Monday, February 27, 2017

ĐẶNG ĐÌNH TUÂN * BÌNH MINH VỚI HOÀNG HÔN


Bình Minh Với Hoàng Hôn

Đặng Đình Tuân


Trong một bữa tiệc ở ngoài trời, lúc mọi người đang vừa ăn vừa trầm trồ nhìn ngắm cảnh mặt trời lặn, chợt có người hỏi tôi giữa bình minh và hoàng hôn tôi chọn cái nào. Không đắn đo, tôi trả lời:
- Làm sao lựa chọn được. Bình minh và hoàng hôn là hai hiện tượng thiên nhiên, trái ngược nhau, lại bổ-túc cho nhau. Không có bình minh thì không có hoàng hôn… Xin lỗi, tôi không thể tách ra chọn riêng được. Nhưng nếu ông muốn biết tôi thích cái nào thì không đắn đo mà trả lời ngay là tôi thích bình minh hơn. 
 
- Buổi sáng chắc anh thức dậy sớm lắm nhỉ?
- Rất họa hoằn. Đúng ra thì rất hiếm. Khi tôi ra khỏi nhà trời đã sáng trưng và buổi sáng đã đi được nửa đường rồi. Tại sao ông đoán chắc vậy?
- Tôi nghĩ người thích bình minh thì phải thích sự yên tĩnh, thích không khí trong lành, thích cái tịch mịch, thích cảm giác cô-độc của buổi sáng, thích hướng vào nội tâm và thích thơ thẩn. Muốn được thế thì phải dậy sớm...
- Những điều đó với tôi không có và không còn nữa.
- Ủa, nghe sao mâu-thuẫn. Nếu có thì mới còn chứ. 
 
- Tôi yêu không khí trong lành. Nhưng không chịu được cảm giác cô độc. Tôi thích đi thơ thẩn nhưng sợ cái tịch mịch. Thỉnh thoảng nội tâm có hứng khởi nhưng không bao giờ ghi xuống thành thơ được. Hơn nữa, tôi luôn luôn
 
- Tôi không làm cho ông lầm lẫn đâu. Tôi nói đúng sự thật, đúng ý nghĩ chân thành của tôi đó thôi. Nhưng mà này, ông đã làm tôi nhớ lại được nhiều chuyện. Nếu ông cho phép, mình ra góc kia ít người, tôi sẽ giải thích rõ ràng hơn. Không làm nhàm tai ông đâu.
Hai người mang ly rượu đến góc vườn, xa hẳn mọi người. Chỗ này có sẵn bàn và ghế nhựa, đặt núp trong bóng mấy cây tùng. Nhìn ra trước mặt, những ngọn đồi và thung lũng trùng trùng chạy dài xuống, thấp dần về phía chân trời. 
 
 
Thành phố nhộn nhịp ồn ào nằm gọn trong thung lũng dưới kia. Những mái nhà chọc trời, với ánh đèn lấp lánh, nhấp nhô chen lẫn với những đỉnh đồi. Mặt trời bây giờ đã trốn gần kín sau đỉnh đồi thấp dưới kia. Ánh sáng dịu hẳn đi. Trên không những gợn mây mỏng giăng vướng rải rác khắp nơi đã đổi mầu sang vừa vàng cam vừa đỏ huyết dụ lóng lánh rực rỡ trong vòm trời xanh. Vài cái sao hôm đã đến, lấp lánh xa thăm thẳm. Hơi ấm ban ngày đã nhường chỗ cho những làn gió chiều gây gây mát. Sương sớm buổi tối đang kéo đến ôm ấp, che chở những cành cây những ngọn cỏ là đà rồi tỏa rộng ra hơn như một tấm chăn ấp ủ, phủ kín, để đưa những thung lũng kia vào giấc ngủ.
Căn nhà nằm trên một đỉnh đồi cao, nên ai cũng nhìn thấy cảnh hoàng hôn đến, không xót một chi tiết nhỏ. Chủ nhà nói khi nào sương mù lên tới đây thì trời mới tối hẳn và cũng hãnh diện cho biết họ đã được cả những cụm mây sáng đến vuốt ve mơn trớn.
 
 
- Như mình đang chiêm ngưỡng một bức tranh vẽ.
- Ðẹp quá nhỉ!
Người bạn nâng ly rượu đỏ lên xin được chạm ly, rồi vừa trầm trồ ngắm cảnh vừa nhấp môi uống vừa có vẻ kiên nhẫn chờ đợi.
- Nhiều năm trước đây đời sống của tôi đã phải gắn bó với bình minh. Không tự ý, không lựa chọn. Khi bị đặt trên một con tàu, bị đuổi ra giữa đại dương hoang vắng, đi tới đi lui rồi chờ ngày về bến...
- À, thì ra anh làm nghề biển. 
 
 
Tôi không giữ được bật lên cười nhưng khi thấy mặt người bạn có vẻ ngơ ngác tôi phải ngừng ngay.
-Gần như thế, nhưng chưa tự tay bắt cá bao giờ, mà chỉ đi xin hoặc mua thôi. Tôi đã là lính hải quân. Và hải quân đã cho tôi cơ hội đặt chân lên nhiều chỗ mới lạ mà có lẽ không bao giờ tự ý tôi muốn đến. Từ đại dương thăm thẳm đến sông ngòi sình lầy hoang vu... 
 
-Tôi hiểu rồi ! Ði biển thì được nhìn bình minh hoài.
- Ðúng, nhưng còn nhiều thứ khác nữa. Ông biết không, sau những buổi tối cô độc vô tận ở giữa trời và nước mênh mông, bình minh báo hiệu ngày sum họp với người thân sắp đến. Sau những đêm tăm tối dài dằng dặc không ngủ đi phục kích và bắn giết ở Năm Căn, Ðồng Tháp Mười, Cửa Cạn, nơi mà chỉ có bẫy rập, sình lầy với muỗi mòng, bình minh là hy vọng mình còn sống sót. 
 
Sau những đêm nằm rạp mình tránh đạn pháo kích liên tục nổ dồn trên đầu, bên tai, kinh hoàng và khiếp đảm ở Mộc Hóa, ở Tuyên Nhơn, thấy bình minh đến mới biết mình còn có cơ hội phục hồi. Mắt tôi đã được nhìn, tay tôi đã vuốt ve, miệng tôi đã phải cầu nguyện cho nhiều người. Họ đã cố níu kéo, cố chờ đợi mãi mà vẫn không bao giờ thấy bình minh trở lại thêm một lần nữa. 
 
Tôi nhớ nhất là những lần ở vùng biển ngoài Cửa Cạn Phú Quốc, Vũng Tàu, Phan Thiết, ở vùng đảo nhỏ cạnh Qui Nhơn, Ðà Nẵng và cả Thuận An. Lênh đênh trên chiếc tàu nhỏ thả nhấp nhô theo những lượn sóng. Vừa ngồi chờ sáng. Vừa lẳng lặng làm việc vừa chăm chú quan sát. Bên ngoài con tàu, tất cả chìm đắm trong bóng tối xâu thẳm… Vũ trụ bao la mà mình thì quá nhỏ nhoi yếu đuối... Rồi đột nhiên thấy những thuyền đánh cá từ ngoài khơi tăm tối lũ lượt xuất hiện, kéo nhau trở về bến. Ðèn đuốc của làng nhỏ ở ven biển trơ trọi nghèo nàn chợt bừng sáng lên chào đón. Tối tăm tự nhiên tan biến. Tiếng người cười nói vỡ ra oang oang mừng rỡ. Tiếng trẻ thơ trong trẻo hân hoan cười đùa, gọi nhau vang vọng ra. Và khói lam nấu bếp bắt đầu tỏa lên từ khắp mọi mái nhà.
 
Tôi đã được chứng kiến sự phục sinh. Sự biến đổi từ địa ngục ra thiên đàng. Sự thua chạy của ma quỷ. Sự khác biệt giữa đêm và ngày. Tôi đã thấy mặt trời mang những ngày mới tinh khôi đi đến. Cùng với hào quang rực rỡ, với lễ lạc, với tiếng ca hát xưng tụng tưng bừng. Người, cảnh và áng sáng hòa hợp như trong buổi đại lễ tín ngưỡng quan trọng. Ðêm thì lẫn lộn, nhập nhằng, tàn ác. Nhưng ngày lại minh bạch, linh động và hiền hòa. Không thể diễn tả được hết cái sống động của những hình ảnh đó. 
 
Tôi đã hiểu ra được đây mới thực là sự sống. Ðây mới đúng là phép nhiệm mầu, là sự ra đời của đứa trẻ thơ, là bình minh mà tôi chờ đợi, tìm tòi và yêu thương. Con người nhỏ bé đơn sơ ở đây đã hăm hở đón nhận và vinh danh ánh sáng cùng với sự sống. Bình minh này mang đến ý nghĩ ham muốn và tranh đấu. Bình minh này mang cứu rỗi đến cho linh hồn và máu tươi hâm nóng cho cơ thể. 
 
Ngay khi đó hình như nguồn sống mới đã tràn đến, thấm vào, rồi làm cơ thể tôi đổi mới. Tự nhiên tôi không còn có cảm giác lạc lõng, chán chường, thiếu ngủ nữa. Tinh thần và xác thịt biến đổi hoàn toàn sang trạng thái háo hức chờ đợi và sẵn sàng đón tiếp bất cứ biến cố gì sắp xẩy đến.
Không biết tôi có muốn trở lại sống trong những bình minh đó nữa hay không. Nhưng chỉ cần nhớ đến những hình ảnh đó không thôi thì máu nóng lại bừng bừng chẩy.
 
Từ ngày rời bỏ quê hương lưu lạc đến đây, tôi đã trải qua nhiều bình minh khác. Buổi sáng trời vẫn còn tối đã phải leo lên xe buýt. Bình minh đến lúc xe đang chở tôi đến chỗ làm và còn ngái ngủ. Những bình minh này trái ngược hẳn, chỉ mang đến chua xót, bon chen và nuối tiếc. Chưa có cảnh bình minh nào đẹp, kích thích và cảm động như bình minh ở quê hương nghèo khổ của mình… 
 
Tôi quá chủ quan phải không? Tuy nhiên mỗi ngày trôi qua, tuổi chất đống thì ngày mới tinh ở đâu đó đối với tôi cũng là bình minh quý hóa. Thêm một ngày mới, thêm những cảm giác và kinh nghiệm lạ cho cuộc đời. Thêm một lần được kiểm chứng và áp dụng lại những kinh nghiệm cũ. Tôi hãnh diện vì còn sống sót cho nên sẽ phải làm thế nào cho những ngày sống mới đầy đủ trọn vẹn hơn. Tôi không ngồi yên chờ đợi nữa mà hân hoan tích cực đón nhận. Vừa để hưởng thụ vừa để làm cho những bình minh chót của cuộc đời phong phú hơn...
 
Mải mê kể lể tôi không biết người bạn đã bỏ đi từ lúc nào. Rời đi không lời thông báo. Ly rượu cạn không còn một giọt. Ông ấy có thể đã nghĩ tôi nếu không say thì điên. Thế nào chăng nữa điều đó không làm tôi bận tâm. Say giữa hoàng hôn mà vẫn tỉnh táo nói chuyện về bình minh. Tôi đang tận hưởng hoàng hôn hiện tại nhưng tinh thần đã háo hức sẵn sàng chờ đón bình minh mới của cuộc đời. Tôi phải cám ơn người bạn đó đã gợi cho tôi cơ hội để nói riêng cho mình tôi nghe, để biết mình muốn gì…
Trích trong một tạp chí Canada.


ĐIỀU DU NGUYỆT * 12 NĂM TÌNH LẬN ĐẬN


12 Năm Tình Lận Đận

15 Tháng Mười Hai 20169:11 SA(Xem: 389)
  • Tác giả :
Ngày 30/04/1975, lúc Ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, tôi đang ở khu định cư dành cho dân Phước Long ở quán chim Long Thành, tôi rầt buồn và cũng rất bình tĩnh hơn bất cứ lúc nào, sẵn sàng đón nhận mọi bất trắc có thể xảy ra!
Trước đó một tuần, tôi cùng một số cán bộ đã ra Vũng Tàu, không hiểu tại sao tôi lại có quyết định trở lại Quán Chim để rồi không ngờ cầu Vạn Kiếp và Long Thành bị đánh, tôi kẹt ở giữa?

Sau đó tan hàng, hồn ai nấy giữ! Súng được tháo ra vứt mọi nơi, trà trộn vào đám người chạy loạn về Saigon…. Cũng nhờ thẻ sinh viên mà tôi còn giữ lại nó đã giúp tôi qua bao trạm du kích địa phương trên đường về Saigon.

Khủng khiếp nhất là quãng đường ở làng cô nhi Long Thành, những xác chết trên đường trong lô cao su, quần áo vương vãi khắp nơi, mùi hôi tanh nồng nặc, khiến tôi lợm giọng! Tôi đã từng bị trận Phước Long nhưng chưa thấy hình ảnh nào khủng khiếp như thế! Cái giá của Hòa Bình khủng khiếp thật!

Về đến Saigon, ở nhà anh tôi tại chợ Nancy, đi vòng vòng thì gặp thằng bạn học cũ, Mai Phát Vĩnh, nó đạp xe chở tôi ra chợ Bến Thành nhìn dòng đời thời CS, những tên 30/04 đeo băng đỏ, chạy đôn đáo, chỉ điểm; những đứa con nít mới 13-14 tuổi cầm súng bắn vô tội vạ, những mâu thuẫn cá nhân cũng được giải quyết không cần luật pháp của cái buổi giao thời! Những tay bộ đội miền Bắc mới vào ngơ ngơ ngáo ngáo!

Đi ngang qua dinh Độc Lập, bộ đội tắm rửa trên sân cỏ, phơi đồ bất cứ chỗ nào họ thích…v…v… Mân mê chiếc xe đạp; âu yếm cái đài; vuốt ve cái đồng hồ 3 que, 2 cửa sổ, 12 đèn; ngồi kiểu nước lụt bên ly cà phê “cái nồi ngồi trên cái cốc”! Tội cho họ, một chủ nghĩa đã đẩy lùi cả một thế hệ! Nhưng tôi vẫn ghét hơn cả là lũ theo đóm ăn tàn 30/04.

Một tuần lễ sau, họ phát loa phóng thanh kêu gọi trình diện, tôi trình diện tại Trường Trần Hưng Đạo trên đường Trần Hưng Đạo Sàigòn.

Mọi người tấp nập trình diện, không khí nặng nề, ngờ vực, nghi kỵ; biết nhau nhưng coi như người xa lạ! Những bộ đội Bắc cầm AK-47 đứng canh từng góc trường. Lên lầu hai, họ phát cho mỗi người mỗi tờ giấy học trò.. người cán bộ nói như một cái máy “…với chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước, Các anh phải thành thật khai báo với Cách Mạng….”.

Ai nấy cũng cắm đầu viết, tôi viết ngắn gọn, mà tôi cũng chẳng có gì để viết! Một năm làm việc không bằng thời gian mấy xếp tôi nghỉ bịnh. Nhìn trong phòng toàn là tướng, tá… ; tổng giám đốc, giám đốc của các phủ, bộ… Có ông Lê Hồng Tuấn, Tổng Giám Đốc Bộ Phát Triển Sắc Tộc mới ở Mỹ về chưa được một năm!

Chờ cho vài người nạp bản tự khai rồi tôi mới nạp. Người cán bộ đọc xong bản tự khai rồi yêu cầu tôi ở lại và ngồi chờ. Tôi thầm nghĩ, không biết chuyện gì đây? Tôi biết tôi nên khai những gì? Khoảng 20 phút sau, tôi được gọi ra ngoài hành lang thì thấy để sẵn một cái bàn nhỏ và hai cái ghế, một người cán bộ già trạc tuổi trên 60, đeo cái xắc-cốt cũ lâu năm lên nước bóng loáng, lưng đeo cây K-59 ở giữa mông!

Ông ta ăn nói rất lịch sự, mời tôi ngồi và chìa hộp thuốc lá 555 bằng thiếc đã bạc màu, nhưng bên trong là những điếu thuốc lá đen. Tôi từ chối vì không biết hút thuốt lá, sau một hồi vòng vo, ông có vẻ hiểu rành về Phước Long và hỏi tôi về những viên chức tại Phước Long. Nhưng tôi trả lời tôi làm ở cơ quan sắc tộc, chỉ lo những vấn đề xã hội liên quan tới đồng bào sắc tộc. Ông nói: “tôi không tin nó đơn giản như vậy?”. Sau hai giờ không khai thác được gì, ông cho tôi về suy nghĩ lại và ngày mai lên gặp tiếp? Sau ba lần, cũng chỉ có thế! Ông trao cho tôi một tờ giấy đã trình diện do tướng Cao Đăng Chiếm, chủ tịch quân quản thành phố Saigon ký và nói tôi phải trình diện tại địa phương.

Hai ngày sau tôi đón xe lam về Bình Dương, xe chạy đường trong. Nhìn hai bên đường, thỉnh thoảng thấy những bộ đồ lính, cả những nón sắt vứt ven đường, lòng đau như cắt! Nhìn đám lục bình trôi, bên trên đám ruồi bay nhặng xị, mùi hôi thối nồng nặc vì những xác người chết; tôi biết đó là những kết quả của những cuộc thanh trừng tại địa phương!

Về đến Bình Dương, Mẹ tôi ôm tôi khóc nức nở! Chiều đó trời mưa nhiều, chị hàng xóm bắt được một số cóc, đem nấu cháo. Lần đầu tiên trong đời ăn cháo cóc, ngọt và ngon thật. Phải chăng vì sự thiếu thốn hay không của những ngày đầu thống nhất!

Vài ngày sau, tôi quyết định về Bình Long vì tôi biết Bình Dương với tính cực đoan của dân Phú Hòa Đông, những cuộc thanh trừng thù oán cá nhân đã xảy ra hằng ngày!

Trên chuyến xe đò về Bình Long, những dấu vết chiến tranh vẫn còn vương vãi bên đường qua cuộc di tản! Những người ngồi trên xe im lặng, mỗi người một tâm trạng lo âu, nghi kỵ, sợ sệt! Không biết cuộc đời sẽ về đâu? Qua Lai Khê, rồi Chơn Thành, ngã Ba Xa Cam…Người đầu tiên mà tôi gặp là Thành mập (Phạm Ngọc Thành) đang leo trên cổng bằng sắt trước khi vào Bình Long treo cái bảng “Không có gì quý hơn Độc lập Tự Do”.

Đến bồn nước tròn ở chợ cũ, tôi tạm trú tại nhà chị Tư Bê, hôm sau cùng anh Sửu, bảy Đại lấy xe lam đi gỡ tôn để làm nhà, trên mảnh đất của Trường Tiểu Học Thượng. Ngày nào cũng nghe tiếng nổ, cũng nghe tin có người chết hay bị thương vì nổ trái vỉ. Bình Long là vùng đất của bom đạn còn lại trong chiến tranh.

Tôi gặp những người bị lùa trong cuộc chiến 1972, còn gọi là bộ đội “Khóc”, họ nhìn tôi với cặp mắt đầy nghi kỵ như người xa lạ, mặc dù đã biết nhau học cùng trường THBL hay cùng lớp!

Trình diện Năm Thanh, Hai Tấn chủ tịch quân quản huyện Bình Long thời đó, họ tịch thu giấy của Cao Đăng Chiếm và nói tôi không được đi ngoài khu vực phạm vi huyện Bình Long. Ngày lại ngày, cơm với cá khô đù, đọt ổ qua rừng chấm mắm nêm.

Hai tuần lễ sau, một thằng nhỏ du kích tới thông báo ngày mai đến nhà thờ Bình Long để đi học tập cải tạo, quán triệt chính sách và đường lối của Đảng và nhà nước. Đêm đó, tôi và Mẹ tôi trằn trọc không ngủ trên tấm ván lượm được, nhìn lên mái nhà lỗ chỗ những mành đạn pháo, thấy tương lai mù mịt! Tôi thầm nghĩ thôi thế thì thôi, cứ thả nổi theo giòng đời!

Ngày 20 tháng 05 năm 1975, vào Lúc 8 giờ, tập trung trong nhà thờ Bình Long. Sau khi điểm danh xong, đoàn người trật tự leo lên hai chiếc xe GMC. Trong chuyến áp tải có cả Hồ Sĩ Đạt, đeo cây M-79, mặc bộ kaki vàng, quấn chiếc khăn rằng với mũ tai bèo. Nó là bạn cùng lớp, bị bắt đi bộ đội năm 1972. Bên kia đường, trước nhà thờ là những thân nhân đứng tiễn người đi. Tôi thấy Mẹ tôi đang đứng chỗ sạp bà Ba Rổ, ngóng tìm tôi cho tới khi đoàn xe mất hút!

Đoàn xe di chuyển, mọi người ngồi dưới sàn xe, không ai được đứng dậy, được lệnh “nếu ai đứng dậy sẻ bị bắn bỏ”.

Đường dằn dữ dội, có những lúc xe như nhẩy nhổm lên! Chỉ biết xe đi hướng Lộc Ninh, rồi qua Bù Đốp, gần đến cầu Hoàng Diệu, xe quẹo vô rừng. Không biết họ làm gì đây, đi học tập hay đi tàu suốt như Huế năm Mậu Thân? Không có gì họ không dám làm! Thôi tới đâu thì tới!

Lúc đó khoảng ba giờ chiều, trong rừng già trời âm u. Mọi người xuống xe, tôi đơn giản với bộ đồ bà ba đen (đồ CB/PTST), cái bao vải đựng vài bộ đồ, cái võng lính (qua Mỹ tôi vẫn còn mang theo), lon gô mắm ruốc xào xả ớt, tất cả bày ra để cán bộ kiểm tra…

Bỗng có tiếng “Thằng Mười vô rồi!” đây là thứ của tôi, nhìn qua thì thấy thằng Chí, ở ấp Thánh Mẫu, nó bị bắt năm 1972, rồi vô CA. Kiểm soát xong, tôi được vô trại.

Thật kinh khủng, nhìn những tù cũ, da thì xanh xao vàng vọt, thân như những bộ xương cách trí! Gặp anh tôi, anh ấy về Lộc Ninh trước nên vô trước! Trại giam được làm bằng lồ ô, mái lợp lá trung quân.

Gặp nhân viên cũ, họ cho tôi mấy ống lồ ô, hai ngắn (đi cầu), hai dài (một đựng nước, một đi tiểu). Vô phòng, có trưởng phòng hướng dẫn nội quy. Tối ngủ phải cùm, cùm là một thanh cây có khoét lỗ tròn đút cổ chân vào, có một thanh cây nữa chận bên trên, được khoá ở ngoài cửa. Phòng được đốt một đống lửa, nếu cháy phòng không biết sao mà chạy, vì chân bị cùm!

Vào trại, cùng các giáo sư: thầy Huấn, thầy Bê và thầy Lai…. sau này thầy Huấn bị điên, bị nhốt dưới hầm sâu (đó là một cái hầm đào cạnh phòng giam, nó được đào giống chữ L, sâu khoảng 3.5 m, dưới lót ván, can phạm ngồi phải khom, chân bị còng chữ U bằng sắt). Mỗi lần nổi cơn điên, thầy Huấn lấy phân trét cùng đầu, mình mẩy. Họ cho thầy làm bộ! Chúng tôi chỉ biết nhìn nhau mà thôi. Thành phần hỗn hợp, phe ta, phe địch, chiêu hồi, gián điệp… Gặp Sương Lộc Ninh, làm thợ rèn, bị bắt sau khi Lộc Ninh bị chiếm năm 1972, biết nhưng chỉ dám nhìn nhau!

Sáng, gõ kẻng thức dậy, ăn sáng, đi làm. Thức ăn chỉ khoai mì lát mốc meo vẫn phải ăn và chỉ ăn với nước muối pha loãng! Không có muối hột vì họ sợ dự trữ để trốn trại. Cái đói và cái sốt rét ác tính, đây là hai bài học phải học đến chết với những người tù tại trại giam C-5 sông Măng này!

traicaitao-300x168Lúc đó, ông Năm Hùng làm trưởng trại, Hải (hậu cần), Hận (chấp pháp). Không biết có ai còn nhớ đến người bán cà-rem, chạy xe đạp, tính tình vui vẻ, mỗi lần dừng xe hay nhổng đầu xe đạp và quay 1 vòng, có lần bán trước trường tiểu học An Lộc bị ông Hai Bon, bán nước cho học trò, đánh lỗ đầu vì cạnh tranh mua bán. Tay Hận này vẫn nhịn nhục. Nhà ở khu bánh bèo Biên Thùy, sau đó bị bắt đưa ra Côn Đảo và được trao trả Tù Binh tại Lộc Ninh; giờ về làm chấp pháp Trại C-5 sông Măng.

Mỗi sáng, sau khi gõ kẻng, CB đừng trước phòng điểm danh, mọi người phải la to “thưa ông cán bộ có”, phải gọi CB bằng “Ông”! Mở cùm, tuần tự ra khỏi phòng, dẫn đi vệ sinh, khu vực phía sau trại. Sau đó, tập họp, ăn sáng gồm một chén khoảng 6 miếng khoai mì lát! Xong, phân công từng toán đi làm: phát rừng, làm rẫy, khiêng cây về cho đội cưa xẻ trong trại, 8 người khiêng một khúc cây, khiêng không nổi bớt còn 6 người! Những bước đi xiêu vẹo trên những thân xác đói ăn, bệnh hoạn, vì sốt rét ác tính! Tất cả các bịnh chỉ có thuốc “Xuyên Tâm Liên”. Anh Ngô Công Vì, thuộc cán bộ XDNT/BL, coi võ đường Hắc Long gần quán bánh bèo Biên Thùy và rất nhiều người khác chết ở trại nầy khiến Năm Hùng phải đổi hướng cổng trại. Tôi còn nhớ có người lính BV, trung úy CS, tên là Nguyễn Xuân Trường, kỹ sư hóa chất, tốt nghiệp tại Trung Quốc; cha là CB cao cấp trong ngành ngoại giao ngoài Bắc, bị tội giết người vì bị kiểm điểm! Lúc nào cũng đội cái mũ biệt kích mà anh rất thích. Sau anh bị bịnh sốt rét, nằm một chỗ, hai mông lở loét, bị nhiễm trùng, sau đó bị khoét sống to bằng miệng chén, chịu không nổi, phải chết! xác được quấn chiếu, chôn cô đơn một góc rừng già!

Có một hôm, CB trại gọi tôi lên làm việc. Thắng, CB trại dẫn đi ngang qua cái chòi, tôi biết chòi này đặc biệt nhốt mục sư Điểu Huynh, đến nhà CB Hận chấp pháp, sau 1 lúc trò chuyện không đâu, hắn mang tô cơm có cá kho tiêu cho tôi ăn và ngon chưa từng có! Sau những tháng ngày chỉ khoai lát nước muối! Xong, hắn cho tôi về trại, thằng Thắng đưa tôi về… đơn giản có thế sao? Đến giờ nghĩ lại, tôi còn “lạnh gáy”, dọc theo đường nó bắn và cho rằng tôi trốn chạy thì sao?

Khoảng 3 tháng sau, trại được chuyển về sở Nhỏ gần Bù Đốp, tôi cùng một người được đặc biệt đi xe GMC, còn những người khác phải đi bộ! Trại này thoáng hơn, xung quanh là rừng cao su. Hôm đó, tôi đang lên cơn sốt rét nằm ở phòng, bỗng nghe tiếng gọi “Mười đó hả?”. Mấy chục năm rồi tôi vẫn nhìn ra “nó”, từ ngày nó vô rừng! Ngó quanh quất rồi nói “thôi mầy ráng cải tạo tốt rồi về”, và thảy cho tôi hai gói Sàigòn Giải phóng, thời điểm đó thuốc này rất hiếm!

Một tuần lễ sau, Năm Hùng gọi tôi lên văn phòng trại thì không ngờ gặp Mẹ tôi đến thăm. Tôi là người đầu tiên được thăm, nhìn Mẹ tôi với khuôn mặt khắc khổ, già nua, tóc bạc đi rất nhiều! Những giọt nước mắt của tôi từ từ chảy xuống, không hiểu tại sao? Tôi đã bị những trận tận cùng nhất, tôi cũng chưa bị như vậy! Hỏi thăm cuộc sống bên ngoài thế nào? Tôi biết Mẹ tôi dấu tôi! Trò chuyện chừng 20 phút, tôi được báo hết giờ! Không hiểu sao họ không cho anh tôi được ra thăm Mẹ tôi? Ra ngoài, tôi sững sờ thấy người lái xe Honda chở Mẹ tôi là anh T. bị kẹt lại Lộc ninh năm 1972?

Ở sở Nhỏ hai tháng tôi, anh tôi cùng một số chọn lọc được chuyển về khám đường Bình Dương, trên đường về xe ghé Bình Long. Xe đậu ngay chỗ tiệm sửa xe Thanh Hải cũ, ngồi dưới sàn xe nhìn qua khe hở của tấm bạt, tôi thấy vài người quen nhưng không dám gọi.

Khám đường Bình Dương là trung tâm cải huấn Bình Dương cũ, gần tòa hành chánh BD cũ, nay là VP/UBND tỉnh BD, trại giam này do Ngô văn Thới (Ba Thới) làm chủ ngục, Hai Khánh (Khánh Thọt) làm chấp pháp. Vào bên trong trại, mọi người xếp hàng kiểm tra, họ tịch thu mọi thứ: dao, đũa, dây… những thứ có thể gây thương tích hay tự sát.

Hơn 80 người trong một căn phòng nhỏ, dài 8 m, ngang 5 m. Phải ngủ ngược đầu hay ngủ ngồi. Có những lúc trời nóng, phải cởi trần hay ở truồng, mùi thối vì hơi người, quần áo giặt không cần phơi cũng khô! Trong phòng có những lúc phân, nước tiểu tràn ra phòng! Chính CA cũng phải bịt mũi mỗi lần nhìn vô phòng để kiểm tra. Chúng tôi còn tệ hơn súc vật! nước uống mỗi người 0.75 lít/ngày, khoai lát hoặc bo bo, bắp cải luộc nước muối trường kỳ kháng chiến! Một tháng sau ai nấy ghẻ cùng người, cả hai bàn tay cũng bị! Khi tắm phải lấy bao nilon bao lại vì nước vô rất rát! Chỉ trị ghẻ bằng nước thuốc lào! Mỗi sáng thức dậy, giũ chiếu, quét phòng, mày ghẻ gom lại cả hơn hai chén cơm! Và điều khủng khiếp nhất là có người đói quá không chịu được đã lấy mày ghẻ dấu để ăn như ông tên là Thiêm!

Có hai người bị án tử hình, chưa đem bắn đã bị suy nhược đói và chết như: Socnuoi (nghi là gián điệp Pol Pot, thật ra anh này Pol Pot nhưng lấy vợ VN, đưa vợ về Bù đốp vì sợ Pol Pot giết, sau đó trở lại tìm vợ thì bị bắt), còn Điểu Bluc, xã đội trưởng du kích Đức Phong, bị nghi là tình báo Mỹ? Còn tôi cũng bị Hai Khánh đặc biệt quan tâm. Có lần hắn gọi tôi lên thẩm tra, cho rằng không thật thà khai báo!

Trong phòng hắn hỏi “Mầy biết B- 52 không?”, xong hắn lấy bao nilon đốt cho chảy rồi nhễu từng giọt xuống các đầu ngón chân, trong khi hai chân đang bị cùm! Lúc đầu rát điếng người, tê dại hai chân… Hắn cười rất khoái chí, cái nụ cười dã man của một con thú đội lốt người! May tôi là tù đã trình diện cải tạo, không thì xong đời!

Tuần lễ sau được trả về phòng lớn, hai chân bị liệt, tê dần từ đầu ngón tay lên vai; hai chân thì từ đầu ngón chân lên tới rốn! Có lần được đưa ra phơi nắng cùng người đã già tên là Mai vượt biên đường Bù Đốp bị bắt. Những người được đem phơi nắng là sắp “Vẫy tay chào em!”, lúc đó anh đút cháo cho tôi, đút vào cháo lại trào ra; đôi lúc mê sảng, cũng may Trời cứu!

Một tuần lễ sau tôi được chuyển Trại đi K-3 Gia rai, Long Khánh, gồm 13 người và được mệnh danh là 13 con ma, vì mình ghẻ lở, được bôi Lưu huỳnh cho tróc mày ghẻ, ai nấy cũng đen còn hơn cả những đặc công!

Trên chuyến xe chuyển đi K-3 Gia ray, Long Khánh, lên xe đã thấy có anh Võ Tấn Vinh (Phó Tỉnh BL, sau về làm PTT/BD) từ trại nhà Đỏ BD nhập chung. Trại K-3, nằm trên đồi tên Phượng Vỹ, thuộc Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18BB.

Vô trại, tôi được chuyển lên trạm xá, cũng nhờ anh Lê Phước Chỉ (đại úy) tận tình giúp đỡ và châm cứu, 15 ngày sau tôi chống gậy đi lại được. Một tháng sau tôi được thăm nuôi, anh tôi vẫn phải cõng tôi xuống núi! Gặp Mẹ tôi, nhìn Mẹ với 2 hai hàng lệ chảy dài trên trên đôi má nhăn nheo của Mẹ già, lòng tôi đau như cắt! 15 phút trôi qua như gió thoảng, thế rồi giã từ qua tiếng nghẹn ngào của Mẹ tôi! (Phó Tỉnh BL, sau về làm PTT/BD) từ trại nhà Đỏ BD nhập chung. Trại K-3, nằm trên đồi tên Phượng Vỹ, thuộc Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 52, Sư Đoàn 18BB.

Hai tháng sau, anh tôi được chuyển ra Bắc, qua ngã Tân Cảng, bằng Tàu Sông Hương, tôi được ở lại vì còn bị liệt hai chân!

Rồi bỗng một hôm, trực trại gọi tôi có thăm nuôi, anh tù phụ trách thăm nuôi dìu xuống núi, nhìn cuối bàn thăm nuôi thì không ngờ gặp lại cô ấy, tôi không ngờ! Cả hai đứng như trời trồng không nói nên lời!

Thì ra T., nhìn hai dòng lệ trên khuôn mặt lam lũ, phải bon chen giữa dòng đời nghiệt ngã của buổi giao thời. Nhưng đôi mắt vẫn buồn và đẹp như thuở nào…

“…Cậu Mợ khỏe không?”, “Cuộc sống em thế nào? ”, “Không biết bao giờ anh về? Hãy coi nhau như người bạn tốt…”, “Em nên lấy Chồng…!”. Nắm đôi bàn tay không còn mềm mại như ngày nào! Lâu rồi đời mình cũng quên, nhưng có quên được đâu!

Cán bộ đặc trách thăm nuôi báo hết giờ, thế rồi phải bịn rịn giã từ! Lên lưng chừng đồi nhìn xuống, cô ấy đang thiểu não bước đi về ga xe lửa. Hôm thăm nuôi, vì là ngày thường nên ít người đi thăm nuôi.

Đêm đó trằn trọc ngủ không được! Nhớ ngày đầu tiên lên Phước Long nhận nhiệm sở, chiếc P-6 Porter của Air America mầu trắng sọc xanh biển, xuống phi trường tỉnh lỵ PL, phi trường nằm trước tòa HC tỉnh PL, là tỉnh nhỏ, vui… Lần tham dự lễ phát phần thưởng tại Hội Trường PL, tôi nhìn thấy cô bé học lớp 12 lên lãnh phần thưởng, bỗng hớp hồn tôi ngay! Quay sang hỏi người bạn, là thổ địa, cho biết và khuyên đừng nên coi chừng 72 (mã số Đại Tá Lưu Yểm) đang theo, Đ/u Thành Alo bên KQ và nhiều tay nữa? Sợ ai, dân Bình Long Anh Dũng mà… Tối đó, vô thẳng Quán Coffe H.T, khi tính tiền, chỉ trả tiền khi nào cô ấy ra tính, kiểu đẹp trai không bằng chai mặt! Thế mà được việc!

Rồi cuộc chiến Phước Long, tôi đến với gia đình T. như người nhà và cho đến mãi bây giờ, tôi về và vẫn đến thăm như người bạn tốt, vợ tôi cũng biết! Người ta có thể thương nhiều người nhưng YÊU chỉ có một người.

Một hôm, trại nhận một toán từ Cà Tum đưa về, ai nấy cũng chạy tới hỏi thăm để tìm người quen, tôi nhận được thầy Vạn, với nước da ngâm ngâm dưới cằm có vết thẹo, thầy dạy tôi năm Đệ Ngũ , hai thầy trò ôm nhau mừng trong ngẹn ngào! Chiều đó, cả hai lại gặp nhau ăn cơm chung, trại tương đối dễ đối với tù chính trị. Trại này nhốt chung với tù hình sự nhưng được ngăn bởi hàng rào kẽm gai kiên cố cao hơn 2m. Bên kia hàng rào, là đám hình sự gồm trộm cướp, xì- ke, ma túy… đám xì ke lên cơn nằm phơi nắng! Không được điều trị, vả thuốc có đứa chết! CA trại đánh đập không thương tiếc!

Trại Z-30A do trung tá Trịnh xuân Tích coi, tôi còn nhớ sáng đó khoảng 4 giờ, nghe bắn báo động(?). Sáng hôm sau, toàn trại tập họp điểm danh, thì được biết 37 người Thượng theo tổ chức Fulro đã trốn trại, chỉ còn 5 người già cả bịnh tật ở lại! Cả trại mừng thầm cho họ, trốn vô rừng đối với người Thượng như hổ thả về rừng, khó mà tìm!

Trước đó tôi có nói chuyện với họ, hỏi thăm bằng tiếng Rahde’, tôi biết chút ít lúc lên Pleiku ở Trung Tâm Huấn Luyện Pleku; họ sống rất im lặng, kêu làm thì làm, kêu cuốc thì cuốc, không than vãn, không thăm nuôi, rồi âm thầm đi… Chỉ có núi rừng mới hiểu những gì họ muốn? Từ trưởng trại đến cán bộ trực đêm đó bị kỷ luật, cả tuần lễ sau vẫn còn thấy trực thăng bay lòng vòng hướng sông La Ngà… của Núi Rừng nên trả lại cho Núi Rừng.

Hai tuần sau, toàn trại được lệnh kiểm tra. Tôi cùng một số khoảng 200 người được tách riêng, mang hành lý chuyển trại đi trại mới. Anh tôi đi trước và tôi đoán mình sẽ đi đâu? Chiều hôm đó, Thầy Vạn đứng bên kia hàng rào nói “… Em lấy ít đồ ăn, vì đi trại mới, biết bao giờ mới được thăm nuôi!”. Tôi không nhận, vì gia đình Thầy cũng không khá mấy! Hai Thầy trò nhìn nhau qua hàng rào kẽm gai làm tôi nhớ phim “Giờ Thứ 25” mà tôi coi ở rạp Eden của Saigon năm nào!

Khuya đó, mọi người được lệnh lên xe “Zin”, từng nhóm khoảng 30 người ngồi chồm hổm trên xe, nếu chuyển trại bình thường họ không chuyển ban đêm? Lúc tập họp, tôi để ý chiếc xe đầu tiên ngụy trang chở củi. Xe chạy chừng nửa giờ, tôi lấy con dao nhỏ bằng thép mà tôi dấu trong lon Guigoz cơm, rất bén, rạch tấm bạt nhìn bên ngoài, những căn nhà tranh lụp xụp yên lặng… rồi những dãy phố nhưng chẳng biết là đâu? Nhìn bên ngoài, tôi dấu không cho ai biết, vì không thể tin ai!

Đó là ngày 24 tháng 4 năm1977, đến khi xe dừng lại, tấm bạt được mở ra, mọi người tuần tự xuống, thì thấy trước mặt là một bến tầu! Trên cảng đầy CA và bộ đội, có cả chó; chiếc tầu to sừng sững mang tên SÔNG HƯƠNG, tầu màu đen sọc nâu.

Mọi người trật tự leo lên tầu bằng cái thang gỗ, xuống hầm tầu là một cái khoang chứa hàng đầy bụi than đá, mà trong Nam đâu có than đá! Chắc tầu chở từ Bắc vào, sau này tôi mới biết chiếc Sông Hương chính là chiếc Việt Nam Thương Tín! Chiếc này đã chở những người qua Guam muốn hồi hương về VN, họ cũng bị vô tù như chúng tôi, lại một sai lầm!

Chúng tôi bị nhốt như những con gấu trong sở thú! Thức ăn chỉ mì gói, nước, thùng chứa phân câu lên và thả xuống như trong hầm nuôi thú ở thảo cầm viên Saigon! Nắp hầm được mở ra khi chúng tôi bị ngộp vì thiếu không khí! Có người xỉu, phải la lên thì mới được kéo ra! Hai người bị còng chung một cái còng tự chế chữ U của trại, may mà tay tôi nhỏ nên rút ra dễ dàng.

Có lúc sóng nhồi dữ dội, đa số ói mửa nằm la liệt, tôi đi tới đi lui nên không sao! Đi được một ngày, mấy ông cấp tá Hải Quân đoán đi hướng này là ra Phú Quốc hay Côn Đảo? !

Sau đó tôi liều, mò theo hành lang lên tàu, nhìn qua khe cửa hở, nhưng bị khóa bởi sợi xích sắt, tôi thấy những cánh buồm 3 lá, mà ở miền Nam tôi chưa bao giờ gặp! Xuống nói cho mọi người biết, ai nấy cũng bán tín, bán nghi. Tôi nghĩ chỉ ngoài Bắc mới có loại ghe này.

Hơn hai ngày thì tầu dừng lại, lúc đó khoàng 4- 5 giờ chiều, mọi người được lệnh xuống tầu, trên boong nhìn xuống, những cái container của Mỹ, rất đông CA áo vàng lẫn một bầy chó! Hàng chục chiếc xe ca xếp hàng… tiếng loa phóng thanh vang dội “…Đây là Miền Bắc XHCN, nơi có đủ điều kiện để cải tạo các anh!”.

Rồi mỗi toán 30 người lên xe, dọc theo đường họ tổ chức những đám hô to, chửi rủa, ném đá vào xe…

Bấy giờ trời cũng đã tối, đi ngang qua Hà Nội, thành phố thật yên lặng, vắng vẻ… Mọi người đang ngủ, ánh đèn đường treo đong đưa giữa đường, mập mờ như ánh đèn cầy (nến). Đi ngang Viện Bác Cổ (Viện Bảo Tàng), vẫn cái mầu vàng, những mảng tường loang lổ không được sơn lại hay sửa chữa như thuở nào theo những người lớn tuổi cho biết.

Đoàn xe qua cầu Long Biên, xuôi về hướng Nam (?). Ngoài trời tối đen như mực. Xe di chuyển lên xuống, chỉ đoán là đi vào vùng đồi núi.

Khoảng 1 giờ sáng đến trại, xuống xe tập họp từng toán 40 người, theo hướng dẫn của quản giáo vào từng phòng; phòng được xây bằng gạch, mỗi phòng có hai tầng: trên bằng gỗ, tầng dưới xi măng. Tôi leo lên lầu mệt quá, vứt balo, rồi nằm ngủ mê mệt!

Sáng hôm sau thức dậy, vén cửa sổ được che bằng chiếu, qua song sắt nhìn những ngọn núi đá vôi sừng sững chen lẫn trong đám sương mù như trong phim kiếm hiệp.

Khoảng 8 giờ ra khỏi phòng, mỗi người được phát một chén bột mì pha loãng với nước muối rồi ra sân trại tập trung nghe ban chỉ huy trại nói chuyện; cho biết đây là trại Nam Hà (25A/TD 63 Hà-Nam-Ninh) do trung tá Xuyên làm trưởng trại, thiếu úy Thịnh trực trại.

Trại gồm 3 phân trại: trung úy Huy làm trưởng phân trại A; phân trại B do Trần Tấn Nguyệt; phân trại C do Đ/u Trần Tân. Tôi ở phòng 7, chung phòng mà đa số là tổ chức phục quốc, giáo sư Lưu Việt Cương làm trưởng phòng, có cha Nguyễn Hữu Lễ, Mai ngọc Y…

Đội này nổi tiếng cứng đầu, còn gọi là đội trọng điểm. Trại này trực thuộc Bộ Công An quản lý, đa số tướng , đại tá… Gặp ông Lộ công Danh, cựu Tỉnh Trưởng BL, ĐT Thọ nhảy dù , ĐT Huấn 81 BCD.. cựu Thủ Tướng Tâm, thời tổng thống Ngô Đình Diệm, các bộ trưởng cũng đều tập trung tại đây; có cả ông Vũ Hồng Khanh Chủ Tịch VN/Quốc Dân Đảng (người bắt tay Hồ chí Minh tại vịnh Hạ Long trong VN thiên sử truyền hình; sau bị tiểu ra máu được tha về 1979, vì sắp chết, họ sợ mang tiếng).

Trại Nam Hà còn gọi là trại Đầm Đùn vì phía dưới chân núi là đầm đùn, đất sình lầy không có dấu chân người, trốn bị lún lầy cũng chết! Mùa mưa nước dưới đầm như biển hồ. Ngoài Bắc có hai trại nổi tiếng từ thời Pháp là Đầm Đùn và Lý Bá Sơ ở Thanh Hóa!

Hằng ngày xuống đầm làm thủy lợi, đắp đê… bằng những cái mai xén đất thành từng cục, như cục gạch, rồi bừa đất cho nhão bằng cái bừa 12 răng, cứ ba người một cái bừa, kéo thế trâu!

Người cầm bừa phải khỏe, nhấc bừa lên để người kéo đỡ mệt. Có trâu nhưng họ không cho dùng. Trời mùa đông lạnh như cắt da, bụng thì đói, con người bị hành hạ thua súc vật, nhưng chỉ được bồi dưỡng bát cháo bột mì loãng pha nước muối! Bữa ăn một ngày chỉ khoai lát, hay cục bột luộc, muỗng cà phê mắm cáy thối hơn cả cống Sàigòn! Vẫn phải ăn không thì lấy gì để ăn!

Kiệt sức, phòng tôi có ngày chết 5 người do sốt vì ngâm nước lâu ngày dưới đầm! Gọi là sốt Strepto vì chích Streptomicine mới hết! Đang ngồi nói chuyện bỗng lên cơn sốt, đưa lên trạm xá thì vài giờ sau chết! Sau đó trại ngưng không cho xuống đầm. Rồi bị tiêu chảy chết một mớ nữa, may mà tôi không bị gì! Sau đó, đến mùa Đông trời lạnh, trâu chết, trại làm phở trâu bán, lại một số người chết vì trúng thực, đói không nhịn được, ăn nhiều quá!

Cùng cực, không chịu nổi, chúng tôi biểu tình, tuyệt thực… không quan trọng, họ cho nhịn luôn, coi ai chết! Sau đó 13 người bị cho chuyển đi trại Hà Giang Cổng Trời, trong đó có Cha Lễ!

Đêm Noel 1979, thời gian ở Trại A tôi gặp lại sư Lê Kế Tông, người mà tôi thấy ở khu định cư đồng bào Phước Long ở quán Chim, Long Thành; ông ấy lái xe Jeep A-2 sơn màu vàng và là trụ trì chùa Long Vân kế đường ở khu định cư, chở nhóm phóng viên Bắc Việt vào quay phim, lúc ở tù mới biết ông làm cho phủ đặc ủy trung ương tình báo thời VNCH.

Sau đó, khoảng 100 người cũng được lệnh chuyển trại. Đoàn người lục đục gồng gánh xuống núi đi Trại C cách 3 Km dưới đồng bằng; do Đại Úy Trần Tân làm trại trưởng, chuẩn úy Trụ trực trại. Về trại này gặp anh Trần Văn Côn (chồng chị Nhàn lò bánh mì), Bùi Đình Vàng-Xa Cam.

Hai tháng sau, tôi bị chuyển đi trại B, lại đi ngược vô núi, ngang trại A, vô sâu trong núi đá vôi! Ngoài Bắc, vùng núi đá vôi cây chồi thấp, ít trồng trọt. Cả thời gian tôi ở tù chỉ công an giam giữ; CA chỉ giữ người là chính. lao động thì chỉ làm thủy lợi, vác đá!

Trại B do đại úy Trần Tấn Nguyệt làm trưởng trại, là dân miền Nam tập kết ở lại, thượng sĩ Thúy làm trực trại, Đ/u Hoa (nữ) còn gọi là Kim Hoa Bà Bà… Đ/u Soạn an ninh liên trại A,B,C. Tên này gian ác, người đã đưa trung tá Trọng (không quân) và Đ/u Sanh đi và mất tích cho đến bây giờ; nghe nói bị đập chết (vợ anh Trọng đã qua Mỹ!).

Có những ngày đi lao động sâu vào chân núi cách trại B chừng 2Km thì gặp trại cùi. Chỉ có hội trường là xây, còn nhà mái bằng vầu (lồ ô), vách đất, nhìn những ngón tay bị rụng vẫn phải cuốc, tay được cột vào cán cuốc, phải tự mưu sinh. Nhà nước một năm đến một lần, không thuốc men, sống chết mặc bây!

Lúc đầu ra Bắc, người dân Bắc bị tuyên truyền nên có thái độ hận thù, nhưng sau này tiếp xúc, họ có thái độ thân thiện hơn; đã có những trường hợp móc nối dân rồi trốn trại thành công…

Ở tù lưu đày, chính sách cải tạo của Bắc Việt đã đưa con người đến cái tận cùng của con người! Những cuộc thanh toán “Anten” hay là “292” là bọn cũng tù, nhưng làm tay sai cho trại! Nhớ mỗi chủ nhật tôi mang giày “Bote de Saut” (tôi còn giữ lúc ở Nam) vào là bọn 292 ngồi run! Không ai muốn làm điều này, vì họ hết thuốc trị! Muốn về sớm mà bước lên thân xác người khác; báo cáo lấy điểm, để được hưởng những đặc quyền của trại!

Đến khoảng tháng 10, 1980 được lệnh chuyển trại, mọi người biết sẽ về Nam… Lên xe Zin chuyển ra ga Phủ Lý, Hà Nam Ninh…

Dọc theo đường ra Phủ Lý, dân đứng hai bên đường, họ đã biết trước, mọi người ném mùng, mền, chăn, chiếu cho họ… Tội nghiệp, họ rất nghèo! Chúng tôi cũng như nhà tù nhỏ trong một nhà tù lớn! Bây giờ họ hoan hô chúng tôi, không còn như những ngày mới ra Bắc!

Trên người ai cũng măc bộ đồ bông lính, có đóng dấu tên trại, lấy từ kho quân nhu! Rồi cũng hai người một cái còng chữ U lên xe lửa xuôi Nam.

Trên xe lửa… Đến Huế, xe lửa dừng lại tại ga Huế; họ đậu xe lửa có xe lửa khác đậu che không cho dân thấy! Một số người bán hàng vào được, thấy mặc đồ lính biết tù phe ta họ ném bánh, kẹo… mà không lấy tiền. Tội lắm, họ cũng nghèo, đưa tiền không lấy!

Đến ga Lăng Cô, tầu dừng lại chờ tầu phía Nam ra qua hầm đèo Hải Vân… Dân lại chạy ra cho quà, nhìn những người khổ mà rơi nước mắt, đưa tiền họ không nhận! Trong một xã hội thời bấy giờ mọi người đều bần cùng và bươn chải trong cuộc sống.

Qua hầm Hải Vân, đến ga Diêu Trì đoàn tầu dừng lại và họ chuyển 1 nửa tù đi trại Gia Trung, xong lại tiếp tục xuôi Nam. Đến ga Hàm Tân, đoàn tù được chuyển lên xe Zin vôTrại Z-30 D, Hàm Tân, Thuận Hải.

Trại Z-30D Hàm Tân, Thuận Hải cách Rừng Lá mà dân Bình Long định cư khoảng hơn 1 Km. Trại này do thiếu tá Đoàn Mạch làm trưởng trại; thiếu tá Phúc phó trại; trung úy Nhu làm tài vụ (sau lên đại tá, liên đới vụ Năm Cam nên bị cách chức).

Vô đến trại, tập họp, phân loại thành phần, vào phòng. Tôi và 80 người vào phòng 1, đội 37; đội 36 vào P.2. Đội 37 gọi là đội trọng điểm, còn nghỉ dưỡng quân, đi vòng vòng kiếm anten đập… như Long Cóc, tên trật tự gian ác nhất Z-30D, một trận chí tử! Đa số tù miền Nam “hiền” vì được thăm nuôi đầy đủ nên an phận!

Gặp lại xếp cũ, ông Paul Nur, bộ trưởng bộ PTST đầu tiên (sau mất ở trại này), Trung Tá Nguyễn Tùy (LLĐB), Thiếu Tá Nguyễn Cẩm (Lôi Hổ, em Đại Tá Nguyễn Bé ở trung tâm XDNT Vũng Tàu), gặp ở Pleiku trước 1975… từ trại Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh chuyển về, biết trước 30/04/1975, trái đất tròn ….

Một tuần lễ sau, xảy ra vụ khi ra cổng trại của đội tôi không chịu lấy nón ra; CA trại bắn xuống đất thị uy, mảnh đá văng trúng tay Lê Văn Bút chảy máu (L.V. Bút nguyên Trung tá Không Quân).

Chúng tôi biểu tình, một sự kiện chưa từng xảy ra trong các trại giam CS. Trại ra lệnh báo động, bộ đội bao chung quanh, có cả tăng! Nội bất xuất, ngoại bất nhập! Tr/T Vũ Xuân Thông (LĐ 81 BKD) cũng chung phòng; lúc đó mẹ anh Thông mất, chỉ xé miếng vải trắng lượm được quấn đầu!

Ngày 30 tết âm lịch năm 1981, phân loại và đưa khoảng 30 người đi trại giam Chí Hòa. Vài ngày sau, từng người bị gọi lên thẩm vấn… tôi cũng bị gọi lên, gặp một người da ngâm đen, khoảng trên 50 tuổi, mặc đồ dân sự.. mời tôi ngồi nói chuyện rất lịch sự, thái độ của một cán bộ cao cấp (sau mới biết là Cục phó Cục Trại giam miền Nam). Sau hơn 3 giờ tâm tình (!), chính sách…., vòng vo tam quốc, không khai thác được gì, cho tôi về, mặt cũng vui vẻ.

Tôi biết bàn tay sắt bọc nhung như thế nào, từng người bị đưa vào nhà kỷ luật!

Nhà kỷ luật ở Z- 30D nằm phía sau hội trường trại, đó là một cái nhà bình thường, mái bằng tole fibrociment, bên trong xây những chiếc hộp cũng bằng ciment; mỗi phòng có hai bệ đá để nằm, hai cái cùm gắn chặt dưới nền ciment; một cái thùng đạn đại liên 50 dùng để đi cầu hay tiểu tiện, mỗi sáng có tù trật tự mang đi đổ; ngoài Bắc cũng vậy, mẫu chung của cả nước!

Mỗi ngày, một lon guigoz nước (0,75 litre), cả tắm! Ăn, chén bằng sắt tráng men, chỉ được nửa chén, lẫn lộn sạn đá; họ bỏ nhiều muối cho thật mặn, phải đổ nước rồi gạn ra cho bớt mặn.

Khổ nhất là khát! Cái đói và cái khát song hành! Không có phân, nếu có thì cứng như phân dê! Vì có gì để ăn đâu, phải chịu thôi!

Một tháng được dẫn ra tắm một lần! Ai nấy đều đi không nổi, phải vịn vách mà đi. Da trắng bệch như xác chết! Hai chân tôi chuyển bại thành liệt!

Ba tháng sau, ai nấy đều gần chết, mắt tôi bắt đầu mờ vì sống trong tối… Sau đó, cả đám được đưa ra phòng tập thể, cũng là phòng kiên giam! Chung quanh phòng kiên giam, họ (CA) rào thêm cây cao hơn 4m, sau khi được nghỉ dưỡng một tuần cho lại sức, họ lại lôi vào nhốt tiếp!

Nhốt chung có anh Trần Hồng Văn, một Đảng viên CS kỳ cựu theo CS từ năm 1945; dân có học nói được tiếng Pháp, dân trường Bưởi Hà Nội, làm báo chí, có tư tưởng xét lại, nói chuyện lôi cuốn; hiểu quá nhiều về CS (sau này ra tù, qua nước Anh, thỉnh thoảng có phone cho tôi, viết văn với bút hiệu Việt Thường).

Nhốt mãi rồi cũng thả, năm 1984 chúng tôi được chuyển ra phòng tập thể, cũng là phòng kiên giam, tuy hết cùm nhưng vẫn biệt lập với các đội khác, vẫn bị cấm thăm nuôi! Tội nghiêp Mẹ và chị tôi, tôi đã nhắn đừng thăm, bao giờ tôi nhắn mới thăm… Trời sinh Trời nuôi, đường ta, ta cứ đi….

Đến năm 1984, đội được cho đi lao động, là đội trọng điểm, ưu tiên đi trễ về sớm, tất cả các đội khác không được tiếp xúc! Rồi cũng trong đội có một tổ riêng biệt gồm những kẻ cứng đầu nhất, trong đó lại có tôi!

Nhớ những mùa thu hoạch, được vác bắp, đậu… trên đường về kho của đội, tôi cho hết những người dân nghèo đi “mót”! Tù đã khổ, gặp họ còn khổ hơn, họ là những dân bị đi Kinh tế mới, như thế được khen là lao động tốt…

Có một lần, trại phát động phong trào thi đua, Thành “Hí”, cán bộ quản giáo đội, tập họp yêu cầu ai đăng ký tên “vượt chỉ tiêu”, tôi giơ tay trước, CB/QG Thành nói:

– “Các anh thấy chưa, anh Nguyệt là người chây lười lao động của đội, nay đã trở thành đội viên gương mẫu!”.

Ai nấy đều không biết tôi giở trò gì? Đến chiều nghiệm thu, đội trưởng là Diệp Phiêu, một tên hán gian (Đ/u huấn luyện viên Trường SQ/TĐ ) báo cáo, tôi cuốc chỉ được 2m, thay vì chỉ tiêu ngày cuốc tới 10m, ngang 2m.

Quản giáo Thành nói tại sao? Thì tôi nói tôi chỉ cuốc phần đăng ký vượt chỉ tiêu thôi! Ăn đói, đi không nổi thì tội gì mà làm cho lắm vào! Lập biên bản, tôi không ký rồi cũng xong! Cũng vì đây là đội kỷ luật, tận cùng rồi nên chẳng sợ ai!……

Rồi gặp Vũ Mộng Long, tức nhà văn Duyên Anh, quét dọn xung quanh phòng chúng tôi, bị bắt vì vụ Hồ Con Rùa! Lấm la lấm lét không dám nói chuyện, sợ vì đây là đội kỷ luật! Sau Duyên Anh qua Pháp, có lần qua Mỹ, bị đánh gần chết ở California Bolsa, trước nhà sách Tú Quỳnh, tội nghiệp! Thuở nhỏ tôi rất mê chuyện Duyên Anh… Vô tù mới biết được ai ra sao? Vàng thật hay vàng giả, nghĩ mà buồn!

Bông trạng nguyên trước sân phòng giam chuyển màu đỏ thắm, chúng tôi biết Tết sắp về.. Lại mười mấy cái Tết xa nhà! Ngoài kia, toàn trại được tập họp ở hội trường để nghe gọi tên về, còn tôi thì không bao giờ ra để nghe tên, từ Nam ra Bắc! Đang ngồi lim dim bên ống thuốc Lào, thì nghe Phú cán bộ giáo dục và Cung “Củ Đậu” gọi tên “Nguyệt, anh có tên về đấy!”. Tù lâu quá, tôi vẫn lạnh lùng, dửng dưng! Leo xuống theo ra hội trường, cả hội trường cười ồ lên …

-“Nguyệt nó được về kìa!”.

Ký tên, lăn tay, lấy giấy ra trại do bộ Nội Vụ ký 06/01/1987. Về Phòng lấy đồ, tôi cho hết… chỉ mang cây đàn guitar được làm trong tù, cái võng lính mà nó đã theo tôi cả đời tù, cái bal ô, chỉ thế thôi. Đi ra cổng trại gặp cán bộ quản giáo tên Hiền, hắn ngoảnh mặt không thèm nhìn, vì hắn từng nói “Anh chỉ có mọt gông!”. Lên cơ quan nhận lại những món đồ mà tôi tôi gởi lúc mới vào trại C-5 Sông Măng.

Một cửa sổ của căn phòng NHỎ được mở ra và căn phòng LỚN bị khép lại! Trong một xã hội mà những người tù của chế độ cũ, chúng tôi bi coi như là công dân hạng ba (3 đời), bạn bè quen biết e ngại không dám gần!

Ra khỏi trại, đầu óc trống rỗng, buồn hơn là vui! Vì phải xa những người bạn, tù lâu quá nên quen! Đi khỏi trại chừng hơn 1km, gặp Rừng Lá, nơi mà dân Bình Long xưa kia được đưa đi định cư, gặp vài người tôi nhớ mặt, họ nhìn biết tôi tù mới ra và có vẻ e ngại!

Hỏi thăm người quen, người ta chỉ và tôi tìm được đó là thầy giáo Mọi Thuận, ba của chị Mọi Thị Lan và Mọi Phước. Thầy Thuận là người cùng thời Ba tôi, dạy trường Tiểu Học Thượng và cũng dạy tôi năm lớp 3. Gia đình rất mừng, tôi ở lại chơi và ăn nhậu một tuần, chồng chị Lan cũng Trung Úy Sư Đoàn 23, sau này cũng qua Mỹ ở Florida.

Ở nhà thầy Thuận được một tuần, gia đình cho tiền về Sàigòn, lên xe chủ xe cũng không lấy tiền; đến bến xe Miền Đông, đón xe cyclo đạp về Quận 8, Chánh Hưng, nhà chị tôi, gặp người đạp cyclo đạp, phe ta cũng không lấy tiền, nói chuyện mới biết anh ấy là Đại Úy Sư Đoàn 7, đưa tiền nói cách mấy cũng không nhận! Về Saigon, ở nhà bà chị, sửa sang lại dung nhan, 1 tuần sau mới về Bình Long.

Lên xe về Bình Long, nhìn dọc theo đường, mọi thứ đều xa lạ! Trên xe mọi người im lặng? Không khí nặng nề!!! Không còn như ngày nào, bươn chải bon chen trong cuộc sống! Con người tôi cảm thấy lạc lõng giữa dòng đời xuôi ngược bởi cuộc đổi đời!

Về nhà, Mẹ tôi ôm tôi khóc mà sao tôi vẫn dửng dưng! Có lẽ mười mấy năm tù, con người tôi đã xuống cái tận cùng của địa ngục, chẳng còn nước mắt nào để mà khóc! Tim tôi như tan vỡ từng mảnh!

Thế rồi ngày qua tháng tới, sống trong căn nhà mái tôn lỗ chỗ miểng pháo từ những năm1972! Làm ruộng, ngày ngày bán lưng cho trời, bán mặt cho đất! Cũng không yên thân, lâu lâu gọi trình diện, hết xã tới huyện; còn riêng tôi phải trình diện công an tỉnh Bình Dương, (lúc đó BL thuộc BD).

Rồi tôi cũng lấy vợ, tôi cũng cám ơn người vợ đầu tiên của tôi, người đủ can đảm lấy tôi, bất chấp tất cả vì tôi là công dân hạng 3; lo cho tôi tất cả! Vợ tôi sinh được đứa con gái, ba tháng sau, Mẹ tôi mất trên tay tôi! Lần đầu tôi khóc sau ngày 30 tháng 4 năm 1975!

Khi có chương trình H.O, tại Bình Long, Mục sư Điểu Huynh không đi, ở lại phục vụ các tín đồ người dân tộc S’tiêng BL. Tôi cùng anh tôi được gọi dầu tiên, nhưng vì không biết thủ tục “đầu tiên”(?), rồi cũng được gọi phỏng vấn và cho đi rất dễ dàng.

Gặp người Mỹ già phỏng vấn hỏi tôi:

– “Làm việc hơn một năm, tại sao bị giam lâu vậy?”.

Tôi trả lời ngắn gọn:

– “Ông nên hỏi Đảng và Nhà Nước!”.

Tôi biết hầu hết những người Mỹ phỏng vấn đều biết tiếng VN và bà thông dịch trả lời:

– “Ông Nguyệt làm trong cơ quan CIA trá hình”.

Người phỏng vấn cười và tuyên bố tôi được chấp thuận đi Mỹ; gia đình tôi đi H.O 19. Giã từ gia đình, bạn bè ngày 24 tháng 8/1993, lên Thai Air Way, máy bay taxi ra pist rồi tống ga…

Máy bay cao dần, những căn nhà của Saigon nhỏ dần qua khung cửa máy bay; những đám mây lặng lẽ trôi, bỗng những giọt nước lăn dài trên má!

Tôi khóc, không phải vì được đi Mỹ mà vì phải bỏ lại quê hương nơi mà tôi đã sinh ra và lớn lên.

Cali 09/24/2015.

Điểu Du Nguyệt.

(Trích Biên Khảo Tỉnh Bình Long)


HOÀNG NGỌC LIÊN * HUẾ CỦA TÔI

 Huế Của Tôi – Những Bài Thơ Huế

Ðúng ra, thành phố nào bên Nhà cũng là của chúng ta hết. Nhưng tôi rất... thương Huế, vì sau cố đô Hoa Lư là nơi tôi được sanh ra, Huế đã để lại trong tôi nhiều kỷ niệm. Do vậy mà thập niên 60 trước đây, tôi viết được nhiều về Huế, làm quen được không ít bạn thân sinh trưởng tại Huế. Từ huynh trưởng như Phan Du, đến người ít tuổi hơn như Bửu Chánh, ai cũng... thương tôi. Còn nữ giới, tôi tự giữ một làn ranh, không cho mình vượt qua. Bởi tôi là người đã có gia đình. Nhưng tôi vẫn vấn vương hình ảnh những cô gái Huế, nữ sinh trường Ðồng Khánh. Một ông bạn già vẫn bảo tôi, rằng kẻ làm thơ vốn nòi tình. Nhưng không sao, ông bạn nói tiếp, cũng cần có tình mới có thơ, miễn giữ được cái Tâm trong sáng. Tôi cũng biết, rằng muốn giữ được cái Tâm trong sáng không phải là chuyện dễ dàng.
Dạo ấy khung cảnh và con người Huế giúp tôi làm thơ. Khung cảnh, trên khắp các ngả đường, từ khi qua đèo Hải Vân đến Hoàng Thành Huế, hai bên hữu, tả ngạn sông Hương, rồi theo Quốc Lộ 1 đến Cổ Thành Quảng Trị, đối với tôi đều là ... Huế. Các cô gái Miền Trung mà tôi gặp trên những ngả đường ấy, đều nói giọng Huế. Giọng nói dễ thương chi lạ. Có phải vậy không, hỡi những chàng trai xứ Bắc, xứ Quảng? 
Có một điều mà các thân hữu Huế của tôi chưa bao giờ nghe tôi nói, là tôi làm thơ ... Huế từ khi còn ở Hà Nội, bữa ghé thăm Thị Xã Hà Ðông: "Mưa Xứ Huế", bài thơ làm từ năm 1953, trước tháng 9, khi tôi nhận lệnh đi Thủ Ðức, cho đến 1960 là năm đầu tiên tôi đến Huế! "Mưa Xứ Huế" in trong thi tập "Nhớ Thương" do nhà Nam Sơn xuất bản năm 1962:
Năm nao tôi qua làng Duệ,
Cùng Em bàn chuyện mai sau.
Nghe Em nói về xứ Huế,
Mơ màng biết hẹn tìm đâu? Em kể: Song Hương man mác
Thuyền trôi, dòng nước nao nao.
Gió thoảng qua lầu Thương Bạc
Nắng vàng đường xuống Nam Giao.
Em nói: -“Nếu về Vỹ Dạ,
Thôn Em, trong khung dừa xinh.
Anh sẽ đi qua Ðập Ðá,
Lá hoa kể chuyện ân tình.
Sau nhiều mùa thu xa Em
Tôi được đến thăm xứ Huế.
Chân bước trên cầu Tràng Tiền,
Thời gian sao qua mau thế!
Tôi đã thăm phong cảnh Huế,
Còn Em, tôi biết tìm đâu
Chiều xuống cố đô lặng lẽ
Khói mờ mái Phu Văn Lâu.
Mưa giăng đường vô Thành Nội,
Ngỡ ngàng tôi đã gặp em.
Nhìn tôi, thản nhiên đi tới,
Như người chưa một lần quen!
 
Vì em đi bên "người ấy"
Chứa chan hạnh phúc với ... tình!
Tôi đứng bên đường tự thấy
Mình sao xa lạ với ... mình!
 
Ðã trọn một mùa vọng tưởng
Ngày xưa, chuyện cũ, xa rồi!
Nhìn em khuất sau cửa Thượng, **
Mờ mờ xứ Huế mưa rơi!
Năm 1960 tôi là một thành viên trong ban tổ chức buổi Nhảy Dù biểu diễn xuống sông Hương. Tôi giới thiệu chương trình các vòng bay và những huấn luyện viên nhảy điều khiển rơi tự do...Khán giả đông nghẹt, từ Câu Lạc Bộ Hương Giang đến cầu Bạch Hổ. Những chiếc xuồng máy, ho-bo lượn tới tấp để vớt những huấn luyện viên rơi trên mặt sông. Có đến bốn người rơi trúng khu vực khán đài, được đông đảo bà con vỗ tay hoan hô. Nơi đặt máy phóng thanh để tôi giới thiệu các vòng bay là Câu Lạc Bộ Thể Thao (CLBTT) Huế, gần đài phát thanh nên buổi tối, tôi ngủ đò ngay bến CLBTT.
Khoảng hơn 10 giờ tối, có tiếng gọi trên bờ. Ðò áp bến, một cô bé mặc áo dài trắng có thêu hiệu đoàn Ðồng Khánh để xe đạp ven bờ sông rồi thoăn thoắt bước xuống. 
Giọng nói của cô nhỏ nhẹ:
- Em là PD, có ông anh bà con nhà cũng trên đường Phan Châu Trinh, tên là CB, muốn mời trung úy ngày mai ghé nhà chơi.
Tôi vui vẻ:
- Ðược rồi, PD cứ cho địa chỉ, sáng mai tôi sẽ đến.
Thuở ấy, mà có thể bây giờ (2004), việc ngủ đò vẫn được coi như có chuyện "kèm theo". Cô bé nữ sinh này hẳn là không biết việc ấy, nên sau khi được một ông bạn tôi chỉ đường, cô cứ hồn nhiên xuống đò tìm tôi. 
Tôi nói thiếp:
- Bây giờ khuya rồi, PD về đi nha.
Cô bé "dạ" rồi đạp xe đi trong màn sương mỏng của Huế. Những ngày tiếp theo, tôi được hai anh em BC-PD hướng dẫn đi thăm hầu hết các danh lam thắng cảnh của Cố Ðô, chỉ trừ Lăng Gia Long là không tới được, vì lý do an ninh. Nhờ tình cảm trong sáng của Huế, tôi làm được hai bài thơ Thuyền Về I và II:
Thuyền về I   Năm nao kết ngọn tre làng,
  Trăng sông Bến Ngự ,một khoang thuyền về.
 
Gửi Cố Ðô, để nhớ về xứ Huế
Buổi giã từ còn vương vấn chút duyên thơ!
Chiều nao, tim máu thẫn thờ,
Mái lầu Thương Bạc còn ngờ... hư không!
Hoa trời trải một dòng sông,
Bao giờ nguyện ước mà mong tâm tình?
Khi mô trở lại thần kinh,
Nhịp cầu, dòng nước, còn hình ảnh xưạ
Con thuyền neo bóng trăng thơ
Bàn tay ủ bóng mà chưa hẹn hò!
Gửi Cố Ðô màu nhớ,
Những nẻo đường tâm tư,
Những bến chiều lộng gió
Mây buồn nhỏ lệ nhớ thương chung
Ngày nao hoa dậy không trung,
Bàn tay, ánh mắt ngại ngùng tiễn đưạ
Con thuyền chở mãi gió mưa,
Nửa đêm neo bóng, đợi chờ bao năm?
Gửi một lời thăm
Nhắn ai về xứ Huế
Rằng người em mái đầu xanh trẻ
Còn nhớ chăng chiều ánh nước Hương Giang?
Năm nao kết ngọn tre làng,
Trăng sông Bến Ngự một khoang thuyền về!
 
Thuyền Về II
  Năm nao kết ngọn tre làng,
  Trăng sông Bến Ngự ,một khoang thuyền về.
 
Mái chèo buông chậm vô sông cũ,
Lơ đãng thuyền neo bến vắng người!
Ngả rẽ hoang sơ, lối đường bụi phủ,
Thôn Vỹ hàng cau màu lá bạc rồi!
Vòng tay đỉnh trúc reo cười,
Nắng tím Nam Giao từ tạ.
Núi sông cũ đã trở thành phương lạ
Dẫu người xưa còn đó, cố nhân ơi!
Giải mây trắng lạc chân trời,
Mờ phai dáng cũ bước đờị.. hẹn nhaụ
Thuyền ngược về đâủ
Sương lạnh nửa đêm lần cuốị
Những tin gió đường xa rong ruổi,
Những câu thề lạc nẻo hư vộ
Biết bây giờ là bao giờ?
Nghiêng mái tóc, cúi chào dĩ vãng.
Nét kỷ niệm, vết chăn mờ năm tháng,
Chuyễn Hoa Trời xin dành lại ngàn saụ
Ai vấn vương mà đón nhận thương đaủ
Ai trao gửi mà không hề ký thác.
Trên khói sóng, vẫn trăng vàng, nước bạc,
Giải câu thề còn lại một dòng sông.
Hởi ngàn xưa, từng khấn nguyện, chờ mong,
Xin chứng giám, đã thuyền về bến cũ!
 
 Hoàng Ngọc Liên 
Khung Trời Tưởng Nhớ - Saigon 1966 
 
Cầu Tràng Tiền
Năm 1999, nghe tin Huế bị lụt, tôi làm bài thơ 
GỬI VỀ XỨ HUẾ:
thân tặng anh chị Ái Khanh & Xuân Hùng
và các cháu Quang Tuấn - Thanh Hương
    H.N.L
Trên màn ảnh xa xôi
Tôi nhìn khung cảnh Huế
Nước mênh mông lưng trời
Nỗi lo trào mắt lệ !
Tôi thấy cầu Tràng Tiền
Chìm trong vùng lũ lụt
Chỉ mái vòm xám đen
Còn nhô trên mặt nước!
Tôi thấy một căn nhà
Nước ngập tới lầu ba!
Từ Ngọ Môn thành Nội,
Nước tràn điện Thái Hòa!
Nước sông Hương, Bến Ngự,
Ðã hòa chung một dòng.
Trên cánh cửa Thượng Tứ
Trôi lạc mui thuyền cong!
Phía bên chùa Diệu Ðế,
Nước cuốn đi Kinh, Kệ.
Nước ngập một tầng lầu
Khu Dòng Chúa Cứu Thế!
Những hình ảnh như thế
Làm ray rứt lòng già
Xin gửi về xứ Huế
Lời thăm hỏi từ xạ
Orlando (Florida) November 04, 1999
Hoàng Ngọc Liên
Trong truyện dài Ðoàn Quân Mũ Ðỏ (1969 Chấn Mỹ SG; 1999,2001 Văn Tuyển HK), Tôn Nữ Diệu Khanh là một trong hai nhân vật chính của truyện và tôi đã viết nhiều về Huế. Với các thân hữu Huế, mỗi khi cần bài vở về Huế cho các báo, đặc san, luôn luôn tôi hân hoan cộng tác.
Hôm nay, tôi gửi bài này đến chị Ái Khanh, cũng trong sự hân hoan nói trên.
 
Miền Ðông Hoa Kỳ, tháng 5 năm 2004.
Hoàng Ngọc Liên


HÀ THÚC SINH * ĐÔ ĐỐC



HÀ THÚC SINH


ĐÔ ĐỐC



Vợ chàng hãnh diện về chàng. Vả cứ thật mà nói hãnh diện cũng phải. Ngày vượt biển dù mới tù về, ốm yếu ho hen, chàng vẫn cam đoan đâu chứ Bidong nhắm mắt cũng đem được ghe ủi thẳng vào bãi. Y chang! Thậm chí trước lúc ra khơi, cậu em vợ kỹ sư có tính cẩn thận thái quá, chàng bực, bảo: “Cơ phận thay thế vậy là đủ. Cậu đừng tìm thêm nữa. Giản dị nhiêu tốt nhiêu. Rườm rà dọc đường dễ bể.” Nó băn khoăn: “Nhỡ gãy luôn cái láp phụ tính sao?” Chàng bảo: “Cứ ném đống bù-loong ra đó tôi ráp lại cho cậu giàn máy!” Ghe hư máy ba lần chàng sửa lành tuốt.
Chiến công ấy nay đã mười lăm tuổi.

  Còn vài tấm ảnh trắng đen đem theo. Lâu lâu vợ chàng lục xem lại. Nhìn một tấm chàng mặc quần tắm, rất trẻ, đứng giữa đám đông tương tự trên một bờ hồ, tay giơ cao chiếc cúp, nàng nói với các con, cứ như chúng đâu vừa từ trời rơi xuống lần đầu: “Hồi ấy mẹ chưa lấy bố. Bố lĩnh giải bơi lội đấy.” Một đứa tủm tỉm: “Giải gì vậy bố?” Chàng nhún vai: “Thanh niên Đô Thành!” Nó reo lên: “Ồ, con nhớ rồi...” Vợ chàng chen chận: “Và chưa quên sau bố bị sưng phổi, bỏ mất dịp dự tranh đi Thế Vận Á Châu đấy chứ?” Một đứa nhỏng nhẻo có pha ngờ vực: “Đây Hè nóng sao bố không chịu ra biển bao giờ?” Vợ chàng lại chen vào, giọng bao che trông thấy: “Đô đốc đã hồi hưu, với lại đừng bắt đô đốc nhìn lại chỗ đắm tàu!”

Chàng nhìn vợ cảm động.
Có điều phiền chẳng riêng vợ chàng, mà gần như mọi người đồng hội đồng thuyền, vì lòng cảm phục đâm đủn chàng vào thế tiếm mạo cấp bậc quân đội. Khi không họ lên lon đô đốc cho chàng. Cấp bậc cao nhất của Hải quân Việt Nam [..] mới chỉ là phó đô đốc, thoáng cái các mặt trời cũ biến thành vệ tinh của chàng sắp lượt. Vợ chàng mỗi khi làm cơm xong, hay nói lớn vào trong: “Đô đốc tắm xong chưa, cơm chứ!” Ngay lũ em chàng hay em vợ, mỗi khi đến chơi không thấy chàng đều oang oang hỏi lũ cháu: “Đô đốc có nhà không mấy đứa?”

Tự trọng tối thiểu cho chàng biết chuyện xuy vân phiến võ chẳng hay ho gì, dẫu có lâm tình trạng sẩy đàn tan nghé. Luật nước luật quân nó ở trong lòng, cứ lộng giả thành chân như thế ắt có ngày nghe mãi vui tai, nguy. Nhưng đó là cách bày tỏ của “lòng dân,” làm sao được; thế là để tự thấy mình xứng đáng, cuối tuần rảnh rang chàng tự tu nghiệp bằng cách ôm cứng lấy mớ sách báo, video. Những cuộc hải chiến cổ kim, các chiến thuật chiến lược, thậm chí hải lực Trung cộng, tiềm lực hải quân nhà nước ta [....] chàng nghiên cứu tuốt luốt. Quần đảo biển Đông chàng rành như những vết đồi mồi sớm hiện trên mu bàn tay.

Chàng lập sa bàn trận thế (dĩ nhiên chỉ trong óc) và sẵn sàng đem luận say sưa với các bạn, đôi khi với cả lũ con. Chàng kết luận khéo, nhưng kẻ đối diện thông minh có thể ngầm hiểu nếu chàng còn ở Hải quân, những trận thuỷ chiến của Ngô Quyền, của Trần Hưng Đạo v.v... sẽ không còn là tiếng vang xa xôi trong sách sử.
Những lúc sau này vùng thung lũng ô nhiễm quá, bệnh phổi chàng tái phát có lần phải đi cấp cứu. Bác sĩ bắt chàng ném mớ tẩu vào thùng rác. Miệng đô đốc không tẩu thật y mồm ca siõ không răng. Đã vậy vợ con còn mở trận tổng công kích mới: Yếu phổi cần gió biển. Mùa Hè này nhất định tuần nào cũng phải đi biển!

Và chàng trở lại biển. Nhưng biển với chàng ngày nay chỉ còn là thế giới của hoài niệm. Chàng thường mở ghế xếp ngồi dưới một gốc dừa, chẳng để ngắm nhìn những thân hình bốc lửa của gái tóc vàng, hay lắng nghe tiếng đàn tiếng nhạc vui tai bay trộn với khói thơm lừng bốc từ những vỉ nướng thịt quanh quẩn. Chàng chỉ ngồi nhìn màu nước xanh nhấp nhô lòng lắm bùi ngùi. A, Trung cộng bắn chìm tàu chàng năm nào kìa?

Bảy ngày đêm bám phao dạt vào bờ ươn như con cá chết. Rồi lần vượt biển như cuộc chạy trốn gian nan, ủa, nửa đêm ngày mấy tháng mấy nhỉ? Cũng may có lúc ngoài chân trời rạng nắng xa tít, vài điểm đen nổi lên như gợi hứng cho tim chàng hồi phục ít nhịp đập nửa bồi hồi nửa hùng tráng. Chàng nhớ đến Odysseus, đến Sinbad, đến Columbus, đến những thuỷ thủ của truyền thuyết muôn đời. Họ là những anh hùng lấy trái tim quả cảm đè bẹp biển dữ; họ giăng buồm để kẻ trở lại quê nhà, kẻ đi vào viễn mộng, kẻ chinh phạt những lục địa xa xôi.

Trái tìm chàng nhờ thế loé lửa.
“Hôm nay ấm lắm, bố phải tắm thôi!” Một đứa đến bên bố thúc giục. Tay nó cầm cây kem, và vì thế chàng ngờ nó không thể đoán hiểu trong tấm khăn tắm khoác thêm trên vai, từng tế bào trong da thịt chàng như đang tóp lại để sống sót trước những luồng gió biển đầy hơi nước lạnh lùng.
Chắc mẹ xúi, đùng đùng mấy đứa lớn ùa tới hè nhau khuân bổng chàng lên. Phần ngại lũ đầm phơi nắng cười mũi, phần không muốn làm vợ con thất vọng, chàng đành lấy làm vui, không chống cự; và như thế, chúng khuân chàng chạy càn xuống làn nước trong xanh.

Ối mẹ ơi là nước biển Mỹ. Vừa kịp cảm thấy mình bị nhúng xuống một vũng nước đá cóng buốt thì một làn sóng khổng lồ phủ lấy bố con chàng. Chàng uống một bụng. Khi trồi lên được chàng tối tăm mặt mũi, không còn biết chửi mắng đứa nào cho hả giận. Chàng lom khom, run rẩy chạy lên bờ, rúc vào gốc dừa, có nhiêu khăn tắm quấn hết vào người. Nhưng thanh củi ẩm không hàm chứa một ngọn lửa tốt.

Chàng run bần bật trong đống khăn lông dày. Vợ chàng chạy tới trố mắt: “Lạnh thế cơ à?” Chàng lập cập biện bác: “Yếu... phổi...” Nàng chỉ xuống biển: “Thiên hạ già trẻ nhảy như nhái.” Chàng đành cười héo hắt: “Đô đốc... hồi hưu... mà... em...” Nàng choàng thêm cho chàng tấm khăn lông, bỏ nhỏ: “Vâng, thưa đô đốc hồi... dương!” Rồi nàng thản nhiên phóng xuống nước giỡn với các con.

Mắt nhoè nhoẹt chàng ngó chân trời như ngó vào lòng, sạch bóng, hoang vu. Chỉ gió dồn như tiếng thở hụt hơi. Chàng ngẫm câu đùa của vợ thấy không nhẹ. Nó như triết lý nghiêm chỉnh sau cùng của mọi bi hài kịch, dù ngọt dù cay. Chàng ngồi thộn ra, đầu cứ thế nổi lềnh bềnh một thắc mắc: Những Odysseus, Sinbad, Columbus... đến thời sa sút ra sao, có chết chìm?
Alhambra 9-95


RICHARD GRAY * CON NGƯỜI ĐI ĐỨNG

Tại sao con người không đi bằng bốn chân?

  • 10 tháng 2 2017



Bare walking feetBản quyền hình ảnh TIMOTHY A. CLARY/AFP/Getty Images

Rải rác đâu đó giữa những phiến đá màu nâu sẫm trầm mình dưới đáy dòng sông khô cạn ở miền bắc Tanzania có lẽ là một trong những di tích hấp dẫn nhất về lịch sử tiến hóa của loài người.
Hằn sâu vào lớp tro tàn núi lửa hóa thạch là ba nhóm dấu chân. Sinh vật có dấu chân lớn có lẽ đã dẫn đầu sinh vật có dấu chân nhỏ hơn dọc theo đoạn đường uốn lượn dài khoảng 27m xuyên qua vùng đất một thời phủ đầy bụi.
Các dấu chân đó được tạo thành bởi tổ tiên sơ khai của loài người, những sinh vật đã tự tin đi dạo trên vùng đất này 3,66 triệu năm trước, rất lâu trước khi loài người thông minh, Homo sapiens, xuất hiện trên Trái Đất.
Ngang dọc quanh dấu chân là vết tích của những chú thỏ, linh dương, linh cẩu, khỉ đầu chó, hươu cao cổ và tê giác thời cổ đại. Các sinh vật có lẽ đã kéo đến đây vì có một hố nước từng nằm ở vị trí gần đó.
Chúng ta chỉ có thể phán đoán những gì mà tổ tiên loài người đã làm khi họ để lại dấu vết mờ nhạt trên bề mặt Trái Đất trong suốt thời kỳ cuối của thế Thượng Tân (thế Pliocene). Liệu là những người đó đang săn đuổi con mồi, rình rập các con thú đến hố nước, hay đang đi dạo sau bữa tối?
Nhưng có một điều rõ ràng nhất mà bất cứ ai nhìn dấu chân cũng thấy rõ. Đó là cho dù đang làm gì lúc đó, thì những tổ tiên đó của chúng ta cũng làm trong tư thế đứng trên hai chân.
Các dấu chân này đã bị chôn vùi dưới đất ở vùng Laetoli, gần Hẻm núi Olduvai của Tanzania, một khu vực có nhiều hóa thạch tổ tiên tiền sử của loài người. Đó là những bằng chứng sớm nhất không thể bác bỏ cho thấy tổ tiên xa xôi của con người đã chuyển từ việc di chuyển bằng bốn chân thành hai chân, trở thành "loài đi hai chân".
Lý do chính xác vì sao tổ tiên của chúng ta đứng thẳng người lên và bắt đầu đi bằng hai chân đến giờ vẫn còn là bí ẩn. 



The Laetoli footprints in Tanzania 
Bản quyền hình ảnh Africa Photobank / Alamy Stock Photo
Image caption Dấu chân Laetoli tại Tanzania

Cộng đồng nghiên cứu khoa học đến nay vẫn chưa thống nhất được với nhau về lý do khiến người tiền sử từ bỏ tập tính di chuyển trên bốn chân và chuyển sang đi bằng hai chân, mặc dù đây rõ ràng là một trong những đặc điểm rõ ràng nhất định hình giống loài chúng ta.
Tuy nhiên, một nghiên cứu mới nhất giờ đây đã cung cấp những bằng chứng mới lý giải nguyên do dẫn đến sự thay đổi này.

Dấu vết của sự tiến hóa từ bốn chân lên hai chân

Việc biết được lý do bằng cách nào mà chúng ta trở thành sinh vật đi hai chân hứa hẹn sẽ giải đáp được rất nhiều câu hỏi về quá trình tiến hóa của loài người.
Đại đa số chúng ta đều thừa nhận rằng việc chọn tư thế đứng thẳng vĩnh viễn mở ra nhiều cơ hội mới cho tổ tiên loài người, giúp họ có khả năng sờ mó, khám phá, hái lượm, ném vứt và học hỏi.
"Đứng thẳng dậy để bước đi đã giúp giải phóng hai tay để mang vác và sử dụng các công cụ," Chris Stringer, nhà nhân chủng học hàng đầu tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên London lý giải. "Điều này cho phép đi bộ quãng đường dài và có thể chạy được lâu hơn. Sau cùng, đó có thể là bước tiến hóa then chốt khiến bộ não tổ tiên chúng ta phát triển."
Tổ tiên "người" sớm nhất của chúng ta được cho là đã tách ra từ tổ tiên chung với loài tinh tinh khoảng từ 13 triệu năm đến sáu triệu năm trước. Hầu hết các khoa học gia đồng ý rằng các sinh vật này sống trên cây cao ở phần lớn Châu Phi thời đó.
Chúng ta chỉ cần quan sát trẻ sơ sinh để thấy một số dấu tích còn sót lại từ thời sống trên cây. Đặt một ngón tay dưới các ngón chân của bé và chúng sẽ tự nhiên cuộn các ngón chân bé nhỏ vòng quanh để bám lấy. Trên cây, bọn linh trưởng con cũng bám lấy mẹ và cành cây từ khi chào đời. Nếu không bám chặt, chúng sẽ rơi xuống và mất mạng.
Tổ tiên của con người đã trải qua rất nhiều biến đổi về giải phẫu học để chuyển từ việc di chuyển trên bốn chân sang hai chân.
Xương chậu biến đổi từ hình dáng cao và phẳng từ phía trước ra sau, thành dáng ngắn hơn và tròn hơn, trợ lực tốt hơn cho cơ bắp để di chuyển hông khi bước đi thẳng đứng.
Góc của xương đùi hướng vào trong hơn, khiến bàn chân chúng ta có vị trí chính xác ngay ở trung tâm cơ thể. Xương sườn cũng uốn con, tạo thành hình chữ S đặc thù, giúp nâng đỡ trọng lượng cơ thể qua hông và khiến phần đầu được đỡ êm ái hơn khi cơ thể bước đi. Cuối cùng, các chi dưới của chúng ta phát triển dài hơn, giúp ta bước đi những bước dài và hiệu quả hơn.
Bàn chân chúng ta cũng biến đổi. Loài vượn có ngón chân dài và có thể cầm nắm để bám cành cây. Ngón chân con người ngắn hơn và xếp thành hàng thẳng cạnh các ngón khác để tạo ra lực bẩy ở cuối mỗi bước chân.
Tại sao lại có biến đổi này và chúng đã diễn ra thế nào?



Chimpanzees' feet are built for grasping, not walking 
Bản quyền hình ảnh Cameron Spencer/Getty Images
Image caption Chân của tinh tinh có chức năng bám giữ chứ không phải để bước đi


Giả thuyết tiến hóa do biến đổi khí hậu

Một thuyết khá nổi bật, có từ lâu, cho rằng biến đổi khí hậu chính là chìa khóa dẫn đến quá trình thay đổi này.
Theo thuyết này thì vài triệu năm trước, Châu Phi bắt đầu mất đi cách cánh rừng vì các đồng cỏ phát triển, vì thế tổ tiên của chúng ta dần dần rời khỏi các khu rừng xa xưa và chuyển đến sống trên thảo nguyên.
Chuyển thành loài hai chân có vẻ hợp lý hơn trong điều kiện môi trường ít cây. Đứng thẳng giúp con người nhìn rộng hơn trên đồng cỏ và phát hiện thú săn mồi và con mồi.
Tổ tiên loài người biết đứng thẳng dường như có cơ hội sinh tồn cao hơn và sẽ di truyền lại gene của họ cho thế hệ sau, vì thế người ta có thể dễ dàng tưởng tượng ra cách mà chọn lọc tự nhiên đã dẫn đến việc biến đổi từ tư thế đứng thẳng tạm thời thành cách di chuyển vĩnh viễn bằng tư thế thẳng đứng.
Các di chỉ hóa thạch cho thấy việc đi trên hai chân có thể xảy ra khá sớm trong quá trình tiến hóa của chúng ta.
Chẳng hạn như các mảnh xương sọ hóa thạch được tìm thấy ở Chad, khu vực ở phía tây của trung Phi, vào năm 2001 và 2002. Xương sọ của sinh vật giống khỉ này thuộc về loài Sahelanthropus tchadensis, và sinh vật này sống cách đây khoảng bảy đến sáu triệu năm trước.
Phần đáy hộp sọ cho thấy cổ gắn liền trực tiếp ngay dưới đầu với vị trí thẳng đứng, giống như hộp sọ của chúng ta, trong khi loài tinh tinh thường giữ cổ chúng ở chiều ngang.
Điều này cho thấy, theo những người khám phá ra hộp sọ, là có thể loài Sahelanthropus đã di chuyển bằng hai chân.
Và nếu loài Sahelanthropus không đi bằng hai chân, thì một tổ tiên khác của loài khỉ sống khoảng sáu triệu năm trước có thể đã làm được việc đó.
Sinh vật này, được gọi là Orrorin tugenensis, có vẻ như đã có xương đùi rất giống với hình dáng của người hiện đại, cho thấy nó đã bước đi trong tư thế thẳng người.
Tuy nhiên, nhiều người cho rằng vẫn còn một số vấn đề chưa rõ trong thuyết về thảo nguyên. Rõ ràng nhất là việc khí hậu Châu Phi không đủ khô hạn để tạo ra thảo nguyên cho tới tận một thời gian dài sau khi loài Sahelanthropus và Orrorin đã tiến hóa.



A skull of Sahelanthropus tchadensis 
Bản quyền hình ảnh Sabena Jane Blackbird / Alamy Stock Photo
Image caption Xương sọ của loài Sahelanthropus tchadensis, sống cách đây chừng 6 triệu năm, có phần xương cổ gắn trực tiếp với đầu ở tư thế thẳng đứng

Trong thực tế, khí hậu Châu Phi đã trải qua rất nhiều chu kỳ cùng với sự tiến hóa của loài người, mỗi chu kỳ đều dẫn đến biến đổi trên cảnh quan thực vật. Không hẳn là có đợt biến đổi sinh cảnh nào thúc đẩy sự thay đổi căn bản về lối sống như chuyển từ cách di chuyển bằng bốn chân thành hai chân.
Và sau đó, còn một vấn đề nhỏ nữa. Đó là tại sao có rất nhiều các loài động vật khác đã thích nghi với thảo nguyên và vẫn di chuyển bằng bốn chân? Thậm chí còn có một số loài linh trưởng khác đã trải qua thời gian khá dài trên đồng cỏ, như loài khỉ đầu chó, nhưng chúng vẫn di chuyển bằng bốn chân.

Giả thuyết tiến hóa từ đời sống leo trèo trên cây

Cuối cùng, còn một điểm rất thú vị ở hóa thạch tổ tiên người đi hai chân. Đó là các hóa thạch này được tìm thấy bên cạnh xương hóa thạch của một số loài sống trong rừng và một số hóa thạch cây cỏ khác.
"Nghe có vẻ khác thường, nhưng có lẽ hành vi này thực sự được bắt đầu từ trên cây," ông Stringer cho biết. Ông cũng đề cập đến nghiên cứu gần đây cho thấy tổ tiên của loài người đã di chuyển bằng hai chân một thời gian dài trước khi họ rời khỏi rừng rậm.
Các quan sát trên đười ươi orangutan ở Sumatra cho thấy loài linh trưởng này di chuyển qua lại trong cây rừng bằng cách đi trên cành cây bằng hai chân, dùng cánh tay đỡ sức nặng cơ thể hoặc để đu cành cây. Điều này giúp chúng có thể di chuyển qua các nhánh cây nhỏ hơn so với cách mà các loài vượn bốn chân nặng nề thường làm, giúp chúng hái được nhiều quả hơn và dễ dàng chuyền từ cây này sang cây khác hơn.



Orangutans can walk on branches with their feet 
Bản quyền hình ảnh Paula Bronstein/Getty Images
Image caption Đười ươi orangutan có thể bước đi trên các cành cây bằng chân

Tổ tiên của con người có lẽ đã tách khỏi nhánh tiến hóa của loài đười ươi này khoảng 10 triệu năm trước, mặc dù đười ươi orangutan có khớp gối rất giống với người hiện đại.
Theo Robin Crompton, nhà nhân chủng học tại Đại học Liverpool, và Susannah Thorpe, một nhà linh trưởng học tại Đại học Birmingham, điều này cho thấy nguồn gốc của loài đi hai chân phải có từ rất lâu trước thời điểm mà người ta trước nay vẫn tin vào.
"Loài orrorin có hàng loạt các đặc tính khiến tôi thấy rất thuyết phục khi cho rằng đã có một sự kết hợp khá tốt cho loài sống trên cây... có tay hỗ trợ hai chân như chúng tôi tưởng tượng," Crompton giải thích.
Đây là thuyết đang dần có căn cứ hơn, nhưng nó cũng chỉ là một trong hàng loạt ý tưởng được đưa ra để giải thích vì sao tổ tiên của chúng ta ban đầu đứng trên hai chân.

Nhiều giả thuyết khác biệt

Một số nhà nghiên cứu đã liên hệ sự biến đổi này đến những thay đổi trong chiến thuật săn bắt. Loài vượn hai chân có thể ném vũ khí và săn bắt những con mồi lớn hơn, di chuyển nhanh hơn.
Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng tư thế đứng thẳng giúp tổ tiên chúng ta cảm thấy mát mẻ hơn dưới sức nóng của Châu Phi. Thêm vào đó, ý tưởng này cũng giải thích vì sao tổ tiên chúng ta rụng lông và trở thành loài vượn trần.
Đứng thẳng có nghĩa là chỉ có phần cao nhất của cơ thể cần có tóc để tránh mặt trời chói chang, trong khi đó cơ thể rụng lông ở các phần khác nhằm giúp làm mát tốt hơn khi có làn gió thổi qua.
Các tranh luận vẫn ồn ào xung quanh việc chính xác là các đặc điểm và khả năng khác biệt này xảy ra tại thời điểm nào trong quá trình tiến hóa của loài người, và liệu chúng có xảy ra đủ sớm để thúc đẩy tổ tiên của chúng ta đứng thẳng lên trên hai chân hay không.
Nhưng có một số nghiên cứu gần đây chỉ ra có thể có một bước trung gian lớn trong quá trình tiến lên hay chân của chúng ta đã bị bỏ sót. Và điều này đưa ta quay lại với dấu chân hóa thạch ở Tanzania.

Giả thuyết tiến hóa từ đời sống leo trèo vách đá

Một số nhà nghiên cứu giờ đây sử dụng công nghệ quét 3D và mô hình hóa trên máy tính để tái dựng kiểu một số loài bước đi, thông qua nghiên cứu dấu chân tiền sử mà chúng bỏ lại. Kết hợp điều này với những gì chúng ta biết về đặc điểm giải phẫu học của chúng có thể giúp các nhà khoa học so sánh chi tiết giữa dáng đi của tổ tiên xa xưa và dáng đi chúng ta ngày nay.
Hai nghiên cứu gần đây sử dụng cách tiếp cận này để nghiên cứu dấu chân Laetoli. Các dấu chân được cho là thuộc về một số cá thể cùng loài với hóa thạch Lucy nổi tiếng, là loài Australopithecus afarensis.
Sống cách đây khoảng 3,9 -2,9 triệu năm, loài này được cho là đã trải qua rất nhiều biến đổi giải phẫu học để tổ tiên chúng ta có thể bước đi thẳng đứng, thậm chí có thể còn có những cách di chuyển nào đó khác nữa trước khi sinh vật đó bước đi thẳng đứng.



Mẫu xương hóa thạch 'Lucy' Australopithecus afarensisBản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Mẫu xương hóa thạch 'Lucy' Australopithecus afarensis

Một nghiên cứu do các nhà nghiên cứu tại Viện Nhân chủng học Tiến hóa Max Planck và Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Hoa Kỳ tiến hành cho rằng hóa thạch Lucy và họ tộc của bà đã bước đi theo cách hơi khác thường.
Những tái tạo từ dấu chân Laetoli được các nhà nghiên cứu công bố hồi tháng 8/2016 cho rằng loài A. afarensis đã bước đi bằng hai chân với đầu gối khuỳnh ra thành tư thế hơi khòm người. Điều này tất nhiên không gây hậu quả gì khủng khiếp khi di chuyển trên đồng cỏ dù đi với tốc độ nào.
"Có vẻ như họ không đi lại với kiểu cực kỳ khác so với người hiện đại, nhưng dấu chân Laetoli vẫn cho thấy một chút khác biệt nhỏ có thể khiến việc di chuyển trên hai chân là cách đi rất tốn sức," Kevin Hatala từ Viện Nhân chủng học Tiến hóa Max Planck, người đứng đầu nhóm nghiên cứu, cho biết.
Và câu chuyện ngày càng trở nên rắc rối hơn.
Một phân tích mới về xương sọ Lucy, cũng được công bố vào tháng 8/2016, cho thấy bà bị gãy xương nhiều chỗ trước khi chết, và điều này có vẻ là do ngã từ nơi rất cao.
Nghiên cứu này và một nghiên cứu khác do cùng nhóm thực hiện và công bố vào tháng 11/2016 cũng cho thấy loài A. afarensis có thể đã dành nhiều thời gian để leo trèo cây.
Một số nghiên cứu mới tìm hiểu một góc độ đáng kinh ngạc giờ đây cho thấy một khả năng khác: Lucy có thể là một người leo núi đá.
"Về góc độ tiến hóa, sẽ dễ dàng hơn khi một con vượn dần thích nghi từ việc leo trèo tới cách di chuyển trên địa hình gồ ghề và leo trèo qua chúng, dần dần dành nhiều thời gian hơn trên mặt đất, và cuối cùng, dành nhiều thời gian hơn trên những cánh đồng bằng phẳng, thay vì việc một con vượn ngay lập tức đứng thẳng dậy và đi dạo trên đồng cỏ," Isabbelle Winder, một nhà nhân chủng học cổ đại tại Đại học York nhận định.
Trong một nghiên cứu được công bố năm 2015, Winder và đồng nghiệp của bà cho rằng có thể đã có biến đổi với cảnh quan địa chất khiến tổ tiên của chúng ta dần định hình việc di chuyển bằng hai chân.



Tư thế đứng thẳng khiến đôi tay của người cổ đại được giải phóng, từ đó sử dụng được các công cụ thô sơ 
Bản quyền hình ảnh Pablo Blazquez Dominguez/Getty Images
Image caption Tư thế đứng thẳng khiến đôi tay của người cổ đại được giải phóng, từ đó sử dụng được các công cụ thô sơ

Các nhà nghiên cứu cho thấy tại nhiều khu vực ở Đông Phi nơi đa số hóa thạch người cổ xưa được tìm thấy cũng là những nơi có biến đổi địa chất. Sống trong Thung lũng Rift xô bồ, tổ tiên loài người ở ngay giữa những địa hình bất ổn, rải rác những vách đá cheo leo.
"Tôi nghĩ chúng ta đã thích nghi với địa hình không ổn định và bàn chân của chúng ta cho thấy điều đó," Matthew Bennett, một nhà nhân chủng học tại Đại học Bournemouth nhận xét. "Đông Phi có rất nhiều vách đá và mỏm núi tạo ra các điểm tránh thú săn mồi và các chỗ ngủ an toàn."

Bàn chân đa năng

Công trình của Bennett tập trung vào tìm ra các hướng đi mới trong nghiên cứu bàn chân loài người và so sánh dấu chân này bàn chân tổ tiên chúng ta. Sử dụng công nghệ quét 3D, ông đã tạo ra mô hình dấu chân Laetoli và những dấu chân khác ở Ileret, Kenya cách đây khoảng 1,5 triệu năm.
Các mô hình này cho thấy loài này đã đi lại như chúng ta ngày nay và có những khác biệt so với con người hiện đại ở các đặc điểm tự nhiên ở cách di chuyển.
Bennett tin rằng bàn chân người thực sự là một công cụ khéo léo và linh hoạt hơn chúng ta tưởng, có lẽ vì chúng ta thường bọc kín bàn chân mình trong giày.
"Chúng ta nhìn nhận bàn chân chỉ là một đòn bẩy cho phép chúng ta nhấc chân lên khi đi," ông nói. "Đó là một hành động bị đơn giản hóa quá mức. Chúng ta có rất nhiều khả năng linh hoạt ở bàn chân cho phép ta làm được nhiều thứ.
"Bạn có thể trèo lên cây nếu bạn cần, bạn có thể trèo lên trú ẩn ở một dốc đá, hoặc bạn có thể làm tốt tương tự, khi di chuyển từ nguồn nước này đến nguồn nước khác trên nền đất trơn trượt."
Vì thế, trong khi các dấu vết mờ nhạt ở nhiều nơi như Laetoli đem lại mối liên hệ mạnh mẽ với tổ tiên của con người, có vẻ chúng còn tiết lộ một điều là bàn chân chúng ta không quá khác biệt với bàn chân cổ xưa, những bàn chân đã để lại dấu vết từ hơn ba triệu năm về trước.
Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Earth.
 http://www.bbc.com/vietnamese/vert-earth-38886219

No comments: