ÔNG XÀ BENG
Khán
giả đến đông nghẹt nhưng ủy ban ra lệnh dẹp hết phông màn buổi diễn
kịch của khóa huấn luyện Thanh niên Cứu Quốc Khóa Chiến Thắng để lấy
ngôi đình họp phiên tòa khẩn cấp. Chỉ chập sau là các vị quan tòa đã
bước lên sân khấu. Trời sụp tối nhanh. Trên bàn giữa, để một chiếc đèn
chân gỗ đốt bằng dầu cá. Ba ngọn đèn đỏ chạch như ba miếng giẻ rách te
tua bay phất trong gió biển thổi mạnh. Bộ sậu tòa vừa an tọa thì bên
dưới khán giả đến xem kịch lại bị bắt xem xử án – xôn xao. Không hiểu
đến giờ phút chót “kịch” mới đổi ra “tòa” hay đó là một sự sắp đặt? Vì
nếu người dân biết trước thì sẽ đi loe hoe vài người. Ai ở không đi coi
xử án? – Như vậy tòa sẽ “diễn” không hứng thú và dân sẽ không có dịp
biết oai cách mạng chăng?
Khán
giả xoay đầu nhìn về phía căn giữa của ngôi đình rộng lớn nơi các “tội
nhân” đang bị dẫn vào. Bốn người đàn ông, hai người đàn bà: hai người
đàn ông đi đầu, kế đến, một người đàn bà, hai người đàn ông, lại một
người đàn bà. Không hiểu cách mạng khoan hồng và nhân đạo nên để vợ gần
chồng trong lúc nguy nan hay họ được xếp theo thứ tự tội nặng đi trước
tội nhẹ theo sau, chỉ thấy tất cả đều bị trói thúc ké bằng nhiều loại
dây khác nhau: dây dàm trâu, dây nịt da, dây giềng lưới, khăn rằn… Đây
là sự thi hành một cách sáng tạo lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch “… ai có
súng dùng súng ai có gươm dùng gươm, không có súng gươm thì dùng gậy
gộc…” trong lãnh vực bắt trói. Ai quơ được dây nịt thì trói bằng dây
nịt, ai chộp được lưới thì xé lấy giềng lưới, ai có khăn rằn thì xài
khăn rằn… không có khăn, dây thì dùng áo quần trói cũng được – miễn trói
chặt thì thôi..
Trong
đám “tội nhân” chỉ đàn bà là đủ quần áo, còn đàn ông thì phơi lưng trần
với những vết bầm to nhỏ ngang dọc, mặt mũi không biết có còn nguyên
vẹn không vì họ gục đầu, không trông rõ.
Tất cả được xỏ xâu bằng một sợi dây luộc dừa và một người nắm đầu dây dắt đến đây. Người đó là ông Xà Beng.
Vừa
trông thấy ông, tiếng xì xào đã nổi lên. Mặt ông đỏ bầm như trái sắn,
đầu bịt khấc đầu rìu làm cho tóc ông xửng đứng lên như chiếc nôm dựng
ngược. Hai cánh tay ông thòi ra thay cho hai tay áo bành tô đã bị cắt
mất, như cặp trăn cuộn mình xâm những hình thù kỳ quái. Từ túi áo trái
nhô ra một cái có chai bầu. Nó cũng là một khán giả đi coi hát hụt phải
dòm những người đang ngồi trên sân khấu mà tưởng tượng đó là kịch.
Ông
Xà Beng làm nhiệm vụ dắt tội nhân vào trình tòa xong thì ngồi phệch
xuống gốc cột, móc chai rượu ra ngửa cổ tu một hơi dài, giơ cái chai lên
ánh đèn như để xem rượu còn đủ hay không cho ông tẩm gân để hát màn
chót mà ông chắc mình sẽ là kép chính. Tự nhiên đám đông vẹt xa ông ra
nhường cái gốc cột danh dự cho ông.
Từ
lâu chẳng ai còn lạ gì tên Xà Beng. Ông là trưởng ban trừ gian xã.
Trước kia ông ở trong một cái thum ngoài rìa chợ dưới một gốc gáo già
đứng ở mé sông. Do đó người ta gọi ông là ông Gáo. Ông Gáo sống bằng rác
chợ. Đôi khi người ta cũng có thí cho ông một con cá biển ế nhưng chưa
thối.
Cách
mạng tháng 8 nổ ra. Chánh quyền cướp được. Viên Hội đồng địa hạt ở
trong xã bị xử tử tại sân chợ. Người ta trói lão vào cọc bắn rồi đem dập
ở sau đình. Hôm sau, thấy ông Hội bò lê trên bãi cỏ. Ủy ban nhân dân
khiếp vía. Trưởng ban Công An là Tư Quắn, mặt mũi hì hợm, được coi là
hung dữ nhất làng và là kẻ đã bắn ông Hội đồng bằng cây súng bắn chim
của chính ông ta. Ủy Ban gọi anh ta đến để “giải quyết” vấn đề, nhưng
anh ta nói: “Tiết Cương oan oan tương báo”1 rồi bỏ xứ đi biệt luôn. Do
đó, ủy ban mới “tam cố gốc gáo” thỉnh ông Gáo. Ông Gáo nhận công tác
nhưng đòi một chai rượu đúng một lít. Ủy Ban cho ông một thùng năm lít
lấy của tiệm Chệt. Làm gì lắm thế? Ông Gáo chỉ cần một xị thôi mà. Ông
Hội đồng thay vì được hưởng phát súng ân huệ lại bị ông Gáo đập bằng Xà
beng. Cây Xà beng một đầu dẹp một đầu tà ông nhặt được của lơ xe hơi bỏ
quên ngoài bến xe ven tỉnh lộ. Đầu tà để nện, đầu dẹp để đâm, xeo.
Thấy
ông Gáo hoàn thành công tác xuất sắc, ủy ban dùng ông luôn, cho ông nhà
cửa, cơm áo, rượu thịt, ngoài ra còn tặng thưởng ông chức trưởng ban
trừ gian. Đúng ra là Công An bắt người, người nào đáng tội chết thì giao
cho ông. Người nào ông nhận là ông giết, cách nào cũng được, không cần
giấy tờ hoặc lệnh lọt của ai cả.
Ông
trưởng ban trừ gian chuyên đập đầu người ta bằng xà beng. Trong làng có
một chiếc cầu đúc xi măng bắc ngang con rạch chảy qua suốt làng. Ông
Gáo đem người lên cầu, kê đầu lên thanh cầu đập bằng xà beng rồi đạp
xuống rạch. Đó là những tội nhân tốt phước. Vì người nhà chỉ cần đón ở
vàm rạch đổ ra sông cái thì vài ngày sau vớt được. Còn những kẻ bất hạnh
ông Gáo chở bằng xuồng ra sông Cái, ghếch đầu lên be xuồng mà đập –
cũng bằng xà beng – rồi hất xác xuống sông. Xác trôi mênh mông người nhà
không vớt được. Do đó mà Cách mạng có cái danh từ đặc biệt “mò tôm” mà
xuất xứ là ông Gáo chăng? Sau cách mạng tôm cá vùng này ế nhệ, không ai
mua vì người ta cho là chúng ăn thây ma. Mà thật vậy thây ma sau cách
mạng nhiều lắm. Không mấy hôm là nó vắng trôi trên sông.
Một
người lạ mặt đến tìm bà con vớ vẩn bị dân quân hỏi giấy – không có – bị
xét, thấy trên lai áo có ba lằn chỉ xanh-trắng-đỏ, thế là bị hồ nghi dọ
thám cho Pháp (ba lằn chỉ đó là rìa vải của hãng dệt). Một người mặc đồ
trắng mang giày Tây quen thói cũ nói chuyện xen mấy tiếng “bông-giua và
toa toa moa moa” là bị gán cho tiếng Việt gian, một người đàn bà góa có
nhân ngãi, do đó ông trưởng công an ấp không xơ múi được, thế là nhân
ngãi bà ta bị bắt không với tội danh cũng không có sự giải thích nào…
Tất cả những hạng người kể trên đều được giao cho ông Gáo đưa đi đầu
thai bằng xà beng hết cả. Do đó mà có cái tên “ông Xà Beng” và trong xã
có câu rủa ác: “Cho xà beng ăn mày đi!” và câu thề độc: “Đứa nào có làm
như thế mà chối hoặc đứa nào nói thêm sẽ bị xà-beng ăn!”
Và
đó là câu làm cho người trong cuộc sợ hãi nhất. Bởi vì ông Xà Beng ở
ngay đó, bởi vì cây xà beng ông lận lưng đó, dưới vạt áo bành tô không
tay càng ngày càng thêu thêm những đốm những sọc đỏ sậm, hoặc tươi ướt
chồng lên nhau ghi dấu những thành tích của ông. Cái khúc sắt ấy khá
nặng nhưng ông giắt lưng như trưởng ban công an giắt súng lục nhờ một
sợi dây nịt to bảng của một chú chệt bán thịt heo dùng đựng tiền đã rách
vứt đi. Người lối xóm hễ thấy ông đi vô quán đong rượu thì biết tối đó
ông có công tác. Cách mạng trả lương cho ông hậu quá, một chai bầu một
mạng người, thảo nào ông chả hăng hái? Cái xà beng đã có cô hồn, người
ta bảo vậy, nên ông đi đến đâu chó cụp tai lủi trốn, và ban đêm nó rên
rỉ như tiếng người vì vậy lối xóm của ông đã dời đi hết. Cũng như xóm
nhà ở vùng Cầu Đúc, Tây không ruồng tới nổi mà cũng tản cư sạch láng.
Bộ
sậu tòa đã chỉnh đốn tư thế xong, sắp diễn trò. Người đứng bên cực trái
của chiếc bàn dài, mặt nhọn như chữ V đứng lên tuyên bố, không thưa hỏi
đồng bào để mào đầu gì cả.
“Hôm
nay tỉnh bộ Việt Minh đặt ra phiên tòa dân chủ nhân dân này để xét xử
sáu tên Hòa Hảo phản động bị bắt ở quận Chợ Lách. Thần phần phiên tòa
gồm có ông chủ nhiệm tỉnh bộ Việt Minh làm chánh án, ông trưởng ty Công
An làm ủy viên Chánh phủ, ông Đoàn trưởng Nông dân cứu quốc làm hội thẩm
và tôi làm lục sự. Ngoài ra, còn có hai bà Đoàn trưởng và cán bộ Phụ Nữ
Cứu Quốc, ông Đoàn trưởng Thanh Niên Cứu Quốc làm biện hộ luật sư. Vậy
mọi người hãy im lặng để phiên tòa bắt đầu.”
Thế
là phiên tòa bắt đầu, không chào cờ, không hát quốc ca, không cả treo
ảnh cụ Hồ để chào – có vẻ hấp tấp như Hòa Hảo Chợ Lách sắp tấn công tới
đây vậy.
Ông
chủ nhiệm Việt Minh tỉnh gầy nhom, mũi rất to, suýt che bít cả môi
trên, còn môi dưới thì xệ và thâm sịt như môi người ghiền á phiện. Ông
nói giọng đặc dấu nặng:
“Tội thạy mặt tọa tuyện bộ khại mạc phiện xự sạu tện phạn động.”
Bên
dưới dân quân xô đẩy xâu tội nhân giàn ra cho ngay ngắn thành một hàng
ngang trước mặt tòa. Ông chánh án móc túi lấy một tờ giấy, mở ra. Tiếng
giấy khua sột soạt trong không khí im đặc. Ông nghiêng vào ánh đèn xao
động vì gió thổi ác liệt. Ông đọc chậm chạp, dừng lại ở từng tên, ngó
xuống như để nhận diện và hốt hồn họ – những tội nhân chưa được xét xử
nhưng đã bị đối đãi như tử tội. Bằng chứng là tốp dân quân ở sau đình
đang hì hục đào lỗ và nói oang oang một cách vui vẻ cố ý cho mọi người
nghe rằng “hai con đàn bà và bốn thằng đàn ông sẽ ngủ chung trên cái
giường này!”
Đọc tên xong, ông Chánh Án bắt đầu làm việc của quan tòa. Ông hất hàm xuống người đàn ông đứng cực phải:
“Anh
Nguyễn Văn X…! Tại sao anh không chịu hạ cờ Già xuống để treo cờ đỏ sao
vàng lên trong ngày quốc khánh đầu tiên của nước ta?”
Bị
hỏi, người đàn ông bây giờ mới ngước mặt lên, hất mớ tóc xụ xộp qua một
bên phơi trần nửa vầng trán và đuôi mắt tím bầm, từ tốn và run run, anh
ta đáp:
“Thưa
quan “tà”, hồi nào tới giờ tôi vô đạo của Huỳnh Giáo Chủ thì tôi treo
cờ đạo của Huỳnh Giáo Chủ chớ không treo cờ nào khác”
“Nhưng
cờ của Huỳnh Giáo Chủ…ủa…ủa” viên quan tòa “ủa” liên tục. “Cờ Đạo không
ai được treo trong ngày Quốc Khánh, anh biết không?”
Bây
giờ mọi người mới vỡ nhẽ ra là người đàn ông và có thể cả mấy người kia
nữa bị bắt và xử vì tội không treo cờ đỏ sao vàng trong ngày Quốc
Khánh.
Nhiều
người không treo cờ nhưng đâu có bị bắt. Chắc mấy người này bị bắt vì
họ là tín đồ Hòa Hảo, vì họ thờ Huỳnh Giáo Chủ. Vì Huỳnh Giáo Chủ có
chân trong Ủy Ban Nam Bộ và đã bị ám hại chăng?
“Dạ, chánh phủ đâu có nói là cấm treo cờ Đạo!”
“Anh coi trọng cờ đó lắm hả?”
“Dạ.”
“Còn cờ đỏ sao vàng?”
“Dạ cờ đỏ sao vàng thì mới có đây nên tôi còn lạ.”
“Trước lạ sau quen, Chánh Phủ biểu treo thì anh treo nghe chưa?”
“Dạ để ít lâu coi sao rồi treo cũng không muộn.”
“Bây giờ anh có treo cũng đã muộn rồi.”
Người đàn ông vẫn chẫm rãi đáp:
“Thưa
quan tòa, trong hiến pháp cụ Hồ Chí Minh có tuyên bố với toan dân là
khi độc lập, người dân được năm quyền Tự Do dân chủ. Quyền số một là tự
do bầu cử, quyền số hai là tự do hội họp, quyền số ba là tự do tín
ngưỡng, quyền số bốn là tự do thư tín, quyền số năm là tự do đi lại. Vậy
tôi theo đạo của Đức Thầy tôi làm trúng vô quyền tự do tín ngưỡng, tôi
đâu có mần gì sái mà người ta bắt đánh tôi dử vầy?”
Quan tòa hất hàm:
“Nhưng tại sao anh không treo cờ đỏ sao vàng chớ?”
“Dạ vợ tôi không chịu may nên không có để treo.”
“Tại sao lại may cờ đạo?”
Chị
đàn bà đứng cách đó một người nghe câu hỏi của tòa bèn ngẩng đầu lên.
(Té ra cách mạng chia loan rẽ túy đến kỳ cùng, không để cho vợ bị xâu
gần chồng như người ta lầm tưởng tự nãy giờ). Chị đáp:
“Dạ, tôi không có may cờ đạo!”
“Không may tại sao lại có cờ treo?”
“Dạ,
thưa tà cờ có đâu hồi nẵm tới giờ rồi, chớ không phải tôi mới may. Có
trước chớ đâu phải vợ tôi may cờ đạo mà không may cờ đỏ sao vàng.” Người
chồng phân trần.
Quan tòa gắt nhẹ:
“Này,
anh nghe cho rõ đây: nếu anh lỡ treo cờ đạo thì cũng được đi, nhưng anh
phải treo cờ đỏ sao vàng trên cờ Già. Có dân tộc mới có đạo giáo, anh
rõ không?”
Người đàn ông đáp:
“Dạ, phàm trong tâm con người, hễ thờ đạo nào thì chỉ thờ một đạo thôi.”
“Nhưng
cờ đỏ là của chung đất nước, là dân thì phải thờ. Treo cờ đỏ là thờ đất
nước. Không treo cờ đỏ là anh đứng ngoài dân tộc là anh đi lạc đường
rồi. Tôi coi bộ anh là người hiểu biết, anh hiểu điều đó không?”
“Dạ thưa tà…”
Ông ủy viên Chánh phủ đập bàn trỏ mặt người đàn ông:
“Anh câm ngay! Anh là người hiểu biết, sao anh gọi “tòa” là “tà”?”
“Dạ tôi nói vậy đã quen miệng rồi!”
“Anh coi tòa là quan gia tà, tà mị hả? Anh dám coi cách mạng là tà mị hả?”
“Dạ không phải! Ông nói vậy chớ tôi đâu có nghĩ vậy!”
“Ngoan cố!” – Ủy viên chánh phủ lại đập bàn quát:
“Anh nói tiếp đi!” Quan tòa gắt.
“Dạ thưa quan t…, thưa quan, tôi hổng biết tiếp ở chỗ nào.”
“Ở chỗ anh không chịu treo cờ đỏ, mà chỉ treo cờ Già!”
“Dạ
tôi đâu có hổng chịu treo. Cờ đỏ treo ở đằng trụ sở Ủy ban ai đi ngang
cũng thấy! Bữa nào có mít tinh nghe ở trên xuống tuyên truyền thì đồng
bào đứng chung quanh, tôi cũng có đứng. Còn đây là cờ đạo của Đức Thầy,
ai theo đạo mới thờ, ai không theo thì thôi. Đức Thầy đâu có bắt treo.
Đức Thầy cũng không có dạy tôi là đạo đứng ở ngoài dân tộc!”
“Nhưng nếu anh không treo cờ đỏ thì anh phải hạ cờ đạo xuống, anh rõ không?”
“Dạ nếu Chánh phủ cụ Hồ phán vậy thì dân đâu dám cãi.”
“Không phải cụ Hồ đâu, mà là ủy ban tỉnh thôi.”
“Dạ, ủy ban có muốn hạ thì hạ chớ cần gì phải hỏi, nhưng hạ cờ còn cột cờ.”
“Hạ luôn cột cờ!” Quan tòa nổi giận thét.
“Dạ hạ ở ngoài nhưng không hạ được bên trong…”
“Trong nhà cũng hạ luôn. Dẹp luôn bàn thờ Thầy, cấm luôn tụng kinh gõ mõ.”
“Dạ không phải trong nhà…”
“Mấy người đem bàn thờ giấu trong buồng hả?”
“Dạ không phải trong buồng mà trong b…ụng!”
Ông
ủy viên Chánh phủ nãy giờ như ngồi bàn chông. Bộ mặt chè bè nung núc
những thịt của ông run run như nở bạnh ra. Cặp mắt lồi của ông tia xuống
tội nhân. Đến đây thì ông không còn kiên nhẫn nữa, ông lại đập bàn
quát. Đập bàn là tác phong dân chủ nhân dân của ông.
“Thằng này cứng đầu, chối quanh không chịu nhận tội!”
Cánh
tay hộ pháp của ông đập quá mạnh làm tiêm đèn sụt xuống. Đèn tắt một
ngọn. Hai ngọn còn lại lắc lư trước gió như cái chân lý của phiên tòa.
Quan tòa nói:
“Như vậy đã rõ! Xin mời ông ủy viên chánh phủ buộc tội!”
“Tử
hình!” Một tiếng buông ra cộc lốc từ cái bộ mặt nở bạnh có những luống
thịt run run nhịp nhàng với bàn tay đập bàn phát nữa để chấm dứt một
cuộc đời. Tiếng quát của ủy viên Chánh phủ làm ông Xà Beng giật mình
tỉnh giấc mơ tiên. Ông nhướng mắt nghiêng đầu nhìn người đàn ông vừa bị
ném cho tiếng “tử hình” rồi lại ngã vào gốc cột ngủ tiếp yên trí rằng
đêm nay ông sẽ bận rộn nhiều.
Các
ông các bà biện hộ sư ngồi ở phía dưới sân khấu không có phản ứng gì
khi án tử hình đã gán cho tội nhân mà chưa kịp mở miệng cãi lại. Quan
tòa vẫn nhớ rằng những ông bà ấy có mặt đêm nay ở đây là để biện hộ cho
những tội nhân mà án tử đã được định trước khi phiên tòa khai mạc. Hoặc
ông không nhầm thì các vị biện hộ sư này có nhiệm vụ lý luận bằng cách
nào đó để nhắc khéo ông ủy viên chánh phủ rằng nếu tội nhân chỉ đáng tù
chung thân thì phải tăng lên tử hình, còn nếu đáng tử hình thì phải
chồng hai án một lúc – nghĩa là thay vì cởi ra lại buộc thêm.
Do
đó, quan chánh án thấy không có gì phải thắc mắc khi ông ủy viên chánh
phủ tuyên án tử hình mà các biện hộ sư chưa có một lời cãi… hộ. Và có lẽ
cũng hiểu chuyện đời như vậy nên người tử tội vãn thản nhiên, không nói
gì thêm mà cũng không cúi đầu nhận tội.
Quan
tòa tiếp tục hỏi cung người đàn ông thứ hai. Theo kế hoạch đã định
trước thì quan tòa chỉ hỏi một người rồi kết án chung một lần cho đỡ mất
thì giờ, vì 6 người cùng bị bắt trong một đêm và cùng một hoàn cảnh,
nhưng vì ủy viên chánh phủ nổi cáu đã tuyên án tử hình ngay người thứ
nhất rồi, nên quan tòa phải bắt sang người thứ hai. Ông hất hàm:
“Tại
sao anh gõ mõ tụng kinh chuyền cho nhà bên cạnh để cả xóm đồng tâm
không đón đội tuyên truyền xung phong vào và đồn Cầu Ông Ngò gồm ba phần
tư là lính Hòa Hảo canh giữ đã đem lính ra phục kích bắn chết ba đội
viên của đội tuyên truyền xung phong khu?”
“Dạ thưa tà…”
“Tòa”!
Không phải “tà”! Anh liệu cái thần hồn!” Ông ủy viên chánh phủ lại vỗ
bàn làm thếp đèn nhảy lên, nhưng may quá cái ánh sáng chân lý chỉ run
run, chưa cái nào tắt thêm.
“Dạ thưa bẩm… bẩm quan.” Người đàn ông có vẻ khiếp sợ, đáp.
“Đây
là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không phải thực dân mà “Dạ, Thưa” rồi còn
“bẩm”. Ở đây cũng không có quan quyền gì hết. Chỉ toàn là những nô bộc
của dân. Ông Chánh án gọi các anh bằng “anh” để chứng tỏ cho mọi người
thấy nước ta là nước dân chủ, anh rõ chưa?”
Ông
Bồi thẩm ngồi bên trái ông Chánh án tự nãy giờ chỉ có mấy nhiệm vụ. Một
là khêu đèn nghĩa là giữ cho ánh sáng chân lý không trụt xuống mỗi khi
ông ủy viên chánh phủ đập bàn. Hai là xua muỗi cho ông chánh án. Muỗi
cũng là một loại khán giả quan trọng và náo động nhất ở đây. Nhiệm vụ
thứ ba là phải giải thích cho tội nhân về cái sự dân chủ của nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa như vừa rồi và để chắc chắn rằng tội nhân đã nhận
rõ lời ông giải thích, ông hỏi gặn:
“Anh có thấy nước ta ban hành tự do dân chủ đầy đủ chưa?”
“Dạ thấ…ấy!”
“Vậy
thì anh hãy trả lời vì sao anh đánh mõ gõ chuông chuyền như vậy? Nếu
anh khai thật và nói cho tòa biết trong vùng anh còn mật hiệu nào khác
để báo động khi bộ đội tới nữa không, thì anh sẽ được chánh phủ tỏ lượng
khoan hồng.”
“Dạ đánh mõ tụng kinh như vậy là chuyện thường đêm của người đạo chúng tôi chớ đâu phải mật hiệu gì.”
“Xin tòa hỏi xem anh ta tụng kinh thiệt hay kinh giả?” Viên Bồi thẩm nói.
“Dạ, kinh là kinh chớ đâu có kinh thiệt kinh giả.” Người đàn ông đáp ngay.
“Kinh anh đọc tên là Kinh gì?”
“Dạ, Kinh Giác Mê Tâm Kệ!”
“Có ý nghĩa gì?”
“Dạ có ý nghĩa làm tỉnh dậy những người mê muội chìm đắm bể trầm luân.”
Quan
tòa thở hắt ra, ngó sang ông Bồi Thẩm như để cầu cứu một câu giải thích
tiếp trong khi ông tìm thêm lý lẽ để vặn tội nhân, nhưng ông Bồi Thẩm
chỉ hỏi:
“Ai mê đắm bể trầm luân, anh nói nghe thử?”
“Dạ,
chúng sanh mê muội giết người đồng loại. Dạ, Đức Thầy đã kêu gọi thiện
Nam tín Nữ chúng tôi hãy làm lành lánh dữ, lấy thiện chống ác, lấy minh
chống u, lấy phước chống tội, lấy chánh chống tà…”
“Bốp!” Ông chánh án mặt to lại đập bàn. “Đây không phải chỗ cho anh đọc kinh!”
Trong
hai nữ biện hộ sư, có một bà mặt rỗ, một bà mặt trái soan rất đẹp. Thấy
tòa nổi giận, bà trái soan khẽ thúc cùi chỏ bà mặt rỗ. Bà này vội vã
đứng lên không xin phép, nói ngay – vì bà biết, nếu chậm trễ ông ủy viên
Chánh phủ sẽ phun thêm một cái án tử hình mới. Giọng bà eo éo như tiếng
đờn cò lên cao:
“Thưa
đồng chí Chánh án, thưa ông Ủy viên Chánh phủ! Thân chủ tôi nghĩ rằng
giác mê tậm kệ sẽ làm người ta hết mê muội, nhưng chính anh ta lại là kẻ
mê muội đáng được ánh sáng của cách mạng soi rọi để dắt ra khỏi cõi mê,
từ chỗ u ra chỗ minh, từ kẻ dữ hóa lành, từ ác quỷ ra thiện nhân, từ
tội lỗi ra phứ…c ức…ức!” Một con bồ hông bay tới lao vào cái lỗ phóng
thanh – như một chiếc Thần Phong của Nhật Hoàng nhủi xuống ống tàu chiến
của đồng minh – rấp tâm trám bít nó lại, nhưng vì thân bồ bé bỏng nên
chỉ làm cho máy phát tiếng trục trặc chút thôi.
Nhưng
sự hy sinh của nó không phải là vô ích. Người nữ tội nhân nãy giờ gục
đầu nức nở vì cái án tử hình đã giáng xuống cho chồng, vừa nghe tiếng ho
“ức ức” của bà biện hộ sư thì tưởng bà ta cùng giới mà cảm thương phận
đàn bà bị “ức” hiếp…, nên chị khóc ré to lên.
Còn
bà biện hộ sư thì lại nghĩ rằng lời bào chữa của mình đã xuyên thấu tim
đen của tội nhân làm bật tung dòng lệ thảm cho nên sau khi nuốt chửng
chiếc Thần Phong tí hon bà lại tiếp tục biện hộ:
“Thưa
đồng chí Chánh án, thân chủ tôi đã vì mê muội của thứ bàn môn tả đạo
nên phạm tội sát nhân. Luật pháp trên thế giới là giết người thì phải
đền mạng dù rằng ngộ sát hay cố sát. Trong trường hợp này thân chủ tôi
đã cố sát nhưng xét cho cùng đoàn tuyên truyền xung phong chỉ mất có mấy
cán bộ, thay vì tổn thất nhiều hơn nữa. Và xét cho cùng nữa thì đó
không phải thân chủ tôi rắp tâm mà do sự mê muội…”
Ông Bồi Thẩm chờ bà biện hộ sư dứt câu, bèn mớm:
“Đồng chí biện hộ sư đã giảm tội cho thân chủ được bảy phần rồi đó, chỉ còn câu cuối cùng nữa là thân chủ được tha bổng.”
Bà
nữ biện hộ sư thấy phấn chấn hẳn lên. Những nốt rỗ chứa bóng tối trên
mặt bà làm chúng đen ra như những trái sắn già không ai hái cũng như cái
tuổi của bà bây giờ.
Bà
tằng hắng to lên vì con bồ hong còn kẹt trong họng, nhưng quan tòa lại
nghĩ rằng bà biện hộ sư hăng hái bảo vệ nhân dân quá mức nên đã dám cả
gan nạt tòa làm tòa giật mình suýt giảm án cho tội nhân. Quan tòa sực
nhớ ra rằng ông bà thầy cãi ngồi dưới kia chỉ là cây cảnh, hơn nữa các
án đã được định bằng mồm trước khi tòa xử.
…
Các tội nhân tiếp tục được biện hộ một cách nhiệt tình cho nên khi dĩa
dầu cá được châm thêm ba lần và cạn đến lần thứ ba thì ủy viên Chánh phủ
cũng vừa buộc thêm cái án nữa, cho người cuối cùng: một người đàn bà có
thai gần ngày. Nhưng lần này ông không đập bàn, có lẽ sợ làm trụt mất
ánh sáng công lý hoặc không muốn làm thai nhi trong bụng mẹ giật mình,
cho nên ông chỉ chém bàn tay ông trong không khí.
“Tử hình luôn!”
Những tội nhân sụp quỳ xuống cùng một lúc như để tỏ lòng biết ơn Chánh phủ. Nhưng không phải! Họ bắt đầu niệm kinh.
“Dắt chúng nó đi ngay!” Ông ủy viên Chánh phủ hét. “Đưa ra ngoài kia!”
Ông
Xà Beng đã tỉnh giấc từ khi ông Ủy viên chánh phủ thét cái án thứ nhất
để chờ lệnh đi công tác. Như máy, ông rút chai rượu trút vào mồm để
chuẩn bị. Nhưng, tội nghiệp, hôm nay ông phí của giời!
Ông
ủy viên Chánh phủ có một lô người võ trang đi theo hộ tống và giữ trật
tự cho phiên tòa. Ông chỉ mượn ngôi đình để xử tội nhân và đất để chôn
họ thôi, còn việc đưa linh hồn họ về cõi U thì đã có đám võ trang kia.
Bị tranh mất công, ông lấy làm ức lắm, ông vùng vằng đứng dậy định đi về
không chơi với Cách mạng nữa, nhưng cái món phép ông giắt trong lưng
như ngọ nguậy làm ông ngứa ngáy. Ông không về nhà được. Ông rút nó ra
cầm tay và xăm xăm đi ra bãi pháp trường.
Ngài Ủy viên Chánh phủ đã được ủy ban xã giới thiệu rõ thành tích của ông Xà Beng nên chận ông lại và năn nỉ:
“Tôi
biết tài đồng chí! Nhưng để khi khác tôi sẽ dùng đến. Tôi còn cả trăm
tên nữa. Đừng lo. Còn hôm nay thì xử bắn; trước mặt đồng bào, mình phải
văn minh. Cất binh khí đi, kẻo người ta trông thấy bảo mình dã man.”
Ông
Xà Beng nhìn ngài ủy viên Chánh phủ bằng cặp mắt quái dị, đến nỗi ông
này phải sụt lùi, vừa sụt lùi vừa cảnh giác, như sợ bị một phát xà beng
bất ngờ. Còn ông Xà Beng thì cứ lầm lũi đi ra sau sân đình.
Đoàn
trại sinh của khóa huấn luyện TNCQ hụt diễn kịch được phân công giữ
trật tự vòng ngoài trong lúc một nửa đội võ trang làm nhiệm vụ ấy ở vòng
trong, nghĩa là gần miệng lỗ. Viên đội trưởng cầm chiếc đèn dẫn đầu sáu
cái án bằng xương bằng thịt ra huyệt. Mấy ngọn đèn cũng rất phải chăng,
đợi tòa xử xong mới lụn, như hàm ý rằng ánh sáng công lý không còn hoặc
nó không thể soi sáng cái gì ở đây, thà biến đi cho xong. Hũ dầu cá dự
trữ cũng đã cạn nên không thể giúp cho chân lý sáng thêm.
Viên
đội trưởng cứ để cho ba cái tiêm đèn cháy lan trên thếp sành thành một
ngọn to như đuốc, đuốc cách mạng tả tơi trước gió. Dầu cạn, nước đọng
cháy xèo xèo và nổ lắc rắc nghe rõ mồm một. Theo sau ngọn “Đuốc cách
mạng” thay vì ông Xà Beng lại là một đội viên, tay nắm sợi dây luộc dừa
xâu tử tội, tay cầm súng, miệng nạt đường. Người xem kịch hụt bỗng nhiên
đông lên gấp hai gấp ba. Mặt trận tỉnh đã lầm tưởng rằng nếu nghe tin
xử án phản động chắc ít người đến xem và cách mạng sẽ mất cơ hội thị oai
với quần chúng. Ngược lại, nghe tin đó, người ta đi xem đông hơn đi xem
kịch. Những vụ xử bắn như thế này làng nào không có mà sợ.
Người
ta bu chung quanh đám tử tội, không ai nói gì, cũng không ai dám đụng
họ nhưng không hiểu tại sao người ta cứ ùa tới cho gần như muốn đưa họ
ra nơi yên nghỉ cuối cùng bằng một lời tiễn biệt câm chăng?
Từ
chỗ họ đứng hứng bản án đến nơi họ thụ án chỉ hơn trăm thước. Trăm
thước đó dày đặc những người cuồn cuộn như sóng không ngăn được. Người
ta quyết tình xem oai võ của cách mạng ra sao không phải trên thân xác
một ông Hội đồng già nua, cũng không phải qua tiếng gào thét của người
bị đập đầu trên cầu đúc hay tiếng rên rỉ của cây Xà Beng yêu tinh, mà
trên thân hình của đàn ông lẫn đàn bà và đàn bà có thai: sáu người hiện
hữu, một công dân chưa kịp thành người.
Viên
đội trưởng đặt chiếc đèn xuống đất và quát giữ trật tự, cái trật tự
không giữ được từ lâu. Đám tử tội đã đến miệng lỗ. Họ vẫn còn bị xâu
chùm. Viên đội trưởng ra lệnh cho đội viên buông dây và quát:
“Bắt nó quỳ xuống! Hai đứa!” Rồi tiếp. “Hai đồng chí sẵn sàng thi hành lệnh.”
Một
người đội viên đẩy hai người đàn ông đứng meo trước miệng lỗ rồi ấn vai
bắt họ quỳ, thay vì ra lệnh. Cả hai đều quỳ quay mặt về phía họng súng.
Viên đội trưởng quát:
“Bắt nó quay lưng ra họng súng quay mặt nhìn lỗ.”
“Chúng tôi muốn nhìn họng súng của các ông!” Một tử tội ngoảnh lên nói.
“Không được! Chúng tao không có sẵn vải bịt mắt.”
Một cánh tay từ đám khán giả tiếp cận chìa vào một mảnh khăn.
Viên đội trưởng chụp lấy xé làm đôi nhưng một tội nhân quắc mắc:
“Chúng
tôi không cần phải bịt mắt.” Rồi cả hai quỳ mím đó không chịu quay lưng
và mắt vẫn nhìn hai họng súng đã chĩa ngang tầm ngực họ. Miệng họ lâm
râm niệm kinh, không rõ tiếng chỉ nghe giọng và thấy môi mấp máy đều
đều. Mắt họ trợn lên nhìn họng súng cách chỉ một vói tay. Cách mạng tuy
mới thành công nhưng đã có mút-cơ-tông, không phải xài súng bắn chim
nữa.
“Bắn!” Viên đội trưởng giơ ngọn đuốc lên và hét.
Bùm!
Hai phát súng nổ cùng một lúc nên nghe như một. Nhưng hai tín đồ về
chầu Phật thì vẫn cứ hai và hai linh hồn rời xác. Một rơi nằm sấp một
nằm ngửa dưới đáy lỗ. Nhưng cả hai đều lồng lên khi vừa đụng đất. Vì sợi
dây luộc quá chắc, không đứt, cho nên người đàn bà và người đàn ông
đứng kế bị giật nhào xuống lỗ. Cả người bị đạn lẫn người sắp bị đạn đều
gào thét dãy dụa như muốn phá vỡ bốn vách thành của cái thảm huyệt để
trở lại trần gian. Một người đàn ông đã ngoi lên và bất thần nắm được
chân viên đội trưởng đang đến gần miệng lỗ xem xét, để cất mình trườn
lên. Tên này hoảng kinh nhảy tưng và chạy lùi ra vừa hét vừa quơ tay
loạn xạ:
“Bắn! Bắn! Bắn!”
Hai
tay súng chạy tới nhắm mắt mũi cứ lên đạn dí súng bóp cò, bất kể đầu
mình tay chân của đối tượng và bất kể bắn bao nhiêu phát.
Người
đàn ông và người đàn bà cuối cùng còn lại vẫn đứng trơ trơ bên miệng
lỗ. Lần này thì sợi dây xâu bị bắn đứt nên họ không bị giật té xuống lỗ.
Họ không quay lưng lại họng súng, họ bị bắn từ sau lưng. Họ ngã chồng
lên đồng đạo dưới lỗ.
Súng
cách mạng thật tốt, bắn đến viên đạn cuối cùng của gấp đạn thứ hai mà
không lép phát nào và nổ to gấp trăm lần súng bắn chim.
Miệng lỗ rưới đầy máu tươi đã trở thành miệng cối ngoáy trầu khổng lồ be bét chỉ khác là lỗ hình chữ nhật còn miệng cối tròn.
Người
đàn bà bị bắn từ phía sau lưng, viên đạn xé rách bụng ruột lòi ra từng
cuộn. Một tay chị ôm bụng, một tay soài tới ôm lấy người đàn ông cùng
ngã một lúc với chị, úp mặt lên một người đàn ông khác. Chị gào lên:
“Chết con mình rồi mình ơi! Mìn…h ơi ơi…!! Mì…ơ ơ…” tiếng gào tắt lịm
dần. Huyệt mộ cạn xợt nên sáu cái xác chồng đầy tới miệng, một người đàn
ông nhô hẳn đầu lên quá mặt đất. Một nửa cái cằm đã bay mất. Anh muốn
nói gì, muốn la hét, nhưng máu phún ra có vòi, anh chỉ ngáp ngáp, lấy
máu thay lời.
Một
ngọn gió thổi qua như luồng oan hồn cuộn mất ngọn đuốc tàn làm mặt đất
càng ùn lên oai vũ cách mạng, một thứ oai vũ màu đen và mùi tanh.
Bất
thần một ánh đèn pin xẹt lên xanh lét làm mặt người hóa ra mắt quỷ và
mảnh sân đình trở thành con sông Nại Hà lúc nhúc quỷ sứ đuổi bắt người
ăn thịt. Đó cũng lại là ánh sáng công lý phát ra từ tay ông ủy viên
Chánh phủ. Ông cầm đèn pin đứng xa xa để giám sát cuộc hành quyết tự nãy
giờ.
“Đừng bắn nữa! Lạc đạn! Đập cho chết!” Thấy biến động bất ngờ, ông quát.
Tức
thì “cốp, cốp, cốp!” Một người lao tới, hai tay hộ pháp hươi lia lịa
một chiếc gậy sắt. Người đàn ông mất cằm bị ánh đèn soi rõ và tức thì
“cốp”, một nửa chiếc cằm còn lại bay luôn. Máu phọt tràn đất.
“Khoan lấp!” Một tiếng quát. “Để đập cho thiệt chết!”
Chiếc
gậy sắt vẫn quơ loang loáng. Cái ánh đèn xanh bây giờ đã trở thành đỏ
lòe như một tia máu vĩ đại xối vào mặt đám khán giả gan lỳ muốn xem đến
phút cuối cùng của màn kịch.
“Ông Xà Beng! Ông Xà Beng!” Một tiếng la hoảng ré lên.
Đây
đúng là công tác của ông. Ông chờ đợi rình rập cái giờ phút này. Chưa
bao giờ ông được tung hoành đến thế. Trước đây ông loay hoay trên chiếc
cầu, sợ người bất ngờ qua lại, hoặc xoay trở trên sông cái, nhiều lúc
suýt lật úp xuồng. Thật là gian khổ vô cùng. Còn ở đây thì dù đến sáu
bảy mạng, vẫn dễ dàng hơn, tha hồ đập, dù chúng có la rú cũng chẳng sợ,
đã có Chánh phủ đứng ở đây rọi đèn cho ông hành sự mà. Cái Xà Beng lầy
lụa, nắm cứ tuột hoài, ông phải lau tay vào vạt áo hoặc muối cát hai ba
lần để quay cho chắc cú.
Ông
ủy viên Chánh phủ đứng điềm nhiên quơ ánh sáng qua lại để chỉ đạo ngọn
Xà Beng ban hành luật tự do tín ngưỡng đến tận đáy huyệt. Ông khuyến
khích ông trưởng ban trừ gian xã:
“Tôi đề bạt đồng chí lên Phó ban trừ gian tỉnh, đặc trách vùng này.”
Ông
tân phó ban trừ gian tỉnh ngừng tay đứng thẳng người, quay mặt về phía
thượng cấp tỏ vẻ biết ơn và nhận chức mới. Bất thần ông ủy viên Chánh
phủ sụt lui mấy bước liền và bấm tắt đèn. Ông không muốn hoặc không dám
nhìn cái mặt thật của cái con người mà chính ông đã tạo ra và vừa thăng
chức.
“Thôi, được rồi đồng chí Phó Ban! Để chúng nó lấp lại.”
Ông
Xà Beng ngừng tay. Nhiệm vụ đã hoàn thành, chức vụ mới đã nhận xong,
ông đi về. Rảo bước qua những tiếng lào xào của khán giả bên tai, ông
ngỡ đó là những lời khen ngợi triền miên. Ông thọc tay vào túi áo rút
cái chai bầu ngửa cổ tu rượu, nhưng lần đầu tiên kể từ khi đập chết “tên
Việt gian” thứ nhất trên Cầu Đúc, ông nghe mùi rượu lạ kỳ. Ngửi thì
tanh đến buồn nôn, mà nuốt thì nhám. Ông vừa phun vừa khạc. Rượu đã pha
máu lẫn cát. Máu và cát dính ngay ở mặt ở môi ông. Ông quệt ngang, ông
nâng vạt áo lên chùi, lại phun, khạc. Ông không về nhà. Ông đi thẳng tới
quán đạp cửa đòi rượu mới. Người chủ quán nghe tiếng thì biết ông khách
hàng đầu rìu, nên thòi chai rượu qua kẹt vách. Ông đớp lấy mở nút nốc
dài về tới nhà, quăng cái vỏ chai, dựng binh khí trong hóc và văng mình
lên võng, bó thân trong chiếc áo bành tô vừa điểm thêm nhiều hoa mới.
Chiếc võng lắc lư, cột kèo run rắn rắC. Ông co chân đạp vào vách cho võng đưa nhanh ru ông sớm vào mộng tiên.
“Ta bây giờ là Phó ban tỉnh. Ở nhỉ… tỉnh lớn bằng mấy chục xã!”
Cũng
may là ông không có vợ con. Nếu có, chắc vợ con ông sẽ khổ. Nhưng nếu
ông có vợ con thì ông không làm tới chức Phó ban trừ gian tỉnh cũng
không làm cả trưởng ban trừ gian xã để được trả công một chai rượu một
mạng người.
Ông Xà Beng thức giấc khi rượu đã loãng. Ông nằm im trong sự bó chẹt của chiếc võng lát đã hết đong đưa tự bao giờ.
Bỗng
ông nghe trong tiềm thức sâu xa tiếng kêu rống. Không phải trong tiềm
thức của ông mà từ âm ty vọng lên. Ông vụt nghe ốc mọc đầy lưng rồi khắp
người. Ông nghe tiếng rống văng vẳng càng lúc càng to. Ông vùng dậy
bước lại cửa thò đầu ra, lắng nghe. Tiếng rống đến từ phía đình. Một
cách bản năng, ông quơ lấy binh khí chạy trở lại sân đình. Trăng non y
hệt cái liềm không cán, cong như mõn quỷ. Đụn cát run run phập phều như
lượng sóng. Tiếng rống phát ra từ đây. Như quỷ giục ông quơ xà beng lên
nhắm ngay chỗ có tiếng rống to phóng thẳng. Ông đu người lên để găm lút
chiếc cọc sắt. Nhưng mỗi lần ông ấn xuống thì in như tiếng rống càng bật
lên to hơn. Ông bỏ chiếc xà beng đứng run rẩy. Ông thở hổn hển giữa mô
cát nhấp nhô. Ông chạy vào xóm tìm một chiếc chày. Ông vọt trở ra, giơ
thẳng cánh bổ xuống đầu Xà Beng như giả gạo. Cốp cốp cốp. Chiếc Xà Beng
lút tới cán nhưng tiếng rống đã không tắt lại còn vang to hơn. Không gì
dập được tiếng kêu đau.
Ông
ném chiếc chày, hai tay nắm cán xà beng lôi lên. Vuột tay, ông té ngửa.
Chiếc xà beng vẫn ghim lút trong cát như có người níu giữ. Ông chụp lấy
chày và nện và bổ bất cứ chỗ nào đang run động để dập tắt tiếng rống.
Nhưng nó vẫn không tắt. Nó cứ vang lên bằng nhiều giọng, nhiều cách,
nhiều nơi khắp nấm đất và dường như khắp mặt đất. Năm người và hai mẹ
con nằm vùi dưới lỗ. Bảy mảnh linh hồn lởn vởn bay trên đầu. Cả xác lẫn
hồn đều không chịu im. Ông bỗng nhận ra vật gì như một cái đầu đang trồi
lên khỏi nấm cát rồi hai cánh tay mọc thẳng lên trời quơ qua quơ lại
như muốn lôi tuột cái liềm kia xuống.
Ông
nghe cả thân mình mềm nhũn. Ông vứt cái chày và quay đầu chạy. Ông lại
đụng nhằm một bóng đen đang lù lù đi tới. Ông không phân biệt được đó là
ai, người hay ma quỷ? Ông thụt lùi rồi vừa chạy vừa la. Lần đầu tiên
ông Xà Beng biết sợ.
Sáng hôm sau người đi qua đình thấy ông nằm sải tay sải chân trên cát
No comments:
Post a Comment