Wednesday, March 21, 2012

CHỢ BA ĐỒN-QUẢNG BÌNH




Gốc tích chợ Ba Đồn

Theo lịch sử, cách đây hơn 500 năm, từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, nơi đây đã hội tụ nhiều lợi thế để hình thành một nơi giao lưu, trao đổi, buôn bán và dần dần trở thành một cái chợ rất lớn. Ca dao cổ có câu :


Chợ Đồn bán đắt cau khô
Một đoàn vợ lính trẩy vô thăm chồng
Gặp trộ mưa dông
Đường xa gánh nặng
Mặt trời đã lặn
Đèo Ngang chưa trèo
Hòn đá cheo leo
Chân trèo chân trợt
Hỏi o bán nước
Hỏi chú chăn trâu
Ba Đồn lính đóng nơi đâu?

"Chợ Ba Đồn ở tại địa phận làng Phan Long, gần trên bờ Sông Gianh, cách phủ lị Quảng Trạch chừng 200 thước tây và cách đường thiên lý 3 cây số.

Theo Đại Nam Nhất Thống chí thời thủa xưa chợ Ba Đồn cũng có tên là chợ Cổng, nguyên ở làng Trung Ái tức làng Trung Thuần bây giờ. Sở dĩ đặt tên là Ba đồn là vì về đời Hậu Lê, chúa Trịnh có lập ba cái đồn lính đóng giữ xung quanh đó. Một cái ở làng Trung Ái, một cái ở làng Phan Long và một cái ở làng Xuân Kiều. Lại theo một nhà khảo cứu khác thì tên chợ Ba Đồn là bởi tên đồn Tam Hiệu ở làng Trung Ái mà ra.

Nhà khảo cứu này nói có lẽ đúng, là vì về đời ấy, ngoài chợ Ba Đồn ở Trung Ái ra, thì cũng còn có một cái chợ ở đồn Phan Long và một cái chợ ở làng Xuân Kiều. Nhưng đó là thuộc về lịch sử, không bàn rộng ra đây làm gì. Duy chỉ có một chỗ chưa ai nói đến là chợ Ba Đồn ở Trung Ái dời về Phan Long tự bao giờ?

Ban sơ lập ra chợ này, mục đích là để quân lính ở các đồn đến mua đồ ăn uống cho tiện, nhưng sau vì địa thế chợ ở giữa giới hạn hai xứ Đàng trong và Đàng ngoài, thành thử lần lần dân hai bên đến tụ họp ở đó mà trao đổi sản vật cho nhau. Ngày nay đường giao thông buôn bán tiện lợi thì mỗi phiên chợ có ngoài 9 - 10 ngàn người gồm đủ người Bắc Kỳ, Nghệ Tĩnh, Bình Trị Thừa thiên cho đến Quảng Nam đến tụ họp buôn bán, nào là lúa, gạo, tơ, lụa, săng gỗ, trâu bò thật là náo nhiệt. (Theo số của quan nguyên Tri phủ Quảng Trạch Tôn Thất Chiêm Thiết đếm một phiên chợ thường, các phiên chợ gần Tết thì số người có trên vài vạn).

Chợ rộng gần hơn một mẫu đất, ở giữa có 4 cái đình gạch, hai bên có phố xá Tàu, Ta buôn bán tấp nập. Mỗi tháng ba phiên vào ngày 6, 16, 26 ÂL. Họp một ngày thì tan. Khách du lịch muốn xem phiên chợ Ba Đồn phải chọn ba ngày ấy mà đi. Hàng ngày có một chuyến xe điện chạy từ Ba Đồn và Đồng Hới, rồi từ Đồng Hới ra Ba Đồn, và một chuyến từ Vinh vào ba Đồn, rồi từ Ba Đồn ra Vinh. Có một sở điện báo bên chợ để tiện đường tin tức".

Chợ Ba Đồn được hình thành ở trên đất Phan Long từ thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Trong quá trình chiến tranh thôn tính lẫn nhau, cũng như thời ngưng chiến phân chia Nam Bắc, lấy sông Gianh làm ranh giới suốt 50 năm. Chúa Trịnh, chúa Nguyễn đều xây dựng một hệ thống đồn lũy ở hai bên bờ sông Gianh. Vùng phía Nam có ba đồn lớn : Ba Đề, Cao Lao Thượng và Cao Lao Hạ, trong đó Cao Lao Hạ là đồn tiền tiêu chủ yếu.

Vùng phía Bắc sông Gianh, chúa trịnh xây dựng một hệ thống lũy đá từ Đèo Ngang đến tận Xuân Sơn, vết tích nay vẫn còn. Ba cái đồn của quân Trịnh gồm : Đồn Trung Thuần là nơi đóng đại bản doanh và là căn cứ tập kết, huấn luyện quân sỹ, đồn Phan Long và đồn Thuận Bài là đồn tiền tiêu, Thuận Bài đối diện với Cao Lao Hạ, là đồn chính. Về sau chúa Trịnh còn cho xây thêm đồn Xuân Kiều làm hậu thuẩn cho hai đồn tiền tiêu này.

Phan Long là nơi được quân Trịnh chọn làm địa điểm tổ chức hội hè cho binh lính, mỗi tháng ba lần vào các ngày 6, 16, 26 âm lịch, gọi là Ngày hội 3 đồn (sau thành tên riêng Ba Đồn). Mục đích là để quân lính vơi đi nỗi nhớ vợ con, gia đình, cũng là nơi dành cho các cuộc gặp gỡ thỏa nổi ngày nhớ đem mong của các "đoàn con gái trẩy vô thăm chồng". Mặt khác, những ngày hội đó còn là một đòn tâm lý, nhằm tác động đến tâm tư, tình cảm của binh lính Nguyễn ở bờ Nam sông Gianh.

Trong các ngày hội, binh lính Trịnh được thỏa thích vui chơi, rượu chè, cờ bạc. Ban ngày, còn tổ chức nhiều trò chơi như kéo co, vật võ, côn quyền, đấu kiếm, bắn cung. Ban đêm thường biểu diễn các tích tuồng hoặc thi ca hát. Vì vậy mà các làn điệu dân ca như hát chèo hát Kiều, hát quan họ, hát dặm hát ví . . . từ các quê hương lính ở ngoài Bắc, ở Nghệ Tĩnh thâm nhập vào Ba Đồn và cả vùng Quảng Trạch, còn lưu luyến đến tận ngày nay.

Do nhu cầu ăn chơi trong những ngày hội tưng bừng ấy, một lực lượng dịch vụ ra đời, nhiều hàng hóa sản vật từ tứ phương được đưa về đây. Hình thái dịch vụ, thương mại xuất hiện. Chợ hình thành và nhanh chóng phát triển. Về sau khi cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn chấm dứt, ngày hội thường kỳ của ba cái đồn xưa tại Phan Long không còn nữa, nhưng chợ Ba Đồn vẫn tồn tại, dần dần trở thành một trong những cái chợ vào loại lớn nhất của cả nước hồi trước cách mạng.

Bọn đo hộ Pháp cũng ra sức góp phần làm cho chợ Ba Đồn phát triển vì một mối lợi lớn : thu thuế. Vì thế, những năm đầu của thế kỷ 19, chúng đã cho xây 4 cái đình chợ lớn và vững chắc. ban đầu, thuế chợ làng thu, nạp lên cho Phủ, trả công cho người thu thuế, người quét dọn, một số được sung vào quỹ làng.

Từ năm 1929, một tên tay sai thân Pháp được thầu thuế chợ, thu lệ phí rất cao (Kiểm Huệ và bọn đệ tử : Kiểm huệ quá gian ác, thu thuế chợ quá đáng bị nhân dân phản ứng dữ dội phải trốn chạy khỏi Ba Đồn), làng mất nguồn thu, dân bị chèn ép, nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra dữ dội.

Các đầu mối giao thông về Ba Đồn khá đa dạng, là một yếu tố quan trọng để Ba Đồn trở thành một cái chợ thuộc loại lớn. Đường thủy chiếm vị trí số một. Nguồn Nậy, nguồn Trổ, nguồn Son là đường giao lưu thuận tiện cho cả vùng tây bắc Quảng Bình, nam Hà Tĩnh, bắc Bố Trạch. Trong Nam, ngoài Bắc đến với Ba Đồn bằng đường biển, theo cửa Gianh mà vào.

Đường bộ thì từ ngã ba quốc lộ thiên lý mà đi lên. Đường tỉnh lộ rải đá này từ miền tây bắc Quảng Bình nối với đường thiên lý, có đi qua Ba Đồn. Lại còn con kênh nối từ sông Loan (Roòn), chảy dọc theo các xã vùng ven biển Quảng Trạch, qua cầu Vịnh Tét (Bánh Tét) mà nhập vào sông Gianh ở vị trí Ba Đồn. Con kênh này được đào từ thời nhà lê để vận chuyển vũ khí, lương thực trong cuộc chiến Đại Việt - Chăm Pa.

Thời Trịnh Nguyễn phân tranh cũng dùng làm đường vận chuyển chiến lược. Tạo thuận lợi cho hàng hóa đến và đi từ chợ Ba Đồn, tại ga Minh Lệ, đường sắt xuyên Việt có hẳn một nhánh nối về Chợ Mới (Quảng Minh). Hàng đến ga Minh Lệ thì cắt toa rồi dùng goòng kéo về Chợ Mới để chuyển xuống thuyền chở về chợ Ba Đồn và nhận hàng của Ba Đồn chuyển đi. Cũng nhờ mối giao thông này mà Ba Đồn hồi đó đã có xuất bán một số hàng ra Bắc, vào Nam như nón (có tiếng vang là "nón Ba Đồn" là vì thời đó các thương nhân Ba Đồn mua nón nhiều nơi về bán tại chợ, rồi đóng thành kiện chở đi bán khắp nơi), lạc, ngô, cau, lâm sản các loại . . .

Gốc gác của chợ ở đồng Quai Mọ (Nghĩa là đánh mõ - Đồng Quai Mọ là nơi có trạm gác và chuyền tin giữa các đồn thời chú Trịnh bằng cách đánh mõ. Cũng có tài liệu ghi rằng : Chợ Ba Đồn lúc đầu nằm ở dưới lùm cây Đá Lả, chỉ mấy túp lều, nhà nhỏ bán hoa quả, cháo, nước chè. Vợ con lính ngoài Bắc vào thường trú ngụ nơi đây). Quá trình phát triển phải dời ra bờ sông cho thuận tiện trên bến dưới thuyền.

Đất lành chim đậu, người trong Nam, ngoài Bắc và số đông Hoa kiều "đậu" lại đây buôn bán, làm nghề, lập nên cơ nghiệp. Hai dãy phố đối diện nhau là san sát cửa hàng, cửa hiệu khá lớn, có nhà hai, ba tầng (hiệu Hồng Ích làm ngôi nhà 2 tầng đầu tiên vào năm 1917), bày bán đủ loại hàng hóa, một số hiệu thuốc Bắc với một hàng cây ngô đồng tỏa bóng mát. Ở giữa là khu đất rộng gồm bốn ngôi đình ngói, nơi bày bán của hàng trăm sạp hàng đủ loại như tạp phẩm, hàng xén, cơm cháo, bún bánh, hoa quả. Đình chợ do Pháp xây vào năm 1920 - 1922, bề ngang hơn 20 mét, dài hơn 30 mét, cao ráo thoáng đãng, không có tường che, chỉ có các cột đỡ lấy mái. Đình chợ rất kiên cố, hơn 20 năm sau, trãi qua bao lần bảo tố vẫn không hề suy suyển. Khi giặc Pháp tấn công hòng chiếm Ba Đồn (1947), những ngôi đình này bị phá trong phong trào tiêu thổ kháng chiến.

Có thể khẳng định rằng đặc điểm của chợ Ba Đồn xưa là rất to lớn. Cả vùng Bắc Miền Trung không có chợ nào như vậy. Ngay ở tỉnh lị Đồng Hới, chợ thời đó cũng chỉ có 1 đình, thấp nhỏ hơn nhiều. Ngoài ra, phía dưới, về phía trên kênh đào, có những khoảng đất trống rất rộng được xây thành 8 ô nền cho dân các vùng bày bán la liệt các thứ hàng không cần che nắng, che mưa như tre, nứa, gỗ, củi, đồ sành sứ, đồ rèn, bàn ghế, giường, tủ, đồ đan lát, các loại gia cầm, thủy sản . . .

Đây cũng là nơi tập trung các trò chơi cờ bạc như bói cò quay, tôm cua rùa cá, xóc xăm, xóc đĩa, bói toán. Chạy ngang qua giữa chợ, giữa khu 4 đình và 8 ô trống ngoài trời là đường tỉnh lộ nối Quốc lộ 1A với Minh Cầm lên Đồng Lê (Tuyên Hóa). Bao quanh chợ là đường nội thị rộng, hai xe ôtô có thể tránh nhau. Quanh chợ là phố xá lớn nhỏ của người Việt, người Hoa.
Ba Đồn là chợ xưa nay
Tụ nhơn thụ hóa mười ngày một phiên
Phố phường Nam, Khách hai bên
Khi đông cũng đến mấy nghìn người ta

Trước Cánh mạng tháng Tám, chợ Ba Đồn một tháng 3 phiên vào ngày 6 : Mồng sáu, mười sáu và hăm sáu. Cứ 10 ngày một phiên để có điều kiện cho khách hàng ở xa về ăn chợ. Hàng hóa miền ngược, miền xuôi, trong Nam, ngoài bắc hội tụ về đây. Đường bộ thì theo xe bò, xe kéo, xe điện (Xe ôtô, hồi đó dân vẫn quen gọi là xe điện, thời thuộc Pháp Ba Đồn đã có xe chạy tuyến Vinh, Huế, Đồng Hới - Ba Đồn). Đường thủy thì theo thuyền nhỏ, ghe lớn.

Ngoài huyện Quảng Trạch, còn có Tuyên Hóa, Minh Hóa theo nguồn nậy đi về, nam Hà Tĩnh theo nguồn Trổ vào ra (Hàng từ Hà Tĩnh vào, chủ yếu là gánh bộ qua đèo hoặc đi xe ô tô Vinh - Ba Đồn, sông Rào trổ có thông thương nhưng phải qua 5 cái thác rất khó chở hàng hóa), Bố Trạch theo nguồn sông Son lại.

Ngoài ra ghe thuyền chở hàng hóa từ Thanh Nghệ Tĩnh, Nam Định, Phố Hiến vào; từ Hội An, Đà Nẵng, Huế, Đồng Hới ra. Bán, mua vô cùng tấp nập. Thời kỳ này đã có các loại hàng ngoại của Ấn Độ, Nam Dương, nhiều nhất vẫn là tơ lụa vải sồi, chuyển về bán ở các cửa hiệu lớn qua các hợp đồng thương mại. Ngày phiên, trên bến hàng trăm ghe mành, thuyền noốc to nhỏ đậu la liệt. Các bè tre, nứa, gỗ, các vật liệu chủ yếu để xây dựng nhà cửa ngày xưa, đậu san sát, nhiều khi phải lấn xuống đất Thổ Ngọa mới có bãi để hàng. Đến chợ Ba Đồn, người mua kẻ bán đều thỏa mãn mọi nhu cầu.

Hàng hóa đủ loại : nông sản có thóc gạo, đậu mè, hoa trái, gia súc, gia cầm. Bò thì quá nhiều phải bán ở một góc chợ riêng. Lâm sản có gỗ quý, than, củi, tre nứa mây giang, các loại thú, trầm hương, củ nâu. Lại còn cau tươi, cau khô, cam quýt mít bòng Tuyên Hóa . . . Hải sản đủ tôm cua cá mực lại thêm sò huyết, tôm hùm vùng Roòn. Ngoài ra, chợ Ba Đồn còn bán nhiều loại sản phẩm quý như quế, sa nhân, hoài sơn, sa sâm, mộc nhĩ, nấm hương, mật ong . . .

Chợ Ba Đồn còn là nơi tiêu thụ hàng hóa thủ công nghiệp của vùng bắc Quảng Bình. Những thương hiệu có tiếng là đồ rèn Hòa Ninh, vải dệt khổ hẹp Chợ Sải, Lâm Xuân, áo quần may sẵn Lũ Phong, lưỡi diệp cày, đồ đan mây tre Thọ Đơn, mật mía Trung Thuần, bánh tráng, bún Lộc Điền, gốm sành sứ, nồi đất Lò Đôộc, nón lá của cả vùng Quảng Trạch, Bố Trạch.

Nơi đây còn cung cấp các loại hàng đặc biệt là xăng dầu và rượu của hãng Xica . .

Ngoài việc buôn bán, dịch vụ, Ba Đồn còn có các nghề thủ công như nghề mộc, nghề sơn, nhuộm, chụp ảnh, chạm khắc, sửa chữa xe, hàng bạc, làm bánh kẹo . v. v. Phổ biến trong dân là nghề làm nón. Đặc biệt đã có 2 chủ ô tô khách, một chủ thuyền vận tải, một kho xăng dầu, một chủ lò gạch ngói.
. . .

Cổng đình chính chợ Ba Đồn ngày nay

Thời kỳ 1956 -1957, sau Cải cách ruộng đất và sửa sai thắng lợi. Lãnh đạo nhân dân nhanh chóng phục hồi sản xuất và cuộc sống. Chợ Ba Đồn lại đông vui, tấp nập trở lại. Hàng hóa ngày càng nhiều, chủ yếu là hàng địa phương, nhưng vẫn là nơi buôn bán lớn nhất phía Bắc Quảng Bình. Là một cái chợ lớn nhất của vùng giải phóng, lại nằm giáp ranh giữa vùng tự do và vùng tạm chiếm trước đây, nên có thêm nguồn hàng ngoại hóa, làm cho việc buôn bán trở nên sôi động. Những người buôn sỉ, bán lẻ, cất hàng về các chợ xa ngày càng đông, lên Tuyên Hoá, ra Hà Tĩnh, vào Bố Trạch . . .

Đội ngũ làm nghề dịch vụ cũng đông đúc theo, ngành nghề dịch vụ phát triển, tạo ra nhiều công ăn, việc làm. Thu nhập của dân Ba Đồn và các làng phụ cận được cải thiện rõ rệt. Tình hình kinh tế phát triển thuận lợi, tổ Đảng Phan Long liền xin ý kiến cấp trên, "cưới" thêm ba phiên chợ xép vào ngày "một" (1,11,21 ÂL). Từ đó trở đi chợ Ba Đồn một tháng 6 phiên.
http://diendan.qbvn.com/showthread.php?t=34729&page=1


Tìm hiểu về Ba Đồn
Written by Nguyễn Anh Vũ
Thursday, 14 February 2008 08:18

Ba Đồn bán đắt cau khô
Một đoàn con gái chạy vô thăm chồng
Gặp trộ mưa giông
Đường trơn gánh nặng
Mặt trời đã lặn
Đèo Ngang chưa trèo
Gặp hòn đá cheo leo
Chân trèo, chân trượt
Hỏi o gánh nước
Hỏi chú chăn trâu
Ba Đồn quân lính đóng đâu?...”

Ở Quảng Bình có 12 địa danh nổi tiếng, đó là: Núi Chùa Non, đèo Ngang, đèo Mụ Giạ, động Phong Nha, sông Gianh, phá Hạc Hải, bàu Sen, Lũy Thầy, Đồng Hới, Lý Hòa, Cảnh Dương và chợ Ba Đồn.

Nhắc đến chợ Ba Đồn, có một bài vè từ xưa truyền lại rất lạ. Chợ Ba Đồn xưa xuất hiện do ba cái đồn quân Trịnh lập nên. Vợ con của quân lính từ đất Bắc cũng lội suối, trèo đèo tìm đến thăm chồng:

“Chợ Đồn bán đắt cau khô

Một đoàn vợ lính trẩy vô thăm chồng
Gặp trộ mưa giông
Đường trơn gánh nặng
Mặt trời đã lặn
Đèo Ngang chưa trèo
Gặp hòn đá cheo leo
Chân trèo, chân trượt
Hỏi o gánh nước
Hỏi chú chăn trâu
Ba Đồn quân lính đóng đâu?...”

Chợ Ba Đồn nằm sát sông Gianh, chợ hồi xưa nằm ở vùng Xưởng Cưa có cống Xưởng Cưa mà thuyền buôn các nơi vẫn về tụ tập ở đây bây giờ, còn chợ mới bây giờ đã chuyển lên phía trên cở 500m, nhưng cũng nằm sát sông Gianh, vị trí rất thuận tiện trong việc giao thương đúng như ông bà đã khuyên là “nhất cận thị, nhị cận giang”.

Chợ Ba Đồn giờ đây vẫn còn giữ được các nét truyền thống của mình từ thời Trịnh Nguyễn đến nay :

- Họp phiên chợ mỗi tháng 6 phiên vào các ngày mồng 1, 6, 11, 16, 21, 26 âm lịch, trong đó phiên chợ nào có số 6 gọi là phiên Đại : phiên chợ to nhiều chủng loại hàng hóa và đông người nhất; các phiên có số 1 gọi là phiên thường : hàng hóa và người đi chợ ít hơn phiên Đại nhưng vẫn đông hơn hẵn những ngày bình thường.

- Vào các phiên chợ đều có tổ chức chợ bò : Chợ bò nằm sau lưng chợ Ba Đồn, đó là một vùng bằng phẳng tương đối rộng rải, cỏ trồng xanh mướt, xung quanh được xây khuôn viên bao quanh. Là chợ trao đổi mua bán trâu bò của nhân dân trong tỉnh và các nơi khác trên toàn quốc về đây mua trâu bò giống và trâu bò thịt. Nét đặc trưng của chợ bò từ xưa đến nay là khi hai bên chấp nhận bán và mua, người bán đưa tay ra và người mua vổ vào tay người bán thật kêu (còn gọi là tục đập tay nhau) thể hiện sự thồng nhất ý kiến tuyệt đối.

- Trường gà (sới chọi gà) : Thú chọi gà vùng này đã xuất phát từ thời xa xưa không ai còn nhớ. Trước đây vào mỗi phiên chợ nguời dân quanh vùng đi chợ mua bán hàng hóa kết hợp mang theo chú gà tài của mình để thi đấu giao lưu với các chiến hữu. Lâu ngày trở thành lệ, cứ có chợ phiên là có sới chọi gà. Lúc đầu sới chỉ là một bãi cỏ bên góc chợ bò. Nhưng bây giờ sới đã được tư nhân hóa, xây dựng thành trường gà hẳn hoi : có mái che, có sân thi đấu đắp bằng đất nện như sân đánh tennic tiêu chuẩn, xung quang được bao bằng một vòng tường bọc cao su để bảo vệ chân gà, có chỗ ngồi xem cho khán giả, có chuồng trại nuôi nhốt gà, có . . . đầy đủ mọi dịch vụ khác.

Con người vùng này tính tình hào sảng, mạnh mẽ, quyết đoán và có phần hơi dữ dội, có mấy câu vè mô tả như sau:

"Bất thương La Hà xá
Bất giao Tiên Lệ xã
Bất đả Phan Long đề
Bất phụ Thụng Họa thê"

Nghĩa của 2 câu sau là ". . . Đừng gây gổ đánh nhau với làng Phan Long, đừng lấy vợ ở làng Thụng Họa".

Làng Phan Long tức là Ba Đồn ngày nay, dân Phan Long với tính cách hào sảng, mạnh mẽ, quyết đoán và có phần hơi dữ dội, có lẽ đó là tính cách di truyền của cha ông để lại bởi vì họ là lớp hậu duệ của các chiến binh thiện chiến thời Trịnh Nguyễn phân tranh thủa nào. Họ dữ dội nhưng cũng rất quảng đại, ai đã từng đến đây sẽ hiểu được tính cách đó.

Làng Thụng Họa tức làng Thổ Ngọa thuộc xã Quảng Thuận bây giờ, làng này nổi tiếng có con gái đẹp và dịa dàng, giống như câu :

"Đàn bà thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con"
Chính cũng như đang tả về cái đẹp của con gái làng này. Vậy tại sao lại vô lý vậy? Gái vừa đẹp vừa ngoan mà lại không lấy thì lấy ai hơn nữa? Thì ra do làng này gái đẹp, đã có nhiều người được tiến cung nên cưới được vợ làng này khó lắm, nhiều lễ lắm, nghe nói từ lễ dạm đến lễ cưới tổng cộng phải đến 7 lễ. Mà thủa trước cha ông mình thì nghèo, làm sao có đủ tiền để làm 7 lễ nên cha mẹ mới cay đắng khuyên con trai của mình rằng con ơi nhà mình nghèo không với tới đâu con ơi dù biết có được cô con dâu người làng Thụng Họa cũng là một diễm phúc của nhà mình.

Quảng Bình có một địa chỉ thứ 13 cần gặp nữa là rượu Ba Đồn. Rượu Ba Đồn là một trong bốn loại rượu làm nên Tứ danh hương mỹ tửu miền Trung: Ba Đồn, Kim Long (Quảng Trị), Làng Truồi (Huế) và Bàu Đá (Bình Định).

Thực ra rượu Ba Đồn là do vùng xung quanh nấu như Quảng Long, Quảng Xuân, Quảng Châu . . . cũng như người ta chỉ biết đến nón Ba Đồn nhưng thực ra là do vùng Quảng Thọ và Quảng Thuận sản xuất. Có lẽ do việc trao đổi mua bán chủ yếu diễn ra tại chợ Ba Đồn nên người ta gọi như vậy.

Bài viết này đến đây xin được tạm dừng, nhưng điều đọng lại trong tôi sau quá trình tìm hiểu để viết xong bài này đó là lòng tự hào về quê hương của mình : về truyền thống văn hóa, về cảnh đẹp của quê hương, về tất cả những gì liên quan đến mảnh đất con người nơi đây, về tất cả . . .

Tôi tin rằng những ai là người con của quê hương Ba Đồn nói riêng và Quảng Bình nói chung, khi chúng ta đã có một nền móng vững chắc về giá trị tinh thần của quê hương rồi thì dù đi đâu, dù ở trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng luôn tự tin, cũng luôn nghĩ về quê hương với một lòng mến yêu và một niềm tự hào sâu sắc về nơi chôn rau cắt rốn của mình.

Mong mọi người ai sưu tầm được chuyện gì về quê hương của mình hãy cùng đưa lên đây cho mọi người cùng xem, học tập và trao đổi nhé. Về Ba Đồn thì còn nhiều chuyện để kể lắm như là : Thịt chó Cu Loe, Phở Na Cát Phương, đội bóng đá Ba Đồn thập niên 80 -90 . v .v . xin hẹn các bạn vào dịp khác vậy nhé.
http://caucaquangbinh.com/home/index.php?view=article&id=635%3Atim-hiu-v-ba-n&option=com_content&Itemid=413

No comments: