Monday, February 27, 2017

CUỘC CHIẾN ĐÔNG DƯƠNG

Đường dẫn tới Cuộc chiến Đông Dương lần Ba




Vợ chồng Đặng Tiểu Bình cùng vợ chồng tổng thống Mỹ Jimmy Carter tại Nhà Trắng ngày 31/1/1979     Bản quyền hình ảnh Getty Images            

Trong cuộc "kháng chiến chống Mỹ cứu nước", cách mạng Việt Nam có vẻ là ngọn cờ đầu không chỉ của cuộc đấu tranh giải phóng và chống thực dân ở Thế giới thứ Ba, mà còn là biểu tượng tiên phong của chủ nghĩa quốc tế cộng sản khi chống lại một "đế quốc" và chính thể "tư sản suy đồi".

Giành được ủng hộ mạnh mẽ của cả phe cộng sản lẫn lực lượng tiến bộ trong Phong trào Không liên kết và cả ở phương Tây, sự sụp đổ của Sài Gòn dường như là lý do để cả thế giới ăn mừng.
Nhưng, 5 năm sau, Cộng hòa XHCN Việt Nam đã dính vào cuộc chiến với Campuchia và chịu các đợt tấn công của Trung Quốc. Mặc dù Việt Nam đủ sức lật đổ phe Khmer Đỏ tàn ác và đẩy lùi cuộc tấn công từ phương Bắc, Hà Nội bị quốc tế chỉ trích nặng nề vì những hoạt động quân sự. Phương Tây, cũng như ASEAN, đã đi theo Trung Quốc để cáo buộc Việt Nam là vệ tinh của Liên Xô, nuôi dưỡng xu hướng bành trướng. Kết quả Việt Nam rơi vào hố sâu chính trị sau 1979, và mãi đến 10 năm sau mới bước ra khỏi tình trạng cô lập.
Để hiểu được "sự lên voi xuống chó" của Việt Nam, ta cần đặt cuộc chiến Đông Dương lần Ba trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh và quan hệ giữa các nước châu Á cuối thập niên 1970.
Trong thập niên này, các liên minh thay đổi đã tác động mạnh tới diện mạo toàn cầu và khu vực. Bắt đầu bằng chính sách hòa hoãn với Liên Xô và làm thân với Trung Quốc của Nixon, và cùng với chính sách mở rộng chiến tranh sang Campuchia đầu thập niên 1970, quan hệ của Hà Nội với các đồng minh gặp trắc trở. Trung Quốc và Việt Nam bắt đầu cạnh tranh, thay vì hợp tác, tại Đông Dương.
Dù vậy, nhu cầu đánh Mỹ và các đồng minh trong vùng khiến Hà Nội khi đó phải duy trì hữu hảo với Bắc Kinh và Moscow.
Bản quyền hình ảnh Getty Images Ảnh tư liệu thập niên 1970: Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông tiếp lãnh đạo Khmer Đỏ Pol Pot (giữa) và Ieng Sary                

        Nhưng sau 1975, không phải mọi vết thương đều lành. Đặc biệt, quan hệ của Việt Nam với các đồng minh Á châu tiếp tục xấu đi vào thời điểm Hà Nội cần bạn nhất. Trước khó khăn chồng chất do sự chuyển đổi từ chiến tranh sang hòa bình, Việt Nam không thể chỉ dựa vào Liên Xô mà tìm viện trợ tái xây dựng của Mỹ, nhất là khi hỗ trợ của Trung Quốc giảm bớt. Trong lúc Việt Nam đối diện các vấn đề nội ngoại chồng chất, Khmer Đỏ thôi che dấu tình cảm bài Việt Nam để theo đuổi chính sách thù nghịch cùng lúc với chiến dịch diệt chủng trong nước sau 1975.

Lợi dụng quan hệ Việt - Trung xấu đi, chính quyền Pol Pot giáng cú đấm cuối cùng vào liên minh cộng sản Á châu. Trung Quốc cũng lợi dụng mâu thuẫn Xô - Mỹ và lo ngại về sự bành trướng của Liên Xô ở thế giới thứ Ba, để thu phục ủng hộ của phương Tây trong việc trừng phạt Việt Nam. Khác với cuộc chiến chống Mỹ, bộ máy ngoại giao Hà Nội không đấu được với sự công kích của đối phương và sau 1979, Việt Nam hứng chịu sự cô lập quốc tế.

Từ chiến tranh tới hòa bình (1975-77)

Mặc dù giao tranh giữa Mỹ và Việt Nam cộng sản kết thúc năm 1973 và chấm dứt hoàn toàn năm 1975, Washington và Hà Nội tiếp tục cuộc chiến ngoại giao.
Chính quyền Ford đóng băng tài sản Nam Việt Nam ở Mỹ và sau đó áp đặt cấm vận ngày 16.5.1975. Hà Nội thì muốn bình thường hóa thật nhanh chóng với Washington với điều kiện Mỹ đồng ý viện trợ kinh tế như đã cam kết trong Điều khoản 21 của Hiệp định Hòa bình Paris.
Khi Bộ Ngoại giao Mỹ từ chối nhượng bộ, lấy lý do Việt Nam vi phạm hiệp định từ 1973 tới 1975, Hà Nội dùng vũ khí còn lại trước Washington: bác bỏ quyền tìm kiếm 2000 lính Mỹ mất tích (MIA).
Mặc dù Việt Nam không muốn cắt đứt trao đổi ngoại giao với Washington, họ vẫn bám chặt đòi hỏi viện trợ kinh tế làm điều kiện bình thường hóa và giải quyết vấn đề MIA. Trong thời gian sắp tới bầu cử tổng thống 1976, Ford gia tăng ngôn từ thù địch với Hà Nội, nhấn chìm quan hệ song phương trong phần còn lại của nhiệm kỳ tổng thống.
Hà Nội quay sang các đồng minh cộng sản. Mùa thu 1975, Tổng Bí thư Lê Duẩn đi Trung Quốc và Liên Xô. Trong khi Trung Quốc la rầy Lê Duẩn vì chính sách ngoại giao, Nga cam kết viện trợ lâu dài cho Việt Nam.
Sau khi giành chính quyền, Pol Pot đuổi dân Việt Nam ra khỏi Campuchia và không chịu thương lượng các vấn đề biên giới với Việt Nam. Vào năm 1976, mặc dù Trung Quốc thân thiện hơn với Campuchia, quan hệ Việt - Trung cũng chưa hoàn toàn đổ vỡ vì Bắc Kinh vẫn thúc giục Campuchia tìm giải pháp ngoại giao về vấn đề biên giới với Việt Nam. Tạm gác khao khát giành lại lãnh thổ Khmer Krom ở miền Nam Việt Nam, Khmer Đỏ tiến hành cuộc cách mạng mà rồi sẽ giết chết hàng triệu người Campuchia.

Từ hòa bình sang chiến tranh (1977-79)

Nhưng sang năm 1977, chính quyền Pol Pot hướng ra bên ngoài và như thế, đã thay đổi không chỉ bức tranh khu vực mà cả quan hệ quốc tế thời cuối Chiến tranh Lạnh.
Tháng Tư 1977, quân Khmer Đỏ đánh sáu tỉnh biên giới Việt Nam. Bắc Kinh cũng gia tăng viện trợ quân sự và ủng hộ chính trị cho Khmer Đỏ. Đáp lại, Việt Nam bắt đầu thắt chặt kiểm soát với người Hoa trong nước, khuyến khích người Hoa nhập tịch và chuyển họ ra khỏi các vùng biên giới. Khi Khmer Đỏ tấn công lần nữa vào tháng Chín, Hà Nội không còn thái độ hòa hoãn mà phản công vào ngày 25.12. Sáu ngày sau, Campuchia từ chối đàm phán và xóa bỏ quan hệ với Việt Nam.
Trong năm 1977, quan hệ với chính quyền Carter có vẻ khấp khởi hy vọng. Phái đoàn Mỹ đầu tiên của Leonard Woodcock đến Việt Nam. Mặc dù Woodcock thuyết phục được Hà Nội hợp tác đầy đủ về vấn đề MIA, nhưng Việt Nam vẫn đòi có cam kết viện trợ trước khi bình thường hóa.
Hà Nội tưởng rằng việc công bố cam kết viện trợ bí mật của Nixon sẽ làm mạnh thêm đòi hỏi, nhưng nó lại chỉ càng làm dư luận Mỹ giận dữ. Mặc dù Quốc hội Mỹ không thừa nhận lời hứa của Nixon và cấm mọi viện trợ cho Việt Nam, chính quyền Carter vẫn dự định có thêm hội đàm với Hà Nội đầu năm 1978.
Nhưng năm 1978 chứng kiến sự chấm dứt ngoại giao và chiến tranh mở màn trong lúc các sự kiện khu vực và quốc tế vượt ra ngoài kiểm soát của Hà Nội.
Tháng Hai 1978, lãnh đạo Việt Nam quyết định bảo trợ cho một cuộc tổng nổi dậy ở Campuchia để lật đổ Pol Pot trong khi quân của họ đụng độ với Trung Quốc ở biên giới phía bắc.
Sang mùa xuân năm ấy, người Hoa bắt đầu chạy khỏi các thành phố và thị trấn của Việt Nam. Ngày 28.6, Việt Nam gia nhập Comecon nhưng vẫn hy vọng có quan hệ tốt hơn với Mỹ.
Không may cho Hà Nội, Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ, Zbigniew Brzezinski, chiến thắng trong cuộc đấu với Ngoại trưởng Cyrus Vance trong câu hỏi bình thường hóa với Việt Nam. Carter đồng ý với Brzezinski rằng bình thường hóa với Hà Nội sẽ gây tổn hại cho quan hệ với Bắc Kinh.
Ngày 3.11, Hà Nội ký hiệp định tương trợ quốc phòng với Moscow (nhắm trực tiếp vào Trung Quốc) và lên kế hoạch tiến vào Campuchia. Ngày 25.12, quân Việt Nam, với hỗ trợ của Liên Xô, vượt đường biên giới phía tây.
Quân Việt Nam giải phóng Phnom Penh ngày 7 tháng Giêng 1979, lật đổ chính thể Khmer Đỏ tàn ác. Nhưng những trận đánh lớn hơn của Hà Nội còn chưa đến.
Vào giữa tháng Hai, Bắc Kinh hiệp lực với các lãnh đạo Asean và Mỹ để trừng phạt và cô lập Việt Nam vì sự xâm lấn và chiếm Campuchia. Mặc dù bác bỏ mọi can dự, Washington bật đèn xanh cho Bắc Kinh tấn công Việt Nam.
Ngày 17.2, Trung Quốc bắt đầu "trừng phạt", nhưng cuối cùng vẫn không đạt được mục tiêu buộc Việt Nam đưa quân từ Campuchia về biên giới phía bắc.
Dẫu vậy Bắc Kinh thành công khi cứu tàn quân Khmer Đỏ, lực lượng được cho tá túc ở Thái Lan và cũng thành công trong mô tả Hà Nội như một nước hiếu chiến trên trường quốc tế.
Bài viết từng đăng ở BBC Tiếng Việt năm 2009. Khi đó tiến sĩ Nguyễn Liên Hằng đang dạy ở Khoa Lịch sử, Đại học Kentucky, Hoa Kỳ. Hiện nay bà đang dạy ở Đại học Columbia, New York.

HỆ 7 HÀNH TINH GIỐNG TRÁI ĐẤT

Phát hiện một hệ gồm 7 hành tinh gần giống Trái đất

mediaMô tả của một nghệ sĩ về bề mặt hành tinh ngoài Trái đất mới được kính viễn vọng không gian Spitzer phát hiện và công bố ngày 22/02/2017.NASA /REUTERS
Các nhà thiên văn học đã phát hiện một hệ gồm 7 hành tinh có kích thước giống như Trái đất, trong đó 3 hành tinh có thể có những đại dương và như vậy là có thể có sự sống. Công trình nghiên cứu về các hành tinh này vừa được công bố trên tạp chí khoa học Nature hôm qua, 22/02/2017.
Bảy hành tinh nói trên có thể có nhiệt độ gần với nhiệt độ Trái đất, xoay chung quanh một sao nhỏ mang tên TRAPST-1, nằm trong dải Ngân hà cách Trái đất 40 năm ánh sáng. Sao nhỏ này không tỏa sáng nhiều và cực lạnh.
Ê-kíp quốc tế, đứng đầu là nhà thiên văn học người Bỉ Michael Gillon, Đại học Liège, đã phát hiện từ cuối năm 2015 ba trong số các hành tinh nói trên, nhờ kính viễn vọng TRAPIST của đài thiên văn châu Âu ESO, đặt tại Chilê. Nhưng chủ yếu là nhờ kính viễn vọng không gian Spitzer của cơ quan NASA mà các nhà thiên văn học đã tiến nhanh trong việc quan sát và cuối cùng họ đã phát hiện toàn bộ 7 hành tinh có kích thước gần bằng Trái đất.
Theo lời ông Gillon, đây là lần đầu tiên các nhà khoa học phát hiện cùng lúc nhiều hành tinh có kích thước bằng Trái đất. Việc nghiên cứu về hệ hành tinh này sẽ được đẩy mạnh với việc sử dụng viễn vọng kính James Webb, sẽ được cơ quan NASA phóng lên năm 2018.
Theo lời ông Amaury Triaud, đại học Cambridge, đồng tác giả công trình nghiên cứu, các hành tinh nói trên là nơi lý tưởng để tìm dấu vết của sự sống ngoài Trái đất.
http://vi.rfi.fr/quoc-te/20170223-phat-hien-mot-he-gom-7-hanh-tinh-gan-giong-trai-dat
 

Wednesday, February 22, 2017

CHIẾN TRANH VIỆT TRUNG 1979

  

Cuộc chiến 1979 thực sự đã 'bắt đầu từ trước'

  • 17 tháng 2 2017
Việt NamBản quyền hình ảnh Hoàng Đình Nam/AFP
Image caption Cuộc chiến trên Biên giới Việt - Trung khởi phát từ ngày 17/2/1979 đã trôi qua được 38 năm.

Cuộc chiến nổ ra ngày 17/2/1979 trên biên giới Việt - Trung thực ra đã nổ ra từ lâu trước đó, theo một nhà nghiên cứu và giảng dạy lịch sử từ Đại học Huế của Việt Nam.
Bình luận với BBC hôm thứ Sáu nhân 38 năm đánh dấu cuộc chiến đẫm máu trên biên giới phía Bắc của Việt Nam sau khi Trung Quốc khởi binh tấn công trên toàn tuyến biên giới giữa hai nước, ông Hà Văn Thịnh nói:
Một số người 'bị câu lưu' vì tưởng niệm 17/2
Sách ở Nông thôn và cuộc chiến 1979
Vì sao VN in sách ca ngợi Đặng Tiểu Bình?
Nhìn lại cuộc chiến biên giới Việt-Trung
Đặng và Hứa 'khai đao' ngày 17 tháng 2

"Tôi quan niệm hơi khác mọi người một chút, tôi cho rằng cuộc chiến tranh năm 1979 đã thực sự bắt đầu từ 19/01/1974 khi Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa, đó là bắt đầu cuộc chiến tranh Việt Nam.
"Bắt đầu năm 1979 là đỉnh cao, năm 1988 nó biến thái, ngày 14/3/1988 chiếm Gạc Ma, một phần của Trường Sa, rồi tiếp đó, chúng ta biết đầu thế kỷ 21, nào là thành phố Tam Sa, nào là đường lưỡi bò (bản đồ đường chín đoạn).
"Rõ ràng là cuộc chiến tranh năm 1979 tôi nhấn mạnh là nó bắt đầu từ năm 1974, đến bây giờ nó vẫn đang tiếp diễn...
"Theo quan điểm của tôi, chừng nào mà đất đai, biển đảo, máu thịt của Tổ quốc vẫn bị xâm lược Trung Quốc chiếm đóng, thì chừng đó chưa thể coi là bạn được". 


Sử gia từ Huế chia sẻ một thống kê riêng của ông theo đó chỉ 5-10% sinh viên không thuộc ngành sử mà ông đã giảng dạy trong những dịp đánh dấu sự kiện biết được ngày 17/2/1979 là ngày gì và có ý nghĩa ra sao.
Khi được hỏi ông có tư vấn gì cho giới soạn thảo sách giáo khoa, giảng dạy, nghiên cứu và phổ biến lịch sử ở Việt Nam liên quan sự kiện trên và cuộc chiến Việt - Trung bắt nguồn từ đó, ông Hà Văn Thịnh nói:
"Trong hội đồng soạn thảo sách giáo khoa, có không ít các thầy của tôi, bây giờ bảo khuyên các thầy thì nó không đúng, nhưng với tư cách một học trò, tuy lớn tuổi rồi và cũng am hiểu đôi chút, tôi rất muốn góp ý là kính đề nghị các thầy, kính đề nghị các đồng nghiệp bằng tuổi tôi hoặc ít hơn tuổi tôi là cần phải tôn trọng lịch sử, cần phải tôn trọng sự thật.
"Chứ không thể nào chung chung, rồi mơ hồ, nửa biết, nửa không như vậy, trắng không ra trắng, đen không ra đen...," ông Hà Văn Thịnh, người có nhiều thập niên giảng dạy và nghiên cứu sử học tại Đại học Huế nêu quan điểm với BBC.
'Phải tạo áp lực'
Cũng hôm 17/2/2017, BBC đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quang Thạch, nhà chủ xướng chương trình Sách hóa Nông thôn ở Việt Nam, ông cho BBC hay, hiện tại trong sách giáo khoa phổ thông ở nhà trường Việt Nam chí có vỏn vẹn '11 dòng' nói về cuộc chiến Việt - Trung năm 1979 với sự kiện mà ông gọi đích danh là 'Trung Quốc xâm lược Việt Nam'.

Về ý nghĩa của việc người dân, nhất là giới trẻ, cần nắm được sự kiện 17/2/1979 nói riêng và những trang sử của quốc gia, kể cả những thăng trầm của dân tộc, nhà vận động văn hóa sách ở nông thôn Việt Nam nói:
"Những năm tháng, giai đoạn, những tấm thảm sử của đất nước, nếu người dân không biết, chúng ta phải luôn luôn nhắc nhở chính mình là một đất nước đánh lại, chống lại được ngoại xâm, trước hết chúng ta phải tự cường, tự lực, phải có sức mạnh và phải biết đến những tấm thảm sử của dân tộc để chúng ta cùng nhau lao động, học tập, cùng nhau đặt nền tảng cho sự phát triển của quốc gia, để chúng ta có một sức mạnh...
"Bản thân sức mạnh là sự tự kháng đối với những thế lực mà muốn bành trướng, xâm chiếm quốc gia, thành ra việc chúng ta phải nhắc lại những câu chuyện của lịch sử là nghiễm nhiên và mỗi chúng ta phải nỗ lực.
"Nếu trường hợp sách giáo khoa thời gian tới người ta chưa làm, thì chúng ta phải tạo áp lực xã hội, tạo dư luận để buộc người ta phải đưa vào. Đấy là chuyện đương nhiên.
"Còn một mặt nữa, với tư cách công dân, những người hiểu biết... phải biết phổ biến nó, nói với những người xung quanh mình, nói với những đứa trẻ, với đồng nghiệp, với bạn bè của mình để sự nhận biết về lịch sử được lan truyền trong dân chúng là việc nghiễm nhiên," ông Thạch nói với BBC hôm thứ Sáu.
Quý vị có thể bấm vào đường dẫn này để theo dõi toàn văn cuộc trao đổi giữa BBC với ông Nguyễn Quang Thạch hôm 17/2/2017.
 http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-39008535



Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 qua các con số


  • 20 tháng 2 2017

Đội khiêng cáng của dân quân Trung Quốc ngày 22/02/1979 chờ vượt biên giới sang Việt Nam hỗ trợ quân chính quy 
Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Đội khiêng cáng của dân quân Quảng Tây ngày 22/02/1979 chờ vượt biên giới sang Việt Nam đưa thương binh về
Sau cuộc chiến đẫm máu năm 1979 cho đến nay hai nước Trung Quốc và Việt Nam vẫn chưa công bố toàn bộ các con số thương vong, theo giới quan sát quốc tế.
Tuy nhiên, nhiều tài liệu của các học giả Phương Tây đã đề cập đến độ tàn khốc của cuộc chiến ngắn ngày này, gồm cả số quân tham chiến, số thương vong trong binh sỹ và thường dân Việt Nam bị giết.
Vì sao Đặng Tiểu Bình đánh VN năm 1979- - BBC Tiếng Việt
Đặng Tiểu Bình 'hiểu rõ lãnh đạo VN' - BBC Tiếng Việt
BBC Tiếng Việt giới thiệu các số liệu khác nhau:
SỐ QUÂN THAM CHIẾN
Peter Tsouras viết trên Military History Magazine:
Trung Quốc đã tập trung 200 nghìn quân thuộc 20 sư đoàn, cùng 400 xe tăng và 1.500 khẩu pháo. Lực lượng của Quân Giải phóng (PLA) lên tới 70 nghìn quân chỉ ở vùng giáp Lạng Sơn.
Sư đoàn Sao Vàng của Việt Nam bảo vệ Lạng Sơn bị Trung Quốc đẩy lui. Trong vòng vài ngày sau, quân Trung Quốc bao vây, xóa sổ sư đoàn này và biến Lạnh Sơn thành bình địa.
David Dreyer trong bài 'The 1979-Sino-Vietnamese-Conflict':
PLA chuẩn bị cho cuộc tấn công với 300-400 nghìn quân và khoảng 1.200 xe tăng cùng pháo binh, hỏa tiễn và các loại vũ khí hỗ trợ.
Ngày 17/02/1979, vào lúc 5 giờ sáng, chừng 100 nghìn quân Trung Quốc vượt biên giới vào Việt Nam sau các đợt pháo kích cấp tập.
Đối mặt với quân Trung Quốc ban đầu chỉ là 75-80 nghìn bộ đội địa phương và dân quân tự vệ Việt Nam.
Có kinh nghiệm của gần 30 năm chiến tranh, phía Việt Nam chống trả dữ dội và chia thành các đơn vị nhỏ, cấp tiểu đội, tiểu tổ để dùng cách đánh du kích chống lại quân xâm lăng.
Đồi núi được biến thành pháo đài với đường hầm, hố chông. Phía Trung Quốc không tiến nhanh như họ muốn và phải trì hoãn kế hoạch đánh chiếm Cao Bằng.
SỐ THƯƠNG VONG
Không bên nào công bố số thương vong chi tiết.
Peter Tsouras viết:
Trung Quốc chỉ thừa nhận có 7.000 quân tử vong và 15 nghìn bị thương nhưng các nguồn Phương Tây ước tính có 28 nghìn quân Trung Quốc bị giết và 43 nghìn bị thương.
Phía Việt Nam không nói số thương vong trong quân đội nhưng nói nhiều về số 100 nghìn thường dân bị thiệt mạng.
Bách khoa Toàn thư Anh, Britannica:
Quân Trung Quốc chiến đấu vô cùng tồi tệ chống lại dân quân tiền tuyến của Việt Nam.
Sau ba tuần giao tranh với con số thương vong 45 nghìn (Việt Nam nói là gây ra cho phía Trung Quốc) Quân Giải phóng đã phải rút về.
Nghĩa trang quân đội Trung Quốc sau cuộc chiến với Việt Nam 1979 
Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Nghĩa trang quân đội Trung Quốc sau cuộc chiến với Việt Nam 1979
Sam Brothers trong bài 'The Enemy of My Enemy: The Sino-Vietnamese War of 1979 and the Evolution of the Sino-American Covert Relationship' viết:
Phía Trung Quốc, theo một ước tính, có từ 20 nghìn đến 62.500 thương vong trong khi phía Việt Nam, dù số liệu còn mù mờ, là khoảng từ 35 nghìn đến 50 nghìn.
Nhưng cuộc xung đột chỉ xảy ra trong 27 ngày, với đúng 17 ngày giao tranh, mà đã tạo ra con số thương vong như vậy cho thấy sự man rợ (savage) của nó.
LIÊN XÔ ĐÃ LÀM GÌ?
Sam Brothers:
Liên Xô có các chuyến bay TU-95D từ Vladivostok về phía Nam để theo dõi tình hình.
Một tàu tuần dương lớp Sverdlov và một tàu khu trục lớp Krivak cũng được cử đến tham gia đơn vị hải quân gồm 17 tàu đã có mặt tại bờ biển Việt Nam.
Moscow cũng cử sáu chiếc phi cơ vận tải Antonov-22 đến Hà Nội ngày 23/02, và có hai chuyến bay Liên Xô và Bulgraia từ Calcutta tới Hà Nội ngày 26/02/1979.
Tuy thế, Liên Xô không tham gia trực tiếp vào cuộc chiến dù đã ký hiệp ước phòng thủ với Hà Nội.
CĂNG THẲNG HẬU CHIẾN
Trang GlobalSecurity.org:
Cho đến cuối thập niên 1980, phía Việt Nam biến vùng biên giới thành các 'pháo đài thép' và dùng các đơn vị dân quân được huấn luyện tốt để phòng thủ trước Trung Quốc.
Bộ đội Việt Nam ở chiến trường Lạng Sơn 
Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Bộ đội Việt Nam ở chiến trường Lạng Sơn
Ước tính 600 nghìn người được điều động vào các chiến dịch sẵn sàng chiến đấu để ngăn ngừa Trung Quốc tiến sang lần nữa...gây phí tổn tiền bạc lớn cho Việt Nam.
Giới quan sát nước ngoài cũng đánh giá rằng "các cuộc va chạm ở biên giới tiếp tục xảy ra trong suốt thập niên 1980, nổi bật là trận tháng 4/1984, khi quân Trung Quốc lần đầu tiên dùng vũ khí mới, súng Type 81 (AK-47 của Trung Quốc).
Hai nước phải đến 2007 mới hoàn tất việc ký kết xong hiệp định biên giới trên bộ, theo các bản tin quốc tế.
Dù cuộc chiến 'phản kích tự vệ' của Đặng Tiểu Bình nhắm vào Việt Nam là thất bại quân sự, Sam Brothers trong bài viết cũng trích lời ông Lý Quang Diệu, Thủ tướng Singapore bày tỏ cái nhìn khác:
"Báo chí Trung Quốc coi hành động trừng phạt Việt Nam của người Trung Quốc là một thất bại nhưng tôi lại tin rằng nó đã thay đổi lịch sử vùng Đông Á."
http://www.bbc.com/vietnamese/39029505

Mỹ kêu gọi Trung Quốc thay đổi lập trường về Biển Đông


Hình ảnh vệ tinh cho thấy các kết cấu quân sự được Trung Quốc xây dựng trên các đảo nhân tạo tại Biển Đông.
Hình ảnh vệ tinh cho thấy các kết cấu quân sự được Trung Quốc xây dựng trên các đảo nhân tạo tại Biển Đông.
 
Hoa Kỳ kêu gọi Trung Quốc thay đổi lập trường về Biển Đông, một thủy lộ chiến lược quan trọng và giàu tài nguyên thiên nhiên mà từ lâu nhiều nước đã đòi chủ quyền trên vùng biển này.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ, bà Anna Richey-Allen nói “Chúng tôi kêu gọi Trung Quốc, cũng như những nước khác tranh chấp chủ quyền, tự chế không tiến thêm bước nào nữa trong việc xây dựng những cơ sở mới, quân sự hóa những đảo tranh chấp, và lấp đất lấn biển tại Biển Đông, và cam kết giải quyết hòa bình những tranh chấp với các nước khác.”

Tuyên bố được đưa ra vào lúc Trung Quốc gần hoàn tất việc xây dựng những cơ cấu quân sự trên các đảo nhân tạo tại Biển Đông theo như tin của Thông tấn xã Reuters.
Các giới chức Mỹ dấu tên nói với các hãng tin là việc xây dựng hầu như hoàn tất đối với hơn hai chục cơ cấu với mái đóng mở được thiết kế để chứa các phi đạn đất đối không trên quần đảo Trường Sa.
Bà Richey-Allen nói tiếp “Quân sự hóa những đảo này gây căng thẳng và những tin tức gần đây nhất đã tạo ra những quan ngại giữa các nước trong vùng.”
Một phúc trình được Sáng kiến Minh bạch Hàng hải châu Á công bố vào tháng 12 năm ngoái cho thấy Trung Quốc đã xây dựng các đường băng và những hệ thống phòng không trên các đảo nhân tạo kể từ tháng 6 năm ngoái.
Vào lúc đó, Bộ Quốc phòng Trung Quốc đưa ra một tuyên bố cho rằng việc xây dựng này “chủ yếu để sử dụng trong dân sự mà thôi.”
www.voatiengviet.com/a/my-keu-goi-trung-quoc-thay-doi-lap-truong-ve-bien-dong/3737915.html
 



ANH VŨ * CÁCH MẠNG 1917


Nga hờ hững với di sản Cách mạng 1917


media 
Đóng giả Lénine và Staline phục vụ du khách tại Quảng trường Đỏ.Ảnh : Getty
Cách nay 100 năm, ngày 23 tháng Hai 1917, tại nước Nga đã nổ ra cuộc cách mạng tư sản, tiền đề dẫn tới Cách mạng tháng 10. Sự kiện lịch sử này giờ đây đang là một di sản cồng kềnh, khó xử đối với chính quyền Nga hiện nay.
Trang quốc tế báo Libération hôm nay cố gắng giải thích làm sao mà chính quyền Matxcơva hiện nay xử lý khó khăn cái di sản đó, qua bài trao đổi với nhà sử học Pháp Nicolas Werth, một chuyên gia về Liên Xô.
Dưới tiêu đề : « Matxcơva không biết phải làm gì với các cuộc cách mạng của năm 1917 », bài báo viết : « Ngày 23 tháng Hai 1917, nước Nga bị đẩy vào thế kỷ 20 ». Cuộc cách mạng chấm dứt chế độ quân chủ tồn tại hàng trăm năm, nhưng đã mở đường đi tới cuộc cách mạng lập nên chính quyền Xô Viết, chế độ từng làm nên sự vĩ đại cùng nỗi kinh hoàng với Liên Bang Xô Viết trong suốt 70 năm. Giờ đây nước Nga của ông Vladimir Putin đang rất khó ăn khó nói với cái dịp kỷ niệm lửng lơ này.

Trả lời câu hỏi : Chính quyền Nga hiện nay nhìn nhận thế nào về năm 1917 ? Nhà sử học Nicolas Werth nhận định đây là một chủ đề khó xử của Kremlin. Cuộc cách mạng đang gây rất nhiều phiền toái cho ý thức hệ đang được định hình ở đất nước này. Trong khi mà hệ tư tưởng chính thức hiện dựa trên cơ sở hợp nhất không phải giữa Đảng với nhân dân, như thời Xô viết mà là giữa Nhà nước và nhân dân. Ở Nga bây giờ, người ta chỉ đặt trọng tâm vào sự kiện duy nhất là cuộc « chiến tranh ái quốc vĩ đại » và chủ yếu kỷ niệm những sự kiện ghi lại công lao của Staline đã mang lại sự hùng mạnh cho Liên Xô trong thập niên 1930. Kỷ niệm Cách mạng tháng 10 năm 1917 trong suốt nhiều thập kỷ vẫn luôn là kỷ niệm lớn ở Liên Xô, không còn là ngày lễ của quốc gia nữa. Từ giữa những năm 1990, nó đã được thay thế bằng hàng loạt những ngày hội mang màu sắc đoàn kết dân tộc.

Theo chuyên gia Werth, ông Putin không thích đề cao Lénine nhưng lại tôn vinh Staline, người kế thừa tư tưởng của Lénine. Giờ đây Staline là hiện thân cho sự vĩ đại quốc gia. Lénine là hiện thân cho cách mạng thế giới còn Staline phù hợp hơn với chủ nghĩa yêu nước hiện nay. Lénine dù vẫn đang nằm trong lăng giữa Quảng Trường Đỏ nhưng không được nhắc đến nhiều. Chính quyền Matxcơvan giờ đây thích kỷ niệm các sự kiện trước và sau Cách mạng tháng 10 hơn. Chẳng hạn như năm 2013, họ kỷ niệm rầm rộ 300 năm vương triều nhà Romanov, bởi sự kiện gợi lại sự vĩ đại của một đế chế Nga. Nhiều giai đoạn lịch sử quan trọng khác của Nga trong thế kỷ 20 cũng bị bỏ trống như trại tập trung Goulag hay các cuộc đàn áp lớn…
Libération đặt câu hỏi Cách mạng tháng 10 năm 1917 là một cuộc đảo chính hay cách mạng ?
Theo nhà sử học Nicolas Werth, với những người theo trường phái tự do thì Cách mạng tháng 10 là một cú đảo chính. Còn với những người Bôn-sê-vích thì đó là một cuộc cách mạng nhân dân do tầng lớp vô sản và nông dân nghèo tiến hành.
Vladimir Putin chuẩn bị để tiếp tục nắm giữ quyền lực
Vẫn liên quan đến nước Nga ngày nay, cụ thể là với quyền lực của ông Vladimir Putin. Nhật báo Le Figaro có bài : « Kremlin chuẩn bị cho Putin tái đắc cử ».
Le Figaro khẳng định chắc chắn : « Năm 2018, Vladimir Putin sẽ phải tái đắc cử nhiệm kỳ thứ 4 lãnh đạo nước Nga với một kết quả và số lượng cử tri tham gia bỏ phiếu cao nhất có thể ». Theo các thông tin đã được báo chí Nga tung ra ngày hôm qua (21/02) thì các cố vấn của tổng thống Nga đang xây dựng kế hoạch chuẩn bị kéo dài quyền lực của tổng thống Putin. « Cuộc bầu cử tổng thống thống Nga dự trù tổ chức vào tháng 3 năm 2018, đến giờ không có gì nghi ngờ ông Putin sẽ ra ứng cử lần nữa vào vị trí lãnh đạo tối cao cho đến năm 2024. Như vậy, lúc đó ông Putin sẽ 72 tuổi và có 24 năm cầm quyền liên tục », Le Figaro nhận xét.
Mặc dù phát ngôn viên tổng thống, ông Dmitri Peskov, vẫn lập lờ không khẳng định, nhưng người ta đã thấy những dấu hiệu dọn sân bãi cho cuộc bầu cử tới đây. Từ đầu năm đến nay, ông Putin đã thải hồi 5 thống đốc vùng, thay thế bằng một loạt gương mặt thuộc giới kỹ trị trẻ. Các phe đối lập chính trị cũng đang bị dập tắt dần…
Theo Le Figaro, Kremlin đã vẽ ra kịch bản của chiến thắng bằng công thức 70-70, tức Putin sẽ giành 70% phiếu bầu và tỷ lệ cử tri tham gia cũng phải là 70%.

Trung Quốc : Kiểm soát người dân bằng hệ thống chấm điểm
Nhìn sang châu Á , Le Fogaro có bài : « Bắc Kinh xây dựng hệ thống chấm điểm công dân ».
Theo tờ báo, chính quyền Bắc Kinh đang xây dựng một hệ thống tin học rộng rãi, tập hợp tất cả các thông tin về tài chính hay đời sống xã hội của các công dân. Qua các thông tin như vậy, công dân Trung Quốc sẽ được chấm điểm tùy theo việc chi trả các hóa đơn thanh toán, mức độ tuân thủ chính sách gia đình hay hành vi thái độ của họ trên internet.
Những người nào có các hành vi xấu như đi lậu vé tàu điện ngầm chẳng hạn sẽ bị hạ điểm. Nếu tích nhiều điểm xấu, họ có thể bị phạt trong các hoạt động như vay tiền, tuyển dụng công chức, xin học cho con vào các trường tư hay thậm chí cả việc đặt phòng khách sạn sang.
Theo Le Figaro, giai đoạn đầu của dự án được triển khai từ nay đến năm 2020, nhưng đã có ngay kết quả : « Theo thông báo mới đây của Tòa Án Tối Cao Trung Quốc, trong 4 năm qua, chính phủ đã cấm 6,7 triệu người sử dụng máy bay hay tầu cao tốc. Lý do chỉ vì những người đó là những con nợ xấu. Họ bị xếp vào một danh sách đen, lưu vào dữ liệu chứng minh thư. Mỗi khi mua bán phải trình căn cước, tín hiệu báo động sẽ được phát ra ».

Cơ quan tư pháp Trung Quốc khẳng định đã ký thỏa thuận với 44 cơ quan chính phủ để hạn chế hoạt động của những người « điểm xấu » trong nhiều lĩnh vực. Các cơ quan chính ký thỏa thuận gồm những ngân hàng lớn, bộ Công An, bộ Viễn Thông. Những người nói dối tư pháp hay cất giấu tài sản cũng bị liệt vào « danh sách đen ».
Tòa Án Tối Cao Trung Quốc giải thích hệ thống chấm điểm trên là tối cần thiết trong cuộc đấu tranh chống nguy cơ vỡ nợ đang bùng nổ trong dân. Nhưng trên thực tế, hệ thống này chủ yếu nhằm trang bị cho chính quyền một công cụ giám sát dân có hiệu lực hơn.
Le Figaro nhận xét, một dự án như vậy có vẻ phù hợp với chủ ý thắt chặt quản lý xã hội hơn nữa của chủ tịch Tập Cận Bình. Ông đã từng kêu gọi cải tiến lĩnh vực quản lý xã hội để « tăng cường khả năng dự báo, đề phòng mọi nguy cơ ».

Pháp muốn loại hẳn các công dân đi thánh chiến
Trở lại với các vấn đề thời sự liên quan đến Pháp. Nhiều báo quan tâm đến chủ đề các chiến binh thánh chiến, những mầm mống của các vụ tấn công khủng bố đó đang là nỗi lo chính của nước Pháp.
Câu hỏi được đặt ra là : Các chiến binh thánh chiến Pháp có thể hội nhập trở lại được không ? Câu trả lời có vẻ là Không đối với chính quyền Pháp.
Nhật báo Le Monde đã tiến hành một điều tra và rút ra kết luận rõ ràng quan hàng tựa trên trang nhất : « Paris không muốn đưa về nước những chiến binh thánh chiến người Pháp bị bắt ở Syria và Irak ».
Theo tờ báo, « ngày càng có nhiều chiến binh thánh chiến Pháp tham gia tổ chức Nhà Nước Hồi Giáo bị bắt làm tù binh, nhất là khi Daech đang bị đẩy lùi dần trên các mặt trận ở Syria và Irak. Vậy nước Pháp phải làm gì với những kiều dân được coi là kẻ thù đó ? »
Theo Le Monde, « tổng thống Pháp có lẽ đã chấp nhận chủ trương rõ ràng là : làm sao để không có tù binh, hay ít nhất có thể… »
Theo đánh giá của các chuyên gia, có khoảng 680 người Pháp đã tham gia thánh chiến ở Irak và Syria, trong đó có 275 là phụ nữ ; 230 đối tượng đã bị tiêu diệt.
Đây là một vấn đề rất nhạy cảm và chắc chắn sẽ gây tranh cãi nhiều.

Pháp : Mây đen tin tặc phủ bóng mùa bầu cử tổng thống
Một chủ đề đang nổi lên thu hút sự quan tâm của dư luận Pháp lúc này là khả năng tin tặc phá hoại cuộc bầu cử tổng thống Pháp sắp tới.
Đây là chủ đề chính của báo Công Giáo La Croix : Trang nhất của tờ báo chạy tựa : Chiến tranh mạng đe dọa nền dân chủ và cho biết, từ nhiều tháng nay các cơ quan tình báo phương Tây đã cảnh báo về một cuộc chiến tranh thông tin, có thể do Nga tiến hành. La Croix đặt câu hỏi : Có nên sợ sự can thiệp của nước ngoài trong cuộc bầu cử tổng thống ? Nỗi lo là có thật, vì thế trong bài viết « Trước các cuộc tấn công tin học, các ứng viên tự phòng thân », La Croix khẳng định : « Để ngăn chặn các cuộc tấn công thực và tiềm tàng, ê-kip của các ứng viên tổng thống Pháp đã triển khai hàng loạt các biện pháp an toàn nhưng nguy cơ vẫn còn đó ».
 http://vi.rfi.fr/quoc-te/20170222-nga-ho-hung-voi-di-san-cach-mang-1917

THÔNG TIN & BÌNH LUẬN QUÔC TẾ




7 quốc gia nằm trong danh sách cấm nhập cảnh sau khi sắc lệnh hành pháp của Tổng thống Trump được đưa ra.

7 quốc gia nằm trong danh sách cấm nhập cảnh sau khi sắc lệnh hành pháp của Tổng thống Trump được đưa ra.

Tòa Bạch Ốc lùi ngày công bố sắc lệnh mới thay thế chỉ thị ngưng nhập cảnh những người đến từ 7 nước có đa số dân theo đạo Hồi.
Reuters dẫn nguồn tin từ một giới chức Tòa Bạch Ốc ngày 22/2 cho hay lệnh mới dự kiến sẽ ban hành vào tuần tới thay vì tuần này như dự trù của Tổng thống Donald Trump loan báo tuần trước.
Ông Trump nói chỉ thị mới sẽ đáp ứng những quan ngại pháp lý nêu ra bởi tiểu bang Washington, thành phố San Francisco và những nơi khác khi sắc lệnh đầu tiên được ban hành hôm 27/1.
Sắc lệnh cuối tháng Giêng của ông Trump đã nhanh chóng được thực thi, gây ra cảnh hỗn loạn tại các phi trường trên khắp thế giới vì những người cầm visa lên đường sang Mỹ bị lôi ra khỏi máy bay hoặc bị từ chối nhập cảnh khi đáp tới các sân bay Mỹ.
Dân Mỹ chia rẽ sâu sắc vì sắc lệnh này. Các công ty Mỹ và các đồng minh cũng lên án trước khi lệnh tạm thời bị ngăn lại bởi các tòa án liên bang.
Tổng thống Trump đã lên Twitter chỉ trích hành động của tòa án và cảnh báo rằng phán quyết của tòa sẽ sớm bị đảo ngược.
 http://www.voatiengviet.com/a/my-sap-ra-sac-lenh-di-tru-moi/3736271.html


ASIAN QUAN NGẠI TRUNG QUỐC VỀ BIỂN ĐÔNG

Ảnh vệ tinh cho thấy những công trình quân sự được đặt trên các đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Biển Đông.
Ảnh vệ tinh cho thấy những công trình quân sự được đặt trên các đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Biển Đông.

Các nước Đông Nam Á xem việc Trung Quốc lắp đặt những hệ thống vũ khí ở Biển Đông là "rất đáng lo ngại" và đã kêu gọi đối thoại để ngăn chặn sự leo thang "những diễn biến gần đây," Philippines cho biết hôm thứ Ba.
Bộ trưởng ngoại giao các nước trong khu vực đồng lòng bày tỏ lo ngại về việc Trung Quốc quân sự hóa những đảo nhân tạo của Trung Quốc, nhưng tin tưởng rằng khuôn khổ cho một bộ quy tắc ứng xử hàng hải có thể đạt được với Bắc Kinh trước tháng 6, Bộ trưởng Ngoại giao Philippines Perfecto Yasay nói trong một hội nghị các bộ trưởng khu vực trên đảo Boracay của nước này.
Ông Yasay không cho biết những diễn biến nào khơi lên mối lo ngại này, nhưng nói rằng Hiệp hội Các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) gồm 10 thành viên hy vọng Trung Quốc và Mỹ sẽ bảo đảm hòa bình và ổn định.
Ông nói rằng việc phi quân sự hóa sẽ là một thành phần quan trọng của bất kỳ bộ quy tắc ứng xử nào giữa ASEAN và Trung Quốc, nhưng còn quá sớm để nói liệu điều kiện tiên quyết có phải là Bắc Kinh tháo dỡ những hệ thống vũ khí của mình hay không.

Nhắc đến những đảo nhân tạo của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa, ông Yasay nói các nước ASEAN đã "nhận thấy, một cách rất đáng lo ngại, rằng Trung Quốc đã lắp đặt những hệ thống vũ khí tại những cơ sở mà họ đã thiết lập, và họ đã bày tỏ lo ngại sâu sắc về việc này."
Với việc Philippines giữ chức chủ tịch ASEAN năm nay, những phát biểu của ông Yasay cho thấy một lập trường vững chắc hiếm có của một tổ chức mà thường chật vật để đạt được đồng thuận vì những quan điểm ý trái ngược của họ về việc làm thế nào đáp lại sự quyết đoán của Trung Quốc.
Thông cáo bày tỏ lo ngại của ASEAN tránh nhắc tên Trung Quốc. Làm Trung Quốc phật lòng có thể nảy sinh nhiều nguy cơ, trong khi các nước thành viên của ASEAN đang chịu ảnh hưởng của Trung Quốc với mức độ khác nhau, và cần thương mại, đầu tư và khách du lịch từ Trung Quốc.





Hàng không mẫu hạm Mỹ trở lại tuần tra Biển Đông


Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson.
Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson.

Một hàng không mẫu hạm cùng đội tàu chiến của hải quân Mỹ đã trở lại bắt đầu tuần tra ở Biển Đông giữa bối cảnh có nhiều lo ngại rằng vùng biển tranh chấp này sẽ trở thành một điểm nóng dưới thời kỳ nắm quyền của Tổng thống Donald Trump.
Reuters dẫn lời hải quân Mỹ nói rằng lực lượng của Mỹ, gồm hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson, bắt đầu các hoạt động thường lệ ở Biển Đông hôm 18/2.
Chỉ huy của lực lượng này, thiếu tướng James Kilby, nói rằng nhiều tuần lễ diễn tập ở Thái Bình Dương trước đó đã cải thiện khả năng hoạt động hiệu quả cũng như sự sẵn sàng của đội tàu chiến này.
Ông Kilby được dẫn lời nói rằng “chúng tôi nóng lòng muốn chứng tỏ những khả năng đó trong khi gây dựng mối quan hệ vững mạnh sẵn có với các đồng minh, đối tác và những người bạn ở khu vực Ấn Độ Dương và châu Á – Thái Bình Dương”.

Thông tin về hoạt động tuần tra của hàng không mẫu hạm Mỹ xuất hiện một ngày sau khi Trung Quốc thông báo kết thúc các cuộc tập trận ở Biển Đông.
Thông tin về hoạt động tuần tra của hàng không mẫu hạm Mỹ xuất hiện một ngày sau khi Trung Quốc thông báo kết thúc các cuộc tập trận ở Biển Đông.
Thông tin về hoạt động tuần tra của hàng không mẫu hạm Mỹ xuất hiện một ngày sau khi Trung Quốc thông báo kết thúc các cuộc tập trận ở Biển Đông.
Trước đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cảnh báo Washington không nên thách thức chủ quyền của Trung Quốc tại vùng biển tranh chấp này.
Hoa Kỳ từng chỉ trích việc Bắc Kinh xây các đảo nhân tạo cũng như các cơ sở quân sự trên Biển Đông. Hải quân Mỹ từng tiến hành một số đợt tuần tra “tự do hàng hải” qua vùng biển này.
Trong khi công du châu Á đầu tháng này, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ hôm 4/2 tuyên bố rằng Hoa Kỳ chưa cần phải có những bước đi quân sự ở biển Đông nhằm ngăn chặn hành động mạnh mẽ khẳng định chủ quyền của Trung Quốc, dù chỉ trích Bắc Kinh làm xói mòn lòng tin của các quốc gia trong khu vực.

“Ngay lúc này, chúng tôi không thấy sự cần thiết phải thực thi các bước tiến quân sự mạnh mẽ”, ông James Mattis được Reuters dẫn lời nói trong một cuộc họp báo ở Tokyo, nhấn mạnh tới giải pháp ngoại giao.

 
 

Trung Quốc phản đối Mỹ tuần tra Biển Đông


Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng.

MICHEL BENGE * VIỆT CỘNG BUÔN NGƯỜI



Michel Benge từng làm việc tại Việt Nam hơn 11 năm như là một quan sát viên nên ông rất am tường nhiều sự dối trá của nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội. Ông cũng là một người hoạt động nhân quyền rất tích cực. Lối viết của ông hóm hĩnh nhưng vô cùng sắc bén, cứa thẳng vào chổ ung nhọt của chế độ Cộng Sản Hà Nội

 
 
Cộng Sản HN- Một tổ chức buôn bán con người khủng khiếp!
 Michel Benge
Chúng nó bán đất, bán quê hương và bán luôn cả người dân...chúng nó không phải là người nữa mà là loài quỷ đỏ....
...Các tòa đại sứ của Cộng Sản thì trơ như đá không giúp đỡ gì cho các nạn nhân. Cộng Sản Hà Nội cũng vờ vịt ban hành đạo luât chống buôn người, xử án một vài vụ hời hợt cho lấy lệ để lừa qua mặt sự giám sát của Liên Hiệp Quốc hay Hoa Kỳ hoặc qua mặt các quốc gia trợ giúp chống buôn người, cho thấy rằng đảng ta cũng có quan tâm. Tất cả sự láo lừa đó chỉ nhằm che đậy chính sách buôn bán con người của đảng đang ngày được đẩy mạnh, đem đến một nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các đảng viên, từ công khai lẫn hối lộ lén lút.
Ngoài ra, có ai biết rằng tại Việt Nam hiện nay, tố cáo tham nhũng là phạm pháp hay không?

 



Cộng Sản HN- Một tổ chức buôn bán con người khủng khiếp!
Michel Benge
Nguyễn Trọng Dân lược dịch

Cộng Sản Hà Nội được coi lá một chính thể lừng danh vì vi phạm nhân quyền nặng nề nhất tại Đông Nam Á – theo tường trình của UB Đối Ngoại Hạ Viện Hoa Kỳ. Các công ty gọi là tuyển nhân công của chính phủ do Cộng đảng kiểm soát chuyên buôn bán cung cấp con người từ nam, nữ, trẻ em cho mọi thị trường từ tình dục cho đến lao động khổ sai- đem về một nguồn lợi quá lớn cho đảng.


Thống kê dữ liệu về việc xúc tiến buôn bán con người của Cộng Sản Hà Nội lên đến mức báo động và rõ như ban ngày nhưng đừng hòng tìm thấy từ nguồn tin xác thực từ chính phủ Hà Nội. Bộ Lao Động & Thuơng Binh Xã Hội của Cộng Sản Hà Nội miễn cưỡng đưa ra con số nhỏ bé 2935 nạn nhân từ năm 2004 đến năm 2009- trong khi các tổ chức quốc tế đã có bản tường trình với con số hơn 400 ngàn người Việt Nam bị bán đi tính từ năm 1990 cho đến nay; và đó chỉ là con số của những trường hợp buôn bán con người đã bị bại lộ, còn con số những nạn nhân người Việt Nam bị (đảng) bán đi chưa bị bại lộ có thể lên đến thêm cả chục ngàn nạn nhân nữa.


Hình thức buôn bán còn người thông qua chiêu bài “xuất khẩu lao động ” không còn lạ gì đối với xã hội Việt Nam. Sau khi Cộng Sản thôn tính Việt Nam Cộng Hòa năm 1975- hàng trăm ngàn lao công đã được “xuất khẩu” sang Liên Xô và khối Đông Âu để trả nợ chiến tranh. Không biết bao nhiêu lao công Việt Nam tại Đông Âu lâm vào cảnh túng quẩn, thất nghiệp và mất khả năng tài chánh để hồi huơng. Cộng Sản Hà Nội cũng nhanh chóng trở thành một tổ chức buôn bán trẻ em, phụ nữ cho thị trường nô lệ tình dục kể từ đó.


Cộng Sản Hà Nội bị cảnh cáo về thành động khuyến khích buôn bán con người cho thị trường tình dục:
Cộng Sản Hà Nội trở thành tổ chức cung cấp nô lệ tình dục và lao động khổ sai chủ yếu trên thế giới- thậm chí có nhiều trường hợp nạn nhân từ lao động khổ sai bị ép trở thành nô lệ thình dục.Xảo trá và lường gạt trong hôn nhân là một cách để Cộng Sản Hà Nội buôn bán phụ nữ cho thị trường tình dục. Mồi để nhử các nạn nhân là năm ngàn dollar Mỹ, một số tiền quá lớn khiến các gia đình thôn quê dưới chế độ XHCN hầu hết là nghèo rất khó mà từ chối. Phụ nữ và các bé gái dưới vị thành niên từ đó được bán qua thị trường tình dục ở Campuchia, China, Lào, Thái Lan, Malaysia, Đài Loan, Ma cau, Trung Đông, và ngay cả Âu châu. Tương tự, trẻ em ở Campuchia cũng được bán vào Việt Nam để giúp Việt Nam nhanh chóng trở thành một nơi thiên đường du lịch cho huở

lạc tình dục trẻ em đối với du khách khắp nơi từ Nhật, Nam Hàn, Trung Cộng, Dằi Loan,Anh, Úc, Âu châu , và ngay cả du khách từ Hoa Kỳ. Tàn nhẫn và phi truyền thống luân lý hơn hết, phụ nữ Việt Nam còn được “xuất” hay bán sang các nước chỉ để làm “thợ đẻ” không thôi- tức là đẻ con cho những gia đình không thể sinh con hoặc đẻ con để cung cấp cho “thị trường con nuôi” mà khách hàng là những gia đình ở các quốc gia giàu có.


Một trường hợp điển hình tại nước Nga:
Cô Danh đã tường trình trước Quốc Hội Hoa Kỳ về đường dây từ Việt Nam có Cộng đảng bảo kê buôn bán phụ nữ sang Nga thông qua dụ dỗ lừa gạt là sẽ có lương hậu, thu nhập cao cho những nạn nhân này khi họ sang Nga làm tiếp đãi viên. Thực tế, họ bị bán vào các nhà thổ tại Moscow. Đường dây buôn bán phụ nữ này được tổ chức bởi các công ty quốc doanh tuyển người, đem đến không biết bao nhiêu là tiền cho các đảng viên. Còn các nạn nhân khi đến Nga bị giữ passport, chẳng được trả đồng lương nào cả và không có sự chăm sóc sức khỏe hay những hổ trợ để quay về lại quê nhà. Nhiều phụ nữ Việt Nam đã bị cầm cố tại những nhà thổ ở Nga hơn bốn năm trời và luôn bị đánh đập tàn nhẫn nếu muốn rời khỏi hay cố tình bỏ trốn. Và dù là bị cầm cố như vậy, họ vẫn phải trả tiền nhà, tiền ăn tiền quần áo(?!)


Người em gái của cô Danh là cô Huỳnh Thị Bé Hương là một trong những nạn nhân chịu cảnh thảm thiết này từ chính sách buôn bán con người của đảng. Khoảng sau vài tháng bị giam cố nghiệt ngã, Huơng phải nhờ gia đình nghèo khó của cô gởi tiền để lo sức khỏe – gia đình cô lật đật gởi 300 dollar Mỹ để giúp cô. Sau đó, cô lại gọi về nhờ giúp 2000 dollar Mỹ để bay trở về sau khi công ty quốc doanh tuyển người (để bán) tại Việt Nam đồng ý hủy hợp đồng. Cô Danh đang ở Mỹ mượn tiền để gởi đến cơ quan này, rồi số tiền đòi hỏi cứ tăng kên, từ 2000 dolllar lên 4000 dollar, rồi 6000 dollar- rõ ràng, đây là cách giữ người siết tiền của đường dây buôn người hợp pháp này.


Vào tháng Hai năm 2013, sau 13 tháng làm nô lệ tình dục, cô Hương trốn khỏi nhà Thổ cùng với ba nạn nhân Việt khác. Cô Hương ráng liên lạc với tùy viên sứ quán Nguyễn Đông Triều tại tòa đại sứ Cộng Sản Hà Nội ở Moscow xin cầu cứu giúp- Triều nhẫn tâm làm ngơ và nói với cô Huơng rằng:”Cơ quan nào đem cô đến đây thì bảo cơ quan đó đem cô về!” Hai ngày sau, cô Huơng cùng ba người trốn đi bị bọn băng đảng bắt về lại nhà thổ và bị đánh đập tàn nhẫn. Sau đó, cô Huơng mới khám phá ra má mì của nhà thổ này là bạn mần ăn, ăn thông với các tùy viên sứ quán của Cộng Sản Hà Nội tại Moscow- nên cô Huơng cùng ba người trốn đi đã bị bán rẽ bởi bọn cán bộ đảng viên làm ở sứ quán.


Khi cô Danh biết được tình trạng thảm khốc của người em gái minh, cô đã liên lạc được với hai tổ chức phi chính phủ tại Mỹ thay vì liên lạc với nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội cố tâm bán rẽ con người, đó là hội “Boat people SOS” và liên hội “Coalition to Abolish Modern-Day Slavery in Asia” chuyên hổ trợ cho các hoạt động chống buôn người- nhờ vậy, cô Danh có cơ hội thông báo chi tiết nội tình cho Dân Biểu Al Green và Bộ Ngoài Giao Hoa Kỳ . Thông qua nỗ lực vận động chung của hai hiệp hội trên cũng như của Dân Biểu Green cùng báo chí, cô Huơng cuối cùng cũng đã có thể về lại quê nhà với điều kiện rất ngặt nghèo là gia đình cô Huơng bị buộc phải chấm dứt mọi truy tố hay tố cáo cơ quan “tuyển người” của đảng là tổ chức bán bu


ôn người trá hình trước công pháp, cũng như phải chính thức xin lỗi má mì của nhà thổ này là Thúy An về việc kết án bà ta buôn bán tình dục trên thân phận những thiếu nữ nghèo. Không những vậy, cô Danh còn buộc phải viết một lá thư…”cám ơn” các tùy viên sứ quán Cộng sản Hà Nội tại Moscow ”giúp đỡ” cô Huơng quay về.


Cuối cùng, cô Huơng cũng đã được chở đến sứ quán của Cộng đảng tại Moscow- tại đây, cô được tùy viên sứ quán là Kiên giải thích về các điều kiện liệt kê trên và cô Huơng bị buộc phải viết một lá thư khẳng định những gì cô báo cho gia đình về má mì Thúy An là hoàn toàn bịa đặt cũng như phải viết một lá thư “cám ơn” nhân viên toàn đại sứ cùng má mì Thúy An đã giúp cô trở về quê nhà (?!)


Đương nhiên là tòa đại sứ Cộng Sản Hà Nội tại Moscow không những không giúp mà còn làm ngơ trợ giúp má mì Thuy An gia hại các nạn nhân – cô Huơng thoát được thảm cảnh hoàn toàn là do áp lực ngoại giao từ phí Hoa Kỳ cũng như nỗ lực từ thiện của hai tổ chức phi chính phủ kể trên và sự tận tâm hổ trợ của giới báo chi truyền thông quốc tế. Cộng Sản Hà Nội thiệt là dối trá và nhẫn tâm!


Buôn bán lao động khổ sai:
Cộng Sản Hà Nội “xuất khẩu” hay bán con người ra nước ngoài lao động khổ sai nhằm giảm bớt đối kháng bất mãn trong lòng xã hội, một kế sách đã được thông chế Tito thực hiện ở Nam Tư trước đây. Tito là một tên Cộng Sản tàn bạo ngồi ở ghế “tổng thống suốt đời” cho đến khi chết vào năm 1980.


Cộng Sản Hà Nội đẩy mạnh xuất khẩu bán buôn con người cho các thị trường lao động khổ sai khắp nơi trên thế giới nhằm che giấu bất lực của nhà cầm quyền trong việc tạo công ăn việc làm ngay tại đất nước và đồng thời, tạo ra một khoản thu nhập lớn đem về cho đảng.


Năm 2007, ngân sách của đảng đã thu về được hai tỷ Mỹ kim từ sự bán buôn uất khẩu con người cho lao động khổ sai. Việt Nam hiện có khoảng 51.4 triệu người đang ở tuổi lao động và 70% dân số là dưới 30 tuổi. Bất chấp đẩy mạnh buôn bán con người tối đa, Cộng đảng vẫn phải lo đối phó sự bất mãn của gần 10 triệu người thất nghiệp, theo thống kê của Quỹ Tiền Tệ Quốc tế IMF.


Cộng sản Hà Nội cố bán ra thế giới khoảng 500 ngàn người cho thị trường lao động khổ sai vào năm 2005, và con số bán lao động khổ sai ra thị trường thế giới cứ mỗi năm mỗi tăng. Vào năm 2008, Cộng Sản Hà Nội đạt được thoả hiệp với Qatar, nâng tổng số lao động khổ sai bán qua vùng Vịnh từ 10 ngàn lên đến 100 ngàn cho đến hết năm 2010, gấp mười lần con số của những năm trước


Cấu Trúc hệ thống buôn bán con người của Cộng Sản Hà Nội:
Tất cả các công ty quốc doanh tuyển nhân công để bán ra nước ngoài cho thị trường lao động khổ sai đều là một bộ phận trong một hệ thống buôn bán con người rất chặt chẽ tinh vi của Cộng đảng- liên quan đến nhiều viên chức cao cấp trong đảng, hệ thống ngân hàng.


Các nạn nhân nghèo trước hết bị lừa khi ký các hợp đồng láo gọi là “hợp đồng nội” hay hợp đồng trong xứ, có nhiều hứa hẹn ba xạo về điều kiện việc làm tốt đẹp. Sau đó, các nạn nhân nghèo phải mượn nợ từ các nhà băng ngân hàng quốc doanh cũng của đảng để trả các khoản phí giấy tờ, tiền giấy máy bay, tiền đào tạo. Nếu không đủ kinh phí, bậc phụ huynh phải bán luôn điền sản nhỏ nhoi của mình để cho con cái có đủ kinh phí nộp đơn đi lao động khổ sai.


Sau khi đã nộp không biết bao nhiêu thứ phí không bồi hoàn cho đúng thủ tục của “hợp đồng nội,” các nạn nhân trước ngày đi một hay hai ngày mới bắt đầu ký hợp đồng nội khác, hoàn tòan lật lộng với những gì trong “hợp đồng nội” ban đầu- nhưng các nạn nhân đã hết cách vì chi ra quá nhiều tiền, lún sâu trong nợ rồi nên đành phóng lao thì phải theo lao; ký bừa đồng ý cho xong mà thôi.


Khi đến được nơi lao đông khổ sai ở xứ người, các nạn nhân lúc bấy giờ bị lấy hết giấy tờ, buộc phải ký hợp đồng thứ nhì gọi là “hợp đồng ngoại” mà không có nạn nhân nào có thể từ chối cũng như hiểu là mình đang ký thỏa thuận điều gì trong bản hợp đồng ngoại này. Từ đó, cuộc đời của các nạn nhân lao vào tăm tối – làm việc lao lực khổ sai hơn 10 tiếng mỗi ngày trong điều kiện độc hại, với lương bổng vô cùng thấp và không có sự chăm sóc y tế. Có nhiều nạn nhân không được trả lương trong khi vẫn phải trả nợ cho công ty môi giới tuyển người tại Việt Nam khi mượn nợ làm thủ tục. Cuối cùng, các nạn nhân đi đến chổ suy yếu bệnh tật, không thể có tiền để quay về xứ sở, cũng như trả nợ-và nhà cửa của gia đình thì bị siết. Thảm cánh bần cùng thê thảm không thể tả.


Các tòa đại sứ của Cộng Sản thì trơ như đá không giúp đỡ gì cho các nạn nhân. Cộng Sản Hà Nội cũng vờ vịt ban hành đạo luât chống buôn người, xử án một vài vụ hời hợt cho lấy lệ để lừa qua mặt sự giám sát của Liên Hiệp Quốc hay Hoa Kỳ hoặc qua mặt các quốc gia trợ giúp chống buôn người, cho thấy rằng đảng ta cũng có quan tâm. Tất cả sự láo lừa đó chỉ nhằm che đậy chính sách buôn bán con người của đảng đang ngày được đẩy mạnh, đem đến một nguồn lợi nhuận khổng lồ cho các đảng viên, từ công khai lẫn hối lộ lén lút.


Ngoài ra, có ai biết rằng tại Việt Nam hiện nay, tố cáo tham nhũng là phạm pháp hay không?
Michel Benge
Nguyễn Trọng Dân lược dịch



***********
Michel Benge từng làm việc tại Việt Nam hơn 11 năm như là một quan sát viên nên ông rất am tường nhiều sự dối trá của nhà cầm quyền Cộng Sản Hà Nội. Ông cũng là một người hoạt động nhân quyền rất tích cực. Lối viết của ông hóm hĩnh nhưng vô cùng sắc bén, cứa thẳng vào chổ ung nhọt của chế độ Cộng Sản Hà Nội.

Source:
1.http://www.americanthinker.c om/articles/2013/05/communist_ vietnam_human_trafficker_extra ordinaire.html
2. http://docs.house.gov/meetings /FA/FA16/20130411/100637/HHRG- 113-FA16-Wstate-DanhH-20130411 .pdf




No comments: