Nhà
Văn Dưới
Chế Độ Cộng Sản
Việt Phương
Một thoáng
mắt nhìn qua những nhà văn quốc tế,
sống dưới chế độ Cộng Sản, hoặc dưới chế độ tự do dân chủ nhưng vẫn mơ
đến
thiên đường cộng sản. Trước hết, ta có thể nhắc đến văn hào Pháp André
Gide.
Ông đã có dịp đến thăm Liên Xô, sau những điều mắt thấy tai nghe tại
đất nước
lý tưởng của chủ nghĩa Cộng Sản, trở về Pháp ông viết tập " Retour de
l'
URSS " (Ở Liên Xô về) phơi bày những sự thật không đẹp
của xã hội Liên Xô đã làm ông vỡ mộng và từ
đó từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản. Khoảng thập niên 40 của thế kỷ thứ 20, một
số nhà
văn, nhà thơ Pháp đã gia nhập đảng cộng sản Pháp như Louis Aragon, Paul
Eluard
... Aragon từng có câu thơ: "Mon parti m'a rendu mes yeux et ma
mémoire", (Xuân Diệu (?) đã dịch:
"Đảng cho tôi sáng mắt sáng lòng") và sáng tác tập
"Les
Communistes" (Những người cộng sản). Paul Eluard khá nổi tiếng
với
bài thơ "Liberté" (Tự do). Một số nhà văn Mỹ như Jack London, có
khuynh hướng thiên tả với tác phẩm
"The Iron heel" (Gót sắt), John Steinbeck với tác phẩm "The grapes of wrath" (Chùm nho
phẫn nộ). Ở Liên Xô, dưới thời Staline, các nhà văn đã tận dụng ngòi
bút phục
vụ chế độ cộng sản qua các tác phẩm viết theo đường lối chủ nghĩa hiện
thực xã
hội. Đó là các nhà văn ca ngợi những người làm cách mạng trong hàng ngũ
cộng
sản với tác phẩm "Người Mẹ"
(của Maxim Gorki), Kỵ binh đỏ" (của Babel), "Con đường đau khổ"
(của Alexis Tolstoi), "Sông Đông êm đềm" (của Cholokhov), "Thép
đã tôi thế đấy" (của Ostroski). Tiếp theo là những cây bút ca ngợi cuộc
sống
lao động ở nông trường với tập truyện
"Đất vỡ hoang" (Cholokhov), ở công xưởng với tập
"Xi măng" (Fiodor Gladkov). Thời
gian này, ở các nước chư hầu của Liên Xô, cũng có các nhà văn sáng tác
văn nghệ
dưới hình thức chủ nghĩa hiện thực xã hội như ở Ba Lan, trong tác phẩm
"Tro than và kim cương" (của Jerzy Andrzejewski) mô tả cuộc xung đột
giữa 2 phe cộng sản và quốc gia; ở Hung Gia Lợi, trong tập truyện
"Người
đứng trên bờ" (của Tamas Aczél) được viết dưới dấu hiệu song hành của
cách
mạng (cộng sản) và tự do; ở Lỗ Ma Ni trong tập "Đường không bụi bám"
(của Detru Dumitriu) mô tả các trại lao tác. Ở Trung Quốc, từ năm 1950,
sau khi
chiếm lĩnh toàn thể lục địa, chính quyền Mao Trạch Đông đã khởi sự xây
dựng chủ
nghĩa xã hội trên xứ sở
mà vấn đề chủ yếu là sản xuất và kiến thiết.
Mao Thuẫn là nhà văn mở đầu cho kỷ nguyên văn học cộng sản về phương
diện này,
mô tả cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội đương thời. Đồng thời, có Lão
Xá với
các tác phẩm bênh vực tự do kết hôn, lên án bọn công chức tham nhũng;
Tào Ngu
với những vở kịch "Lôi Vũ" và "Nhật Xuất" mô tả thảm kịch
nội tâm của con người; Quách Mạt Nhược (cùng với Mao Thuẫn) được xem
như là
"người chép lịch sử cách mạng đỏ"; Lỗ Tấn với các tác phẩm mô tả đời
sống người dân trong trong thời cao trào cách mạng bùng nổ trên đất
nước Trung
Quốc.
Ở Việt Nam,
người viết muốn đề cập đến những
người làm báo, làm văn, thơ, nhạc, họa..... trước và sau năm 1975,
những vinh
nhục của họ khi cầm bút phục vụ hay chống đối đảng và chế độ cộng sản.
Sau
tháng 8/1945, một số nhà văn, nhà thơ có tiếng tăm trong thời kỳ văn
học lãng
mạn đã quy phục chế độ mới như Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Nguyên
Hồng, Ngô
Tất Tố, Nguyễn Huy Tưởng, Trương Tửu, Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh,
Nguyễn Xuân
Sanh..... Họ đã hiện diện trong tạp chí Tiên Phong, cơ quan nòng cốt
của Hội
Văn Hóa Cứu Quốc Việt Minh, có những bài ký sự về hoạt động cách mạng
của mặt
trận Việt Minh của Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng; truyện nông thôn của
Kim Lân,
Nam Cao; những bài thơ ngợi ca cách mạng tháng 8 của Nguyễn Đình Thi,
chủ tịch
Hồ Chí Minh của Tế Hanh, Quốc hội Việt Nam (do Việt Minh lãnh đạo) của
Xuân
Diệu..... Thời kỳ này, Tố Hữu xuất hiện với tập "Thơ Tố Hữu", gồm
những bài thơ sáng tác trong thời kỳ thuộc Pháp, mô tả cuộc sống lao tù
của tác
giả và các đồng chí, bức tranh đen tối
của xã hội Việt Nam và bóng gió đề cập đến những hoạt động cách mạng
theo đường
hướng cộng sản. Giai đoạn 1945 - 1946 là giai đoạn phấn khởi của những
người
làm văn nghệ phục vụ đất nước vừa được thâu hồi nền độc lập sau thời
Pháp và
Nhật thuộc. Các nhạc sĩ sáng tác những bài ca cách mạng như "Tiến quân
ca" (Văn Cao), sau được chấp nhận làm Quốc Ca (cộng sản), "Bắc
Sơn" (Văn Cao), "Diệt Phát Xít" (Nguyễn Đình Thi), "Đàn
Chim Việt" (Văn Cao), "Có một đàn chim" (Phan Huỳnh Điểu)..... Đồng
thời, họ cũng sáng tác những bài hát trữ tình: Suối mơ (Phạm Duy), Bến
xuân
(Phạm Duy - Văn Cao), Thiên Thai (Văn Cao), Tiếng đàn tôi (Phạm Duy),
Bên cầu
biên giới (Phạm Duy), Dứt đường tơ (Dzoãn Mẫn). Nhà xuất bản Minh Đức
của Trần
Thiếu Bảo ấn hành các tác phẩm về chính trị, văn hóa của Hồ Hữu Tường:
Vấn đề
dân tộc, Tương lai văn hóa Việt Nam, Chủ nghĩa Tam Dân; về văn học của
Đặng
Thái Mai: Văn học khái luận, Lôi vũ, A.Q. chính truyện; của Nguyễn
Tuân: Chùa
đàn ......
Cuộc chiến
tranh Việt - Pháp bùng nổ ở miền Nam
từ năm 1946. Văn nghệ trong thời kỳ ấy có nhiệm vụ hô hào toàn dân
kháng chiến
với các bài ca Đoàn Giải Phóng Quân, Xuất Quân, Chiến Sĩ Vô Danh, Chinh
Phụ Ca
(của Phạm Duy)..... Cho đến khi Việt Nam biến thành những vùng trái độn
thì
Việt Minh lôi cuốn một số đông văn nghệ sĩ
đi theo kháng chiến. Họ sống rải rác ở các vùng chiến khu Việt
Bắc,
Trung Việt và Nam Việt. Thời gian này họ làm văn nghệ lấy đề tài trong
cuộc
kháng chiến, như Tô Hoài viết tập "Xuống làng" mô tả cuộc kháng Pháp
của bộ đội Việt và dân tộc thiểu số ở miền thượng du Bắc Việt, một số
các nhà
thơ tập hợp sáng tác của họ trong tác phẩm "Tập thơ kháng chiến" gồm
những bài thơ đấu tranh chống Pháp, tưởng nhớ quê hương, lao động ở
rừng núi,
xen lẫn những bài đề cao lãnh tụ (chủ tịch Hồ) và "Bộ đội cụ Hồ".
Tinh thần kháng chiến chống Pháp bàng bạc trong nhiều tác phẩm của các
nhà văn,
nhà thơ già cũng như trẻ, từ năm 1949 đến 1954, đánh dấu bằng Hiệp Định
Genève,
chia cắt hai miền Nam - Bắc Việt Nam.
Từ năm 1956, do ảnh hưởng của Đại
Hội Cộng
Đảng Liên Xô lần thứ 20 mà Khrutchev đã hạ bệ uy tín Staline, cởi mở
cho nền
văn nghệ nước này, gọi là "thời kỳ băng rã" và phong trào "bách
hoa tề phóng, bách gia tranh minh" (trăm hoa đua nở, trăm nhà đua
tiếng) ở
Trung Quốc. Sinh hoạt văn nghệ ở miền Bắc Việt Nam cũng theo đà đó khởi
xướng
phong trào "trăm hoa đua nở". Các nhà văn, nhà thơ lợi dụng phong
trào đó để xuất bản các tạp chí
"Nhân Văn" và "Giai Phẩm" tập hợp một số cây bút như Phan
Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Phùng Quán, Thụy An Hoàng Dân, Nguyễn
Mạnh
Tường..... lên án những sai lầm về chính sách cải cách ruộng đất, quyền
lãnh
đạo văn nghệ của đảng và nhà nước, cũng như những bất công xã hội đương
thời.
Sự chống đối này của các văn nghệ sĩ chân chính là điều hiển nhiên. Sau
nhiều
năm sống dưới chế độ cộng sản, họ đã nhận thức được những sai trái của
giới
lãnh đạo đảng qua những chủ trương chính sách thiếu tính chất nhân bản.
Trong giai
đoạn nầy, ở Liên Xô vào "thời
kỳ băng rã" có những nhà văn viết nên những tác phẩm như "Bác sĩ
Zhivago" (của Boris Pasternak) phác họa bức tranh đen tối của xã hội
Nga
trong thời kỳ nội chiến giữa các thế lực Hồng quân, Bạch vệ, Du kích
quân. Tác
phẩm này đã được giải thưởng văn chương Nobel, chỉ được ra mắt độc giả
ở nước
ngoài với các bản dịch Anh, Pháp và nhà nước Liên Xô đã không cho phép Boris Pasternak xuất ngoại để nhận lãnh giải
thưởng, rồi tác giả gặp nhiều khó khăn từ phía chính quyền cộng sản.
Một tác
giả khác là A. Solzhenitsyn cũng chỉ được ấn hành tác phẩm của mình ở
ngoài
Liên Xô vì đã mô tả những điều không hay ở các trại cải tạo với tác
phẩm
"Quần đảo ngục tù". Ở Lỗ Ma Ni, C. V. Gheorghiu cũng gặp tình trạng
như vậy với tác phẩm "Giờ thứ 25" mô tả những hạn chế của con người
sống dưới chế độ cộng sản.
Sứ mệnh của
văn nghệ là giúp cuộc sống con
người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ, đồng thời cũng chống lại những bạo lực
ngăn
cản con người có cuộc sống đó; cho nên ở xã hội nào, thời nào cũng vậy,
những
người làm văn nghệ chân chính vẫn không bẻ cong ngòi bút để phục vụ các
chế độ
độc tài, thiếu dân chủ, hoặc xu nịnh chính quyền đi ngược nguyện vọng
của người
dân, dù họ biết rằng những điều họ viết ra sẽ gây nguy hại
cho đời sống và tính mạng của họ.
Thời kỳ Nhân
Văn - Giai Phẩm xuất hiện, sau một
thời gian ngắn, những người viết cho các đặc san, tạp chí đó đã bị
chính quyền
cộng sản Việt Nam lên án. Kẻ thì bị cô lập hóa, truất quyền nhà văn, tù
đày,
như Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang, Thụy An Hoàng Dân,
Trần Dần,
Phùng Quán và nhà xuất bản Trần Thiếu Bảo. Sau năm 1975, Trần Dần,
Phùng Quán
được phục hồi danh dự, nhưng họ không viết được tác phẩm nào đáng lưu
ý. Sống
trong xã hội cộng sản, những người làm văn nghệ thiếu lương tri đã dùng
ngòi
bút của họ để ca ngợi chế độ, bợ đỡ chính quyền, xu phụ lãnh tụ, như
trường hợp
Tố Hữu đã làm thơ khóc Staline , Hồ Chủ Tịch, Xuân Diệu ca ngợi Bác và
Đảng, cổ
động tàn sát địa chủ trong cuộc cải cách ruộng đất năm 1955 - 56, Chế
Lan Viên
đề cao Bác - Đảng và chủ nghĩa xã hội, Nguyễn Công Hoan xu phụ lãnh đạo
văn
nghệ (Tố Hữu), mạt sát Phan Khôi và các nhà trong nhóm Nhân Văn - Giai
Phẩm.
Nền văn học
Việt Nam dưới chế độ cộng sản được
xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa hiện thực xã hội, những người làm văn
học, văn
nghệ đều bị bắt buộc sáng tác theo đường hướng đó, nên phần lớn tác
phẩm của họ
đều khô khan, gượng ép, phản ảnh cuộc sống lao động của nhân dân ở các
nông
trường, công trường tập thể với ý thức đấu tranh giai cấp giả tạo,
không đúng
với bản chất giàu tình cảm của ngưới Việt. Vì vậy, từ sau năm 1975,
tiếp tục
tinh thần chống đối của các nhà văn, nhà thơ từ trước, một số người cầm
bút đã
có những sáng tác nhằm đả kích các mặt tiêu cực của chế độ công sản.
Ngoài các
tác phẩm có nội dung chống đối chế độ cộng sản của Nguyễn Huy Thiệp,
Dương Thu
Hương, Trần Mạnh Hảo.....còn có những tạp chí đấu tranh cho tự do dân
chủ như
tờ "Langbian" do Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự chủ trương, hay tờ
"Thao Thức" mà người ta thường gọi là "báo chui" xuất hiện
bí mật ở trong nước.
Hậu quả của
những người làm văn nghệ dưới chế
độ cộng sản thế nào? Nếu họ là những người viết lách theo đúng chính
sách, chủ
trương của đảng cộng sản thì họ được xem như là những cán bộ văn hóa
hữu công,
được chính quyền nâng đỡ về đời sống, trả tiền nhuận bút cao, được kết
nạp vào
đảng và Hội Nhà Văn, được "thắt cà vạt đỏ, đi giày vàng, đọc đít cua,
ăn
tiệc nhồm nhoàm và bay đó bay đây" như Nguyễn Tuân, đa "lột xác"
sau cuộc chỉnh huấn năm 1953, vì bị đảng phê bình là lãng mạn, lập dị.
Nếu trái
lại, họ có tác phẩm chống đảng hoặc lên tiếng phê bình đường lối, chủ
trương
của đảng thì bị bắt bớ, tù đày hoặc khai trừ, tước bỏ quyền viết văn,
bị đe dọa
"xử lý kỷ luật" như trường hợp Bùi Minh Quốc, Tiêu Dao Bảo Cự khi họ
đi thu thập chữ ký của các văn nghệ sĩ để phản đối việc đóng cửa tờ báo
"Langbian" của họ. Hoặc như Mai Thái Lĩnh, với tư cách hội viên Hội
Văn Nghệ Lâm Đồng, năm 1989, lên tiếng bênh vực cho Bùi Minh Quốc và
Tiêu Dao
Bảo Cự thì bị chụp mũ là có liên quan đến nhóm Hà Sĩ Phu, Nguyễn Thanh
Giang và
những nhà trí thức đã thảo ra bản tuyên ngôn đòi dân chủ có tên "Kết
Ước
2000". Và những người này có thể bị qui tội phản quốc và có thể bị kết
án
tử hình theo điều luật 78 của bộ Luật Hình Sự Việt Nam hiện thời.
Song không
phải vì vậy mà nhữing người cầm bút
có lương tâm dưới chế độ cộng sản chịu im tiếng. Họ vẫn giữ được khí
phách của
kẻ trượng phu, như Nguyễn Mạnh Tường sau nhiều năm bị đày đọa, đã hoàn
thành
tập hồi ký viết bằng tiếng Pháp: "Un Excommunié": Hanoi 1954 - 1991:
Procès d'un intellectuel" vào năm 1991 (Quê Mẹ Paris xuất bản năm 1997).
Trong tập hồi
ký này, Nguyễn Mạnh Tường đã có
đoạn viết: "Họ (những người cộng sản) là những cái thùng rỗng tuếch,
khua
ầm ỹ. Mở miệng ra là nói Mác, nhưng không bao giờ đọc sách vở của Mác,
hoặc nếu
ngẫu nhiên đọc một trang trong cuốn "Tư Bản Luận" cũng chẳng hiểu ất
giáp gì..... Đất nước mất đi bản sắc, chỉ nhắm bắt chước, sao chép Liên
Xô và
Trung Quốc (Le Vietnam perd sa personalité pour devenir le reflet, le
fac-simile de l' Union Soviétique et de la Chine).
Không chỉ
những nhà cách mạng tranh đấu cho tự
do dân chủ, no cơm ấm áo của người dân, mà những người làm văn nghệ bất
cứ ở xã
hội nào cũng mang một sứ mệnh cao đẹp là hướng dẫn quần chúng ý thức và
hưởng
thụ một đời sống tinh thần an lạc, hạnh phúc. Vì vậy, dưới chế độ cộng
sản ở
Việt Nam, những người cầm bút chân chính đã nhận thức được chế độ phi
nhân bản
này và tiếp nối các bậc đàn anh ở thế hệ trước lên tiếng đòi hỏi tự do
dân chủ
cho đất nước và dân tộc. Những tác phẩm của họ do điều kiện truyền
thông hiện
đại là những thông điệp gởi ra ngoài nước, kêu gọi thế giới tự do nhận
định bản
chất băng hoại của chế độ cộng sản, tạo điều kiện giải trừ chế độ này
hiện còn
tồn tại ở Việt Nam, một trong thiểu số quốc gia nghèo nàn và lạc hậu
nhất trên
thế giới.
Việt Phương
Ghi
Chú:
- Các
tác phẩm Nga và các nước Đông Âu được xuất bản dưới nhan đề tiếng Pháp
hoặc
tiếng Anh:
Nga: Người Mẹ
= La Mère; Kỵ binh đỏ = Cavalerie rouge
Con đường đau
khổ = Le chemin des tourments
Sông Don êm
đềm = Le Don paisible;
Đất vỡ hoang
= Terres défrichées
Xi măng = Le
ciment
Bác sĩ
Zhivago = Doctor Zhivago
Quần đảo ngục
tù = The Gulag Archipelago
Ba Lan:
Tro than và kim cương = La cendre et la Diamant
Hung :
Người đứng trên bờ = Un homme sur la rive
Lỗ:
Đường không bụi bám = Route sans poussière
Giờ thứ 25 =
La vingt cinquième heure
Trung Quốc :
Nhật xuất = Mặt trời mọc
Lôi vũ =
Giông tố.
No comments:
Post a Comment