Ông già ngồi bươi đống rác (Tiểu Tử)
Posted on 12/07/2012 by Mỹ Đức
Thành
phố Hồ Chí Minh quang vinh vẫn còn rất nhiều rác. Hồi thời trước,
Sàigòn đã có nhiều rác, nhưng so với bây giờ thì…thua xa. Rác bây giờ
chẳng những nhiều hơn mà còn…rải rác hơn. Điều này chẳng có gì khó hiểu
hết. Bởi vì, trong chế độ ưu việt xã hội chủ nghĩa, cái gì của ta cũng
đều hơn của lũ chúng nó cả: rác của chúng nó là rác tư bản, rác ngụy,
còn rác của ta là rác…nhân dân, do nhân dân, từ nhân dân mà ra. Có chính
nghĩa, hơn là lẽ tất nhiên!
Vậy,
ở một đống rác khá lớn nằm trên vỉa hè một con đừơng khá rộng trong
thành phố, có một ông già ngồi ung dung như đang ngồi ở một nơi sạch sẽ!
Ông già đó tuổi cỡ ngoài tám mươi, có chòm râu bạc giống râu bác Hồ.
Ổng đội mũ tai bèo, mặc bộ đồ bà ba đen, mang dép cao su đúc. Ổng ngồi
trên một ghế bằng nhựa nhỏ, thấp, loại ghế ngồi cho trẻ con. Ổng cầm cây
gậy trúc dài bươi bươi rác, mắt nhìn châm chú chỗ đang bươi, mặc cho
đàn ruồi bay lên đáp xuống như giành rác với ổng! Lâu lâu, ổng nói một
mình: « Nó nằm lẩn đâu đây hè! Mẹ bà nó!. »
Đường
này lúc nào cũng đông ken. Xe đạp, xe gắn máy, xe hơi…hai luồng chen
nhau chạy, giành mặt đường mà chạy, lòn lách lấn ép, bóp kèn inh ỏi.
Chạy đầy đường như vậy mà chẳng ai nhìn thấy ở trên đỉnh đống rác cao
nhòng đó có một ông già…Cho đến người đi bộ trên vỉa hè cũng chẳng thấy
ai để ý đến ổng hết! Hơn hai chục năm sống quen với quá nhiều nghịch lý,
con người ta không còn nhạy cảm trước những sự bất bình thường. Bởi vì
cứ nhìn riết rồi quen con mắt, nên không thấy chướng, cứ nghe riết rồi
quen lỗ tai nên không thấy ồn, cứ hửi riết rồi quen lỗ mũi nên không
thấy hôi. Đó là một quy luật. Tiếp theo đó là một quá trình đi xuống dốc
của con người, vừa nhanh vừa gọn, bởi vì nó dễ ợt hà!
Ông
già lâu lâu ngừng bươi rác, móc túi lấy bọc ni-long thuốc rồi chậm rãi
vấn hút. Điếu thuốc của ổng to bằng ngón tay cái, nên mỗi lần ổng nhả
khói là thấy mù mịt, làm như đống rác đang ngún cháy vậy!
Trong
khi ổng hút thuốc, ổng không bươi rác. Làm như hút thuốc là qua giai
đoạn ổng nghỉ xả hơi! Ổng xoay người ra nhìn thiên hạ chạy loạn dưới
đường giống như ổng đang ngồi xem kịch. Một lúc sau ổng nói một mình: «
Thiệt…không giống ai hết!. » Mà thiệt! Người ta chạy đi đâu mà lúc nào
cũng thấy chạy đầy đường. Người nào cũng hối hả. Người nào cũng bóp kèn.
Kẹt không kẹt gì cũng thấy bóp kèn! Làm như nếu không bóp kèn thì xe
sẽ…không chạy vậy! Còn luật lệ giao thông thì hầu như không có. Mạnh ai
nấy chạy. Tay mặt tay trái gì cũng…như nhau. Đàn ông đàn bà gì cũng chen
lấn lòn ép…như nhau. Chẳng ai nhường ai hết. Đàn ông con trai có người ở
trần bận quần xà-lỏn, có người lại mặc quần áo gin, bên trong có sơ-mi
và áo gi-lê giống như đang ở xứ lạnh! Còn đàn bà con gái thì phần đông
ăn mặc không để…hở một chỗ nào hết. Áo pô-lô ngắn tay, quần dài, găng
tay cao tới…nách, đội kết loại đấu thủ dã cầu, mang kiến đen, bịt mặt
bằng chéo vải thêu bông hoa hay có ren giống đàn bà á-rập! Nếu có mặc áo
dài thì cũng mang găng tay ngắn, rồi đội kết, rồi kiến đen, rồi bịt
mặt! Thành ra không nhìn ra được ai là ai hết!
Hút
tàn điếu thuốc, ông già lại quay về đống rác, châm chỉ bươi. Một lúc
lại nói: « Mẹ bà nó! Tao bươi riết rồi cũng ra. Làm gì rồi cũng thấy!. »
Một cô gái nhỏ xách tới xô rác đổ xuống làm lũ ruồi lúc nhúc bay lên, thấy ông già ngồi đó, cô hỏi:
- Bộ ông không sợ hôi sao mà ngồi đó vậy?
Ông già cười mũi:
- Thời bây giờ, ở đâu mà không hôi không thúi, hả? Nó tràn đồng thì ngồi ở đâu cũng vậy thôi.
Cô gái lại hỏi:
- Thấy ông bươi bươi. Bộ ông mất cái gì hả?
Ông già ngừng tay, hỏi lại:
- Mất hả? Mất cái gì? Còn khỉ gì đâu mà mất!
- Vậy chớ ông bươi rác làm gì? Rác bây giờ đâu còn có gì đâu mà lượm.
Ông già cầm gậy trúc gõ gõ vào đống rác làm lũ ruồi hốt hoảng bay lên vù vù. Ổng hạ giọng:
- Tao bươi rác để kiếm mấy thằng Việt Cộng mà hồi đó tao nuôi tao giấu trong nhà.
Có vẻ thấy ông già…khùng quá nên cô gái bỏ đi, vừa đi vừa nói:
- Họ là con người chớ bộ chuột bọ gì đâu mà ông tìm trong đống rác!
Ông già nhìn theo, nói lớn:
- Mà tao có nói tụi nó là con người đâu?
Tiếng
của ông bị chìm lấp trong tiếng ồn hỗn tạp của đường phố, nên chẳng gợi
được sự chú ý của ai hết. Ổng nhìn quanh, thở dài, rồi tiếp tục bươi…
Một
thanh niên đang đi trên vỉa hè bỗng tấp vô đống rác vạch quần định đứng
tiểu, một tay chống nạnh, trên môi phì phà điếu thuốc. Ông già nói lớn:
- Coi chừng! Nó phóng lên nó cắn sứt à!
Gã
giật mình, vội vã buông quần bước đi như chạy. Vừa đi vừa nhìn lại, nét
mặt còn đầy sợ hãi! Ông già không nhìn theo, cũng không cười. Làm như
điều ông nói là điều có thật chớ không phải đùa. Cho nên nghe ổng nói
tiếp:
- Cái lũ khốn nạn này có thứ gì mà tụi nó không đớp!
Ổng nói mà đầu gậy vẫn không ngừng bươi. Bầy ruồi nhặng vẫn bay lên đáp xuống, đáp xuống bay lên, lúc nha lúc nhúc…
Gần trưa, một người đàn bà đứng tuổi từ trong hẻm gần đó bước ra đi lại đống rác, thưa:
- Mời ông Hai về ăn cơm.
Ông
già nói ‘ờ’ rồi chống gậy đứng lên đi. Người đàn bà cúi lấy cái ghế
nhỏ, xách đi theo phía sau ông, im lặng. Cả hai đi lần vào hẻm.
Con
hẻm mới vào thấy rộng thấy thẳng, hai bên có phố lầu hai ba từng kiến
trúc hiện đại, từng nào cũng thấy có máy lạnh lòi ra coi rất…văn minh!
Hai dải phố lầu này kéo dài vào hẻm độ ba bốn mươi thước.Sau đó là một
khúc quanh thẳng góc, rồi con hẻm chỉ còn lại không tới hai thước bề
ngang, chạy quanh co rồng rắn vào tuốt bên trong tiếp nối với những con
hẻm nhỏ khác không biết từ đâu tới mà cũng thấy…rồng rắn quanh co! Ở
đây, nhà cửa lụp xụp hẹp té, khác hẳn với mặt tiền đồ sộ lộng lẫy. Đó là
một thế giới khác, một thế giới nghèo khó núp sau cái thế giới phồn
vinh bên ngoài. Người ta không thể nghĩ rằng nó nằm ngay trong lòng
thành phố, cái thành phố mang tên Người từ hơn hai mươi năm…
Ông già và người đàn bà bước vào một căn nhà nhỏ hẹp của khu hẻm rồng rắn. Ông già nói:
- Tao bươi hoài mà chưa gặp thằng nào hết.
Một người đàn ông trong nhà nói cho lấy có:
- Vậy hả ông Hai?
-
Tụi nó chui rúc lì lắm. Mẹ bà nó! Hồi đó mà tao biết như vầy, tụi nó có
chung vô quần trốn, tao cũng cởi quần tao giũ cho chết cha tụi nó hết!
…Người
đàn ông trong nhà là cháu của ông già bươi rác, kêu ổng bằng ông chú,
còn người đàn bà là vợ hắn. Hai vợ chồng đã trộng tuổi nhưng chưa có
con. Họ lảnh may gia công quần áo cho một công ty may mặc, nên trong nhà
lúc nào cũng nghe tiếng máy may chạy xành xạch suốt ngày. Họ ngủ trên
cái gác lửng nhỏ bằng hai chiếc chiếu, còn ông già thì có cái ghế bố kê
trong góc nhà. Nhà nhỏ xíu nên chỉ có một bóng đèn điện treo ở giữa.
Hai vợ chồng người cháu đem người ông về nuôi trong nhà từ ngày ổng ra tù cách đây hơn bảy năm…
Theo
lời kể lại của người cháu thì “ông chú” ngày xưa là một nhà doanh
thương – đại doanh thương – Ổng độc quyền nhập cảng vỏ ruột xe gắn máy,
xe hơi, xe máy cày. Ổng có mấy kho hàng lớn ở Khánh Hội, một văn phòng
ba từng lầu ở Chợ Cũ, một vi-la to ở đường Phan Thanh Giản và một vi-la
vừa vừa nằm khuất trên một đồi thông ở Đà Lạt. Vợ và hai con ổng đều ở
bên Pháp để làm một “đầu cầu” bên đó. Còn bên này ổng có một bà nhỏ lo
về giao tế, xã hội và nhân viên. Lâu lâu, ổng bay qua Âu Châu thăm vợ
con và làm việc với các hãng chánh ở bên đó.
Ổng
nhiều thế lực lắm. Người cháu nói:”Hồi đó, tôi đang làm thợ may cho nhà
may X thì bị động viên. Vậy mà ổng kéo tôi ra cái rẹt! Có điều làm tôi
không hiểu là ổng như vậy mà trong nhà ổng nuôi Việt Cộng không. Ngay
như cái nhà trên Đà Lạt mà ổng dùng cho mấy ông lớn mượn, từ anh quản
gia đến chị bếp đến mấy người làm vườn đều là cán bộ Việt cộng ráo. Ổng
nuôi họ như vậy cho đến năm 1973 họ mới lần lượt rút đi …”.
Hồi
tháng tư 1975, ổng không di tản. Còn nói: ”Cách mạng chớ bộ ăn cướp
giết người đâu mà sợ!”. Sau đó mấy người ổng nuôi có về thăm, ổng cũng
đãi đằng hậu hỉ. Vậy mà khi cách mạng “đánh tư sản mại bản”, ổng cũng bị
“đánh” tơi bời, tài sản bị tịch thâu hết còn bị đi tù cải tạo nữa. Vợ
lớn của ổng chết ở bên Pháp, bà vợ nhỏ đi chui rồi mất tích ở biển Đông.
Còn hai đứa con, sau này có người quen từ Paris về cho biết, đã phung
phí hết tiền của mà ổng đã để cho họ bên đó rồi dọn nhà đi mất. Thành ra
đi thăm nuôi ổng chỉ còn có vợ chồng người cháu thợ may…
Khi
ông chú được thả ra khỏi tù – nghĩa là Nhà Nước xét thấy ổng đã hoàn
toàn được cải tạo – ổng đã trở thành một người khác: một người mất trí!
Người cháu nói: “Hồi đem ổng về ở với tụi tôi, tôi cũng ngại. Sợ ổng
chê. Nhưng rồi ổng vẩn ở tự nhiên, không phàn nàn gì hết, tụi tôi cũng
mừng. Rồi lo không biết chịu đựng ổng nổi không. Nhưng rồi thấy ổng
không có điên loạn như những người điên khác nên tụi tôi cũng yên tâm.
Ổng không nói gì hết, tối ngày bắc ghế ngồi dưới mái hiên hút thuốc đọc
sách hoặc ngồi cả giờ nhìn đường hẻm như người ta châm chú coi ti-vi!
Vậy mà lâu lâu ổng cũng nói nhiều câu làm mình ngạc nhiên tưởng như ổng
là người bình thường. Khi mình thử hỏi tiếp, khơi lại thời cũ thì ổng
lại ngẩn ngơ. Thấy tội nghiệp! Thiệt ra, người ta chỉ thấy ổng điên là
khi nào ổng đi bươi đống rác, cứ hai ba hôm là ổng đi bươi…”
Và
như vậy, “ông Đại Doanh Thương” đó bây giờ ngồi bươi đống rác giống như
ổng bươi lại dĩ vãng của ổng, một dĩ vãng mà rác rến vun đầy. Ổng đâu
biết rằng, đối với Nhà Nước cách mạng, ổng cũng chỉ là một thứ rác rến
mà Nhà Nước đã vứt bỏ trên lề xã hội, không hơn không kém …
No comments:
Post a Comment