à thương yêu nhau, tranh giành nhau, chém giết
nhau, không thiếu một ai, không thiếu chuyện gì. Ai muốn tìm hiểu sinh
hoạt xã hội thời đó, cứ đọc Tam Quốc Chí sẽ biết rõ ngọn nguồn. Hiện
tại chúng ta cũng có ngọn bút Trà Lũ tung hoành trên các báo, liên miên
bất tuyệt, những ai muốn tìm hiểu Canada với tất cả mọi sinh hoạt văn
học, chánh trị, kinh tế, xã hội, thì nên tìm đọc sách của Trà Lũ.
Ðọc sách của nhà văn Trà Lũ vừa vui vừa
bổ ích. Vui là vì cây viết có duyên, bất cứ bài nào, đoạn nào, dầu ai
khó tánh đến đâu cũng không thể đọc qua mà không buột cười cho được. Bổ
ích vì kiến thức được cập nhật hằng ngày, những tin tức đặc biệt trên
thế giới đều có đủ, hơn nữa sự hiểu biết của tác giả sâu rộng, những
nhận xét ly kỳ, từng chữ từng câu gợi cho ta nhớ lại chuyện xưa, giúp
ta biết thêm chuyện mới bây giờ. Những cuốn sách có chữ Ðất làm nhan đề
của nhà văn Trà Lũ ích lợi như vậy, vui tươi như vậy, tại sao các bạn
lại chưa có, ngoài hội trường trưa nay, để bán nhiều lắm với chữ ký
tặng của tác giả nữa. Xin được hân hạnh kính mời!
Võ Kỳ Điền
No comments:
Post a Comment