Monday, February 27, 2017

GS. PHẠM ĐỨC LIÊN * VUA QUANG TRUNG

Vua Quang Trung
toàn thắng quân Đại Thanh, 1789

GS Phạm Đức Liên



Đón xuân Đinh Dậu (2016), toàn dân Việt Nam hướng về Mùa Xuân Kỷ Dậu (1789): trưa ngày mùng 5 Tết, dẹp tan 20 vạn quân Tàu, Đại Đế Quang Trung và binh sĩ, nhân dân, … cùng ăn Tết Kỷ Dậu ở Thăng Long (Hà Nội), Đại Việt sạch bóng quân thù.

“Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư,
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan, thủ bại hư !”
(Lý Thường Kiệt)

A.    Dẫn nhập:
1.    Lịch sử Việt Nam là một chuỗi năm tháng dài thật dài đầy mồ hôi nước mắt, máu đổ thịt rơi, nhiều khi đến tủi nhục… Có đến hàng chục triệu đồng bào đã hy sinh cho tổ quốc để:
a.     Đấu tranh cho sự trường tồn của nòi giống Lạc Hồng. Từ khởi thủy, hàng trăm bộ lạc (Bách Việt) sống rải rác ở bình nguyên sông Dương Tử (còn gọi là Trường Giang – Yangtze River dài 6,300 km). Thế rồi Hán tộc, một bộ lạc hùng mạnh nhất, dữ tợn nhất đã đồng hóa, đè bẹp tất cả. Không chịu khuất phục, nhóm người Lạc Việt đã âm thầm theo đàn chim Lạc Việt (mỗi mùa đông, chim bay từng đàn về phía nam ấm áp), men theo những con sông, những thung lũng nguy hiểm mà xuôi Nam: “Châu thổ Hồng Hà là cái nôi của dân tộc Việt Nam”, cho giống nòi được tồn tại.
b. Tranh đấu không ngừng cho bành trướng và bảo vệ lãnh thổ: từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau = Vietnam our beloved country. Vietnam, our great people.
2.    Dân tộc Việt Nam đã chiến đấu cam go, có nhiều lúc tưởng chừng như mất nước vì quân thù Bắc phương mạnh quá, thâm độc lắm!, nhưng với sức mạnh toàn dân, chúng ta đã có những chiến công vang dội. Một trong những cuộc đấu tranh oai hùng đó là: Vua Quang Trung đại phá quân Thanh (1789).

B.    Chiến thắng năm Kỷ Dậu:
I.    Quân Thanh xâm chiếm nước ta:
1. Tháng 4 năm 1788, vua Lê Chiêu Thống (do Nguyễn Huệ tôn lên làm vua từ tháng 7, 1786 sau khi vua Lê Hiển Tông băng hà) đã trốn khỏi kinh đô Thăng Long chạy qua Tàu cầu cứu vua Càn Long của nhà Thanh. Được thời cơ và muốn chiếm nước Nam, vua Càn Long sai Tổng Đốc Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) là Tôn Sĩ Nghị cùng tướng Sầm Nghi Đống đem 200,000 quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống qua Ải Nam Quan để về nước tháng 11 năm 1788.
Quân Thanh như vũ bão, đông và mạnh, tiến vào Thăng Long như chỗ không người. Tôn Sĩ Nghị dự định ngày mùng 6 Tết Kỷ Dậu (1789) sẽ tiếp tục Nam tiến để tiêu diệt Tây Sơn. Tướng Ngô văn Sở di tản chiến thuật về cố thủ ở Tam Điệp.
1.    Thời điểm nầy là lúc vô cùng khó khăn cho Tây Sơn (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ khởi nghĩa từ Bình Định năm 1771):
a.    Vua anh (Nguyễn Nhạc – Thái Đức - từ năm 1778) qua đời vì tuổi già, tất cả quyền lực về tay Nguyễn Huệ.
b. Mặt trận Nam hà nguy kịch: từ tháng 7, 8 năm 1787, chúa Nguyễn Ánh từ Xiêm La (Thái Lan) về chiêu mộ binh sĩ lấy lại Gia Định khiến Nguyễn Lữ phải bỏ thành rút về Quy Nhơn để tướng Phạm văn Tham một mình buồm lái với cuồng phong !
2.    Để an lòng dân, tại Phú Xuân (Huế) ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (22 tháng 12 năm 1788), Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đăng quang lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung và tổ chức duyệt binh khiến lòng quân nô nức, lòng dân phấn khởi. Vua Quang Trung là một nhà lãnh đạo đại tài, rất lanh trí, cực kỳ thông minh và giải quyết vấn đề thật nhanh. Ngài và bộ tham mưu lấy quyết định: Bắc tiến, diệt quân xâm lược trước. Ra lệnh cho tướng Phạm văn Tham đánh cầm chân Nguyễn Ánh chờ ngày tổng phản công ở Nam hà.

 
Vua Quang Trung lên ngôi hoàng đế

II. Hành quân ra Bắc:
      Từ Phú Xuân (Huế), đại quân Quang Trung tiến ra Bắc ngày 22 tháng 12 năm 1788:
1.    Ngày 26 tháng 12, 1788 (29 tháng 11, Mậu Thân) đoàn quân quyết thắng tới Nghệ An:
a.     Quang Trung tuyển thêm lính và huấn luyện thần tốc.
b. Chỉnh đốn lực lượng. Quân số lên đến 100,000 (mười vạn) và đội tượng binh với 200 voi chiến.
2.    Ngài chia quân lính ra làm 5 đạo: Tiền quân (Đô Đốc Bảo), Trung Quân (Quang Trung), Hữu Quân (hai Đô Đốc Lộc và Tuyết), Hậu Quân và Tả Quân (Đô Đốc Long). Xin độc giả theo sát bản đồ hành quân của đoàn quân đại thắng do tác giả vẽ (trang sau).
3.    Ngày 15 tháng 1, 1789 (20 tháng chạp năm Mậu Thân), Quang Trung đến Tam Điệp (rặng núi đá vôi chạy theo hướng tây bắc – đông nam dài 80 km bề ngang chừng 3-8 km và cao khoảng 200 mét là ranh giới giữa bình nguyên sông Hồng và châu thổ sông Mã đồng thời cũng là ranh giới hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa) gặp tướng tư lệnh tiền phương Ngô văn Sở. vua tôi ôm nhau hẹn giờ vào Thăng Long.
Ngài rà soát lại 5 đạo quân (trung bình mỗi đạo tương đương một quân đoàn với 2 sư đoàn), cho  binh sĩ nghỉ ngơi và ăn Tết Kỷ Dậu (1789) trước rồi hẹn: “Đến ngày mùng 7 Tết Kỷ Dậu sẽ toàn thắng ở Thăng Long ăn Tết nữa”.

III. Đại thắng quân Thanh:
Từ Tam Điệp ngày 30 tháng chạp, Mậu Thân, Quang Trung khai hỏa cho cuộc tổng tấn công tiêu diệt quân Thanh.
1.    Mặt trận chính:
a.     Ngày đêm 30 tháng chạp, năm Mậu Thân Đô Đốc Bảo đã tiêu diệt hoàn toàn những tiền đồn phía nam Thăng Long của Lê Chiêu Thống (vòng ngoài), không cho một quân địch chạy thoát. Rồi quân Tây Sơn đánh tan quân Thanh ở những chốt Giản Khẩu, Nguyệt Khuyết, và Nhật Tảo …
b. Quang Trung áp sát đồn Hà Hồi, tấn công ào ạt và Hà Hồi thất thủ đêm mùng 4 Tết Kỷ Dậu, 1789.
Xin nhìn sang mặt trận phía tây của Đô Đốc Long: cùng đêm mùng 4 Tết Kỷ Dậu, quân Tây Sơn từ Nhân Mục (Mộc) chọc thủng phòng tuyến quân Thanh ở chốt Khương Thượng khiến tướng Sầm Nghi Đống phải tự tử và quân Đại Thanh chết như rạ. Xác chết chất thành đống và được gọi là Gò Đống Đa (hàng vạn lính)
Sáng ngày mùng 5 Tết Kỷ Dậu, Quang Trung tổng công kích đồn Ngọc Hồi (ngõ vào Thăng Long) các tướng của địch chết gần hết. Quân Thanh chạy tán loạn và rút lui qua ngả sông Hồng. Để chặn quân Tây Sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị ra lệnh cắt cầu phao!. Quân Thanh chết hàng vạn, xác chết bềnh bồng trên dòng sông.
Trưa ngày mùng 5 Tết Kỷ Dậu, Quang Trung vào thành Thăng Long sớm hơn dự tính 2 ngày.
2.    Mặt trận phía tây:
a.     Như  đã trình bày ở trên (mặt trận chính): đêm mùng 4 Tết Kỷ Dậu.
b. Ngày mùng 5 Tết Kỷ Dậu (1789) Đô Đốc Long vây sát chốt Tây Long và Tây Long thất thủ khiến Tôn Sĩ Nghị phải vội vã chạy thoát thân không kịp đem theo ấn tín! Vua Lê Chiêu Thống cũng chạy theo cùng tàn quân Đại Thanh qua Tàu.
3.    Mặt trận phía đông:
 Đúng như kế hoạch hành quân của vua Quang Trung, hai Đô Đốc Lộc và Tuyết dùng tàu thuyền vượt biển, vượt sông để đến phía bắc sông Hồng chặn đường rút lui của địch. Quân Tây Sơn đã đuổi quân Thanh ra khỏi Ải Nam Quan của Đại Việt. Người dân Tàu dọc biên giới quá sợ hãi đã tranh nhau bồng bế chạy loạn vì sợ quân Nam tràn qua biên giới tấn công.
Thủy bộ đã hành quân nhịp nhàng cho toàn dân Đại Việt và Đại Đế Quang Trung đến thắng lợi cuối cùng. Quả là một chiến công hào hùng, oanh liệt !

 
Sơ đồ hành quân Bắc Tiến của vua Quang Trung ( do tác giả vẽ)

C.    Lời kết:
1.    Thiên tài dân tộc:
a.     Ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Quang Trung, ngài đã tổ chức một cuộc diễn binh vĩ đại ở Phú Xuân :
- Như để đánh dấu ngày Lễ Đăng Quang, ngay sau lễ duyệt quân.
- Cho lòng quân phấn khởi, cho lòng người nô nức. Ngài là một nhà chiến tranh chánh trị tài ba. Ngài hiểu “lòng dân là ý trời” và “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”… Quang Trung = vì dân, bởi dân, cho dân…
Ngay sau lễ duyệt quân, thì Quang Trung xuất quân để Bắc Tiến tiêu diệt quân Đại Thanh (trực chỉ Nghệ An rồi Tam Điệp): quân dân một lòng.
Trưa ngày mùng 5 Tết Kỷ Dậu: Quang Trung vào thành Thăng Long ăn mừng sau khi dẹp tan 200,000 quân Tàu. Áo ngự bào của ngài còn sặc mùi thuốc súng !. Ôi oai phong, ôi lẫm liệt biết bao !

 
Giữa tiếng hò reo vui mừng của quân sĩ, áo bào còn vương mùi thuốc súng, vua Quang Trung tiến vào thành Thăng Long sau khi quét sạch 200,000 quân Thanh ra khỏi Đại Việt.

b. Chỉ trong 31 ngày, nhân dân Đại Việt và Vua Quang Trung đã chiến thắng quân Thanh của Càn Long. Đây là một cuộc chiến thần tốc, hỏa tốc, một cuộc chiến thiên thần có lẽ vô tiền khoáng hậu trong lịch sử nhân loại. Khí thiêng sông núi và hồn thiêng dân tộc đã hun đúc ý chí của toàn dân vượt lên tất cả bão tố trong lò khói lửa của chiến trường”. Đại Việt vạn tuế!. Quang Trung vạn tuế! Ngài là danh tướng bách chiến bách thắng, hơn cả người cùng thời là Đại Đế Napoléon Bonaparte (1769-1821) của nước Pháp (tuy Napoléon đánh thắng nhiều trận ở Châu Âu nhưng đã từng thua quân Nga (năm 1812) và Anh trong trận Waterloo (năm 1815) và bị đày ra đảo St. Helene).
2.    Bài học lịch sử:
Lịch sử hôm qua là bài học hôm nay, thế nhưng nhiều nhà chánh trị đã quên !!
a.    Làm chánh trị thì phải luôn ghi nhớ: “Dân vi quí” – ý dân là ý trời.  Phải đi sát với thực tế. Phải tam cùng với dân: cùng ăn, cùng ở, cùng làm để mà hiểu lòng dân. Ở Mỹ, giai cấp trung lưu chiếm 51% lực lượng lao động với lợi tức trung bình $83,500. Họ là thành trì của xã hội tư bản. Thế nhưng càng ngày cuộc sống của họ càng khốn cùng (không nuôi nổi con học đại học!). Trong suốt 15 năm qua, các chánh trị gia của hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ cũng như giới truyền thông (media) đã không hiểu lòng người vì:
-    Dân chủ = đảng của giới quí tộc (Party of Elites).
-    Cộng Hòa = đảng của giới thượng lưu (Party of Elites).
-    Truyền thông = truyền thông của giới giàu sang ( Media of Elites).
Điều buồn nhứt là những chánh trị gia còn trẻ (sinh năm 1961, 1964…) xuất thân từ giới tiện dân, người nghèo… mà lại say sưa với bả vinh hoa phú quí lúc ở chánh quyền mà quên dân nghèo !
b.  Không hiểu lòng dân nghèo (70%) là một lỗi lớn lắm cho quí vị chánh trị gia. Sanh ra trong nhung lụa, sống trong nhung gấm (gia tài 3.7 tỉ đô la theo Forbes, August 2016) thế nhưng đi sát với dân nghèo (dân vùng xa, nhà quê, thành phố nhỏ..) và hiểu dân: Trump đã thắng.
Xem chánh trị nước Mỹ phải chăng cũng là bài học cho nước nhà!.
*****
Đầu năm Đinh Dậu kính chúc quý vị giáo sư và CHSTrịnh Hoài Đức cùng quí quyến một năm mới mạnh khỏe, ấm áp tình người, và một mùa xuân Đinh Dậu tường thụy và đầm ấm tình thương./.

Saturday, February 18, 2017


THỤY KHUÊ * BÙI NGỌC TẤN

Thụy Khuê Sóng từ trường II Bùi Ngọc Tấn Chuyện kể năm 2000


     Bùi Ngọc Tấn sinh năm 1934 tại Câu Tử, Hợp Thành, Thủy Nguyên, Hải Phòng.
     Ông bắt đầu viết văn, viết báo từ 1954. Cùng lớp với Lê Bầu, Lê Mạc Lân (là con của Lê Văn Trương nhưng không bao giờ dám nhắc đến cha), Vũ Thư Hiên, Nguyên Bình, Vũ Bão... Truyện ngắn đầu tay gửi dự thi báo Văn Nghệ, Chị Trúc, được Tô Hoài khen hay, nhưng không được in và cũng không được giải vì nói đến những mất mát của chiến tranh "hơi quá liều lượng".


    Vào làm phóng viên báo Tiền Phong, việc kỳ cục đầu tiên ông nhận thấy là người ta cấm nhà báo viết văn, muốn viết phải chui, viết văn chui, ký tên khác. Thế hệ ông, nhiều người bạn đã mắc vòng hệ lụy: như Bùi Minh Quốc, như Vũ Thư Hiên, như Phù Thăng, như Vũ Bão...
     Bùi Ngọc Tấn bị tù năm năm, mang số CR880, như Hắn, Nguyễn Văn Tuấn, nhân vật chính trong
 
  Chuyện Kể Năm 2000.
 
    Kết thân với Nguyên Hồng từ những ngày viết văn làm báo tại Hải Phòng.
     Bùi Ngọc Tấn rất gần gụi và quý trọng Nguyên Hồng. Bị đi cải tạo 5 năm (từ 1968 đến 1972), Bùi Ngọc Tấn im lặng hơn 20 năm (từ 1968 đến 1989). Xuất hiện lại trên tạp chí Cửa Biển, hè 1989, với một bài viết về Nguyên Hồng, sau trở thành tập hồi ức Một Thời Ðể Mất (NXB Hội Nhà Văn, 1995) và sau đó là hai tập truyện ngắn: Những Người Rách Việc (NXB Hà Nội, 1996) và Một Ngày Dài Ðằng Ðẵng.

     Ngoài ra, trong Chuyện Kể Năm 2000, tác giả nói đến hơn ngàn trang pelure bản thảo chữ nhỏ li ti, bị bắt làm "tang vật cho vụ án", gồm những tác phẩm: Hải Ðăng, tiểu thuyết; Hoa Cau, truyện dài; Làn Sóng Thứ Nhất, tiểu thuyết; Những Người Ðang Sống, kịch bản phim; Những Chuyện Trên Một Vùng Cửa Biển, truyện ngắn; Ðầu Cầu, trường ca; ...
T.K.

 Năm 2000, tiểu thuyết trở về sau một thời xa vắng, với những tác giả như Bùi Ngọc Tấn, như Nguyễn Bình Phương... Báo hiệu sự hồi sinh của văn học ở thời điểm mà các tác phẩm có giá trị đích thực vẫn chưa thoát khỏi cuộc giảo nghiệm của tử thần: từ án treo, đến án chung thân, đôi khi tử hình như trường hợp Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn: "Ngày 16/3/2000, Bộ Văn Hóa Thông Tin đã ra quyết định số 395/QÐ-BVHTT, đình chỉ phát hành và thu hồi, tiêu hủy cuốn Chuyện Kể Năm 2000 của tác giả Bùi Ngọc Tấn" (1)

Như một nghịch lý hợp lý, bản án trên đây xác quyết những điều Bùi Ngọc Tấn đã viết về sự lầm than, về những vò xé, xuyên tạc, những chụp giật, đập phá, ức hiếp của thẩm quyền và thế quyền trên những con chữ li ti. Mà chữ thì không có khả năng kháng cự với dùi cui, chúng chỉ là những thực thể tí hon chạy chơi trên tờ pelure mỏng, làm sao chọi lại những bàn tay thô bạo, những khối óc vô hồn. chữ là một vi sản trong các di sản, là kẻ yếu nhất, trong số những nạn nhân hiện hữu trên đời: khi bị hành hạ, cả đến côn trùng, thảo mộc, con sâu, con kiến cũng còn có phản ứng, quằn quại trước khi chết, nhưng chữ thì không. Tuyệt đối không. Dù bị kết án tử hình, chữ cũng lặng thinh. Bất động.
Nhưng sự im lặng nào cũng đáng ngờ. Bởi làm thinh cũng là một thái độ. Làm thinh là không chấp. Làm thinh vì biết, mình, người. Làm thinh vì biết sức mạnh của mình, rồi mình sẽ sống khi những kẻ hành hạ mình đã chết, biết được chất vĩnh cửu của những giá trị, nằm ngoài thô bạo của lịch sử, trên mu muội của con người.



*


Như đường về mê ngục. Như bước xuống âm ty. Chuyện Kể Năm 2000 mở cửa Goulag Việt Nam. Một Goulag thâm u, tiền sử, nhuần nhuyễn bản chất Ðông phương, không sôi nổi bạo tàn, không máu mê tra tấn như Goulag phương Tây. Ở đây là tịch mịch Á Ðông, là hình thức toàn trị rất thiền, cái Goulag thầm lặng nhưng vô cùng hữu hiệu bởi người tù cải tạo đã chết khi còn đang sống. Ðó là ý nghĩa sâu xa nhất của tác phẩm.


Với Bùi Ngọc Tấn, tiểu thuyết Việt Nam bước vào một ngõ ngoặt, một giai đoạn mới: Giai đoạn mà nhà văn (ở trong nước) lại có quyền được in những tác phẩm nói lên sự thật, biện hộ cho tự do, sau mười năm bặt vắng. In xong, có thể bị tịch thu liền. Nhưng in là quan trọng. Là thiết yếu. Bởi đã in là thoát.


Trong gần mười năm, tiểu thuyết Việt Nam đã trải qua thời kỳ xuyên sa mạc. Sau những Thời Xa Vắng, những Bên Kia Bờ Ảo Vọng, những Nỗi Buồn Chiến Tranh, những Bến Không Chồng, v.v... của thời kỳ đổi mới, văn học trong nước chuyển sang thời kỳ tụt hậu mười năm: trừ một vài trường hợp hạn hữu như tác phẩm của Nguyễn Bình Phương, vượt ra ngoài "cõi đọc" của số đông cho nên không bị thẩm xét gắt gao, hầu như không có tiểu thuyết giá trị nào được phép ra đời. Nhiều người nói đến sự tuyệt chủng của tiểu thuyết, nhưng dường như với bình minh 2000, người đọc có quyền hy vọng.




Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn xuất hiện như sự trở mình của thần long ngủ trong lòng biển. Sự trở mình này, trước tiên tùy thuộc ở những cố gắng và can đảm xuất bản: Nhà Thanh Niên, do Bùi Văn Ngợi trách nhiệm, chỉ trong hai tháng đầu năm 2000, đã in ít nhất 3 tác phẩm giá trị. Ðó là Ðối Thoại Sử Học của nhóm Bùi Thiết (7 sử gia lớp sau) chống lại khuynh hướng bóp méo lịch sử vì nhu cầu chính trị. Quyển thứ nhì là tiểu thuyết Chuyện Kể Năm 2000 và thứ ba, tiểu thuyết Hai Nhà của Lê Lựu. Ðiều này chứng tỏ khi người làm công việc xuất bản có lương tâm văn học, những tác phẩm xứng đáng vẫn được chào đời dĩ nhiên họ đã phải trả giá rất đắt.




*



Trở về với tác phẩm của Bùi Ngọc Tấn: Ðây là một tác phẩm có tầm vóc lớn. Vừa ra đời nó đã là một tác phẩm classique, cổ điển, trong cái nghĩa đẹp nhất của hai chữ "cổ điển". Cổ điển như Dịch Hạch của Camus, bởi nó đã bao trùm lên được nỗi đau của con người trong thời kỳ Xã Hội Chủ Nghĩa.
Từ trước đến nay, độc giả -nhất là độc giả ngoài nước- đã được đọc nhiều hồi ký cải tạo của những người cầm bút ở hai miền Nam Bắc. Mỗi hồi ký đều nói lên những khía cạnh khác nhau của đời tù cải tạo. Qua những tác phẩm đó, người đọc biết được đại cương đời sống trong tù. Nhưng thể hồi ký, luôn luôn gò bó người viết trong tư thế nhất định của cái tôi chủ quan nên khó có thể bước vào thế giới mộng tưởng nghệ thuật. Ở hồi ký, người viết cũng lại gần như bắt buộc phải đưa ra những việc thực, người thực nghèo nàn, giết chết khả năng sáng tạo.




Sự lựa chọn thể tiểu thuyết, nơi Bùi Ngọc Tấn, là một sự lựa chọn độc sáng. Với tiểu thuyết, nhà văn có thể tung hoành, sống nhiều cái tôi, đứng trên muôn vàn khía cạnh để rọi những lăng kính khác vào cuộc đời Goulag.
"Hắn" là Tuấn, Nguyễn Văn Tuấn, nhân vật chính trong tác phẩm, tù số CR880, là tổng hợp của nhiều "hắn" khác trong một đời tù. những bạn tù của hắn, mỗi danh xưng: Già Ðô, Vũ Lượng, A Thềnh, Lê Bá Di, Triều Phỉ... cũng lại tổng hợp nhiều nhân vật khác trong nghìn đời tù. những khuôn mặt công an, quản giáo: Ông Trần, ông Lan, ông Thanh Vân... tiêu biểu những khuôn mặt "có quyền" dẵm lên con người một cách tùy tiện, tùy theo "ngẫu hứng" của mình trong cơ chế toàn trị. Do đó, qua câu chuyện của "Hắn" người ta đọc thấy, không chỉ có những trầm luân của một Bùi Ngọc Tấn, một Vũ Thư Hiên, những người cùng trang lứa với Hắn, mà người ta còn nhìn thấy cả một thế hệ "được đi thực tế" trước "Hắn", những Nguyễn hữu Ðang, hữu Loan, Trần Dần, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Lê Ðạt... và thế hệ "được cải tạo" sau hắn như Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Hoàng Chương, Tô Thùy Yên, Cung Trầm Tưởng... Ðó là những tai ương của người cầm bút, sau Cách Mạng Tháng Tám.




Bi kịch của "Hắn" chỉ kéo dài có 5 năm.
Bi kịch của những người không-phải-hắn kéo dài có khi gấp hai, gấp ba nữa. Vậy mà chỉ cần đọc "Hắn" người ta đã rụng rời, người ta đã được nếm mùi địa ngục. Bùi Ngọc Tấn viết:



"Bọn hắn là một lũ tội phạm. Mỗi người một kiểu khác nhau, nhưng cùng phạm những tội ác với nhân dân, với cách mạng, với Ðảng. Bọn hắn là địch. Còn nguy hiểm hơn địch. Pháp, Mỹ, mũi lõ mắt xanh, cầm súng bắn vào nhân dân, ai cũng nhận ra. Nhưng bọn hắn khó nhận diện hơn, nên càng nguy hiểm. Tội lỗi ấy không đáng được đối xử như những con người. Không đáng thở bầu không khí chung với nhân dân. Không đáng được gọi là người Việt Nam, một dân tộc anh hùng. Dân tộc xấu hổ vì bọn hắn. Tuy nhiên Ðảng vẫn tin tưởng ở cái phần người còn lại trong mỗi kẻ bọn hắn. Ðảng nhen nhúm chút phần còn sót lại ấy. Và bọn hắn được đối xử đúng như vậy. Con trâu cày, con lợn giống còn được các ông quản giáo vỗ về, vuốt ve, tình cảm. Bọn hắn, không ai dám mơ tưởng đến hạnh phúc lớn lao ấy. Một lời động viên thông cảm cũng không dám màng. Không được như những cây rau. Luống rau cải bắp, luống rau muống có sâu, hắn phải đem bình vô-pha-tốc ra xịt ngay. (Bọn hắn ốm thử đi xin viên thuốc ở chỗ ông Chắn, công an y tá xem) Gặp ai cũng phải gọi là ông, là bà. Gặp bà công an kế toán bế con trai lên bốn đi chơi, là phải kính cẩn:
- Bà với ông đi chơi ạ!"


(Quyển I, NXB Thanh Niên, 2000, trang 88-89)


"Bọn hắn" là những ai? Là những kẻ mang tội danh "tuyên truyền phản cách mạng", những kẻ được liệt vào thành phần phản động, những kẻ bị quy kết là bôi đen chế độ. Tóm lại là những tù chính trị, công giáo có, nhà văn có, nhà báo có, cộng có, ngụy có, Việt kiều có, nông dân có... tất cả được giam chung với tù hình sự, đảo ngũ, trộm cắp, giết người... Chỉ khác là tù hình sự thì có án rõ ràng, 5 năm, 7 năm, 10 năm... Còn tù chính trị, tù tư tưởng là tù không án tức là không biết được ngày về, không biết được tội trạng của mình, được gọi bằng những chữ đẹp đẽ nhẹ nhàng: đi "tập trung học tập cải tạo" chứ không phải đi tù.


Hành trình "cải tạo" đã có bao nhiêu ngàn người trải qua? Không ai biết được. Khi Hắn được tha, đi trên đường phố Hà Nội, Hắn đã nhận thấy những khuôn mặt quen quen, tất nhiên đây chỉ là ảo tưởng của Hắn. Nhưng một ảo tưởng gắn liền với sự thật: những khuôn mặt tù hàng ngày diễn qua quãng đời năm năm của Hắn, cứ 1000 khuôn mặt ấy (trại của Hắn giam độ 1000 người) nhân lên với gần 2000 ngày tù là đủ có một thế giới hai triệu khuôn mặt tù. Ấy là chưa kể những khuôn mặt nằm ngoài phạm vi "nhìn thấy" của Hắn, ở những trại khác, ở những thời điểm khác.
Không thể biết được bao nhiêu người đã sống đời Goulag Việt Nam, nhưng qua câu chuyện kể năm 2000 của Hắn, của tù nhân mang số CR880, thì tất cả những hạng sous-homme "dưới người" như Hắn, không phải là ít. Và hầu như tất cả tầng lớp nô lệ hiện đại này đều phải trải qua một giai đoạn mấu chốt: Ðó là sự tàn phá con người -sau Goulag- và Hắn buồn rầu nhận thấy: "Mình đã bị tiêu diệt. Tiêu diệt hoàn toàn."
Cái khác nhau giữa "nô lệ tiền sử", "nô lệ phong kiến" và "nô lệ hiện đại" là ở hai thời kỳ đầu, sự chiếm hữu nô lệ xẩy ra giữa những bộ tộc khác nhau, ở những giai cấp khác nhau, mà thường là bộ tộc mạnh đàn áp yếu, giai cấp giàu bóc lột nghèo. Ở hình thức "nô lệ hiện đại", những người bị giáng xuống hạng dưới người, thường là những văn nghệ sĩ, những trí thức, những nhà tư tưởng... thành phần élite của xã hội. Và đó là bi kịch thời hiện đại, của những nhà nước chủ trương tiêu diệt thành phần ưu tú của đất nước bằng tính ưu việt của Goulag.




*









Chín trăm trang sách, đúc kết một đời người, nhiều đời người trong một. Ðây không chỉ là chuyện tù ngục, lưu đầy. Ðây là những mảnh đời bị xé nát, trù ếm, dẫm đạp của người tù và của cả những người không-bị-tù, tức là những người có tương quan bạn hữu, máu mủ, thân thiết nhất với người tù.
Ðây là cuốn sách viết về tình yêu, lòng nhân ái, viết về sự thủy chung, về sự phản bội, về nhân phẩm, về tự do, về nhân bản. Một cuốn sách trùm phủ lên những đề tài muôn thuở về con người. Nhưng có lẽ điểm độc đáo nhất là người viết, ở đây, đã trực tiếp nhận trách nhiệm của mình trong sự tác thành cái guồng máy chuyên chính toàn trị đã nghiền nát mình. Và có lẽ đó là chỗ lớn lao nhất của tác phẩm: Vấn đề trách nhiệm.
Nếu tất cả mọi người đều nhìn nhận trách nhiệm của mình, không dựa vào Bác, không dựa vào Ðảng, vì "Bác-Ðảng" thực ra chỉ là cái cớ, những hư danh hay những thực thể không thể sờ mó được. Bởi vì Bác, một người đã khuất cách đây hơn 30 năm, và Ðảng, một tổ chức do các đảng viên dựng lên, không thể trách nhiệm thay cho những người đã và đang tích cực góp phần xây dựng vào sự v"ng vàng của guồng máy chuyên chính còn được gọi là Ðảng: Bao giờ trách nhiệm cũng về phía con người. những người đang sống. Trong những hàng cuối của cuốn tiểu thuyết, Bùi Ngọc Tấn đã viết rất sâu sắc về cái quyền uy vô hình, đè nặng lên mỗi cá nhân:



"Ai cũng có một người vô hình để mà trình bày, để mà sợ sệt và thầm cãi lại. Người vô hình luôn bên cạnh mỗi người như hình với bóng, cả trong giấc ngủ. Nhưng thật ít người dám vùng lên chống lại, vì cái giá trị phải trả thường là cuộc đời, là sinh mạng."


Cái người vô hình mà Bùi Ngọc Tấn nói đến ở đây, phải chăng chính là con khủng long toàn trị mà mỗi cá nhân, trong đó có Hắn, đã góp phần tạo ra, dinh dưỡng để nó nghiền nát chính mình?





*









Bùi Ngọc Tấn bắt đầu viết từ tháng 6/1990 đến 30/11/91 hoàn tất Chuyện Kể Năm 2000. Bản thảo được xem lại lần cuối vào tháng 8/98. Theo giới thân cận tác giả, tác phẩm đã được viết lại nhiều lần trong 9 năm qua, điều đó giải thích phần nào khía cạnh nung nấu, chín mùi về mặt cấu trúc hình thức cũng như nội dung văn bản.
Chuyện Kể Năm 2000 là một tự truyện. Nhiều nhân vật vẫn gi" tên thật, tác giả đổi một vài tên đã xuất hiện trong tập hồi ức văn học Một Thời Ðể Mất (2). Bùi Ngọc Tấn rất gần gụi và quý trọng sự nhìn xuống những người dưới đáy của Nguyên Hồng trong Bỉ Vỏ. Một Thời Ðể Mất chủ yếu viết về Nguyên Hồng, nhưng qua đó người đọc có thể biết rõ về môi trường sinh hoạt văn học của lớp người cùng lứa tuổi với tác giả và nhất là về không khí sáng tác theo "đúng đường lối của Ðảng" thời 1960-65; Một Thời Ðể Mất cũng cho biết sơ lược nội dung những tác phẩm khác của Bùi Ngọc Tấn mà sau này, trong Chuyện Kể Năm 2000 tác giả nói rõ hơn: Ðó là độ khoảng hơn 1000 trang pelure, chữ nhỏ li ti, sản phẩm của 15 năm lao động tinh thần đã bị tịch thu, bị đem ra mổ xẻ và không bao giờ trả lại, trong đó có tập nhật ký ghi những tâm tư thầm kín nhất của tác giả.
Ở tập trường ca Ðầu Cầu, sáng tác những năm 60, đã thấy những tín hiệu của một nhà văn nhìn xuống đáy, tìm đến nỗi đau thực của con người trong chiến tranh, âm thầm phản đối chiến tranh và những hồi còi lệnh giục giã lên đường:



[...] Ðầu cầu xe về
Nước sôi trong két
Anh lái xe mắt xếch
Tắt máy chờ qua sông
Ðầu gục vô lăng
Tranh thủ
Ngủ
Giấc ngủ treo bao ngày đêm mỏi rời mi mắt
Giấc ngủ đợi chờ vụt biến đi đâu
Khi đến đây đầu cầu,
Ðáy vực không gian sâu thăm thẳm,
Sương rơi nắp ca-pô
Sương rỏ giọt ngoằn nghèo kính cửa,
Sương Hải Phòng ướt bụi Trường Sơn,
Sương buông thanh bình như ngàn năm trước sương buông
Anh lái xe, dựa vô lăng nghe đất trời yên lặng.
Nghe máu mình khe khẽ thái dương.
Dốc cầu
Còi.
Hiệu lệnh
Lên đường!
(Một Thời Ðể Mất, NXB Hội Nhà Văn, 1995, trang 105)


*








Chuyện Kể Năm 2000 là một tác phẩm nhìn xuống những người dưới đáy ngục bằng cách giao hòa hai yếu tố: Thực tại và mộng du. Thực tại trong tù và mộng du ngoài tù.
Tác phẩm ban đầu có tên là Mộng Du. Mộng du là hình thức tự do trong trạng thái nguyên thủy và là cơ nguyên của sáng tạo.
Cấu trúc tiểu thuyết của Bùi Ngọc Tấn là sự giao thoa giữa tù ngục và tự do, làm bật ra những nét tương phản giữa tự do và tù ngục. Sự giao thoa này đưa đến những nhận xét kinh hoàng: Con người, một khi đã bị cải tạo thì mùi vị tù ngục sẽ pha vào óc, vào máu, biến chứng trở thành những chấn thương nội tại, và khi ra khỏi ngục, Hắn -kẻ bị tù- sẽ không thể rửa được óc, máu của mình. Hắn vẫn tiếp tục sống với những người bạn tù cùng khổ, trong một cõi mộng du khác. Cũng như, trong khi ở tù, chính cõi mộng du đó, đã tiếp máu, đã hồi sinh hắn, cho hắn sống với người thân tại ngoại.




*








Ðiểm quan yếu của tác phẩm là nói lên cái nội dung cải tạo như người ta đã nói mà chưa từng nói như thế bao giờ.
Nội dung đầu tiên của cải tạo nhằm việc triệt hạ nhân phẩm: Hạ nhục người tù xuống mức độ dưới người. Gặp bà công an bế con trai lên bốn đi chơi, là phải kính cẩn: Bà với ông đi chơi ạ! Nhất cử nhất động phải xin phép: Báo cáo ông, tôi, Lê Bá Di, tù số 127 vào nhà mét đi đái. Tính cách đối xử này phản ánh một trạng thái cực kỳ khôi hài: Gậy ông lại đập lưng ông, ngay trong lời xin phép đi đái, hoặc gọi mẹ, con bằng bà và ông: mẹ con trở thành đồng hạng. Tác giả chỉ thuật, không bình, nhưng cái ngôn ng" trần trụi ấy đã nói lên bản chất phi lý, phi nhân, tức cười và vô giáo dục trong nội dung cải tạo.
Ngoài việc triệt hạ nhân phẩm qua cách đối xử, cải tạo còn sử dụng hai vũ khí khác để triệt hạ con người, đó là Ðói và Thời gian.
Ngoài công việc khổ sai thứ nhất như gánh phân, bốc bùn, xẻ nứa, làm rẫy, v.v... còn có Ðói. Ðói là khổ sai thứ nhì. Ðói đến vồ được thứ gì cũng nhét vào miệng: từ con ếch, con nhái, con dế, con chuột, đến quả ớt, lá ráy... A Thềnh chết vì ăn cắp ớt. Ðói triền miên. Ðói trong lúc ăn. Ðói trong lúc ngủ. Ðói là sự triệt hạ nhân phẩm bằng đường thực phẩm. Ðói khiến tù phải hạ mình, phải tố giác nhau vì miếng ăn. Tiếng chim "khó khăn", "khắc phục", "còn khổ", tiếng chim "ối con ơi!" cất lên như tiếng định mệnh của người tù dội về từ kiếp khác.
Nhưng yếu tố ghê gớm hơn cả vẫn là thời gian: Thời gian vô định của người tù cải tạo, người tù tư tưởng. Không có ngày về. Không biết ngày về. Cái thời gian tàn bạo này có thể giết người không gươm giáo.
Ðối diện với những phần tử triệt hạ con người, Ðói và Thời gian, có một liều thuốc hồi sinh: đó là Mộng du. Mộng du còn là sáng tạo. Mộng du về với người thân yêu, về với người yêu, cõi mộng du ấy đã giúp người tù sống được trong cõi chết. Ðời tù chia hẳn thành hai lãnh vực: Lãnh vực thực tế, hiện tại, khổ sai, đói rét và nhục nhã. Và lãnh vực yêu thương là những phút "mặc niệm người thân", lấy chút dưỡng khí của tình yêu, của gia đình, tiếp vào khí quản:



Ðầu gối lên cùm sắt gỉ han
Nghĩ tóc em xanh mười chín tuổi
Mái sương đêm những vì sao Hà Nội
Trong nhật ký anh.
Tóc em xanh trang nhật ký
Trong hồ sơ mật an ninh
Cả đến tình yêu chúng ta cũng bị nhục hình
Cắn răng lại, em ơi, đừng khóc.
(Quyển I, trang 187)



Khi người vợ "góa sống" vượt đồi núi, vượt đạn bom, đến thăm chồng "Em đem suốt nghìn đêm thương nhớ lại" và "Anh giết dần từng giây địa ngục chờ em". Chính cõi mộng du đã cứu sống người nghệ sĩ. Cung Trầm Tưởng cũng nói như vậy: Nếu không có nó -tức mộng du, sáng tạo- thì tôi đã tự tử rồi.
Mộng du giúp Bùi Ngọc Tấn sống lại những giờ phút thiêng liêng nhất của cuộc đời: sống hoang toàng, xả láng với hạnh phúc, từ những nhục cảm đầu đời, đến những giây phút cực cùng với bạn tù trong cõi chết.




*










Và cũng chính cõi mộng du ấy đã triệt hạ con người sau Goulag. Nó bắt người tù được thả, phải trở lại với thế giới trong tù, với những người bạn còn đang dưới đáy, nó là một thứ lương tâm nhân loại, tàn ác không thể loại trừ, nó theo đuổi con người như một bóng ma. những người đã thoát ngục, không thể nào quên được những bộ xương còn nằm dưới đáy ngục, chính cái lương tâm nhân loại ấy đã dấy lên, đã bắt Bùi Ngọc Tấn phải viết, phải làm chứng cho những linh hồn oan khuất, đã vội sớm ra đi, không kịp để lại bút tích về sự hiện hữu của chính mình.
Bùi Ngọc Tấn dùng tâm, não, xương, thịt, đời tù của mình để tạo ra tác phẩm. Trọng lượng cây thánh giá của người tù trên đường hành hương vào cõi chết đã được tác giả mổ xẻ, cân đo, phân chất đến cội nguồn của cội nguồn, gốc gác của gốc gác.
Ngay từ khi nghe lời tuyên bố "lịch sử": "Anh Nguyễn Văn Tuấn, hôm nay chúng tôi đến bắt anh đây", rồi qua những cửa ải đầu tiên mà Bùi Ngọc Tấn gọi là bản dạo đầu, là xà lim, rồi cung vấn Nguyễn Văn Tuấn, rồi lại xà lim, chờ đợi nhận tội. Anh không nhận đã có thời gian: Anh không nhận chúng tôi cứ chờ. Chúng tôi kiên trì, chúng tôi có thời gian hậu thuẫn. Cái thứ thời gian ác ôn, chôn vùi hàng vạn đời người trong lòng ngục.

*


Bữa bún chả đầu tiên, ngoài tù, do Mạc bán máu lấy tiền khoản đãi "Chúng tao không dám nói. Sợ mày khinh, ăn không ngon. Sợ nghĩ là mày ăn thịt nó. Nó bán máu và bán luôn cả cái phiếu đậu bồi dưỡng." (Quyển I, trang 201)
Từ đây bắt đầu cuộc đời "tại ngoại".
"Tại ngoại", người tù trở thành một thứ "phó dân".
Xã hội tại ngoại, dường như còn tanh tưởi, vấy máu hơn xã hội trong tù.


"Thịt chỉ bán cho những người bán máu. Hắn về tay không và nghĩ đến Vũ Mạc. Thịt hiếm thế này Vũ Mạc kiếm được đây. Mạc bán máu và bao giờ cũng bán nốt mọi thứ phiếu bồi dưỡng." (Quyển II, trang 77)


Xã hội tại ngoại không dung những thứ phó dân như già Ðô, như Giang, như Tuấn... Hệ thống công an như một con mắt khổng lồ vô hình, vẫn tiếp tục chõ vào cuộc đời của người tù được thả cũng như đã từng soi sáng hết cả huyệt lộ cuộc đời những người thân, bạn thân của tù, như Bình. "Bình bàng hoàng khi biết mình có đuôi [...] Anh ngửi thấy cái mùi của nhà tù. Anh bắt đầu biết anh bị theo dõi vào một buổi chiều thứ bẩy [...]
Anh sôi lên vì sợ hãi, tuyệt vọng. Và có cảm giác của một con thú bị nhốt trong chuồng, lồng lộn nhưng không sao thoát được. Thì ra họ có toàn quyền làm những việc họ thích. Họ huy động cả guồng máy khổng lồ để hại mình. Ðạp xe đi, anh cứ thấy vương vướng ở phía sau lưng. Dinh dính ở gáy. Một cảm giác lạnh ở phía sau. Và bẩn. Và dính. Anh thở dài." (Quyển I, trang 460-461)



"Anh biết anh chưa bị bắt thôi chứ anh đã mất tự do rồi. Không thể gọi là tự do khi mình đi đâu, làm gì (kể cả đi đái), gặp ai, trò truyện bao lâu, cũng có người quan sát và ghi sổ "Ðối tượng P2 về thăm con. Không đi la cà các nhà hàng xóm. Ngủ ở nhà ...". Vì chắc anh cũng phải có một con số bí. Nhưng không biết họ đặt cho anh số bí gì nhỉ? P2 hay A18. Hay T5? Thật là một trò chơi chết người. Và thật buồn là mình lại ở trong vòng chơi đó [...]
Anh uống trà với chú em mà không biết mình uống gì. Anh đang nghĩ đến những cái đuôi. Cẩn thận thật. những hai cái đuôi." (Quyển I, trang 462-463)


Cái cảm giác trên đây của Bình, không ít người đả trải qua. Ðó là cảm giác dinh dính ở gáy. Một cảm giác lạnh ở phía sau. Lạnh. Và bẩn. Và dính. Bùi Ngọc Tấn đã đi đến ngọn nguồn cảm giác của kẻ thấy mình có đuôi. Cảm giác dinh dính này trong thơ Ðặng Ðình Hưng có nhắc đến, nhưng dùng trong một hình tượng khác: Kẻ bị theo dõi thấy chân dinh dính dưới đất, và hắn đi vòng con số 8 lộn ngược. Ðặng Ðình Hưng đưa ra một hình tượng tù ngục khác của nhà thơ. Biệt tài của nhà văn, nhà thơ là họ có thể chỉ dùng vài chữ ngắn gọn, nhỏ bé để bất tử hóa một hiện tượng rộng lớn, bao trùm xã hội. Hiện tượng bị công an theo dõi dường như ai cũng đã trải qua khi đặt chân lên đất Việt, nhưng ghi lại cái cảm tường Dinh dính. Lạnh. Và Bẩn thì chỉ có những ngòi bút biệt tài mới chụp được để đưa nó vào cõi bất tử.


Với một bút pháp như thế, những khuôn mặt như già Ðô, Triều Phỉ, Sáng, Giang, A Thềnh, Lê Bá Di, Vũ Lượng... đã được nhà văn khắc tạc trong hang đá của thời gian, dù họ đã suối vàng hay còn trần thế, những chân dung của họ đã đi vào lịch sử, không phải lịch sử tầm thường của đời sống, cũng không phải lịch sử khốc liệt của chiến tranh, mà là lịch sử chữ, lịch sử văn hóa của con người.


Vì những già Ðô, những Triều Phỉ, những Sáng, những Giang... mà Hắn, nhà văn, phải viết, Hắn bắt buộc phải tự do. Nếu không có tự do hắn cũng phải sáng tạo ra tự do để viết. Viết về nỗi đau của những người đã nằm xuống. Viết về nỗi đau của một người và cũng là nỗi đau của dân tộc, của loài người. Ðó là vấn đề trách nhiệm và nhân cách của hắn, nhà văn.


Paris, tháng 3/2000

______


Chú thích

(1). Ðây là nguyên văn của nghị quyết: "Ngày 16/3/2000, Bộ Văn Hóa Thông Tin đã ra quyết định số 395/QÐ-BVHTT, đình chỉ phát hành và thu hồi, tiêu hủy cuốn Chuyện Kể Năm 2000 của tác giả Bùi Ngọc Tấn do nhà xuất bản Thanh Niên xuất bản vì đã vi phạm khoản 1 và 2, điều 33, luật xuất bản. Ðiểm 1, điều 3, quy chế lưu chiểu xuất bản phẩm của Bộ Văn Hóa Thông Tin (số 01/1998 QÐ-BVHTT ngày 30/7/1998). Ðiều 8 quy chế liên doanh về in và phát hành xuất bản phẩm của Bộ Văn Hóa Thông Tin (số 75/1999 QÐ-BVHTT ngày 8/11/1999). Cũng theo quyết định này, Ban Bí Thư Trung Ương Ðoàn Thanh Niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, cơ quan chủ quản Nhà Xuất Bản Thanh Niên có hình thức kỷ luật nghiêm khắc Ban Giám Ðốc Nhà Xuất Bản Thanh Niên và những người có liên quan trong việc xuất bản và phát hành cuốn Chuyện Kể Năm 2000." (trích báo Tin Tức số ra ngày 17/3/2000)

(2). Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội 1995
© 1995-1-2001 Thụy Khuê


CÔNG TỬ HÀ ĐÔNG * NGƯỜI, BIỂN VÀ CÁ

NGƯỜI, BIỂN và CÁ

NGƯỜI trong bài Viết ở Rừng Phong này là “Người Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa.”
Tôi – CTHà Ðông –  viết rõ như thế vì từ lâu – từ năm 1954 –  tôi vẫn coi trên cõi đời này có hai Nước Việt: Nước Việt Nam Cộng Hoà và Nước Bắc Việt Cộng Sản. Từ lâu, và trọn đời tôi, tôi coi như thế.

Tháng Sáu 2012 bạn tôi ở Paris gửi cho tôi quyển “Biển và Chim Bói Cá,” tiểu thuyết của Nhà Văn Bắc Việt Cộng Bùi Ngọc Tấn. Tìm trên Net, tôi thấy bài viết của ông Lê Diễn Ðức dưới đây. Tôi trích đăng bài, viết của ông Lê Diễn Ðức về tiểu thuyết “Biển và Chim Bói Cá “và về tác giả Bùi Ngọc Tấn.  Mời quí vị đọc:
Ledienduc’s blog –  Ngày 8 tháng 4, 2012, Nhà văn Bùi Ngọc Tấn  được Giải Thưởng Henri Queffenlec tại Liên Hoan “Sách và Biển” năm 2012 (Festival Livre et Mer) của Pháp tổ chức trong 3 ngày từ ngày 6 đến ngày 8/4/2012.
Giải thưởng Henri Queffenlec trao cho tác phẩm “Biển Và Chim Bói Cá” của Nhà văn Bùi Ngọc Tấn. Tiểu thuyết “Biển và chim bói cá ” bản Việt ngữ  538 trang, được Dịch giả Tây Hà dịch ra tiếng Pháp 514 trang, Nhà Xuất Bản L’Aube phát hành năm 2011, có tựa đề là “La Mer et le Matin-pêcheur“.( CTHÐ: Tên tiếng Pháp của Chim Bói Cá là Martin-Pécheur.)“La Mer et le Matin-pêcheur” đã vượt qua 5 tác phẩm của các nhà văn chuyên nghiệp của Canada, Pháp, Bỉ tại vòng chung kết và giành Giải Thưởng Lớn (Grand Prix),


Giải thưởng của Festival mang tên Nhà văn Henri Queffélec, một trong những tác giả nổi tiếng nhất viết về Biển bằng tiếng Pháp trong thế kỷ 20 và là người sáng lập Giải Văn Học uy tín này.
Dịch giả Tây Hà, người dịch tác phẩm “Biển và Chim Bói Cá” sang chữ Pháp,  thay mặt Nhà văn Bùi Ngọc Tấn trong Lễ Trao Giải, phát biểu cảm tưởng.
Tây Hà: “Nhà văn Bùi Ngọc Tấn hiện đang ở Việt Nam và rất tiếc không đến dự được buổi họp hôm nay. Là dịch giả tôi thay mặt tác giả.  Dịch giả chỉ là người thi hành và thấy mình thật bé nhỏ khi đứng với bao nhiêu nhà sáng tạo. Chúng tôi rất cảm động vui mừng và cảm ơn nhận giải thưởng Ðại Hội đã dành cho “Biển và Chim Bói Cá”. Sự cảm động và vui mừng tác giả đã biểu lộ khi được tôi báo tin trên điện thoại.
Giải thưởng này là một vinh dự, một niềm vui, và là một an ủi cho chúng tôi, vì nó là một sự công nhận quốc tế đối với một tài năng bị bạc đãi ở chính nước mình. Tác giả Bùi Ngọc Tấn đã nhận nhiều giải thưởng có tầm cỡ toàn quốc, ở trong nước. Nhưng ông đã bị giam cầm vì tài năng của mình. Bởi một người tài không bao gi
Tôi sẽ chuyển giải thưởng cho tác giả khi về Việt Nam và chúng tôi sẽ có cuộc liên hoan với các bạn nhà văn, nghệ sĩ, có rượu và cá như đã viết trong tiểu thuyết.
Dịch giả Tây Hà đọc lời chào mừng của Nhà văn Bùi Ngọc Tấn gửi đến Festival:
Tôi chào mừng Ðại Hội Biển và Sách. Ðạt được giải Henri Queffelec mỗi năm dành cho một tác phẩm nói về Biển, thật là một vinh dự lớn cho tôi, nhất là khi qua mạng internet tôi được biết trình độ rất cao của những tác giả cùng tranh cử để được giải này. Nước Pháp đối với tôi không hẳn là xa lạ, vì thời thơ ấu tôi đã học tiếng Pháp và sự kiện này càng làm tăng thêm niềm vui của tôi. Tôi thành thật cảm ơn đại hội đã cho tôi vinh dự và niềm vui này .
Lê Diễn Ðức: Tôi biết Nhà văn Bùi Ngọc Tấn từ cuốn “Chuyện Kể Năm 2000” và năm 2002 mới được đọc nó nhờ một người bạn mua ở Mỹ gửi qua Ba Lan cho, vì cuốn sách không được xuất bản tại Việt Nam.
Chuyện Kể Năm 2000” được cộng đồng người Việt hải ngoại biết đến khá rộng rãi. Cuốn tiểu thuyết thực chất là hồi tưởng của Nhà văn về cuộc sống trong 5 năm (1968-1973) bị tập trung cải tạo oan ức và bất công chỉ vì những chính kiến khác với nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam trước các nghịch lý và bất công xã hội.
Cuộc sống trong tù đơn điệu, nhàm chán đã được Nhà văn Bùi Ngọc Tấn mô tả trong “Chuyện Kể Năm 2000” một cách sống động, cuốn hút qua ngòi bút tài tình của mình. Trong những khoảnh khắc bi kịch nhất, có lúc tia sáng chợt loé thúc dục cho con người vươn tới sự sống, sự tồn tại bằng hình ảnh lãng mạn và đẹp tuyệt vời của tình yêu với người vợ thuỷ chung. Cả cuốn sách đầy ắp tính nhân văn chứa đựng liên tiếp những bi kịch, những nụ cười chảy nước mắt của những tù nhân trong hoàn cảnh cùng cực và bi thương về vật chất và tinh thần.
Tháng 7 năm 2009, cô bạn nhà báo Lan Hương ở Moscow cho tôi hay cô đã hoàn tất thủ tục mời Nhà văn Bùi Ngọc Tấn sang thăm nước Nga.
Ðến thăm nước Nga là niềm mơ ước lớn không chỉ của Nhà Văn Bùi Ngọc Tấn, mà của nhiều người trong giới cầm bút ở miền Bắc, những người đã sớm làm quen với tác phẩm của những cây cổ thụ văn học thế giới như L. Tolstoy, F. Dostoyevsky, A. Sakharov, B. Pasternak, A. Solzhenitsyn, K. Pautovsky, M. Sholokhov….
Tháng 9 năm 2009, tôi từ Ba Lan bay qua Nga, Lan Hương và Nhà văn Bùi Ngọc Tấn đi tàu từ Moscow tới, điểm hội tụ là thành phố Saint Petersburg.
Thấy nhau là tay bắt mặt mừng ngay vì chúng tôi đều cùng đã nghe về nhau, chỉ chưa có cơ hội gặp nhau mà thôi, chúng tôi lại có người bạn chung là Nhà văn Vũ Thư Hiên, nên tôi xin phép gọi bằng “anh” cho thân mật và gần gũi, mặc dù “anh” thuộc tuổi cha chú của tôi.
Tôi và anh được Lan Hương tiếp đón trên cả mức tận tâm, tận tình. Anh Tấn và tôi đêm nào cũng trò chuyện tới khuya. Ban ngày, với kinh nghiệm nhiều năm ở Nga, chỉ trong 5 ngày mà Lan Hương đã cho chúng tôi đi thăm gần hết những nơi nổi tiếng nhất và đẹp nhất của St. Petersburg. Ban đêm chúng tôi đưa anh đi thưởng thức các món ăn dân tộc Nga, đặc biệt là thịt trừu nướng với than cây bạch dương…
St. Petersburg nằm trên sông Neva đổ ra biển Baltic phía Bắc, có khoảng 1000 chiếc cầu ngang dọc với kiến trúc muôn hình, muôn vẻ, được Peter Ðại đế (Peter The Great) khởi công xây dựng từ năm 1703, tổng hợp theo kiến trúc của các trường phái từ Paris, Roma, Vienna… Rất nhiều cổ vật tinh hoa của các nền văn hoá thế giới bao gồm cả Trung Hoa, Ả Rập, Ba Tư… đã được Peter Ðại Ðế và các triều đại Nga kế tiếp mua về trang điểm và làm giàu cho St. Petersburg.
Từ khi Putin, người xuất thân từ St. Petersburg, lên làm Tổng thống Nga năm 2000 và nhất là từ đợt chuẩn bị cho cuộc họp thượng đỉnh, đón các nguyên thủ quốc gia G8 vào năm 2006, các di tích lịch sử, bảo tàng được Nhà Nước Nga bỏ tiền tu sửa rất nhiều. Vào một buổi chiều tối chúng tôi đi tàu dọc sông Neva ngắm toàn cảnh thành phố lung linh dưới ánh sáng đủ màu hắt lên mặt nước, đẹp không thua kém bao nhiêu thủ đôParis trên dòng sông Seine.
Chuyến gặp nhau ngắn ngủi nhưng để lại trong tôi hình ảnh một Nhà Văn rất quý mến, thân thiện, với vóc dáng nhỏ bé, nét mặt khắc khổ, hiền lành, nhận hậu mà can đảm, nhẫn nhịn mà luôn giữ nhân cách trong sáng.
Tôi đã mời và hứa sẽ tìm cách “lo liệu” cho anh sang thăm Ba Lan một chuyến nhưng chưa thực hiện được.
Anh Tấn cho tôi tất cả các thông tin cá nhân của anh ở Hải Phòng: địa chỉ nhà, số điện thoại, email, nhưng từ lúc chia tay anh, tôi không liên lạc với anh. Anh đã trải qua những tháng ngày quá đau khổ, giờ chỉ muốn sống yên tĩnh đến cuối cuộc đời, như một người ở ẩn. Tôi muốn tránh cho anh vì những liên hệ với tôi mà có thể gặp những rắc rối, phiền toái không cần thiết từ phía nhà cầm quyền.
Do vậy, anh không qua Pháp tham dự Festival Livre et Mer và nhận giải thường Henri Queffenlec không biết vì nhà cầm quyền Việt Nam gây khó hay là do sức khoẻ yếu. Năm nay anh 78 tuổi rồi. Hồi qua St. Petersburg anh bị đau khớp chân nặng, nhiều lúc anh phải vịn vai tôi nhích từng bước trong những buổi đi chơi hoặc thăm thú các viện bảo tàng, di tích lịch sử. Ðể kết thúc bài viết, tôi chép lại một đoạn giới thiệu trên bìa cuốn “Biển Và Chim Bói Cá” mà anh đã ký tặng tôi hồi tháng 9/2009 tại St. Petersburg:
“Thế hệ chúng tôi đã chứng kiến bao nhiêu biến động của Lịch Sử. Một thế hệ nhiều năm rồi nằm trong tầm bắn tỉa của Thần Chết, đang biến mất khỏi hành tinh này không để lại vết xước nào. Tôi chỉ muốn thật trung thực trong khi viết để góp phần vào việc lưu giữ ký ức của Dân Tộc“.
Vâng, rất nhiều biến cố lịch sử sẽ qua đi, nhạt nhoà, phôi pha theo thời gian. Nếu những người cầm bút không nỗ lực làm việc và tạo ra các tác phẩm có giá trị thì nhiều thế hệ sau sẽ không biết được cha ông đã từng trải qua một quá khứ bi kịch, hãi hùng như thế nào dưới thời cai trị của Ðảng Cộng sản Việt Nam.”
Nhà Văn Bùi Ngọc Tấn nói đúng:
“Phải trung thực khi cầm bút. Chỉ với sự trung thực, lòng nhân ái và trách nhiệm xã hội, thì các tác phẩm tạo ra mới tồn tại và được quý trọng qua mọi thời gian.”
Ngày 9/4/2012
© 2012 Lê Diễn Ðức – RFA Blog
o O o
Mời quý vị đọc một bài viết khác về “Biển và Chim Bói Cá.”
Người viết : Dương Tường
Trong số năm tiểu thuyết Bùi Ngọc Tấn đã viết, “Biển và Chim Bói Cá” là quyển duy nhất đến được với công chúng mà không gặp trục trặc gì. Ba cuốn đầu, hoàn thành trong những năm 1960, bị tịch thu từ lúc còn ở dạng bản thảo, do đó không bao giờ được chào đời. Cuốn thứ tư, “Chuyện kể năm 2000,”tác phẩm đã khiến ông được mệnh danh là Soljenitsyne Việt Nam, bị thu hồi và tiêu hủy một tuần sau khi phát hành.
Biển và Chim Bói Cá” mà một số nhà phê bình văn học chào đón như xuất bản phẩm hay nhất của mùa sách này, là câu chuyện rã đám của một công ty quốc doanh đánh cá biển. Với một cấu trúc dứt khoát phi tuyến tính, không cốt truyện, cũng chẳng có nhân vật chính, cuốn tiểu thuyết 500 trang này bày ra hỗn độn tung tãi những mẩu đời vụn của những người làm công ăn lương cố sống cố chết bám lấy cái xí nghiệp đang ngoi ngóp trong nguy cơ “đắm tầu.” Những câu chuyện kỳ cục khiến ta vừa phì cười vừa muốn khóc
Những con người cùn mằn tội nghiệp – nhân viên văn phòng, cạo giấy, thủy thủ – chạy ngược chạy xuôi đôn đáo, dùng mọi mánh xoay xở thảm hại để kíếm sống qua ngày. Một chồng chất hỗn độn những nhân vật tuy khắc họa sắc nét, thậm chí đôi khi nổi bật như tác phẩm điêu khắc, nhưng hòa trộn thành một khối vô dạng hình qua đó lấp ló sự suy tàn không tránh khỏi của cả một hệ thống.
Một sử thi của tan rã, tôi muốn nói như thế.
Dương Tường. Viết ở Hà Nội.
o O o

CÔNG TỬ HÀ ÐÔNG:
Từ ngày bánh xe tị nạn khấp khểnh sang Kỳ Hoa – năm 1995 – tôi không đọc những truyện dài 500, 600 trang nữa. – Không đọc được hay không muốn đọc cũng là không đọc. Tôi chắc nhiều vị đồng tuổi với tôi – năm nay 2000, Bẩy Bó, Tám Bó tuổi đời – cũng không còn đọc những truyện dài như tôi. Ðêm ở Rừng Phong, tôi nằm đọc lướt qua những trang “Biển và Chim Bói Cá.”
Lâm Ngữ Ðường viết: “Người Tầu nằm đọc tiểu thuyết.” Không là người Tầu, tôi nằm đọc tiểu thuyết từ ngày tôi 10 tuổi.
Tôi không viết bài này như bài phê bình truyện “Biển và Chim Bói Cá.” Tôi thấy những gì ba ông Lê Diễn Ðức, Tây Hà, Dương Tường viết về “Biển và Chim Bói Cá” là đã đủ. Tôi viết bài này để nói đến:
“Tình cảnh thê thảm của những Văn Nghệ Sĩ Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà sau năm 1975.”
Bà Nhà Văn Trần Thị Bông Giấy phê:
“Hoàng Hải Thủy: hằn học, ghen tị.”
Tôi không “ghen tị” khi tôi thấy những ông bà Nhà Văn  Việt Nam, từ sau năm 2000, được mời sang những nước Dân Chủ Pháp, Mỹ, các ông bà được chào đón, được rong chơi ở những thủ đô Âu Mỹ. Như Nhà Văn Bùi Ngọc Tấn. Ông Nhà Văn này đã đến Boston, đã đến Washington D.C.
Tôi không “ghen tị”, tôi “ngậm ngùi.”
Tôi ngậm ngùi thương nhớ Nhà Văn Nguyễn Mạnh Côn chết vì khát và đói ở Trại Tù Khổ Sai Xuyên Mộc, tôi ngậm ngùi tưởng nhớ người viết truyện Dương Hùng Cường chết lạnh trong sà-lim Nhà Tù Số 4 Phan Ðăng Lưu – DH Cường Dê Húc Càn – chết vì bài “Nếu anh Trương Chi đẹp trai ” gửi sang Paris năm 1982 – tôi ngậm ngùi tưởng nhớ anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt chết lạnh trong Nhà Tù Chí Hoà, nhớ Cô Em Văn Nghệ Lý Thụy Ý bị án tù 5 năm khổ sai vì bài thơ cô làm trong có 2 câu:
“Tôi kiêu hãnh vì Tôi là Ngụy.”
“Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh?”
Tôi ngậm ngùi nhớ Nhà Văn Doãn Quốc Sĩ. Là văn nghệ sĩ Quốc Gia VNCH Nhà Văn đã phải đi tù khổ sai 5 năm. Năm 1980 trở lại Sài Gòn, ông viết một số bài diễn tả đời sống u ám, tuyệt vọng, oán hận của người dân Sài Gòn. Vì những bài này, gửi từ Sài Gòn ra nước ngoài, ông bị bọn Công An Thành Hồ bắt năm 1984, kết án 8 năm tù khổ sai.
Sau ngày Tượng Lenin, Stalin bị dân Nga kéo đổ, cho ra nằm ở bãi rác, bọn đảng viên Cộng Sản bị dân Lỗ, Tiệp, Balan, bợp tai, đá đít, đuổi đi, bọn Cộng Hà Nội sống sót nhờ bọn Cộng Bắc Kinh giết dân Tầu ở Thiên An Môn, bọn chúng – bọn Cộng Hà Nội – phải nhẹ tay đàn áp nhân dân, chúng nới lỏng những Rọ Mõm Văn Nghệ, chúng để cho một số văn nghệ sĩ đi  ra nước ngoài.
Hai tình cảnh khác hẳn nhau. Hai thời gian cách nhau 20 năm. Những năm 1980 tất cả những văn nghệ sĩ miền Bắc Xà Nghĩa đều bị rọ mõm, nín khe. Họ chỉ dám viết Sự Thật – chút chút, mơn mơn mụn nhọt – sau khi Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh của họ “cởi trói” cho họ.
Những văn nghệ sĩ Quốc Gia VNCH bị nhục mạ, bị đàn áp, bị giam tù, bị chết thảm trong tù trong thời gian bọn Lê Duẩn, Lê Ðức Thọ, Tố Hữu đang say men chiến thắng, đang hung hãn đặt gông cùm Cộng Sản lên nhân dân cả nước. Ðó là những năm Lê Duẩn huynh hoang sùi bọt mép:
“Chủ nghĩa Mác-Lê nin bách chiến, bách thắng muôn năm.
“Yêu Nước là yêu Chủ Nghĩa Xã Hội.
“Toàn dân phấn khởi hồ hởi tiến lên Xã Hội Xã Hội Chủ Nghiã.”
Ðó là thời bọn Cán Cộng nói ra rả trên Ðài, trên báo:
“Ðấu tranh không khoan nhượng với bọn phản động.”

Trong những năm 1980 chỉ cần người văn nghệ sĩ VNCH liên lạc bằng thư với những văn nghệ sĩ VNCH ở Mỹ, Pháp, Úc là đủ để bị chúng bắt giam. Dù những người này không viết gì tố cáo những tội ác của bọn CS, chúng cũng bắt giam họ, chúng làm vậy để chặt chém những mầm chống đối có thể đến. .
Biết thế nhưng ngậm ngùi tôi vẫn ngậm ngùi.
Tim tôi nặng như cục đá khi tôi viết những dòng này:
“Không chỉ những văn nghệ sĩ nước tôi, nước Việt Nam Cộng Hoà nay bị quên lãng, mà hôm nay – Tháng Sáu 2012 – toàn thể Quốc Gia VNCH đã trôi vào Quên Lãng.”
o O o
Biển và Chim Bói Cá ” viết về những người Việt hành nghề đánh bắt cá trên biển. Chuyện không có gì lạ, tình trạng này đã xẩy ra, đã làm sụp đổ dàn máy thống trị của bọn Cộng sản trên thế giới: tầu, xăng dầu, lưới của Nhà Nước, người đánh bắt cá là những công nhân lương tháng; bao nhiêu cá nộp hết vào kho Nhà nước. Tiền lương không đủ sống làm công nhân phải ăn cắp. Là công nhân đánh bắt cá, họ chỉ có thể ăn cắp cá. Cá được bán cho con buôn gần như công khai khi tầu về gần đến bến. Trưởng Tầu phải bán cá lấy tiền chia cho công nhân, tiền nộp cho Giám Ðốc để được làm Trưởng Tầu.
Biển và Chim Bói Cá. Trích:
“Tôi hỏi thật hai ông nhé? Ở dưới tầu thuyền trưởng, máy trưởng có ăn cắp cá không?”
Câu hỏi đánh độp, tung ra bất ngờ. Ông không dùng chữ lấylấy cá, mà ăn cắp, ăn cắp cá. Gọi sự việc đúng tên của nó. Cả hai lặng đi. Lê Mây còn chưa biết trả lời ra sao trước câu hỏi vừa thân mật vừa sỗ sàng, vừa nghiêm túc ấy, Fa Ra Day đang đưa chén rượu lên môi, chợt ngừng lại, nghiêm mặt trả lời:
“Báo cáo thủ trưởng có ăn cắp chứ. Không ăn cắp sống sao được!”
o O o
CTHà Ðông: Công nhân tầu đánh cá ăn cắp cá, thủy thủ tầu đi ngoại quốc chở hàng lậu về nước, bọn công an, hải quan bắt bọn thủy thủ đem hàng ngoại về phải nộp tiền.
Biển và Chim Bói Cá. Trích:
Lập vẫn đầy ấn tượng về cách quản lý của các xếp hải quan, xuýt xoa:
“Khoán gọn. Hay. Công nhận.”
Ðay bảo:
“Khoán gọn là không chạy đi đâu được với xếp. Vì thế chúng nó rất dễ tính, để anh em mang hàng lên nhiều. Càng mang lên nhiều, càng thu nhập nhiều. Mô nô hai mươi nghìn. Xít te bốn mươi nghìn. Ti vi tám mươi nghìn. Ðầu vi đê ô một trăm nghìn. Hoa nhỏ thì một bánh xà phòng cộng một bao thuốc hay một lọ dầu xanh cộng một lọ dầu gội đầu. Mà làm rất thô. Ði qua chỗ chúng nó gác cứ tự giác bỏ vào túi du lịch của chúng nó mở toang hay để ngay bên.
“Lập vẫn gật gù khen khoán gọn, hay, Ðay bảo:
“Ngày hải quan còn chia ca kíp gác, đến tối chúng nó chia nhau ở câu lạc bộ mới buồn cười. Anh nọ bảo anh kia thăn thiến, suýt đánh nhau. Chúng tớ đi qua vẫn đù mẹ, đù cha chẳng ý tứ gì.”
o O o
CT Hà Ðông: Ðọc “Viết về bè bạn” của Bùi Ngọc Tấn, tôi khó chịu khi thấy nhiều đoạn có những tiếng “Ngụy, Ngụy quân đầu hàng.” “Biển và Chim Bói Cá” còn làm tôi khó chịu hơn.
Biển và Chim Bói Ca. Trích:
Xác lính ta, lính ngụy chết thối rừng. Những đoàn lính ngụy bị bắt làm tù binh mới tiều tụy làm sao. Quần áo tả tơi. Ống quần cắt cụt, xẻ toang tới đũng để vừa đi vừa đái, bởi trong khi đang áp giải trên đường thì không một tù binh nào có thể dừng lại.”
“Anh bao nhiêu tuổi? “
“Dạ con năm mươi hai.”
“Sao già thế còn đi lính cho nó?”
“Dạ con trốn nhưng không được. Con đâu có ủng hộ chính phủ Thiệu.”
Vưà lúc ấy một chiếc máy bay bay qua, người lính Sài Gòn kêu lớn:
“Máy bay ông Thiệu đấy!”
Và biết mình lỡ lời, anh ta hét lên:
“Máy bay thằng Thiệu đấy.”
Rồt hát rất đúng điệu, rất hùng hồn:
“Thề cứu lấy nước nhàThề hy sinh đến cùngViệt Nam anh dũng xông tớiViệt Nam đã đến rồi..”
Ngưng trích “Biển và Chim Bói Cá.”
CTHÐ: Người lính Sài Gòn – Lính Quốc Gia VNCH – bị bắt làm tù binh, năm mươi hai tuổi, xưng “con” với lính Bắc Cộng, một tên bằng tuổi con của ông.
Tội nghiệp Người Lính Quân Ðội Nước Tôi. Tôi tội nghiệp cho cả tôi nữa. Không biết những ông người Việt ở Virginia mời Nhà Văn Bùi Ngọc Tấn từ Boston xuống chơi Washington D.C, đãi đằng chu đáo, hào phóng, văn nhã, lịch thiệp  – Trong số người chào đón, nghe nói, có vài ông Cựu sĩ quan Quân Ðội Quốc Gia VNCH – có ông nào thấy tê tê trên mặt vì đoạn chuyện trên đây không?
Tôi thấy tôi Nhục.BÊN KIA BỜ ĐẠI DƯƠNG 456

THỤY KHUÊ * NHÂN VĂN GIAI PHÂM


Nhân Văn Giai Phẩm - phần XIII : Văn Cao


media 
Ảnh do tác giả cung cấp
Cuộc đời Văn Cao gắn bó với toàn bộ sinh hoạt văn nghệ Việt Nam trước kháng chiến, trong kháng chiến và sau kháng chiến. Văn Cao ở trong cả ba bộ môn: thơ, nhạc, họa, cho nên được giới nghệ thuật ba ngành kính phục. Là tác giả quốc ca, nhưng Văn Cao suốt đời bị chính quyền nghi ngờ, tác phẩm bị trù dập, phân biệt đối xử.
Sau này, khi đất nước ra khỏi chế độ toàn trị, lá cờ đỏ sao vàng gắn liền với một đảng sẽ không còn lý do tồn tại. Nhưng Tiến quân ca là xương thịt của một nghệ sĩ thiên tài, suốt đời đóng góp cho nghệ thuật chân chính và tranh đấu cho tự do của đất nước, sẽ mãi mãi còn lại. Bởi khó có tác phẩm nào thay thế được Tiến quân ca trong lòng người Việt Nam.
Cuộc đời Văn Cao gắn bó với toàn bộ sinh hoạt văn nghệ Việt Nam trước kháng chiến, trong kháng chiến và sau kháng chiến. Văn Cao ở trong cả ba bộ môn: thơ, nhạc, họa, cho nên được giới nghệ thuật ba ngành kính phục. Là tác giả quốc ca, nhưng Văn Cao suốt đời bị chính quyền nghi ngờ, tác phẩm bị trù dập, phân biệt đối xử.
Tìm hiểu cuộc đời của Văn Cao cũng là tìm hiểu giai đoạn lịch sử 45-46, mà các văn nghệ sĩ xuất thân từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau, nhiều thành phần chính trị và phi chính trị khác nhau đã theo Việt Minh để tranh đấu cho một lý tưởng: chống Pháp. Những Văn Cao, Phạm Duy, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Nguyễn Đình Thi, Lưu Hữu Phước,... đã có một thời hoạt động chung vai sát cánh, nhưng rồi chính trị sẽ phân lìa mỗi người một con đường, một chiến tuyến.

Tìm hiểu Văn Cao, tức là tìm hiểu tại sao có sự chia cắt tinh thần và thể xác Việt Nam. Tìm đến nguồn cội phát xuất hận thù: Sự tranh bá đồ vương giữa các đảng phái chính trị trên con đường giành độc lập. Để giải toả cho nhiều thế hệ, thoát khỏi cái nhìn một chiều về lịch sử: lịch sử phân biệt ta-địch.
Tìm hiểu Văn Cao là để tìm đến nguồn cội của vấn đề: Văn hoá Việt nam là một toàn khối, không thể chia đôi. Tâm hồn Việt Nam là một toàn khối, không thể phân liệt.
Toàn khối ấy đã thể hiện trong cuộc kháng chiến từ 1945 đến 1950: Hầu hết các văn nghệ sĩ ở mọi khuynh hướng đều cùng nhau chung lòng cứu quốc.
Văn Cao, Phạm Duy hai khuôn mặt điển hình nhất của nền Tân nhạc Việt Nam: cùng theo kháng chiến từ phút đầu. Cùng có công đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp. 1951, Phạm Duy vào thành, Văn Cao ở lại, mỗi người một giới tuyến. Nhưng tác phẩm của họ, mãi mãi sẽ là của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Tiểu sử Văn Cao
Văn Cao tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923 tại làng Lạch Trai (gần Hải Phòng) mất ngày 10/7/1995 tại Hà Nội. Nguyên quán làng An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Học tiểu học trường Bonnal, trung học trường dòng Saint-Joseph, tại đây ông được học thêm âm nhạc. Cha là Nguyễn Văn Tề làm cai máy nước. Vì cha bị mất việc, Văn Cao phải bỏ học, làm điện thoại viên ở Nhà bưu điện Hải Phòng. Được một tháng, bỏ việc.

Cuối 1939, Văn Cao viết ca khúc đầu tiên Buồn tàn thu, ảnh hưởng Lê Thương. Đầu năm 1940, bản nhạc được Phạm Duy đem đi hát ở khắp nơi. 1940, Văn Cao đi Hà Nội, Huế, Sài gòn. Trong chuyến đi này, Văn Cao có dịp tiếp xúc với phong cảnh nên thơ và âm nhạc trữ tình của Huế, thi ca của Hàn Mặc Tử ở Sàigòn. Từ điển văn học ghi: "1940, vào Nam kiếm sống, làm họa sĩ trang trí nội thất cho cho một hãng tư nhân ở Sài gòn, gần một năm. Bị chủ quỵt tiền công nên bỏ việc ra Bắc" (Nguyễn Huệ Chi, Vân Long). Điểm này không thấy ghi ở các tài liệu khác.


Thời kỳ 1940-1943, Văn Cao sáng tác sung mãn nhất, song song với những ca khúc lịch sử là những ca khúc lãng mạng trữ tình: Bạch Đằng Giang, Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc, Thu cô liêu, Cung đàn xưa, Bến Xuân, Suối mơ, Thiên Thai, Trương Chi... Cũng trong khoảng 1940-1943, một sự cộng tác văn nghệ và hoạt động cách mạng gắn bó hai nhân tài: Văn Cao-Phạm Duy.
Năm 1942, Văn Cao lên Hà Nội học dự thính (auditeur libre) trường Mỹ Thuật Đông Dương, và thơ văn của ông được Vũ Bằng đăng trên Tiểu thuyết thứ bẩy.
1943, triển lãm tranh lần đầu ở Salon Unique (Triển lãm Độc đáo). Tác phẩm Les Suicidés (Những kẻ tự sát) của Văn Cao gây tiếng vang trong giới hội hoạ, đã có ý thức cách mạng (theo Tạ Tỵ).
1944, Văn Cao được Vũ Quý, quyền bí thư Thành Ủy Hà Nội, giác ngộ vào Việt Minh, giao công tác viết bài hát cho khoá Quân chính kháng Nhật, Văn Cao sáng tác Tiến quân ca.
1945, Văn Cao vào Đội Trừ Gian. Tháng 7/45, bắn chết Đỗ Đức Phin [bị Việt Minh coi là gián điệp cho Nhật] ở Hải Phòng. Bắn hụt Cung Đình Vận và Võ Văn Cẩm tại Hà Nội. Làm báo Lao Động (bí mật). Văn Cao tự tay chép lời và nhạc Tiến quân ca vào đá (litho), in trên Lao Động số 1, tháng 11/1944.
1945, sáng tác Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc (thơ), in trên Tiên Phong số 9, tháng 4/46, và một loạt các ca khúc: Chiến sĩ Việt Nam, Chiến sĩ Hải quân, Chiến sĩ Không quân, Bắc Sơn. Bài Không quân Việt Nam, đăng trên Tiên Phong tháng 8/1946, sau này trở thành bài đoàn ca của Không quân Việt Nam Cộng Hoà.
Ngày 17/8/1945, trong buổi mít-tinh của công chức, bài Tiến quân ca được Phạm Duy "cướp micro" hát lần đầu tiên và duy nhất tại nhà Hát Lớn, Hà Nội (theo Văn Cao).
Ngày19/8/1945, Việt Minh "cướp chính quyền", dàn đồng ca của Thiếu niên Tiền phong do Văn Cao điều khiển hát bài Tiến quân ca tại quảng trường Nhà hát lớn.
Giữa tháng 9/1945, Vũ Quý bị chết trong một hoàn cảnh bí mật.
Đầu năm 1946, Quốc hội khoá I công nhận Tiến quân ca là Quốc ca Việt nam.
1946, Văn Cao sáng tác bài thơ Ngoại ô mùa đông 46, in trên Văn Nghệ số 2, tháng 4/1948.
Theo Tạ Tỵ và Vũ Bằng, Văn Cao có vợ trước cách mạng tháng Tám. Nhưng có lẽ chỉ mới đính hôn, sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/46), Văn Cao và gia đình Thúy Băng rời Hà Nội ra chợ Đại (gần Hà Đông, thuộc Liên Khu Ba) mới chính thức làm lễ cưới ở thôn Ba Thá. Ở Liên Khu Ba không được bao lâu, Văn Cao nhận được chỉ thị lên Phú Thọ, rồi lên Lào Cai, mở Quán Biên Thùy trá hình làm tình báo trong Liên Khu 10, từ xuân 1947 đến thu 1947. Phạm Duy có lên hát ở đây.
Mùa thu 1947, Văn Cao được lệnh về Vĩnh Yên làm báo Độc Lập. Rồi lại được lệnh trở lên Việt Bắc. Trên đường ngược sông Lô lên Phú Thọ, Văn Cao mục kích chiến địa hoang tàn: Tháng 10/47, quân Pháp, gồm mười lăm tiểu đoàn, chia làm nhiều đạo tấn công Việt Bắc, mục đích tiêu diệt Bộ chỉ huy kháng chiến, nhưng không thành. Cụ Nguyễn Văn Tố (Bộ trưởng không bộ) bị chết. Ngày 7/10, Pháp chiếm Sơn Tây. 12/10, Việt Minh kêu gọi triệt để áp dụng chiến thuật tiêu thổ kháng chiến. 13/10 quân Pháp chiếm Bắc Cạn, Cao Bằng. 20/10 Pháp chiếm Yên Bái. 21/10 Pháp chiếm Chapa. 30/10/47 Pháp chiếm Lao Cai. [Bản thảo Kiều Loan của Hoàng Cầm bị mất, vì phải ném xuống hồ Ba Bể cùng các bản thảo khác].
Theo Phạm Duy, sau chiến thắng sông Lô, Cục Chính trị điều động các nhạc sĩ viết về Sông Lô để kích động tinh thần chiến sĩ: Lương Ngọc Trác sáng tác Lô Giang; Văn Cao, trường ca Sông Lô (mùa đông 1947, in trên Văn Nghệ số 1, tháng 3/48); Đỗ Nhuận: Du kích sông Thao; Nguyễn Đình Phúc: Bến bình ca; Phạm Duy: Tiếng hát trên sông Lô (Tuyên Quang, 1947).
Trường ca Sông Lô được Phạm Duy đánh giá là "tác phẩm vĩ đại, chẳng thua bất cứ một tuyệt phẩm nào của loại nhạc cổ điển Tây Phương" (Hồi ký II, trang 122).
Tháng 3/1948, Văn Cao được kết nạp vào Đảng. Sáng tác Ngày mùa.
Cuối năm 1948, Văn Cao được lệnh về Liên Khu Ba. Gặp lại Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Lương Xuân Nhị... Sáng tác Tiến về Hà Nội. Tổ chức triển lãm chung, bức tranh Cây đàn đỏ của Văn Cao bị phê bình.
Giữa năm 1949, Văn Cao lại được lệnh trở lên Việt Bắc (Theo Hoàng Văn Chí, vì sợ gia đình Văn Cao về thành, Việt Minh điều động Văn Cao lên Việt Bắc). Chuyến đi rất gian nan nguy hiểm (theo Nguyễn Thụy Kha).
Đầu 1950, Pháp đánh Liên Khu Ba, Đống Năm (Thái Bình) bị phá nát. Văn nghệ sĩ, người thì vào Liên Khu Tư vùng tướng Nguyễn Sơn, người thì về thành. Trong số những người về thành có: Vũ Bằng, Kim Tiêu, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng, Phan Tại, v.v...
Tại Việt Bắc, Văn Cao tham gia chiến dịch biên giới. Phụ trách giảng dạy ở trường Âm Nhạc Việt Bắc. Sáng tác: Tiểu đoàn Lũng Vài, Ca ngợi Hồ Chủ Tịch, Công nhân Việt nam, Toàn quốc thi đua...
1952, Văn Cao được cử đi Mạc Tư Khoa trong phái đoàn văn hoá Trần Huy Liệu. Theo Hoàng Văn Chí, Trong dịp này Văn Cao được gặp nhà nhạc sĩ số một Liên Xô là Chostakovitch". Nhưng trong các tài liệu khác, không thấy nói đến cuộc gặp gỡ này. Có thể vì Chostakovitch là người có "vấn đề", số phận cũng trầm luân, tương tự Văn Cao?
Hoàng Văn Chí viết tiếp: "Tuy nhiên sau khi đi Mạc Tư Khoa về, Văn Cao bắt đầu tỏ ý thất vọng: Liên Xô không phải là thiên đường như ông vẫn tưởng tượng. Thêm vào đấy, khi ông về nước thì cuộc đấu tố địa chủ cũng vừa bắt đầu, ông được cử đi tham quan mấy vụ đấu tố điển hình ở Việt Bắc". (Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên đất Bắc, trang 221)
Nguyễn Thụy Kha, viết về chuyến đi Liên Xô như sau:
"Được chọn đi thăm Liên Xô trong phái đoàn của ông Trần Huy Liệu, Văn Cao lần đầu tiên xuất ngoại, lần đầu tiên mở mắt nhìn ra thế giới của chủ nghiã xã hội -một lý tưởng mà chàng tôn thờ, đeo đuổi suốt tuổi trẻ (...)
Ngay sau cách mạng tháng Tám thành công, cái chết đầy bí hiểm của Vũ Quý -người giác ngộ chàng, dẫn dắt chàng vào con đường cách mạng- đã làm chàng choáng váng. (...)
Sang Liên Xô, tận mắt nhìn thấy, tiếp xúc với "thành trì của chủ nghiã xã hội", "Thiên đường của loài người", Văn Cao mới vỡ lẽ ra nhiều"
(Nguyễn Thuỵ Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang 64-65).
Có thể nói, chuyến đi Liên Xô 1952, đối với Văn Cao tương tự như chuyến đi Liên Xô 1936 đối với André Gide: nhìn thấy mặt thật của "thiên đường".
1954, hoà bình lập lại, Văn Cao phụ trách ban nhạc của đài Phát thanh Hà Nội.
1956, tham gia Nhân Văn Giai Phẩm với bài thơ Anh có nghe không, đăng trên Giai phẩm mùa xuân. Sáng tác trường ca Những người trên cửa biển, một đoạn in trên Giai phẩm mùa thu, tập II.
1958, bị kỷ luật, nhưng không nặng như các thành viên chính, chỉ phải đi thực tế Điện Biên cùng Nguyễn Tuân, Nguyễn Huy Tưởng. Đến Hai Lót, Văn Cao bị đau dạ dày, được đưa về bệnh viện Lai Châu.
Sau Nhân Văn, người ta đã định chọn Bài ca cách mạng tiến quân của Đỗ Nhuận để thay thế, nhưng rồi Tiến quân ca vẫn được giữ lại. Các tác phẩm khác của Văn Cao bị cấm. Chìm vào quên lãng trong ba mươi năm, Văn Cao sống cô đơn và gian khổ như các thành viên NVGP khác. Để sống, ông vẽ bìa sách, minh họa cho các báo, trang trí sân khấu, làm nhạc đệm cho một số phim...


Sau ngày thống nhất đất nước, Văn Cao sáng tác Mùa xuân đầu tiên (1976), không được hát, có lẽ vì những câu "Từ đây người biết thương người. Từ đây người biết yêu người".
1980, Hiến Pháp mới không ghi Tiến quân ca là quốc ca. Trong các buổi chào cờ, người ta cử nhạc. Không lời.
1981, một cuộc "vận động sáng tác quốc ca" được tổ chức quy mô, có thi tuyển, kéo dài trong 2 năm, nhưng cuối cùng vẫn không chọn được bài nào thay thế.
1983, lễ mừng Văn Cao 60 tuổi được tổ chức. Các bản nhạc Thiên Thai, Trương Chi, Suối Mơ... được tình diễn trở lại.

1988, Văn Cao được chính thức "phục hồi" cùng các thành viên NVGP. Tập nhạc Thiên Thai và tập thơ được phép xuất bản.
18/8/1991, trên báo Tiền Phong chủ nhật số 26, xuất hiện bài viết: Tiến quân ca có hai tác giả? của Tô Đông Hải. Lập luận: Văn Cao chỉ viết phần nhạc, lời của Đỗ Hữu Ích. Văn Cao trả lời, trong bài phỏng vấn của Nguyễn Thụy Kha ngày 7/10/91. (Văn Cao vui và buồn sang tuổi cổ lai hy, đăng lại trên Văn Cao cuộc đời và tác phẩm, nxb Văn Học, trang 423).
1993, Quốc hội xác định: Tiến quân ca là quốc ca Việt Nam.
Văn Cao mất ngày 10/7/1995, tại Hà Nội.




Tác phẩm :
Ca khúc: Buồn tàn thu (1939), Thiên Thai (1941), Suối mơ (1942), Thu cô liêu (1942), Bến Xuân (1942-1945, sửa lời và đổi thành Đàn Chim Việt), Cung đàn xưa (1942), Trương Chi (1942), Vui lên đường, Gió núi, Anh em khá cầm tay, Chiều buồn trên Bạch Đằng Giang (1941), Gò Đống Đa (1942), Thăng Long hành khúc ca (1943), Tiến quân ca (1944), Chiến sĩ Hải quân (1945), Chiến sĩ Không quân (1945) Bắc Sơn (1945), Chiến sĩ Việt Nam (1945), Làng tôi (1947), Sông Lô (1947), Ngày mùa (1948) Tiến về Hà Nội (1949), Ca ngợi Hồ Chủ tịch (1949). Mùa xuân đầu tiên (1976)... [Thời điểm sáng tác nhiều tác phẩm không chính xác vì các tài liệu ghi khác nhau].*
Đã in : Thiên Thai, tuyển tập nhạc Văn Cao (nxb Trẻ 1988), (nxb Tác Phẩm Mới, 1989) 28 bài. Tuyển tập Văn Cao, (nxb Văn Học, 1994) gồm các bài đã in trong , thêm 20 bài nữa.
Văn Cao có để lại hồi ký không?
Viết về Văn Cao, câu hỏi đầu tiên là: Văn Cao có để lại hồi ký không?
Có hai cuốn sách đáng chú ý: Văn Cao, người đi dọc biển của Nguyễn Thụy Kha (nxb Lao Động 1991), trình bày như lời "ký thác" của Văn Cao. Và cuốn Nhạc sĩ Văn Cao, tài năng và nhân cách của Bích Thuận, (nxb Thanh Niên, 2005), trình bày như lời "ký thác" của bà Văn Cao Nghiêm Thúy Băng.
- Nguyễn Thụy Kha là một trong những cây bút trẻ, được gần gụi Văn Cao lúc cuối đời. Tác phẩm viết giọng tự thuật, như Văn Cao kể lại chuyện mình, đã nói lên được phần nào tâm sự của Văn Cao. Tuy nhiên, có những nhược điểm: Không rõ đâu là lời Văn Cao, đâu là lời Thụy Kha. Không rõ chỗ nào thực, chỗ nào tác giả thêm vào. Thí dụ, đoạn viết về Tiến quân ca, nếu so sánh với bản hồi ký đích thực của Văn Cao tựa đề Bài Tiến quân ca (Sông Hương số 26 tháng 7/1987) thì đã bị cắt xén rất nhiều. Những chỗ có tên Ph. D (Phạm Duy) đã biến mất. Có đoạn sửa đi và thêm vào mấy chữ mơ hồ cho người ta hiểu đó là Nguyễn Đình Thi. Ví dụ, Thụy Kha viết:

"Căn gác số 171 phố Mông-grăng, Hà Nội chợt lặng phắc như vừa qua bão tố. Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi đã đi chỉ còn lại Văn Cao với bản nháp bài "Tiến quân ca". Mới ít phút trước, căn gác còn vang lên giọng hát trầm ấm của Văn Cao trong nhịp hành khúc rắn rỏi này. Vẫn còn nguyên gương mặt xạm đen của Vũ Quý. Đôi mắt và nụ cười lấp lánh. Nụ cười thật hài lòng. Vẫn còn nguyên gương mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi và nụ cười hồn nhiên khi nhẩm xướng âm bài hát. Thi còn nói với Văn Cao: "Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về mật trận Việt Minh xem sao" (trang 29) Trong đoạn này, Nguyễn Thụy Kha kín đáo cho biết Nguyễn Đình Thi (và Vũ Quý) là người chứng kiến sự ra đời của Tiến quân ca.

Nhưng Văn Cao không viết vậy. (Xin đọc toàn bài của Văn Cao trong phần phụ lục ở dưới). Văn Cao cho biết khi ông sáng tác Tiến quân ca thì Phạm Duy ở cùng và : "Anh [Phạm Duy] rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến quân ca"
Và ở đoạn sau, ông viết:
"Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm, đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận Việt Minh xem sao?"Đọc Văn Cao thì hiểu là khi lên Việt Bắc ông mới đưa tác phẩm cho hai đồng chí Vũ Quý và Nguyễn Đình Thi. Cũng không thấy Văn Cao nói đến khuôn mặt đẹp trai của Nguyễn Đình Thi. Như thế, chỉ cần thay đổi vị trí một vài câu chữ trên văn bản, hoạc thêm vào vài chữ, là ý nghĩa của văn bản có thể hoàn toàn thay đổi.
- Bài hồi ký tựa đề Bài tiến quân ca của Văn Cao trên Sông Hương năm 1987, được cắt ngắn, thành bài Tại sao tôi viết Tiến quân ca, (in trong Thiên thai, tuyển tập nhạc Văn Cao, nxbTrẻ, 1988, in lại trong Văn Cao cuộc đời và tác phẩm, trang 86). Bản sau, đề ngày viết 7/7/76 để có vẻ như viết trước bản Sông Hương. Nhưng so sánh hai văn bản, thì ngoài việc cắt bỏ, sửa các lỗi in trong bản Sông Hương, câu văn cũng được "biên tập" lại: ngắn gọn hơn, thêm chấm phẩy, làm mất thi tính trong nguyên tác. Câu "những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim" của Văn Cao được sửa thành "Những băng cờ đỏ sao vàng đã thay cho những băng vàng bẩn thỉu của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Văn Cao không viết như vậy. Một người tự trọng không viết như vậy. Huống hồ tác giả Tiến quân ca không thể không biết rõ lịch sử, biết rõ công việc của chính phủ Trần Trọng Kim.

- Cuốn sách của Bích Thuận có ý lãng mãn hoá và tô điểm cho Văn Cao trở thành nhà cách mạng trung thành với Bác và Đảng. Một điểm đáng lưu ý, chỗ bà trích một đoạn hồi ký của Văn Cao, viết về bài Tiến Về Hà Nội, có câu:
"Văn Cao viết trong hồi ký: "Tôi còn nhớ trong một buổi họp ở chi bộ Liên Khu Ba, tôi đã hứa với các đồng chí Khuất Duy Tiến, Lê Quang Đạo là tôi sẽ viết một ca khúc về Hà Nội. Tối hôm ấy, tôi đã cùng ăn cơm với anh Lê Quang Đạo. Anh Đạo đã nắm chặt tay tôi và nói..." Trích đoạn này dài hơn một trang (trang 77-78).


Nhờ câu "Văn Cao viết trong hồi ký", của bà, mà chúng ta biết Bích Thuận đã được đọc hồi ký của Văn Cao, ít nhất là một mảng, ngoài Bài Tiến quân ca, in trên Sông Hương.
Cuốn sách của Nguyễn Thụy Kha, đoạn mô tả Văn Cao lùng "Việt gian" V.V.C, có những chi tiết mà ngoài Văn Cao không ai biết được. Rồi những câu như: "Sông Hương, quả là một lưỡi kiếm dựng giữa trời xanh - Tiếng nước rơi bán âm - Chợt xé ra một nỗi nhớ sông Hương trong cảm xúc, v.v...", xem ra rất Văn Cao, lác đác trải dài trong tác phẩm.

Vậy nguồn của những câu, những chữ ấy là đâu? Nếu từ những trang hồi ký đích thực của Văn Cao, thì hiện giờ chúng ở đâu? Nguyễn Thụy Kha và Bích Thuận đã "làm việc" như thế nào với những trang hồi ký ấy?
Để ghi lại chân dung một người, không gì bằng in thẳng những điều người ấy viết, trước hết, vì tôn trọng sự thật của tác giả và nhất là khi người ấy có bút pháp độc đáo như Văn Cao, vì tôn trọng văn chương của tác giả.
Nhưng đây là sự kiện thường hay xẩy ra cho các tác phẩm in ở Việt Nam. Phát xuất từ những lý do:
- Chính sách thô bạo của chính quyền đối với những chữ, những câu, những tác phẩm không đi đúng đường lối của Đảng (kiểm duyệt, tịch thu, cách chức Tổng biên tập, v.v...)
- Sự sợ hãi và sự tự kiểm của nhà xuất bản.
- Sự an phận và đồng tình của giới văn học (kể cả một số người ở ngoài nước về in trong nước) qua lập luận "nước mình nó thế!". Biết nó thế thì phải hành động làm sao cho nó thay đổi đi. Nhưng không. Chấp nhận tất cả. Lý lẽ: thà bị cắt, nhưng in được, còn hơn không được in gì!


- Sự sợ hãi của tác giả, hoặc thân nhân (nếu tác giả đã qua đời). Đặc biệt, đối với những gia đình NVGP, sau gần nửa thế kỷ bị trù giập, không mấy ai còn muốn đối đầu. Họ muốn xoá "dấu chàm" trên trán để có thể sống bình thường. Muốn được chính quyền "nhìn nhận". Các giải thưởng, huân chương, chính là sự "nhìn nhận" ấy. Những người Nhân Văn "được" giải thưởng lúc cuối đời, đứng trước lựa chọn: gia đình hay khí phách. Họ đã chọn gia đình. Nhận giải thưởng không vì tùng phục, mà vì thương gia đình, muốn con cháu thoát nạn Lý lịch ba đời mấy đứa con thơ, như lời Lê Đạt.
- Những điều đã bị bỏ, bị sửa, dưới mắt người kiểm duyệt và người bị kiểm duyệt, có thể chỉ là những "chi tiết không quan trọng". Nhưng nhiều "chi tiết không quan trọng", bị đục bỏ, thêm thắt, xuyên tạc có thể thay đổi hẳn cục diện tác phẩm. Bằng chứng trước mắt là văn bản Bài Tiến quân ca của Văn Cao. Đó là một hình thức ngụy tạo tác phẩm, ngụy tạo sự thật. Nhiều tác phẩm ngụy tạo sẽ dựng nên một lịch sử ngụy tạo.


- Một câu hỏi đặt ra: Tại sao báo Sông Hương, tháng 7-8 năm 1987, do Tô Nhuận Vỹ làm tổng biên tập và và Nguyễn Khắc Phê làm phó tổng biên tập, đã "dám" in đầy đủ bài của Văn Cao, không cắt xén. Và sau này, không ai "dám" in lại văn bản này?
Tóm lại, tình trạng chung của các sách viết ở miền Bắc trước 1975 và cả nước sau 1975, về văn học hay lịch sử cận đại, là đương nhiên phải gạt bỏ những người bị chính quyền coi là "phản động", là "ngụy", nghĩa là một nửa nước, ra ngoài. Vì vậy, khó có thể dựa vào những văn bản như thế để nghiên cứu văn học và lịch sử. Sớm muộn gì rồi Việt Nam cũng sẽ thoát ra khỏi tình trạng hiện tại. Người nghiên cứu, nếu muốn cho tác phẩm của mình tồn tại sau thời kỳ toàn trị, thì không thể cứ viết mãi về một nửa nước. Không ai cần biết Nguyễn Du, Xuân Hương... có "trung thành" hay "phản động" đối với Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh. Nhưng một cuốn sách viết về văn học thời kỳ Nguyễn Huệ-Nguyễn Ánh mà gạt Nguyễn Du, Xuân Hương... ra ngoài, sẽ là vô dụng.

Văn Cao trước kháng chiến
Người viết hay nhất và đầy đủ nhất về Văn Cao là Phạm Duy.
Phạm Duy có thói quen ghi chép khá cặn kẽ những sáng tác hay của các bạn. Riêng với Văn Cao, Phạm Duy chép từ những bản nhạc hướng đạo, ít người biết, đến những lời hai, tuyệt vời, nhưng ca sĩ lười không hát, của tác phẩm nổi tiếng như Trương Chi.
Tạ Tỵ viết: "Phải thừa nhận rằng, nếu không có giọng hát của Phạm Duy, nhạc Văn Cao cũng khó mà phổ biến; trái lại nếu không có Văn Cao, chưa chắc Phạm Duy đã sáng tác! Cả hai hỗ trợ nhau, cùng dìu nhau đi vào bất tử!" (Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, nxb Thằng Mõ, Hoa Kỳ 1990, trang 39).
Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu năm nào? Theo Phạm Duy, là khi ông theo gánh hát Đức Huy-Charlot Miều xuống Hải Phòng, nhưng chỗ ông ghi 1943, chỗ 1944, chắc là nhầm. Đọc kỹ những chi tiết trong hồi ký Phạm Duy, thì biết lúc đó Văn Cao còn "đang thất nghiệp" và đã sáng tác những bản Buồn tàn thu, Thu cô liêu, Cung đàn xưa... vậy họ gặp nhau sớm hơn, và chắc chắn trước khi Văn Cao sáng tác Suối mơBến xuân [1942], bởi vì "Khi 2 nhạc phẩm được in ra, tên Phạm Duy xuất hiện lần thứ nhất trước công chúng, bên cạnh tên Văn Cao" (Tạ Tỵ, Phạm Duy còn đó nỗi buồn, Văn Sử học, Sàigòn 1971, trang 47).

Sở dĩ có sự lộn xộn về ngày tháng, có thể vì Phạm Duy vác đàn đi khắp đất nước, riêng Con đường cái quan (xuyên Việt) ông đi về ít nhất 5 lần trong kháng chiến. Văn Cao viết trong hồi ký: "Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm". (Văn Cao, Bài tiến quân ca, Sông Hương số 26, tháng 7/1987).
Cuối cùng, trở lại với lời tâm sự của Văn Cao khi ở Huế năm 1940: "Đầu năm nay [1940] nó xuống Hải Phòng. Và "Buồn tàn thu" đã được nó lôi đi hát vang lên trên các nẻo đường xứ Bắc. Và thế là người yêu nhạc chốn Hà Thành đã biết có một Văn Cao tiếp sau Đặng Thế Phong" (Nguyễn Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang 17).
Vậy chúng tôi tạm cho rằng Văn Cao gặp Phạm Duy lần đầu năm 1940 là hợp lý hơn cả, và từ đó phát xuất một tình bạn lâu dài trong sáng tác và hoạt động cách mạng.
Phạm Duy viết:
"Văn Cao là tên thật, họ Nguyễn, ra đời sau tôi vài năm tại bến Bính, bên dòng sông Cấm. Cha (hay anh ruột, tên là Tú) làm cai của nhà máy bơm nước ở bờ sông đó nên suốt thời niên thiếu, anh sống trong nhà máy nước này. Học tiểu học tại trường Bonnal, trung học ở trường Saint Joseph, Văn Cao đã có khiếu văn nghệ ngay từ khi còn đi học. Ăn ở trong một căn nhà nhỏ có cái máy bơm rất lớn nằm chình ình giữa nhà suốt ngày đêm hút nước từ dưới sông lên không lúc nào ngưng nghỉ, Văn Cao còn vất vả hơn nữa là phải lấy một tấm phản kê lên máy bơm để làm bàn học. Sau này nhớ tới "giọng máy bơm nước", Văn Cao sẽ có câu thơ:
Anh muốn giơ tay lên mặt trời
Để vui da mình hồng hồng sắc máu
Mấy năm một điệu sáo
Như giọng máy nước thâu đêm chảy...
(Anh có nghe không, trong Lá, tuyển tập thơ Văn Cao).
Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà "xổ chữ nho". Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngã vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng"
(Phạm Duy, Hồi ký I, Thơ Ấu Vào Đời, trang 234-235).


Nhận xét về thơ Văn Cao, Phạm Duy viết:
"Vào năm 1941 mà anh đã có những câu thơ nghe như thơ Huy Cận:
Sông chầm chậm chảy trong mưa
Nghe chừng cô gái đã thưa nhát chèo
Mưa trong trăng tiếng nhỏ đều
Bến mờ mịt: mấy mái lều bơ vơ (Đêm mưa)
Chưa gặp Văn Cao nhưng tôi đã biết tài soạn nhạc qua mấy bài nhạc hùng của anh rồi. Khi tới Hải Phòng, sau khi gặp Hoàng Quý tôi tìm đến Văn Cao. Cũng như tất cả thanh niên "mỏ trắng" (blanc bec) thời đó, Văn Cao đang thất nghiệp sau một tháng làm việc tại Nhà Bưu Điện. (...) Gặp tôi đang lập cuộc đời mới trong một gánh hát thì kết thân ngay. Lúc đó, tôi đã tập toẹ đánh đàn với các nhạc sĩ trong ban nhạc Tây của gánh Đức Huy (...) Và tôi đã hát cho Văn Cao nghe. Nghe xong, Văn Cao vội vàng đưa cho tôi dăm ba bài anh ta mới làm xong. Lúc đó bên cạnh hai đứa chúng tôi còn có Đỗ Hữu Ích, con ông chủ bán đồ sắt phố Hàng Đồng, soạn lời ca rất hay. Đa số những bản đầu tay của Văn Cao đều đã được Đỗ Hữu Ích giúp đỡ phần lời ca." (Phạm Duy, Hồi ký I, trang 236-237)


Phạm Duy không nhắc đến việc ông phụ giúp bạn làm lời các bài Suối mơ, Bến xuân. Ngược lại, ông nhắc nhiều đến công của Đỗ Hữu Ích. Có thể vì Phạm Duy đã có một sự nghiệp âm nhạc đồ sộ Ngàn lời ca, với 45 ca khúc trong 6 năm kháng chiến, trong khi Đỗ Hữu Ích không mấy ai biết đến. Phạm Duy cũng giải thích việc bạn bè phụ giúp Văn Cao:
"Có đôi khi Văn Cao không hoàn tất vài ba sáng tác của mình, có thể vì anh là người vung vãi tài hoa nhưng thiếu tự tin. Bạn bè ở bên anh có cơ hội giúp anh hoàn thành những gì anh bỏ dở. Cũng nên biết rằng những bài hát đầu tiên của Văn Cao, về phần lời ca, còn có thêm sự phụ giúp rất hữu hiệu của một anh bạn khác là Đỗ Hữu Ích". (Hồi ký II, Cách mạng kháng chiến, trang 49-50).
"Bạn bè" ở đây có cả Hoàng Quý, Kim Tiêu... những người chơi thân với Văn Cao lúc bấy giờ. Việc tranh chấp sau này về lời bản Tiến quân ca, dường như cũng ở trong bối cảnh tương tự: có thể Đỗ Hữu Ích đã phụ giúp ý kiến. Bởi nếu Đỗ Hữu Ích làm cả lời ca, thì tại sao ông lại không "kiện" Văn Cao, ít nhất là từ sau 1954, khi hoà bình lập lại, mà lại để đến năm 1991 mới lên tiếng?
Hình như người ta muốn hạ bệ Văn Cao một lần nữa, vào thời điểm 1991 này.


Về tính nhút nhát của Văn Cao, Phạm Duy viết:
"Lúc đó, Văn Cao đã nổi danh vì những bản nhạc thanh niên và hướng đạo nhưng nếu có ai hỏi anh có phải là nhạc sĩ Văn Cao hay không thì không hiểu vì sao cu cậu cứ trả lời là không!" (Phạm Duy, Hồi ký II, trang 49)
Văn Cao cũng xác nhận sự nhút nhát này:
"Mày ơi! Vì sao mày đưa nàng đến để cùng tập những bài hát đầu tay của tao (...) Tao chỉ là một Văn Cao hết sức nhút nhát trước phái yếu. Nhút nhát đến gàn dở. Tuyết đến rồi qua nhanh khi Sài gòn lùi lại sau lưng. Mày đã biết rồi đấy, tao bao lần không dám nhận mình là Văn Cao" (Nguyễn Thụy Kha, Văn Cao người đi dọc biển, trang 23).


Phạm Duy đặt Văn Cao trong bối cảnh Tân Nhạc Việt Nam trước kháng chiến với hai loại Nhạc hùngnhạc tình, và ông xác định sự đóng góp của Văn Cao trong mỗi thể loại:
"Vào năm 1944 này, Tân Nhạc Việt Nam đã qua giai đoạn chuẩn bị với những bài ta theo điệu tây và bước vào giai đoạn thành hình với hai loại nhạc tình và nhạc hùng. Nhạc hùng đã được hai nhóm là Tổng Hội Sinh Viên ở Hà Nội và Đồng Vọng ở Hải Phòng làm cho khởi sắc với những bản hùng ca của hai người cầm đầu hai nhóm là Lưu Hữu Phước và Hoàng Quý. Trước đó, đã có những bài hát hướng đạo cũng như những bài lịch sử ca soạn ra để cổ võ lòng yêu nước của thanh niên (cho nên được gọi là thanh niên- lịch sử ca), như :
Vui ca lên nào anh em ơi!
Hát cho đời thắm tươi... (Linh Mục Thích)
Anh hùng xưa nhớ hồi là hồi niên thiếu
Dấy binh lấy lau làm cờ (Hoàng Đạo Thúy)
Bây giờ hai nhóm Tiếng gọi sinh viên và Đồng Vọng tung ra những bài như Vui Xuân, Bạn Đường, Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước, Đêm Trong Rừng, Bóng Cờ Lau, Nước Non Lam Sơn của Hoàng Quý. Đều là những bài hát hay nhưng chỉ hay một cách bình thường.
Văn Cao đóng góp vào loại nhạc hùng này với những bài như Vui Lên Đường, Gió Núi, Anh Em Khá Cầm Tay, Đống Đa, Thăng Long Hành Khúc...Theo tôi, những hướng đạo ca và thanh niên-lịch sử ca của Văn Cao có nhiều souffle (hơi thở) hơn trong câu nhạc và có nhiều tính thơ hơn trong lời ca. Trong những bài ca hướng đạo Anh Em Khá Cầm Tay, Gió Núi ta đã thấy manh nha những phóng bút tuyệt vời của Chiến Sĩ Việt Nam, Bắc Sơn hay Thiên Thai, Trương Chi sau này (...) Về phần nhạc hùng thì bài Đống Đa với câu ca:"Tiến quân hành khúc ca, thét vang rừng núi xa... nó phải dẫn tời bài Tiến quân ca của Cách Mạng Tháng Tám"
(Hồi ký I, trang 237-239).


Về nhạc tình của Văn Cao, Phạm Duy viết:
"Vào đầu thập niên 40, nhạc tình ở Hà Nội nằm trong tay nhóm Myosotis (Hoa Lưu Ly) với những bài như Thuyền Mơ, Khúc Yêu Đương, Hồ Xưa... của Thẩm Oánh, Tâm Hồn Anh Tìm Em của Dương Thiệu Tước và trong tay nhóm Tricéa với những bài như Đoá Hồng Nhung, Bóng Ai Qua Thềm của Văn Chung, Bẽ Bàng của Lê Yên, Cô Lái Thuyền, Biệt Ly của Dzoãn Mẫn. Nhạc tình đang phổ biến dữ dội lúc đó cũng còn là của một người Nam Định, Đặng Thế Phong với ba bài hát mùa Thu: Đêm Thu, Con Thuyền Không Bến và Giọt Mưa Thu... Ở Hải Phòng, nhạc tình là địa hạt của Lê Thương với những bài đầu tay rất hay như Bản Đàn Xuân, Một Ngày Xanh (hay Bên Bờ Đà Giang), Nàng Hà Tiên... Nhất là với bài Thu Trên Đảo Kinh Châu soạn trên âm giai Nhật Bản và đang rất thịnh hành (đến độ đi vào nhạc mục của Hát Quan Họ ở Bắc Ninh).

Trong không khí nhạc tình lãng mạn toàn nói về mùa Thu như vậy, chàng tuổi trẻ Văn Cao cũng soạn ra những bài hát mùa Thu như Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu... nhưng chưa bao giờ anh có cơ hội để phổ biến. Tôi sẽ là người đầu tiên đem nhạc của Văn Cao đi - nói theo lời Văn Cao đề tựa trong một bài hát - gieo buồn khắp chốn. Danh từ người du ca đầu tiên cũng do chính Văn Cao đã gán cho tôi với một sự thèm sống cuộc đời "xướng ca vô loài" như tôi lắm lắm"
(Hồi ký I, trang 240-241)
Sau khi phân tích giá trị từng tác phẩm của Văn Cao, Phạm Duy xác định:
"Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của 50 năm Tân Nhạc thì những bài Suối Mơ, Bến Xuân là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc Việt Nam. Sẽ không bao giờ có những bài ca lãng mạn như thế nữa! Sẽ có nhạc tình cảm tính, nhạc tình não tính, nhạc tình nhục tính và ảo tính nhưng không thể có thêm những bài nhạc tình lãng mạn nào hay hơn nhạc Văn Cao" (...) Khi Thiên Thai và Trương Chi ra đời, với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt ta tới đỉnh cao nhất của ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của khổ đau với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thủa". (Hồi Ký I, trang 247- 249)


Phạm Duy cũng không quên nhắc đến vai trò của Kim Tiêu trong việc truyền bá ca khúc Văn Cao:
"Trong đám nam ca sĩ lúc đó, tôi cho rằng Kim Tiêu là người hát hay nhất. Trong khi tôi vác bài Buồn tàn thu đi lưu diễn ở trong Nam thì ở Hà Nội, chính nhờ giọng hát Kim Tiêu mà những bài Thiên Thai, Trương Chi của Văn Cao được nổi tiếng". (Hồi ký II, trang 56- 57)
Về số phận người danh ca này, Tạ Tỵ cho biết: Kim Tiêu về thành trước ông nhiều tháng, nhưng sau chống đối, bị Pháp bắt và buộc tội là Việt Minh:
"Vào tù, anh vẫn không sợ, dù bị đánh đập tra khảo thế nào, anh cứ coi thường. Pháp nhốt anh vào xà-lim (Cellule), anh vẫn ca hát, những bài hát của Việt Minh. Sáng nào, anh cũng nắm chặt tay vào song sắt hát bản Tiến quân ca của Văn Cao để đánh thức mọi tù nhân khác dậy. Từ ngoài khu kháng chiến, Văn Cao được tin, cảm động lắm, làm một bài thơ bí mật đem vào Hà Nội, rồi nhờ các cán bộ tình báo nội thành đưa vào Hoả Lò cho ca sĩ Kim Tiêu. Tôi có được đọc cả bài thơ, nhưng lâu ngày, bây giờ chỉ nhớ vài câu:
...Người danh ca ấy nằm trong ngục
Hà Nội nhớ tôi, hát bài ca cũ
Tiếng ca như buổi sớm trong
Tiếng ca vang vang phá phách
Xà-lim nổ tung ra
Cả Hoả Lò vỡ toang thành khối nhạc!...
Câu chuyện về ca sĩ Kim Tiêu, tôi chỉ biết tới đấy, còn sau này, Kim Tiêu sống hay chết trong tù, tôi không hay"
(Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, trang 114).
Trong đoạn viết về Bến Xuân, Nguyễn Thụy Kha có nhắc đến người ca sĩ giọng vàng, nhưng không (dám?) nêu tên, và sau cùng có câu "Và đau đớn nhất là chàng đã chết trong cơn đói không thể nào sống được" (trang 28). Tại sao?
Tìm kỹ thì chúng tôi thấy trong tạp chí Âm nhạc, Minh Hiền viết: "Kháng chiến, Kim Tiêu ở lại hoạt động vùng địch. Ông đã bị bắt. Trong tù, Kim Tiêu vẫn hát vang những bài cách mạng. Khi được thả, ngay giữa Hà Nội tạm chiếm, trong một liên hoan sinh viên, Kim Tiêu đã hát Sông Lô của Văn Cao mà không hề sợ sệt chút nào. Rất tiếc, sau hoà bình, do bị nghi ngờ được thả ra tù vì đã khai báo, Kim Tiêu buồn chán đi lang thang. Càng buồn ông càng hát hay. Kim Tiêu đã hát đến hơi thở cuối cùng ở Ga Hàng Cỏ" (Minh Hiền, Những giọng vàng một thủa, tạp chí Âm Nhạc số 3-4-5, 1994, trang 43-44).
Bi kịch của Kim Tiêu chắc hẳn còn nhiều u uẩn. Cần được tìm hiểu sâu xa hơn nữa.

Văn Cao, hội họa lập thể, trước kháng chiến
Sự cách tân trong hội họa của Văn Cao, sẽ được Tạ Tỵ nhận định.
Tạ Tỵ, sinh năm 1921 tại Hà Nội, là họa sĩ Việt Nam đầu tiên vẽ theo lối lập thể từ 1940. Tạ Tỵ theo kháng chiến từ những ngày đầu. Tháng 5/1950, sau khi bức tranh lập thể Mưa núi, bị phê bình gay gắt, ông quyết định về thành. Năm 1951, ông tổ chức cuộc triển lãm tranh lập thể đầu tiên với 60 tác phẩm tại Hà Nội. Năm 1953, bị động viên đi lớp Sĩ quan Thủ Đức. Ông tiếp tục sự nghiệp hội họa tại Sàigòn, với hai cuộc triển lãm lớn năm 1956 và 1961. Tạ Tỵ phục vụ trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà, cấp bậc sau cùng là Trung Tá. Sau 1975, ông bị đi cải tạo và đưa ra Bắc. 1981 được tha về. 1982, cùng gia đình vượt biển. Viết hồi ký Đáy Điạ ngục (nxb Thằng Mõ, 1985, Hoa Kỳ). Năm 2004, sau khi vợ ông từ trần, Tạ Tỵ trở lại sống tại Sài gòn và mất ngày 24/8/2004. Tạ Tỵ, như Vũ Bằng nhận xét là "một nghệ sĩ "trọn vẹn", ngoài môn vẽ, viết, thơ ca, anh lại còn có tài về nhạc và trình diễn". Ông để lại những trang hồi ký giá trị về sinh hoạt văn nghệ Việt Nam, từ tiền chiến đến thập niên 80.


Phạm Duy học Mỹ thuật Đông Dương một năm (40-41) với các thày Nam Sơn, Georges Khánh, Tô Ngọc Vân... và cùng lớp với Võ Lăng, Đinh Minh, Mai Văn Hiến, Bùi Xuân Phái, Phan Kế An, Quang Phòng, Phan Tại, Nguyễn Thanh Đức, Tạ Thúc Bình, Trần Phúc Duyên...
Phạm Duy viết: "Học trước chúng tôi vài năm là Tạ Tỵ, Phạm Văn Đôn, Trần Văn Lắm, Nguyễn Thị Kim... (...) Tạ Tỵ vẽ dessin hoặc vẽ tranh sơn dầu theo lối cổ điển hay ấn tượng (impressionisme) rất thành công, nhưng anh lại chọn con đường lập thể (cubisme) của Picasso. Ngoài Tạ Tỵ ra tôi không thấy có họa sĩ Việt Nam nào dám đi vào loại tranh đó cả. Tạ T


Tạ Tỵ viết về Văn Cao trong bối cảnh hội họa của thập niên bốn mươi:
"Vào những năm 40-41, tôi học chung với nhiều bạn nhưng chỉ có vài người có tinh thần tiến bộ như Nguyễn Đăng Trí, Bùi Xuân Phái và Nguyễn Sáng. Cả ba đều học dưới tôi vài lớp. (...) Bùi Xuân Phái người Hà Nội, có đôi mắt to sáng, vầng trán cao với bộ râu đỏ hoe và nụ cười khinh bạc (...) Anh thích vẽ phố vì nhà anh ở gần phố Hàng Thiếc, Hàng Điếu, Hàng Hòm là những con phố cổ của Hà Nội ngày xưa (...) Do vậy, về sau anh em thường gọi đùa là "Phái Phố" ! Tôi và Bùi Xuân Phái sau này còn rất nhiều dịp sống gần nhau để tạo nên kỷ niệm (...) Còn Nguyễn Sáng, người miền Nam, tình tình nóng nẩy. Sáng cũng có vầng trán thật cao, thân xác khỏe mạnh như lực sĩ (...) Nguyễn Sáng khéo tay lắm, nhất là tranh thiếu nữ vẽ trên lụa (...)
"Phạm Duy và Văn Cao cũng có một thời gian theo học Mỹ Thuật cũng như Phan Tại, nhà đạo diễn kịch sau này, nhưng cả ba đều bỏ ngang, có lẽ vì không thích hợp. Chỉ riêng Văn Cao vẫn vẽ, có vài tác phẩm được trưng bày tại Salon Unique năm 1943 do chính phủ Pháp tổ chức. Tác phẩm mang tựa đề "Những kẻ tự sát" (Les suicidés) với bút pháp phong phú gây được nhiều thiện cảm của giới yêu mỹ thuật lúc ấy. Qua tác phẩm này, ý thức cách mạng đã có ở Văn Cao nhưng chưa ai biết (...)



Văn Cao khi ở Hải Phòng, khi lên Hà Nội, mỗi lần có mặt ở thành phố, Văn Cao thường đến tìm tôi mời lại căn nhà ở trong con ngõ nhỏ đường Hàm Long để khoe tranh mới. Trong khoảng thời gian từ 42 đến 45, tôi đâu biết Văn Cao đã dấn thân vào cách mạng, hoạt động bí mật cho Mặt Trận Việt Minh. Quả thật tôi không để ý đến cách mạng và chính trị nên thường có những lập luận đối nghịch với Văn Cao về sáng tác. Văn Cao cho rằng nghệ thuật chỉ có ý nghĩa khi nó phục vụ cho số đông và một bức tranh đẹp phải truyền cảm, gây được ấn tượng tốt cho người xem tranh. Còn tôi cho rằng nghệ thuật, bất cứ ở bộ môn nào, trước hết, phải có bản sắc cũng như đặc tính của nghệ phẩm. Một bức tranh đẹp không cần sự giải thích, chỉ cần sự cảm thông giữa người xem tranh và tác phẩm (...) Nhưng tuy miệng nói vậy, chứ Văn Cao vẽ cũng mới lắm; những bản nhạc như Buồn Tàn Thu, Suối Mơ, Thiên Thai, Trương Chi, v.v... được in ra đều do Văn Cao trình bày bìa đi rất gần với trường họa lập thể, mà hồi đó chưa có một bản nhạc nào, cuốn sách nào trình bày dưới hình thức đó"
. (Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, trang 18-34).


Tạ Tỵ còn gặp lại Văn Cao nhiều lần trong kháng chiến và cũng chính ông là người sẽ thuật lại sinh hoạt hội họa trong kháng chiến. Bây giờ hãy tìm hiểu về giai đoạn cách mạng tháng Tám, giai đoạn Tiến quân ca và những ngày lịch sử.



 
Văn Cao khi viết Tiến Quân Ca (1944)Ảnh do tác giả cung cấp
Tiến quân ca và những ngày lịch sử
1945, là thời điểm bản lề, phát xuất sự phân chia quốc-cộng, phân chia Nam-Bắc, phân chia chiến tuyến. Theo Lại Nguyên Ân thì người nghiên cứu ngoài Bắc có rất ít tư liệu văn học về thời kỳ này, phải nhờ đến những bài báo của Vũ Bằng trên Trung Bắc chủ nhật, mà ông vừa tìm lại, ông mới biết được những sự việc như: "Học giả Trần Trọng Kim trong vai trò thủ tướng; việc khôi phục Hà Nội trong quy chế một thành phố của nước Việt Nam độc lập; việc Hà Nội khôi phục đền Trung Liệt thờ những bậc quản thủ đã tử tiết vì thành phố..." (Lại Nguyên Ân, Đôi lời dẫn giải, Vũ Bằng, các tác phẩm mới tìm thấy, Vietstudies).


1945 là năm sôi động nhất của lịch sử cận đại và Tiến quân ca lần đầu tiên đến với quần chúng.
Để giúp bạn đọc theo dõi tiến trình hành động và sáng tác của Văn Cao và các văn nghệ sĩ thời đó, chúng tôi xin nhắc lại một số mốc lịch sử:
4/2/1945, Hội nghị tối cao Đồng Minh họp tại Yalta, chia thế giới làm hai khu vực: vùng ảnh hưởng Nga và vùng ảnh hưởng Anh Mỹ.
Tháng 3/1945 (năm Ất Dậu), nhiều ngàn người chết đói ở Bắc.
9/3/45, Pháp đầu hàng Nhật.
10/3/45, Nhật tuyên bố: ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Đông Dương.
11/3/45, Viện cơ mật Huế thông báo: hủy bỏ hiệp ước bảo hộ 1884. Việt Nam khôi phục lại chủ quyền.
17/3/45: Vua Bảo Đại tuyên chiếu: đích thân cầm quyền theo nguyên tắc Dân vi quý.
17/4/45: Bảo Đại ủy Trần Trọng Kim lập chính phủ, thành phần: Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Trịnh Đình Thảo, Trần Đình Nam, Hồ Tá Khanh, Lưu Văn Lang, Trần Văn Chương, Nguyễn Hữu Thi. Dùng cờ quẻ LY (cờ vàng ba sọc đỏ) làm quốc kỳ và tiếp tục lấy Đăng đàn cung làm quốc ca.


Học giả Trần Trọng Kim giải thích:
"Nước Việt Nam đã là một nước tự chủ thì phải có quốc kỳ và quốc ca. Bài quốc ca thì từ trước vẫn dùng bài "Ðăng Ðàn" là bài ca rất cổ, mà âm điệu nghe nghiêm trang. Chúng tôi nghĩ: trước khi có bài nào hay hơn và có nghĩa lý hơn thì hãy cứ dùng bài ấy.
Còn lá quốc kỳ, mỗi người bàn một cách, chúng tôi định đem hỏi mọi người trong nước và ai có ý kiến gì, thì vẽ kiểu gửi về. Có kiểu lá cờ vàng có quẻ ly ở giữa là có ý nghĩa hơn cả. Chúng tôi định lấy kiểu ấy làm quốc kỳ.
Lá cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách Quốc Sử Diễn Ca nói khi bà Triệu Ẩu nổi lên đánh quân Tàu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có câu rằng "Ðầu voi phất ngọn cờ vàng". Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với cái ý cách mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ ly là vì trong lối chữ tối cổ của ta có tám chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ bốn phương chính và bốn phương bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ ly chủ phương nam. Chữ LY còn có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn phương.
Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ ly là hợp với vị trí nước nhà lại có nghĩa chỉ một nước văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ vàng quẻ ly có đủ các ý nghĩa"
. (Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi (hồi ký), chương 4, đã có trên Internet)


20/7/45 Nhật trả chính phủ Việt Nam các cựu nhượng địa Pháp: Hà Nội, Hải Phòng Đà Nẵng.
1/8/45 Đốc lý Trần Văn Lai cho phá các tượng Pháp ở Hà Nội: tượng Paul Bert, Jean Dupuis, Đầm Xoè ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm lính Khố Xanh, Khố Đỏ.
9/8/45 Nagasaki bị ném bom nguyên tử.
13/8/45 Đảng Cộng sản Đông Dương nhóm họp tại Tuyên Quang, quyết định: Tổng khởi nghiã, đoạt khí giới quân Nhật, chiếm chính quyền trước khi quân Đồng Minh đến Đông Dương, lập chế độ Dân chủ cộng hòa.
14/8/45 Nhật trả Nam Bộ cho triều đình Huế.
15/8/45 Nhật hoàng kêu gọi quân đội đầu hàng. De Gaulle cử Leclerc làm tư lệnh Lục quân Pháp tại Đông Dương.
17/8/45 Công chức Hà Nội biểu tình, biểu dương ý chí bảo vệ đất nước, cuộc biểu tình biến thành cuộc biểu tình ủng hộ Mặt Trận Việt Minh. Phạm Duy cướp micro hát Tiến quân ca "lần đầu tiên và duy nhất" tại nhà Hát lớn Hà Nội.
19/8/45 Biểu tình lớn trước nhà Hát lớn, để nghe tuyên bố của Mặt trận Việt Minh. Bài Tiến quân ca được đoàn Thanh niên đồng ca.
22/2/45 Vua Bảo Đại thoái vị.
23/8/45 Thành lập chính phủ lâm thời với Hồ Chí Minh, chủ tịch.
2/9/45 Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố Độc Lập tại Ba Đình. Vũ Hoàng Chương làm bài thơ Ngày Độc Lập, đăng trên Tiên phong số 24, ngày 1/12/46.
9/9/45 Quân đội Trung Hoa bắt đầu tới Hà Nội để giải giới quân Nhật.
5/10/45 Leclerc tới Sàigòn, tuyên bố sẽ bình định Nam Bộ
22/12/45 Hồ Chí Minh ký thỏa ước với Việt Quốc và Việt Cách (Việt Nam Cách mệnh đồng minh hội, Việt Nam Quốc dân đảng và Đại Việt) lập chính phủ liên hiệp.
13/1/46 Vệ Quốc Quân tấn công bộ đội Việt Quốc tại Việt trì.
Quân Pháp chiếm xong Nam Bộ, tiếp tục đánh ra Bắc.

2/3/46: Thành lập chính phủ liên hiệp với Hồ Chí Minh, chủ tịch; Nguyễn Hải Thần, phó chủ tịch; Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Nội vụ, Nguyễn Tường Tam, Bộ trưởng Ngoại giao...
6/3/46 Hồ Chi Minh ký hiệp định Sơ bộ, thừa nhận Việt Nam là quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp.
16/3/46 Cố vấn Vĩnh Thụy sang Trùng Khánh
17/4/46 Khai mạc hội nghị Việt Pháp tại Đà Lạt với Nguyễn Tường Tam làm trưởng phái đoàn. Hội nghị thất bại.


Từ tháng 4/46, trở đi, tình hình rối loạn: quân Tưởng đánh nhau với quân Pháp. Bộ đội Việt Minh đánh nhau với bộ đội Việt Quốc. Nguyễn Tường Tam sang Tàu.
6/7/46 Khai mạc hội nghị Fontainebleau, với Phạm Văn Đồng làm trưởng phái đoàn. Chương trình nghị sự: Việt Nam và Liên bang Đông dương.
10/9/46, Hội nghị thất bại.
14/9/46 Đang đêm, chủ tịch Hồ Chí Minh thân hành đến nhà riêng của Bộ trưởng Marius Moutet ký thoả ước tạm thời.
2/11/46 Hồ Chí Minh lập chính phủ mới, không còn tính cách liên hiệp.
19/12/46 Chiến tranh Việt Pháp bùng nổ.


Tóm tắt công việc của chính phủ Trần Trọng Kim trong hơn ba tháng cầm quyền (từ 17/4 đến đầu tháng 8/45): bỏ Bộ Quốc Phòng, lập Bộ Thanh Niên do Phan Anh đảm nhiệm: Bỏ chiến tranh, rèn luyện tuổi trẻ. Hoàng Xuân Hãn (Bộ trưởng giáo dục và mỹ thuật) soạn thảo một chương trình giáo dục mới. Tiếp nhận các phần lãnh thổ bị Pháp chiếm: Nam Bộ và các thành phố Đà Nẵng, Hải Phòng, Hà Nội (Theo Phan Anh, việc này không dễ dàng, vì Nhật không muốn trả). Tổ chức đại lễ kỷ niệm Nguyễn Thái Học và các liệt sĩ Yên Bái tại vườn Bách Thảo. Phá những tượng đài của thực dân Pháp tại Hà Nội. Đặt lại tên Việt cho các đường phố Hà Nội, v.v...

Về phía các đảng phái, sự đoạn tuyệt đã rõ ràng từ khi bộ đội Việt Minh và Việt Quốc đánh nhau ở Việt Trì. Phe quốc gia, gồm những đảng đối lập với cộng sản, có khuynh hướng khác nhau: thân Tàu (Tưởng Giới Thạch), thân Nhật hoặc thân Pháp. Phe cộng sản: thân Nga, thân Tàu (Mao Trạch Đông).
Nhưng Việt Minh đã thành công trong việc cổ động toàn dân theo Cách mạng tháng Tám. Riêng về phía văn nghệ sĩ, gần như hầu hết những người không cộng sản cũng tham gia kháng chiến: Tạ Tỵ viết khẩu hiệu cho Việt Minh. Phạm Duy cướp micro hát Tiến quân ca. Vũ Hoàng Chương sáng tác Ngày độc lập với những câu thơ:


"... Hai cuộc tang thương tủi đọa đầy
Núi sông còn có buổi hôm nay
Kinh kỳ tám mặt reo đoàn kết
Sóng đỏ gầm quanh ngọn bút này
...
Ngoài kia dừng chén mà coi
Núi lay xiềng khoá, sông đòi tự do
Lắng nghe dân tộc reo hò
Bốn phương thét lớn gào to: dân quyền..."

Tạ Tỵ thuật lại việc ông viết khẩu hiệu như sau:
"Trước ngày 19/8/1945 là ngày Việt Minh cướp chính quyền, Lê Quốc Lộc đến tìm tôi nói về tình hình chính trị: "Chúng mình không thể ngồi chờ được nữa, phải hành động!" Tôi hỏi: "Hành động cái gì?" Anh nhìn thẳng vào mắt tôi như dò xét: "Tôi nói hành động tức là phải tham gia cách mạng". - "Cách mạng nào?" Lộc trả lời với một giọng rắn chắc: "Tôi nói thực với cậu, tôi đang hoạt động cho Mặt Trận Việt Minh; tình thế đã chín mùi rồi. Nếu cậu bằng lòng, tôi mời cậu tham gia Mặt Trận". 

Tôi đang phân vân chưa biết trả lời ra sao, Lộc nói tiếp: "Công tác cũng nằm trong khả năng của tụi mình thôi, nghiã là chuyên môn". Tôi ậm ừ trả lời: "Nếu cậu làm được tôi cũng làm được". Lộc cười, cặp mắt một mí của anh hơi nheo trông giống như hai sợi chỉ kéo thẳng: "Vậy chúng ta bắt tay vào việc nhé!" (...) Chừng nửa giờ sau, Lộc mang vải, sơn đến với một tờ giấy nhỏ: "Cậu viết dùm mấy khẩu hiệu này". Nói xong Lộc đi ngay. Tôi mở tờ giấy ra coi, thấy mấy tiếng: "Hoan hô Mặt Trận Việt Minh. Chào mừng Cách Mạng thành công". (...) Sáng sớm hôm sau Lộc đến nhà tôi thật sớm. Hai tấm khẩu hiệu, Lộc cho vào chiếc bao bột mì, buộc gọn vào yên xe rồi ngồi lên trên, đạp nhanh như có chuyện gì gấp lắm. Ngay buổi chiều hôm đó, nhân có cuộc mít tinh của công chức và dân chúng, Mặt Trận Việt Minh lợi dụng ngay dịp đó, bắn mấy phát súng chỉ thiên và trương cờ đỏ sao vàng cùng khẩu hiệu. Thế là xong! Trang sử Việt Nam đã lật, nhưng nước Việt Nam còn phải kinh qua nhiều giai đoạn nhục nhằn ở mỗi hoàn cảnh đấu tranh để làm nên lịch sử" (...) 

Mấy tháng sau, Tôi được Lê Quốc Lộc giới thiệu vào cơ quan tuyên truyền để vẽ những tấm tranh cổ động. Tiền công cũng đủ sống qua ngày. Trong lúc tôi làm công tác trên thì Nguyễn Sáng được tuyển dụng vào công việc vẽ giấy bạc "cụ Hồ". Sáng vốn khéo tay và cần cù, rất thích hợp với tài năng. Tôi không biết ai đã giới thiệu Nguyễn Sáng với Bộ Tài Chánh của Việt Minh. Nguyễn Sáng làm việc với một ông cụ tuy già nhưng kẻ chữ còn tinh vi lắm (...) Tất cả mọi loại giấy bạc tiêu dưới chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đều do Nguyễn Sáng vẽ." (Tạ Tỵ, Những khuôn mặt văn nghệ đã đi qua đời tôi, trang 41 và 47).


Mấy dòng hồi ký của Tạ Tỵ phản ảnh khá rõ tâm trạng và tình thế những người đi theo kháng chiến. Nguyễn Huy Tưởng trong tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô và Văn Cao trong Bài tiến quân ca cũng có những cái nhìn tương tự.
Ngày 17 và 19 tháng tám 1945 và Tiến quân ca

mới có vai trò lịch sử. Chủ động trong hai ngày 17 và 19/8/45. Vậy những tác nhân chính viết gì về những ngày lịch sử đó?
Phạm Duy viết:
"Sau khi Nhật đầu hàng, Quân Đội Nhật ở Việt Nam trao trả phủ Toàn Quyền cho phủ Khâm Sai Bắc Bộ. Để tỏ ý chí bảo vệ đất nước, vào ngày 17 tháng 8, công chức Hà Nội được lệnh của vị Khâm Sai Phan Kế Toại đứng ra tổ chức một cuộc mít tinh ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Cuộc mít tinh của các ông các bà công chức đang diễn tiến thì bỗng nhiên một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn được thả từ bao lơn của Nhà Hát xuống, rồi một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao. Thế là cuộc biểu tình của Tổng Đoàn Công Chức bỗng nhiên biến thành cuộc biểu tình của Mặt Trận Việt Minh.
Hai ngày sau, tức là 19 tháng 8, Việt Minh đích thân đứng ra tổ một cuộc mít tinh khổng lồ cũng ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội. Sau đó đoàn người biểu tình kéo đến bao vây Bắc Bộ Phủ. Ông Khâm Sai Phan Kế Toại đầu hàng ngay. Coi như cướp được quyền hành chánh rồi, đoàn người kéo luôn qua trại Khố Xanh ở đường Đồng Khánh để cướp quyền quân sự. Một ngàn lính Bảo An ở trong trại không kháng cự. Cờ quẻ ly được hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên.
Thế là cuộc tổng khởi nghĩa thành công tại Hà Nội. Một Ủy Ban Nhân Dân được thành lập ngay hôm đó. Đồng thời tại nhiều địa phương, các đoàn võ trang tuyên truyền được gọi là "Dân Quân Giải Phóng" cũng tới chiếm chính quyền trong tay các tỉnh trưởng hay quận trưởng của một chính phủ mà ông Thủ Tướng là Trần Trọng Kim đã từ chức"
(Hồi Ký II, trang 30-31).
Trong đoạn hồi ký trên, Phạm Duy viết ngắn và rất chi tiết, nhưng ông không hề nhắc đến vai trò của mình trong ngày 17/8/1945, chỉ ghi một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu và hát bài Tiến Quân Ca của Văn Cao và trong cuốn hồi ký, ông cho biết những ngày ấy ông ở trong Nam. Điều đó dễ hiểu vì Phạm Duy không thể công khai nhìn nhận mình có "vai trò lịch sử trong những ngày Việt Minh cướp chính quyền" cũng như Lê Đạt không thể công khai nhận mình đã theo Quốc Dân Đảng.
Nhưng Văn Cao ghi lại rõ ràng như sau:
"Tôi ở lại một mình trên căn gác vắng [171 phố Mongrand nay là số 45 Nguyễn Thượng Hiền] vào những ngày đầu thu năm 1944.
Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc mất đứa cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể nó đã nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn đêm mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.
Căn gác được thêm một người ở. Anh Ph. D. là bạn thân của tôi từ Hải Phòng lên. Anh mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa hai tỉnh Hà Nội và Hải Phòng. Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D là người của đoàn thể, và thường chú ý giúp đỡ tôi. Tôi nghĩ làm cách mạng là phải bỏ văn nghệ, con đường của người làm cách mạng là phải thoát ly phải hy sinh như gương chiến đấu của các đồng chí mà tôi đã được biết qua sách báo. Nhưng tôi vẫn có thể làm khác với việc thoát ly -tôi chỉ hiểu tổ chức đến thế- có thể là bằng sáng tác, bằng những hành động mà tôi dễ làm nhất như nhận dạy hát cho một đoàn thanh niên về những bài ca yêu nước, hay tham gia những buổi biểu diễn giúp đỡ người nghèo v.v... Tôi chỉ biết sáng tác một số ca khúc về đề tài lịch sử, kêu gọi xa xôi lòng yêu nước. Tôi chưa dám làm một bài ca cách mạng. Và cũng chỉ có thế thôi, thanh niên học sinh và anh em hướng đạo đã khuyến khích tôi. Sự khuyến khích ấy đẩy tôi vào nghề nhạc sau này. Lần này, Ph. D. lên ở với tôi vào giữa lúc tôi đã muốn bỏ tất cả hội họa, thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả giấc mơ sáng tạo thường đêm đêm đan mãi đan mãi cái vành mũ triền miên trên đầu như một vòng ánh sáng thần thánh.
Một hôm, Ph. D. nói với tôi:
- Văn có nhớ anh Vũ Quý không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội? Văn có muốn gặp anh ấy không?
Tôi biết đồng chí Vũ Quý trong những ngày còn là vận động viên bơi lội ở Hải Phòng. Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm. Từ khi biết anh bị mật thám Pháp bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người cộng sản ấy vẫn hoạt động tại Hà Nội. Anh ấy vẫn nhớ đến tôi.
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng, và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một hiệu ăn, ở đấy quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện của chúng tôi thật hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định công tác. Ngày đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.
Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác:
- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, nên phải dùng những điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta.
Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen cố tìm một cái gì để nói, tìm một âm thanh đầu tiên. Nhưng đường phố quen thuộc ấy thường không vang một âm thanh gì hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Hôm nay phố đông người hơn và lòng tôi thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo hiểm hy sinh chứ không chuẩn bị để lại quay về làm bài hát. Thật khó nghĩ tới nghệ thuật lúc này. Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc. Không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt và quay đi. Đêm ấy về gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân Ca.
Những ngày ấy, Ph. D. sống chung với tôi. Thỉnh thoảng anh về Hải Phòng và mang tiền bán tín phiếu do các cơ sở gửi lên. Quần chúng ủng hộ Việt Minh ngày càng nhiều. [...]
Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn đèn dầu, bộ mặt ngăm ngăm đen của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm lặng. Anh rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh của từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca. [...]
Ngày 17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc mít-tinh của công chức Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài "Tiến quân ca" đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên vang theo những đoạn sôi nổi. Ở những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một lúc, nhưng tờ bướm in "Tiến quân ca" được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự mít-tinh.
Tôi đã đứng lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà Hát Lớn. Tôi đã nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph. D. qua loa phóng thanh. Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát. Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần duy nhất."
(trích "Bài tiến quân ca" hồi ký của Văn Cao, đăng trên Sông Hương số 26, tháng 7/1987)
Đoạn hồi ký này xác định những sự kiện quan trọng:
- Bà mẹ Văn Cao vì đói khổ, phải đưa các cháu từ Nam Định ra Hải Phòng, giữa đường bị lạc mất đứa cháu lên ba. Việc này Hoàng Văn Chí có ghi lại tương tự như thế.
- Phạm Duy là người nhắc Văn Cao đến với Vũ Quý. Và ông ở trong "tổ chức" trước Văn Cao (điều đó dễ hiểu vì Phạm Duy khi học trường Thăng Long là học trò của Võ Nguyên Giáp).
- Phạm Duy là người "chứng kiến sự ra đời của bài Tiến quân ca" và Phạm Duy là người "buông lá cờ đỏ sao vàng trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát trước quần chúng lần đầu tiên" với "sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng" trong ngày 17/8/1945.
Trước kháng chiến, câu "Tương tiến nhạc sĩ Phạm Duy, kẻ du ca đã gieo nhạc buồn của tôi đi khắp chốn" của Văn Cao đã trở thành huyền thoại. Lần này, Văn Cao muốn trả lại vai trò lịch sử của Phạm Duy đối với cách mạng tháng Tám. Vai trò đã bị lịch sử một chiều cuốn đi, cướp mất. Văn Cao muốn cái gì của César phải trả về cho César.
Không khí ám sát thủ tiêu
Tìm hiểu Văn Cao không thể bỏ qua giai đoạn ông hoạt động trừ gian. Nhưng muốn hiểu rõ hành động ấy, lại phải tìm hiểu không khí thanh trừng giữa Việt minh và các đảng phái đối lập. Vũ Bằng viết về không khí thời ấy:
" Bầu không khí ấy là bầu "không khí cảnh sát" mà Việt Minh vừa mới nắm được chánh quyền đã tạo được liền: thu hút dân vì lẽ dám đứng ra đánh thực dân diệt phát xít cứu quốc, nhưng đồng thời cũng cho tiêu luôn các đảng phái không đi một con đường với họ.
Lúc ấy chưa có những chữ rùng rợn như "Đầm Đùn", "Lý Bá Sơ" nhưng người ta đã mang máng nghe thấy những vụ át các bỉnh bút báo "Việt Nam" ở Hàng Bún Dưới, báo "Sao trắng" đường Bô-Nan Hải-Phòng, hay vụ Ôn Như Hầu có hàng trăm cái xác ôm nhau mà chết... Sức mấy mà không sợ? Sức mấy mà phòng ngừa được bọn cán bộ bịt mắt bưng đi? Nhưng cùng tắc biến, biến tắc!.. liều, đã liều thì liều cho trót, chúng tôi cứ đả kích Trần Huy Liệu
[Bộ Trưởng Thông Tin] và những sơ hở của guồng máy chánh quyền phôi thai của Việt Minh. Và rồi cũng chẳng làm sao hết" (Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, trang 160).
Trong tiểu thuyết Giòng Sông Thanh Thủy, Nhất Linh viết về Thanh và Ngọc, cán bộ Việt Minh và Việt Quốc, cả hai đều nhận được lệnh phải thủ tiêu nhau, nhưng họ rơi vào tình yêu, tình yêu đến chết. Nhất Linh mô tả rất rõ bối cảnh "Họ rình nhau như những con thú dữ mà người nào cũng vì một lý tưởng mình cho là cao đẹp". Nhất Linh đã viết những trang lạnh lùng và rùng rợn về tội ác của con người, nhân danh Cách Mạng. Các nhân vật tự hỏi: "Tại sao mình lại làm một việc độc ác như thế này". Tại cái "guồng máy": Họ ở hai guồng máy khác nhau. Đất nước là của chung, nhưng cách phụng sự đất nước của hai đảng, hai guồng máy chỉ đạo, khác nhau.
Tác phẩm của Nhất Linh giải thích hành động của Văn Cao trong kháng chiến: Văn Cao làm việc cho tình báo của Việt Minh, trong Quán Biên Thùy năm 1947. Và Quán Biên Thuỳ, theo sự mô tả của Phạm Duy, có không khí rất Giòng sông Thanh thủy:"
"Vào khoảng đầu mùa hè của năm 1947 tôi tới Lào Cai và thấy ở đây có một phòng trà với cái tên là Quán Biên Thùy, bề mặt là một nơi giải trí nhưng bề trong là một tổ chức tình báo. Lúc đó, đối diện với Lào Cai vẫn còn là vùng Trung Hoa Quốc Gia chưa bị nhuộm đỏ hoàn toàn. Tôi gặp Văn Cao ở đây và được mời ở lại hát cho phòng trà này. (...) Quán Biên Thùy đông nhân viên lắm. Tất cả đều là dân Hà Nội. Tôi không để ý nhiều tới hoạt động tình báo của quán này, chỉ ngờ rằng vùng Lao Kai còn khá nhiều đảng viên của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau khi bị Việt Minh tảo thanh từ vùng trung du, Việt Quốc tập trung ở đây để sẽ lánh sang Trung Hoa. Nhân viên tình báo của Quán Biên Thùy này đang đi lùng Việt Quốc để báo cho Công An tới bắt hay báo cho bộ đội tới tiêu diệt. Tôi biết rằng Việt Quốc trước đây sống nhờ ở tiền thuế của sòng bạc Cốc Lều, nay sòng bạc này phải đóng thuế cho Việt Minh (...) Trong thời gian ở Lào Kai, tôi còn có cái thú tới hút thuốc phiện tại dinh của một lãnh chúa người Nùng là Hoàng A Tưởng (...) Thuốc phiện chẳng bao giờ làm tôi say cả nhưng thứ thuốc phiện được hạ thổ lâu năm của Hoàng A Tưởng lần nào cũng đánh gục hai "anh hùng" kháng chiến là Văn Cao và Phạm Duy." (Phạm Duy, Hồi Ký II, trang 105- 107).
Không khí thanh trừng này nằm trong quỹ đạo trừ gian của Văn Cao những ngày đầu cách mạng: ám sát Đỗ Đức Phin. Bi kịch xẩy ra năm 1945, khi ông hoạt động trong đội "Biệt động vũ trang".
Văn Cao bắn Đỗ Đức Phin
Tại sao Văn Cao vào đội biệt động vũ trang?
Giả thuyết của Vũ Bằng:
"... Cho tới một ngày kia, lúc Nhật đổ bộ vào Đông Dương, tôi mới lại nghe nói đến Văn Cao hai lần nữa. Đó là lần Nghiêm Xuân Huyến báo tin cho tôi biết con gái anh sắp lấy chồng, mà người chồng đó là Văn Cao và một lần sau khi Việt Minh "át" cô Nga "giao du" với một sĩ quan Nhật bị bắn chết liền, ở Hải Phòng lại xẩy ra vụ bắn Đỗ Đức Phin mà lúc đó ai cũng bảo người bắn là Văn Cao.
Nghiêm Xuân Huyến, sước hiệu [biệt hiệu] là Voi đen (...) Tôi đi lại thường xuyên nhà Voi đen vì anh có ra một tờ tuần báo mười hai trang - tờ Rạng Đông. Sau này (...) anh ra tờ tuần báo trào phúng tên là Con ong do Tam Lang Vũ Đình Chí chủ biên. (...) Xa nhau được ít lâu, tôi nghe thấy Nghiêm Xuân Huyến bị Nhật bắt và "xin âm dương" cho đến chết ở nhà lao. Anh em hồi đó bảo rằng anh bị Nhật giết vì nhà in của anh in truyền đơn cho Việt Minh. Cho đến bây giờ, tôi vẫn không hiểu cái vụ Nhật bắt và đánh đập tàn nhẫn Huyến cho đến chết có liên quan gì đến vụ con gái Huyến lấy Văn Cao hay không, hay là Văn Cao có liên quan gì đến việc in truyền đơn đó hay không -nếu quả có in truyền đơn tại nhà in của Huyến- chỉ biết sau đó Văn Cao im lìm, không ai biết hành tung ra sao hết cho đến lúc xẩy ra vụ ám sát Đỗ Đức Phin trong một tiệm hút ở Hải Phòng. (...)
Cái tên Văn Cao nổi bật lên từ đó. Đối với một số anh em văn nghệ, có một số anh em nói cho đúng, đã lấy làm hãnh diện về điểm đó.
Sau ngày 19/8 tiếng của Văn Cao nổi như cồn"
. (Vũ Bằng, Văn Cao - Một nghệ sĩ tài hoa, Sàigon 1970, in lại trong Văn Cao cuộc đời và tác phẩm, trang 173)
Doãn Tòng, bạn đồng hành với Văn Cao trong đội trừ gian, thuật lại các sự kiện:
"Năm 1945, ở Hải Phòng có Đỗ Đức Phin là một tên mật thám cho Nhật - nó đã phá hoại nhiều cơ sở của ta, trên có lệnh phải trừ khử nó. Tháng 7-1945, Văn Cao trừ Đỗ Đức Phin. Việc này được đồng chí Nguyễn Khang -Xứ ủy Bắc Kỳ đồng ý. Nguyễn Đình Thi giao cho Văn Cao khẩu súng 7165. Tổ phân công cho em Trần Liễn là cô Liên thăm dò đường đi lối lại của Đỗ Đức Phin. Cô Liên chơi với em vợ Đỗ Đức Phin, nên rất tiện cho việc điều tra. Văn Cao, Trần Liễn có lần đã đến lớp học tiếng Nhật do Đỗ Đức Phin tổ chức nên biết mặt hắn. Hắn nghiện thuốc phiện, hay hút ở tiệm số nhà 51 phố Đông Kinh. Nắm chắc được cách đi lại ăn ở của hắn, tổ bắt đầu hành động.
Vào khoảng 6 giờ chiều một ngày tháng 7 năm 1945, trời nhá nhem tối, anh em cải trang cho Văn Cao thành một anh cai xe bận quần đen, áo va rơi, đầu đội mũ cát dầy, đeo đôi kính gọng. Hoá trang vào không ai nhận ra Văn Cao nữa. Văn Cao đạp xe đến phố Đông Kinh, vào ngồi ở một quán nước, đưa mắt quan sát. Khi Trần Khánh ra hiệu bằng cách nhẩy lò cò: có ý là Đỗ Đức Phin đang ở trên, Văn Cao bắt đầu hành động. Anh lên gác thấy rõ Đỗ Đức Phin đang nằm hút thuốc phiện. Bên cạnh là người bồi tiêm. Văn Cao bắn một phát vào đầu Đỗ Đức Phin, tên này gục xuống. Tên bồi tiêm sợ quá, nhẩy qua ban công bám vào ống máng tụt xuống chạy biến. Một số đồng bào nghe tiếng súng nổ, chạy đến nhốn nháo. Văn Cao bình tĩnh nói:" Xin mọi người ngồi im. Tôi chỉ diệt một tên Việt Nam bán nước thôi".
Nói rồi dưới ánh dêm mờ mờ, Văn Cao nhẩy lên xe đạp đi về nhà tôi thay quần áo. Sau đó Văn Cao lên Hà Nội hoạt động, tôi ở Hải phòng"
. (Doãn Tòng thuật lại, theo ghi chép của Bích Thuận, sđd, trang 197-198)
Hành động "trừ gian" này sẽ ở lại trong thơ Văn Cao như một lương tâm trầm uất suốt đời.
Tại sao Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa?
Sau ngày hòa bình lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa, lý do sâu xa được ghi trong bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
" Đêm ấy, trong cuộc tâm tình nghệ sĩ của Văn Cao với những ngư phủ trên phá Tam Giang, tôi muốn biết một điều mà với tôi là một bí ẩn thuộc về đời ông:
- Tại sao sau kháng chiến chống Pháp, anh vẫn vẽ, vẫn làm thơ, nhưng người ta không nghe anh hát nữa?
- Hồi nhận lời viết Tiến Quân Ca, tôi không hề chuẩn bị trước để làm một bài hát, mà là một đặc nhiệm nguy hiểm của đội biệt động. Tôi là đội viện biệt động vũ trang. Nhiệm vụ của tôi là trong một đêm, cầm một khẩu súng, vào một thành phố để giết một người. Tôi đã làm xong việc ấy. Đó là chiến tranh và căm thù, đơn giản thôi. Những ngày đầu sau chiến tranh, tôi đã trở lại căn nhà ấy, thấy còn lại một gia đình mẹ góa con côi. Làm sao tôi có thể nói điều cần thiết nhất đối với tôi trong những bài hát sau đó? Nói về chiến công hay phải nói một điều gì khác? Nên tôi im lặng, và chỉ viết nhạc-không-lời.
Giữa tiếng sóng ồ ạt vỗ quanh tàu, dưới đêm sao, tôi vẫn nghe rõ giọng nói dịu dàng của Văn Cao, sâu thẳm đến lạnh người, như thể là tiếng nói đến từ một biển khác. Trời ơi, tôi đã dại dột chọc tay vào vết thương. Nhưng tôi nghĩ, chỉ có những nghệ sĩ lớn mới nuôi cho mình những bi kịch như vậy"
(trích Cảm nhận Văn Cao của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hợp Lưu số 8, số đặc biệt Văn Cao, tháng 12/1992).
Nhiệm vụ của Văn Cao đã được Nhất Linh làm sống lại với nhân vật Ngọc trong Giòng Sông Thanh Thủy. Vết thương của Văn Cao cũng là vết thương của Nhất Linh.
Nhất Linh viết Giòng Sông Thanh Thủy hai năm trước khi tự vận, như một chúc thư văn học và chính trị gửi lại đời sau: cuối cùng trên dòng Xích Bích, Tào Tháo, Chu Du không còn nữa, chỉ còn lại tiếng thơ Tô Đông Pha, chỉ còn lại tiếng thơ, cho muôn đời...


Lưu Hữu Phước và Tiếng gọi thanh niên
Viết về Tiến quân ca của Văn Cao, không thể không nhắc đến Tiếng gọi thanh niên của Lưu Hữu Phước, bài quốc ca của miền Nam trong thời kỳ chia đôi Nam Bắc.
Lưu Hữu Phước sinh ngày 21/9/1921 tại Cái Răng (Cần Thơ). Học nhạc từ nhỏ. 1940, ông ra Hà Nội học y khoa. Khoảng thời gian từ 1940-44, Lưu Hữu Phước nổi tiếng với những ca khúc lịch sử như Bạch Đằng Giang, Ải Chi Lăng, Hát Giang trường hận, Hồn Tử sĩ, Hờn Sông Gianh, Hội Nghị Diên Hồng... và một loạt hành khúc cho sinh viên như: Ta cùng đi, Tiếng gọi thanh niên, Bài hát của thiếu sinh, Bài hát của thiếu nữ Việt nam, Việt nữ gọi đàn... Sau Cách mạng tháng Tám, Lưu Hữu Phước sáng tác Khúc khải hoàn, Ca ngợi Hồ chủ Tịch... Ca khúc của Lưu Hữu Phước có ảnh hưởng rất lớn đối thanh niên từ thập niên bốn mươi đến ngày nay. Trong cuốn sách của Mai Văn Bộ tựa đề Lưu Hữu Phước con người và sự nghiệp (nxb Trẻ 1989) không thấy ông nhắc đến hoạt động Quốc dân đảng của Lưu Hữu Phước. Điều đó dễ hiểu. Nhưng trong tiểu thuyết Giòng sông Thanh Thuỷ của Nhất Linh, có một đoạn đáng chú ý, viết về nhân vật Ngọc (Quốc dân đảng) dẫn Tứ và Nghệ (Việt minh) đến chỗ Ngọc sẽ đầu độc hai người kia. Trên đường xuyên núi rừng, phong cảnh hùng vĩ, Ngọc vừa đi vừa hát:
"Chàng cất tiếng hát cao giọng, đi thật mau cho bước chân ăn nhịp với bài hát mà chàng cố hát thật mau:
Hồn nước muôn năm sống cùng non nước!
Ngày nay ta noi tấm gương anh hùng,
Dù khó thế mấy quyết cùng nhau bước,
Làm cho vang tiếng cháu con nòi giống Tiên Long.
Chàng chuyển sang điệp khúc:
Mau, mau đồng lòng, tay cầm tay, trông cờ nước, ta đều bước,
Tuốt gươm, thề với núi sông ...
Hồn nước muôn năm sống cùng ...
Bài hát ấy là của Lưu Hữu Phước, đảng viên Việt Quốc trong thời kỳ bí mật từ trong nước truyền ra, do Ninh dạy chàng. Ninh có nói là thay đổi lời đi đôi chút cho nó mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Trời bắt đầu nắng mỗi lúc một gắt; Nghệ và Tứ không biết là bài hát gì nhưng vì nhịp quyến rũ nên cũng cố bước theo cho đúng nhịp."
(Giòng Sông Thanh Thuỷ, tập 1, trang 214)
Chính Nhất Linh đã sửa lời bài Bạch Đằng Giang của Lưu Hữu Phước cho mạnh hơn và đúng bằng trắc hơn. Lời gốc của Lưu Hữu Phước như sau:
Hồn nước vẫn sống với trời, non, nước
Ngày nay, ta noi tấm gương anh hùng
Dầu khó thế mấy, quyết cùng nhau bước!
Làm cho rõ biết cháu con nòi giống Tiên Long!

Nhưng điều đó không quan trọng, điều quan trọng là Nhất Linh xác nhận: Lưu Hữu Phước theo Quốc dân đảng.
Từ đó, đưa đến một số nghi vấn khác: trong thời kỳ kháng chiến, Lưu Hữu Phước sáng tác rất ít, tại sao? Lưu Hữu Phước là người của Việt Quốc hay Việt Minh? Nếu ông là người cộng sản, tại sao, Tiếng gọi thanh niên lại được chính phủ Nguyễn Văn Xuân (của Bảo Đại) chọn làm quốc ca? (Tiếng gọi thanh niên sáng tác tháng 4/1941. Ngày 2/6/1948, được chính phủ Nguyễn Văn Xuân chọn làm quốc ca, và tiếp tục là quốc ca của Việt Nam Cộng Hoà sau 1954).
Sau ngày thống nhất đất nước, Lưu Hữu Phước, Bộ trưởng Thông tin văn hoá, ký ba Thông tri cấm lưu hành các sách báo "phản động". Bản đầu mang số 218/CT. 75, ngày 20/8/75, trong đó có danh sách 130 tác giả bị cấm toàn bộ, với những tên tuổi như: Hồ Hữu Tường, Nguyễn Vỹ, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Tạ Tỵ, Doãn Quốc Sỹ, Mai Thảo, Võ Phiến, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Mặc Đỗ, Nguyễn Mạnh Côn, Chu Tử, Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, Tuý Hồng, Phan Nhật Nam... (Bản Thông tri và toàn bộ danh sách các tác phẩm, tác giả bị cấm, in trong Văn hoá Văn nghệ... Nam Việt Nam của Trần Trọng Đăng Đàn (nxb Thông Tin, 1993), phần Phụ Lục II, từ trang 697 đến 754).
Tất nhiên Lưu Hữu Phước chỉ thi hành chính sách của Trung Ương. Nhưng người nghệ sĩ, khi ký những công hàm tiêu diệt tác phẩm văn học của nửa phần đất nước, hẳn không thể không suy nghĩ, hẳn không thể không biết rằng tên mình sẽ đi vào văn học sử với một vị trí không thuận tiện. Và người Việt di tản khi hát bài Tiếng gọi thanh niên cũng nên nhớ đến tác giả trong toàn bộ hành động chính trị, văn nghệ của ông.
Kháng chiến và văn nghệ sĩ
Trong hoàn cảnh cực kỳ phân hoá giữa Việt Minh và các đảng phái đối lập như thế. Tại sao văn nghệ sĩ lại theo Việt Minh? Vì phần lớn không làm chính trị, từ Vũ Bằng, Vũ Hoàng Chương, đến Hoàng Cầm, Đinh Hùng, Tạ Tỵ... đều như thế, họ đi theo tiếng gọi của tổ quốc. Tạ Tỵ kể rõ từng chặng đường, từ những bước đầu:
"Thủ đô Hà Nội chết cứng trong máu lửa. Cuộc giao tranh gay go ngay từ phút đầu giữa Trung Đoàn Thủ Đô, Tự Vệ Thành và quân đội Pháp. Phần lớn dân chúng đã tản cư. Mọi nhà đều đục tường thông qua nhau, theo lệnh của chính phủ từ mấy tháng trước. (...) Những con đường có cây to được đốn ngã dùng làm chướng ngại vật cản đường xe bọc sắt của Pháp. Không khí trước ngày chiến tranh thật nghẹt thở. Vợ con tôi đã theo ông bà nhạc tản cư về quê cả tháng nay. Gia đình phía tôi cũng vậy. Tôi ở một mình vừa sáng tác vừa vẽ tranh cổ động". (sđd, trang 53)
Và ông tìm cách ra khỏi Hà Nội, theo kháng chiến:
"Tôi chọn lối xuyên cửa ô Cầu Dền, qua làng Hoàng Mai rồi men theo bờ ruộng ra đường số 1, con đường xuyên Việt. Tôi chợt nghĩ đến Phạm Duy, không biết Duy ra khỏi Hà Nội bằng ngả nào? Sau này khi gặp lại nhau trong kháng chiến, Duy mới cho biết đã ra khỏi Hà Nội qua ngả Khâm Thiên, tức phường Dạ Lạc. Văn Cao có báo cho Duy biết nhưng Duy không tin" (sđd, trang 54).
Tìm liên lạc với tổ chức:
"Tôi ăn Tết với gia đình xong rồi đến làng Bài Trượng thăm vợ con, trước khi lên đường đi Việt Bắc (...) Từ phủ Đoan Hùng, tôi quay về Phú Thọ, mong gặp anh em quen biết có thể giới thiệu mình với một cơ quan nào đó. Người thì đông, anh em chẳng thấy ai. Nản quá, tôi cũng định quay về quê nhà, bỗng gặp Phạm Duy từ trong một quán cà phê đi ra. Nói chuyện hồi lâu, Duy cho biết sẽ đi Yên Bái. Nếu tôi muốn đi cùng, sáng mai đến chỗ này chờ. Tôi bằng lòng, hỏi Duy có phương tiện gì không? Duy trả lời không, sẽ đi bộ. Ngay buổi chiều hôm đó, tôi quay về chỗ tá túc đêm qua, bán chiếc xe đạp cho người chủ nhà để lấy tiền tiêu. Sáng hôm sau, tôi đeo ba lô đến nơi hẹn. Chờ một lúc, tôi thấy Duy đội mũ ca-lô, mặc bộ ka ki Mỹ, đeo cây đàn trên vai, còn một tay xách chiếc túi đựng quần áo. Chúng tôi cứ men theo đường xe lửa đã bóc hết đường rầy đi ngược lên. Duy không chịu đeo chiếc túi vải lên vai, vừa đi vừa ném về phía trước. Đến nơi, cúi xuống nhặt lên ném nữa. Tôi hỏi:
- Sao làm vậy?
Duy nói:
- Đeo mệt xác, ném khoẻ hơn!
Trong lúc đi đường. Duy nói về chuyện mấy tháng trước. Sau khi ra khỏi Hà Nội, Duy tìm đường lên Vĩnh Phúc Yên, gia nhập đoàn Văn Nghệ Giải Phóng, rồi Việt Trì, bây giờ là Phú Thọ. Duy nói về dự tính tương lai với nhũng bản dân ca. Duy lúc này đã nổi tiếng, chẳng những về hát, mà còn ở sáng tác nhưng ca khúc như Cô hái mơ, Gươm tráng sĩ, v.v...
Năm ấy, chúng tôi mới có 24 tuổi. Đi cùng với Duy rất vui vì Duy hay nói tục. Nhưng sau đó, lại trầm ngâm, có lẽ, trong đầu, Duy đang có dự tính nào đó, có thể, một ca khúc sắp ra đời. Sau cặp kính trắng, đôi mắt Duy long lanh như được chiếu dọi bởi luống ánh sáng kỳ dị. Đến Yên Bái, một thành phố đã tiêu thổ 95%, tôi gặp thêm Văn Cao. Cũng từ nơi đó, tôi và Duy chia tay. Tôi ở lại Yên Bái chơi với Văn Cao vài ngày. Mỗi chiều chúng tôi rủ nhau đi uống rượu, loại rượu đế nặng. Văn Cao trông vẫn thế, sắc mặt tai tái, đôi mắt thật sắc với nụ cười chìm lắng. Có khác chăng chỉ là bộ bà ba nâu, bên ngoài phủ thêm chiếc trấn thủ."
(trang 55-56).
"Văn Cao nổi tiếng từ tiền chiến, trong kháng chiến và mãi mãi, mọi người đều nghe nhạc của anh. Nhưng anh, con người đa tài, ngoài nghệ thuật còn làm nhiều thứ khác.
Tôi lại chia tay với Văn Cao cũng ở Yên Bái. Văn Cao ngược Lào Cai để đi làm công tác tình báo biên giới được ngụy trang bằng một phòng ca nhạc. Phạm Duy có lên Lào Cai và hát ở phòng trà này. Bài Bên Cầu Biên Giới của Duy được sáng tác tại đó."
(trang 57)
Tạ Tỵ đi theo ban kịch truyền bá quốc ngữ được nửa năm thì bị sốt rét nặng, phải về Liên khu Ba (vùng Thái Bình), vẽ tranh hí họa chống Pháp trên báo Cứu Quốc Thủ Đô, sáng tác văn thơ và dạy hội họa. Tạ Tỵ kể về nhiệt tình cách mạng của Văn Cao:
"Một chiều khi gần tối, bỗng Văn Cao và Nguyễn Đình Thi đến thăm. Thật không gì vui hơn, khi nằm một mình trong căn nhà vắng lại được bạn đến thăm. Văn Cao cho biết từ Liên khu 1 mới xuống công tác ở Khu 3, nhân tiện ghé chơi. (...) Nói chuyện tầm phào mãi cũng chán, tôi yêu cầu Văn Cao đọc lại bài thơ "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc". Văn Cao tuy làm nhạc nhưng không có giọng hát, nhạc Văn Cao nổi tiếng nhờ tài hát của Phạm Duy, Bùi Công Kỳ vv... Văn Cao cũng không có tài ngâm thơ, hát chèo như Hoàng Cầm, nhưng tiếng đọc thơ của Văn Cao nghe rất lạ, nghe ghê rợn như tiếng vọng từ đáy huyệt. (...) Tôi nhớ, đêm ấy Văn Cao nói với tôi:
- Này cậu, tôi có ý định giới thiệu cậu vào Hội Nghiên Cứu Chủ Nghiã Các-Mác, cậu nghĩ sao? Tôi thẳng thắn trả lời, không thích chính trị, chỉ yêu nghệ thuật thôi! Trong đêm tối, tôi không nhìn thấy nét mặt Văn Cao và Nguyễn Đình Thi ra sao, nhưng qua câu nói của Văn Cao:
- Không còn con đường nào khác đâu, nghệ thuật cũng phải phục vụ chính trị. Tôi chỉ biết nói thế. Còn tuỳ cậu. Vả lại, Hội cũng ở gần đây thôi, mất công gì đâu mà cậu ngại?
Tôi không trả lời nói lảng sang truyện khác. (...) Sáng hôm sau, Thi và Văn Cao đều dậy sớm, đi ngay"
. (trang 68-69)
Tạ Tỵ và Phạm Duy cho biết trong những năm đầu kháng chiến, nghệ sĩ được tương đối tự do sáng tác. Tạ Tỵ, vừa vẽ tranh tuyên truyền (hí họa chống Pháp) vừa sáng tác nghệ thuật theo ý riêng mình và có thể triển lãm. Phạm Duy viết:
"Trong ba bốn năm đầu của cuộc kháng chiến toàn quốc, những văn nghệ sĩ rời thành thị ra thôn quê đều là những người tự động tham gia cuộc chiến đấu chung và dù có gia nhập vào một tổ chức văn nghệ nào của chính quyền thì cũng được tự do đi lại, tự do sáng tác hay tự do biểu diễn. Dù Đảng Cộng Sản đã có đề cương văn hoá từ lâu [1943], quy định mọi sáng tác văn nghệ đều phải có "tính Đảng" nhưng chỉ tới khi có Đại Hội Văn Hoá lần thứ hai được tổ chức ở Bắc Kạn vào năm 1950 [Hoàng Cầm treo cổ kịch thơ] thì mới có những đường lối văn nghệ được Ban Chấp Hành đưa ra để văn nghệ sĩ ngoài Đảng học hỏi" (Hồi ký II, trang 111-112).
Trong không khí còn khá dễ thở, Văn Cao trở lại Liên khu ba năm 1949, và các họa sĩ tổ chức triển lãm chung, Tạ Tỵ kể:
"Từ khi có Văn Cao ở gần, chúng tôi mỗi lần gặp lại bàn về chuyện làm phòng triển lãm. Văn Cao cũng vẽ được hai tấm tranh sơn dầu. Anh cho rằng vấn đề mở Phòng Tranh là việc nên làm vì từ ngày kháng chiến, Liên Khu 3 chưa có Phòng Tranh nào. Chúng tôi [Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Lương Xuân Nhị vv...] giao việc liên lạc với chính quyền cho Văn Cao lo, còn tranh, có bức nào bày bức đó. (...) Văn Cao bày hai tác phẩm: Cây đàn đỏĐường cấm. Tôi có hai bức: Lìa phốChiến tranh. Cả bốn bức là sơn dầu, còn toàn là tốc họa, bút chì vẽ trên giấy. Tuy vậy, phòng Triển Lãm cũng nhiều người xem lắm, nhiều buổi phải chen lấn nhau, làm chúng tôi lên tinh thần, tuy sự trưng bày này hoàn toàn có tính cách biểu dương, chứ không bán. Có bán cũng chẳng ai mua. Sau khi phòng triển lãm bế mạc, Văn Cao gửi tôi giữ dùm hai tác phẩm nói trên vì lý do không ở đây lâu, nhưng sau khi tôi đã "dinh tê", đến năm 1951, quân Pháp đánh vào quê tôi, lấy đi tất cả!" (sđd, trang 99)
Chỉ biết là bức tranh Cây đàn đỏ của Văn Cao bị phê bình, nhưng nội dung phê bình ra sao, không rõ. Nhờ những điều Tạ Tỵ viết về cuộc phê bình tranh Mưa Núi của ông, chúng ta có thể hiểu bối cảnh phê bình tranh Văn Cao. Tạ Tỵ viết:
"Sau những công tác có tính cách tạm thời, tôi lại vẽ, làm thơ để giết ngày dài. Tôi vẽ thêm được bức tranh Mưa Núi, vẫn theo kỹ thuật lập thể. Một buổi chiều, tôi nhận được giấy mời đi tham dự buổi họp của Chi Bộ Văn Nghệ Liên Khu (...) Đúng ngày, tôi mang tranh đến một ngôi làng sát chân núi, bên kia sông Đặng. Đến nơi đã có nhiều anh em, tuy vậy, tôi quen rất ít, chỉ có [Bùi Xuân] Phái, Huyền Kiêu và Lương Xuân Nhị, là bạn. (...)
Sau vài giờ thảo luận sinh hoạt về chiều hướng sáng tác phục vụ kháng chiến, anh Trưởng ban Tổ chức (tôi không nhớ tên) đặt tác phẩm Mưa Núi của tôi trên chiếc giá bằng tre, xong mời anh em phát biểu ý kiến về tác phẩm đó. Mỗi người nói một cách, tôi phải trực tiếp giải thích, bào chữa cho tác phẩm mình có "nội dung cách mạng". Chắc đã được sắp đặt trước, anh Trưởng ban Tổ chức cho mời một số ông bà già, con nít chăn trâu đến trước bức tranh, hỏi mỗi người về cảm tưởng của họ. Thật khốn đốn cho tôi khi phải chống đỡ với những lời phát biểu vô cùng thật thà vì không hiểu gì về hội hoạ của những người dân quê mùa chất phác và các em bé chăn trâu, cắt cỏ. Trước cảnh huống đó, tôi muốn phát điên lên, nhưng cố nén giận, giữ vẻ mặt bình tĩnh tới phút chót.
Sau cuộc phê bình khốn khổ, tôi dự đoán được tổ chức Chi Bộ Văn Nghệ muốn đối xử với tôi ra sao rồi! Phái và Huyền Kiêu thông cảm, nhưng đứng về phía thiểu số, cũng chẳng đỡ đòn gì được, đành làm ngơ. Cuộc họp chỉ có một ngày. Đáng lẽ sau khi họp xong, tôi phải ở lại vui chơi với anh em, nhưng tối hôm đó, tôi về ngay, nại cớ ngày mai phải đi gặp Trưởng Cơ Quan Bình Dân Học Vụ nhận công tác. Cũng kể từ đó, trong tôi đã dứt khoát, nếu có dịp thuận lợi là "dinh tê", chứ ở lâu không xong!"
(sđd, trang 102).
Đó là những lý do khiến những hoạ sĩ như Tạ Tỵ, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng... bỏ kháng chiến về thành.
Sự "dinh tê" được Vũ Bằng cảm nhận như sau: "Thế rồi tôi rinh tê. Tôi rinh, nhưng không có một chút mặc cảm, là vì tôi quan niệm rằng Hà Nội là đất nước mình, mình có quyền ở đó, còn vấn đề hèn hay không, đó là tùy ở nhân cách của từng người" (Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, trang 167)


Ảnh do tác giả cung cấp
Nhân Văn Giai phẩm
Thơ Văn Cao

Sau khi hoà bình lập lại, Văn Cao không sáng tác ca khúc nữa. Đang khi trở lại với hội họa thì Hoàng Cầm đến mời ông viết bài cho Giai Phẩm Mùa Xuân.
Văn Cao nhận lời, ông làm thơ, vì chỉ có thơ mới nói được những bi đát chìm sâu trong nội cảnh của tâm hồn. Với sự "đốc thúc" của Hoàng Cầm, Văn Cao dành cả mùa xuân để sáng tác trường ca Những người trên cửa biển.
Lần này trở lại, Văn Cao, người anh cả, đứng lên chỉ mặt bọn người đã làm cho nghệ sĩ phải điêu đứng trong sáng tác. Tác giả quốc ca hỏi tội:
"Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả"

"Chúng nó" đây là những khuôn mặt đã tạo dựng nên cái xã hội có nửa mặt:
"Một nửa thế giới
Một nửa tâm hồn
Một nửa thế kỷ
Chưa khai thác xong".

"Chúng nó" đây là những con người:
"...những con người khôn ngoan
Không có mồm
Mắt không bao giờ nhìn thẳng"

"Chúng nó" đây là những vi khuẩn đã len lỏi vào sự sống của con người:
"Chúng nó còn ở lại
Trong những tủ sách gia đình
Ỏ điếu thuốc trên môi những em bé mười lăm
Từng bước chân các cô gái
Từng con đường từng bãi cỏ từng bóng tối
Mằt quầng thâm còn nhỡ mãi đêm"

Và một lần nữa tác giả Tiến quân ca kêu gọi mọi người đứng lên bảo vệ Tự do như đã từng bảo vệ Tổ quốc:
"Vào một cuộc đấu tranh mới
Để mở tung các cánh cửa sổ
Mở tung các cửa bể
Và tung ra hàng loạt hàng loạt
Những con người thật của chúng ta." (Anh có nghe thấy không, Giai phẩm mùa xuân)

Những lời kêu gọi thiết tha trên đây của Văn Cao làm rung động tất cả những tâm hồn yêu tự do, yêu nghệ thuật và yêu đất nước.
Chỉ riêng những kẻ cảm thấy mình bị gọi là "chúng nó" mới động lòng. Xuân Diệu thốt lên những lời tàn nhẫn:
"Những tư tưởng Nhân văn-Giai phẩm luồn lách như chạch; không phải lúc nào nó cũng lộ liễu như trộn trấu, cát vào gạo cơm ta ăn, khiến ta biết ngay; mà có khi nó giấu tay rỏ thuốc độc vào những chai thuốc dán nhãn hiệu là “bổ”. Văn Cao vào hạng có bàn tay bọc nhung như thế. Sự giả dối đã thành bản chất của Văn Cao, nên những cái lạc hậu, thoái hoá của Văn Cao cứ nghiễm nhiên mặc áo chân lý và tiến bộ. (...)
Vào đời giữa thời phát-xít Nhật đổ bộ vào Đông Dương, lúc lớn lên nhạy cảm nhất lại là lúc chủ nghĩa đế quốc Pháp Nhật toát ra cái chất cuối mùa đồi trụy nhất, phản động nhất, Văn Cao đã ngộ độc rất nặng. (...)
Trong bài hát Trương Chi, Văn Cao gán cho người đánh cá cái khinh bạc tột độ của mình, không coi nhân quần ra cái gì hết, chỉ có một mình mình trên trái đất; hơi lạnh của chủ nghĩa cá nhân tuyệt đối toát ra như một âm khí nặng nề:
Ngồi đây ta gõ mạn thuyền
Ta ca trái đất còn riêng ta! (...)
Những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, những ý nghĩ phiêu lưu, tìm thi vị xa vời, mới lạ trong cách mạng, là một chặng đường tất yếu của tư tưởng nhiều người; mơ ước “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam” lúc đó cũng là một trạng thái của lòng yêu nước.
Nhưng ta phải giật mình khi nhớ lại những lời hát:
Ta là đàn chim bay trên mây xanh
Mắt nhìn trong khói những kinh thành tan…
… Ta là tinh cầu bay trong đêm trăng
Ta không trách trình độ chính trị của ta và của tác giả khi đó còn thấp. Chúng ta giật mình vì cái lối bay để mà bay, tự say lấy mình đó là tiền thân của cái lối “Hãy đi mãi” của Trần Dần; chúng ta giật mình hơn nữa là cái máu anh hùng chủ nghĩa làm cho Văn Cao sảng khoái nhìn thấy “những kinh thành tan” dưới bom đạn mà không chút xót thương, và “chiến công ngang trời” kia lại là của “không quân Việt Nam”, mà không nói là chiến tranh tự vệ!
Mấy bài thơ năm 1946, 1948 của Văn Cao, có dụng ý tốt, nhưng cũng bộc lộ cái tính chất nghệ thuật của Văn Cao, thích khúc mắc, khó hiểu, thích loè lên lấp lánh, pha với sự lập dị, chộ người, toát ra một màu vị tan rã, như bài "Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc", hay như bài "Ngoại ô mùa đông 46" (Văn nghệ số 2, tháng 4-5/1948):
Ta đi trong nhà đổ
Nghe thời gian đã nhạt khúc ân tình
Tuy phòng the chiếc áo trẻ sơ sinh
Còn xiêm hài dành hương phấn cũ…
...
Chữ Phạn, La-tinh nhường máu tô diệt Pháp
Gió lạnh khi qua viện tàng thư
Cháy cong queo, bìa giữ chút di từ
Kierkegaard, Heiddeger và Nietzsche… (...)
Giả dối như một con mèo, kín nhẹn như một bàn tay âm mưu trong truyện trinh thám, bài thơ Anh có nghe thấy không? lập lờ, ấp úng, bí hiểm, hai mặt, tuy nhiên công chúng cũng hiểu nó muốn nói gì. Văn Cao gọi ai là “chúng nó”? Đối lập với ai là “chúng ta”?
Bao giờ nghe được bản tình ca
Bao giờ bình yên xem một tranh tĩnh vật
Bao giờ
Bao giờ chúng nó đi tất cả (...)
Trên đất nước ta, “chúng nó” là Mỹ-Diệm ở miền Nam, là tay chân Mỹ-Diệm ở miền Bắc, là bọn phá hoại Nhân văn-Giai phẩm; chúng nó là thế đấy (...)
Những con người của chúng ta, từ Cách mạng tháng Tám đến nay, xuất hiện, trưởng thành dần dần và mãnh liệt, để đi tới “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, dù chúng ta có còn khuyết điểm, nhược điểm gì, cả Trái đất cũng biết chúng ta vĩ đại!"
(Xuân Diệu, Dao có mài mới sắc Nxb Văn học, Hà Nội 1963, tr. 101-114. Bản điện tử do Lại Nguyên Ân cung cấp, tài liệu Talawas)
Bài Xuân Diệu chứng chứng minh những điều Văn Cao viết về "chúng nó" là đúng. Xuân Diệu còn gián tiếp cho biết: Đảng chưa bao giờ hiểu nghệ thuật của Văn Cao. Tất cả những sáng tác tuyệt vời của Văn Cao đều bị Đảng coi là "thuốc độc".
Tóm lại, Đảng chỉ lợi dụng bài Tiến quân ca. Nhưng Văn Cao không thuộc về Đảng. Văn Cao là nghệ sĩ của dân tộc.
Nếu nhạc của Văn Cao đưa con người vào cõi mộng, thì thơ Văn Cao xoáy vào thực tại cuộc đời: phần đời thực với Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa đông 1946, Những người trên cửa Biển và phần nội tâm sâu xé của con người mất tự do, trong các bài thơ ngắn, cô đọng và đau thương, như những giọt nước mắt không rơi ngoài tim mình như lời thơ Thanh Tâm Tuyền. Là nhạc sĩ kỳ tài, Văn Cao còn là nghệ sĩ tiên phong trong hội họa và thi ca. Ngày nay chúng ta không còn nhiều họa phẩm của Văn Cao nhưng theo Tạ Tỵ, Văn Cao đã tự trình bày bìa những bản nhạc của mình bằng những bức tranh avant garde. Nếu tìm lại được những ấn bản đó, ta có thể có ý niệm về hội họa tiên phong của Văn Cao.
Riêng về thơ, Văn Cao âm thầm tiếp tục con đường tân tạo. Mỗi chặng sống, ông viết những tác phẩm giá trị.
Cúi xuống những lầm than của kiếp người, Văn Cao là người duy nhất để lại những hình ảnh kinh hoàng của trận đói tháng ba năm Ất Dậu. Nếu không có Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, thì chúng ta không thể hình dung cảnh xe xác lăn trong xóm cô đầu của một Hà Nội bán linh hồn:
"Ngã tư nghiêng nghiêng đốm lửa
Chập chờn ảo hoá tà ma...
Đôi dẫy hồng lâu mở cửa phấn sa
Rũ rượi tóc những hình hài địa ngục
Lạnh ngắt tiếng ca nhi phách giục
Tình tang... Não nuột khóc tàn sương
Áo thế hoa rũ rượi lượn đêm trường
Từng mỹ thể rạc rời đèn phù thế
Ta đi giữa đường dương thế
Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây...
Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy
Xác trụy lạc rũ bên thềm lá phủ
(...)
Ta về gác chiếu chăn gào tự tử
Trên đường tối đêm khoả thân khiêu vũ
Kèn nhịp xa điệu múa vô luân
Run rẩy giao duyên khối nhạc trầm trầm
Hun hút gió nâng cầm ca nặng nhọc
Kiếp người tang tóc
Loạn lạc đòi nơi xương chất lên xương
Một nửa kêu than, ma đói sa trường
Còn một nửa lang thang tìm khoái lạc!"
Bài Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc song hành với Tiến quân ca, là những tiếng bi thương và hùng tráng, báo hiệu cho sự đồng lòng nhất trí của dân tộc đứng lên trong ngày toàn quốc kháng chiến.
Ngoại ô mùa đông 1946 viết về ngày toàn quốc kháng chiến, với một bút pháp độc đáo, kinh hoàng, gây hoang loạn:
"Phố chết rồi vài mảnh rêu ngơ ngác
The thé thất thanh giọng kêu tàn ác
Quạ dăm con, chập choạng cánh dơi xa
Lơ láo tường vôi, than bụi dui nhà
Với dáng cỏ khô dấu chìm xe ngựa

Xưa lê la đàn ròi bọ
Đục trong máu mủ ung thư
Của một phường Hà Nội cổ
Vàng son che đậy hương thừa
Bao người bệnh tật thời xưa
Từng sống rạc rài viễn phố
Bao người ấy bây giờ
Súng gươm giữ từng đường phố
... Lời gọi cha già
Ôi đoàn thể
Bấy nhiêu người đói khổ đã vươn cao
Cửa ô cần lao
Cửa ô trụy lạc
Cửa ô trầm mặc
... Mấy bức tường hồng rơi xuống cùng trâm
Một dẫy phố nghiêng cả thành Hà Nội
Dòng ngõ chợ xưa máu dâng ngập lối
Mấy xác quân thù bên cống tanh hôi
Sọ nứt toang óc chảy lẫn với ròi
... Xóm âm u
thành khối đen đặc quánh
Ơi ai ngâm mình hố lạnh
Gió mùa rú ghê người
Trăng đông dầm khe rãnh
Lưỡi lê đậu sương rơi..." (Ngoại ô mùa đông 1946)
Kháng chiến không chỉ là hào hùng, là hoa treo đầu súng.
Kháng chiến còn là chiến tranh, chết chóc, tàn phá, kinh hoàng... Ngoại ô mùa đông 46 là bài thơ khốc liệt nhất viết về toàn quốc kháng chiến. Trong những năm đầu, người nghệ sĩ còn được tự do sáng tác, mới có thể có Chiếc xe xác qua phường Dạ LạcNgoại ô mùa đông 1946, in trên báo Tiền Phong.
Trường ca Những người trên cửa biển, là bài ca lịch sử của Hải Phòng, gắn liền với lịch sử Văn Cao, từ lúc sinh trong đói khổ dưới thời Pháp thuộc, đến cuộc kháng chiến đẫm máu mà Văn Cao đã phụng sự hết mình. Văn Cao chờ đợi một mùa xuân khi hoà bình lập lại. Nhưng ngày dứt chiến tranh cũng là ngày chia đôi đất nước, ngày những con bạch tuộc hiện hình:
Vợ xa chồng
Anh xa em
Chiều Nam chiều Bắc cùng sầu
Tiếng thức dậy niềm cô đơn nuối tiếc
...
Gió bão tới đâu cũng không một lúc
Rụng hết lá vàng
Ngày báo hiệu mùa xuân mầm nở mầm tàn
Có người tự nhiên tiếc bàn tay đã mất
Từng đêm đau nhức vết đạn trên mình
...
Trong những ngày khó khăn chồng chất
Kẻ thù của chúng ta xuất hiện
Những con rồng đất khi đỏ khi xanh
Lẫn trong hàng ngũ
Những con bói cá
Đậu trên những dây buồm
Đang đo mực nướng
Những con bạch tuộc
Bao tay chân cố dìm một con người
...
Tôi sẽ vạch từng tên từng mặt (Những ngày báo hiệu mùa xuân, trong trường ca Những người trên cửa biển, Giai phẩm mùa thu tập II
, tháng 10/56).
Văn Cao trở lại vị trí chiến sĩ trừ gian. Lần này cuộc cách mạng sẽ xẩy ra trên mặt trận tư tưởng, bằng ngòi bút. Và những kẻ sợ Văn Cao vạch mặt, chỉ tên đã hoảng loạn tinh thần, viết nên những điều cuồng dại.
Sau Nhân Văn, Văn Cao vẫn làm thơ. Lần này thơ ông đi sâu vào nội tâm con người. Một con người:
Có lúc
một mình một dao giữa rừng đêm không sợ hổ
có lúc
ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt
có lúc
nước mắt không thể chảy ra ngoài được"
(Có lúc)
Con người bị cầm tù tư tưởng âm thầm nhìn cái chết chậm, như bức tường vô tri, nhích dần, nhích dần trên thân xác mình:
Cái bức tường lê từng bước một
Đến gần chân chúng tôi hàng ngày
Chúng tôi nhìn chậm chạp
Châm chạp một cái chết
Thời gian đang héo thời gian đang rụng
(Với Nguyễn Huy Tưởng)
Bài thơ khóc Nguyễn Huy Tưởng, nhưng là điếu tang những người bị mất tự do. Bài thơ bị cấm trong ba mươi năm.
Kiên trì, Văn Cao vẫn tiếp tục vẽ bằng thơ. Lần này ông phác họa chân dung một kẻ xưa kia là bạn:
Tôi đã gặp lại anh
Im lìm như một bức ảnh
Người anh dẹt như một con dao
Gây nhiều vết thương cho bạn hữu
Anh mang trong tôi nhiều bộ mặt
Đâu là cái cuối cùng
Chỉ còn hai con mắt
Trắng dã không thể lừa dối
(Về một người)
Bài Ba biến khúc tuổi 65, tổng kết cuộc đời Văn Cao trong một tình thế chính trị không lối thoát. Biến khúc I viết về thời kháng chiến trừ gian:
Một người cho tôi con dao găm
Không biết dùng làm gì
đêm nhìn qua cửa sổ
một khoảng trống đen
tôi ném vào khoảng trống ...
bỗng nhiên có tiếng ngã ngoài sân
một người trúng tim đã chết
tôi không hề biết người ấy
tôi là kẻ không muốn giết người
chỉ biết bóng tối
mà tôi đã ném dao.

Những lời tự họa đớn đau của Văn Cao đã gặp những lời tự phán kinh hoàng của Nhất Linh trong Giòng sông Thanh Thủy: Khi anh đã lọt vào guồng máy, anh sẽ phải giết người, anh sẽ có bàn tay bẩn (JP Sartre).
Biến khúc II viết về bi kịch của người Nhân Văn:
Tôi đi trên phố
bỗng nhiên mọi người nhìn tôi
một ai đó kêu lên: thằng ăn cắp
tôi chạy
tôi chạy
tại sao tôi chạy?
tôi không hiểu tôi
cả phố đuổi theo tôi
xe cộ đuổi theo tôi
tôi chạy bạt mạng
gần hết đời
tới chỗ chỉ còn gục xuống
tỉnh dậy mồ hôi chảy
tôi lại thấy tôi là người chưa phạm tội

Chạy hết trọn đời, nhưng người Nhân Văn không tìm ra lối thoát.
Biến khúc III, viết về mạng lưới công an trị:
Tôi rơi vào mạng nhện
mạng nhện cuốn lấy tôi
không còn cách gì gỡ được...
muốn phá cái mạng nhện
tôi không đủ tay (Ba biến khúc tuổi 65)

Sau Nhân Văn, người ta vẫn không dám đối xử với tác giả Tiến quân ca như những thành viên khác của NVGP. Họ đành đưa Văn Cao vào bóng tối. Không nhắc tới. Không cho in. Không cho hát. Không cho vẽ. Trong ba mươi năm. Nhưng Văn Cao vẫn hiện diện. Hiện diện bằng sự vắng mặt:
Người dân miền Nam vẫn nghe những tuyệt tác của Văn Cao qua tiếng hát những ca sĩ thượng thặng Thái Thanh, Hà Thanh, Khánh Ly... Và người dân miền Bắc mỗi lần chào cờ là một lần hội ngộ với Văn Cao.
Sau này, khi đất nước ra khỏi chế độ toàn trị, lá cờ đỏ sao vàng gắn liền với với Đảng Cộng sản sẽ không còn lý do tồn tại. Nhưng Tiến quân ca là xương thịt của một nghệ sĩ thiên tài, suốt đời đóng góp cho nghệ thuật chân chính và tranh đấu cho tự do của đất nước, sẽ mãi mãi còn lại. Bởi khó có tác phẩm nào thay thế được Tiến quân ca trong lòng dân tộc Việt Nam.
Hết phần thứ XIII

Phụ bản

Văn Cao đã bị kiểm duyệt như thế nào ?
Những chữ in đậm là phần bị sửa đổi, lược bỏ hay thêm vào.
Hồi Ký của Văn Cao:
Bài Tiến quân ca
Bài đã bị cắt:
Tại sao tôi viết Tiến quân ca
Sau Triển lãm Duy nhất 1944 (Salon unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi tuy được bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh -nhà Khai Trí Tiến Đức- và được các báo giới thiệu cũng không bán nổi. Hy vọng về cuộc sống bằng hội họa tại Hà Nội không thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy là người đã xuất bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi cũng không nói đến tiền nhuận bút. Tôi chưa bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó dù đã trình diễn nhiều lần ở các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và truyện ngắn. Đối với những cây bút trẻ, việc đăng báolà một vinh dự, người ta phải mua báo và còn phải mua thêm nhiều tờ để tặng người yêu, tặng bạn thân. Hàng ngày tôi nhờ mấy người bạn họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ phương tiện cho làm việc. Cuộc sống lang thang ấy không thể kéo dài nhiều ngày. Muốn tìm việc làm thì không có chỗ. Hà Nội lúc ấy lại đang đói. Những người bạn nuôi tôi cũng gặp nhiều khó khăn.
Căn gác 45 ấy bắt đầu đông người thêm. Mấy người bạn tôi cũng bỏ Hải Phòng để lên đây kiếm việc. Họ đều là những bạn hướng đạo, trước đây chưa hề phải lo đến chuyện làm ăn. Những năm trước, chúng tôi thường kéo tới nhà nhau để sống hàng tháng trời bắt gia đình phải nuôi hay thỉnh thoảng mang lều đi ra ngoài thành phố, về những nơi có núi đồi để cắm trại và ca hát. Đầu tiên chỉ có hai người tới ở chỗ tôi, sau đấy lại thêm ba người nữa và có người chỉ mới biết tôi qua bạn bè cũ. Căn gác 45 ấy biến thành một cái quán trọ của những người thất nghiệp. Hàng ngày mỗi người đi tìm bạn bè trên phố để kiếm ăn. Đêm đêm họ phải nằm trên cái sàn nhà lát gỗ. Bởi vì tôi chỉ có một cái giường nhỏ. Chủ nhà đã cắt điện vì tôi không có tiền trả hàng tháng. Tôi phải làm việc với một ngọn đèn dầu. Đã hết những câu chuyện tâm tình, những ước mơ và khát vọng của tuổi thanh niên. Mỗi đêm, chúng tôi chỉ nhìn thấy nhau với những bộ mặt chán chường thất vọng. Đôi lúc có những bộ mặt thấy vui hơn. Đấy là dấu hiệu thắng lợi của những người gặp may trong ngày đã kiếm được một bữa ăn ngon, hay một số tiền nhỏ do bạn bè bố thí. Chúng tôi ở với nhau không ai nghĩ đến sự giúp đỡ nhau. Mạnh ai tìm lấy việc, tìm lấy cơm ăn hàng ngày. Không chí hướng. Không mục đích.
Buổi sáng mỗi lần ra đi, tôi thấy họ vẫn nằm ôm nhau trên sàn gác, dù nắng đã chiếu vào giữa nhà. Thấy tiếng kẹt cửa họ cũng không buồn cựa quậy. Có lúc trở về vào hai ba giờ chiều tôi vẫn thấy họ nằm như buổi sáng. Anh em thường gọi đấy là những ngày phải "gồng". Tiếng "gồng" có nghĩa là chịu đói. Tiếng "gồng" theo nghĩa võ là chịu đòn. Nhóm thất nghiệp còn đặt thêm nhiều từ để chỉ sự đói: ép gồng, ép rệp. Những cảnh "gồng" thường diễn ra ở căn gác xép ấy.
Người "giải gồng" -có nghĩa là giải được sự đói- giỏi nhất là tôi. Mỗi buổi sáng ra đi tôi thường không biết là sẽ đi đến đâu và sẽ làm gì, và chỉ cầu vào sự may mắn: may gặp bữa ăn ở nhà một người bạn, may gặp một người bạn mời ăn ở dọc đường. Nhờ những năm học vẽ tại Hà Nội, tôi có một số bạn nên gặp được nhiều may mắn. Nghe tiếng chân của tôi lao trên mấy bậc thang gạch, mấy anh bạn trở mình nói với nhau: "Nó hôm nay lại thấy về sớm?" Tôi nhìn các bạn nằm trên sàn gác nhịn đói không biết nói gì thêm. Cái đói đã trói chúng tôi lại một nơi này.
Có một lần tôi khệ nệ xách lên gác một con cá mè dài gần một sải tay. Cả bọn vùng dậy. Mặt anh nào cũng sáng hẳn lên:
- Ở đâu ra cái của này?
- Bà mẹ Nguyễn Đình Phúc cho đấy.
Tôi chỉ kịp ngồi thở, vì đã phải đi bộ xách cá từ Hàng Than về. Bà mẹ nhạc sĩ ấy nay đã mất rồi, nhưng chúng tôi không thể quên ngày chúng tôi nhờ mẹ mà có một bữa đỏ lửa trên sân gác, một bữa "tiệc" với món cá luộc chấm muối chưa bao giờ ngon lành và no nê đến thế. Hình như chỉ có một buổi tối hôm ấy thôi có người trong chúng tôi mới kể đến những chuyện về tình yêu.
Thế rồi bỗng nhiên họ rẽ nhau đi hết trong một ngày. Và căn gác bỗng lạnh vắng. Bọn họ đã tìm được công việc trong một dịp may. Một người chủ thầu chợ Hà Đông nhận tất cả làm nhân viên dán vé. Riêng tôi không thể làm nghề ấy được. Tôi ở lại một mình trên căn gác vắng vào những ngày đầu thu năm 1944.
Sau Triển lãm Duy nhất 1944 (Salon unique), tôi về ở một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền. Ba bức tranh sơn dầu của tôi tuy được bày vào chỗ tốt nhất của phòng tranh -nhà Khai Trí Tiến Đức- và được các báo khen ngợi nhưng cũng không bán nổi. Hy vọng về cuộc sống hội họa, tại Hà Nội không thể thực hiện được. Anh bạn nhường cho tôi căn gác ấy, là người đã xuất bản mấy bản nhạc đầu tiên của tôi, cũng không thấy nói đến tiền nhuận bút. Tôi chưa bao giờ nhận được tiền nhuận bút về các bản nhạc viết hồi đó dù đã trình diễn nhiều lần ở các tỉnh từ Bắc tới Nam, tôi cũng không nhận được tiền nhuận bút về thơ và truyện ngắn. Đối với cây bút trẻ, việc đăng báo là một vinh dự. Người ta phải đi mua báo và còn mua thêm nhiều tờ để tặng người yêu, tặng bạn thân. Hàng ngày tôi nhờ mấy người bạn họa sĩ nuôi cơm và giúp đỡ phương tiện cho làm việc. Cuộc sống lang thang đó không thể kéo dài nhiều ngày. Muốn tìm việc làm thì không có chỗ. Hà Nội lúc ấy lại đang đói.
Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc mất đứa cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể nó đã nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét sớm hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn đêm mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.
Căn gác được thêm một người ở. Anh Ph.D. là bạn thân của tôi từ Hải Phòng lên. Anh mới nhận nhiệm vụ làm giao thông của tổ chức giữa hai tỉnh Hà Nội và Hải Phòng. Từ lâu, tôi vẫn biết Ph. D là người của đoàn thể, và thường chú ý giúp đỡ tôi. Tôi nghĩ làm cách mạng là phải bỏ văn nghệ, con đường của người làm cách mạng là phải thoát ly phải hy sinh như gương chiến đấu của các đồng chí mà tôi đã được biết qua sách báo. Nhưng tôi vẫn có thể làm khác vói việc thoát ly -tôi chỉ hiểu tổ chức đến thế- có thể là bằng sáng tác, bằng những hành động mà tôi dễ làm nhất như nhận dạy hát cho một đoàn thanh niên về những bài ca yêu nước, hay tham gia những buổi biểu diễn giúp đỡ người nghèo v.v... Tôi chỉ biết sáng tác một số ca khúc về đề tài lịch sử, kêu gọi xa xôi lòng yêu nước. Tôi chưa dám làm một bài ca cách mạng. Và cũng chỉ có thế thôi, thanh niên học sinh và anh em hướng đạo đã khuyến khích tôi. Sự khuyến khích ấy đẩy tôi vào nghề nhạc sau này. Lần này, Ph. D. lên ở với tôi vào giữa lúc tôi đã muốn bỏ tất cả hội họa, thơ ca, âm nhạc, bỏ tất cả giấc mơ sáng tạo thường đêm đêm đan mãi đan mãi cái vành mũ triền miên trên đầu như một vòng ánh sáng thần thánh.
Một hôm, Ph. D. nói với tôi:
- Văn có nhớ anh Vũ Quý không? Anh ấy vẫn ở Hà Nội? Văn có muốn gặp anh ấy không?
Tôi biết đồng chí Vũ Quý trong những ngày còn là vận động viên bơi lội ở Hải Phòng. Chúng tôi thường tập luyện hàng ngày trên sông Cấm. Từ khi biết anh bị mật thám Pháp bắt hụt, tôi hết sức khâm phục. Thế ra người cộng sản ấy vẫn hoạt động tại Hà Nội. Anh ấy vẫn nhớ đến tôi.
Tin từ Hải Phòng lên cho biết mẹ tôi, các em và các cháu tôi đang đói khổ. Bà đưa các đứa nhỏ ấy từ Nam Định ra Hải Phòng, dọc đường để lạc mất đứa cháu con anh cả tôi. Nó mới lên ba. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Có thể nó nằm ở dọc đường trong đám người chết đói năm ấy. Các anh tôi cũng đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Năm ấy rét hơn mọi năm. Tôi ngủ với cả quần áo. Có đêm tôi phải đốt dần bản thảo và ký họa để sưởi. Đêm năm ấy cũng dài hơn mọi năm. Những ngày đói của tôi bắt đầu.
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng, và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một hiệu ăn, ở đấy quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện của chúng tôi thật hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và chờ quyết định công tác. Ngày đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.
Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác:
- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, nên phải dùng những điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta.
Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen cố tìm một cái gì để nói, tìm một âm thanh đầu tiên. Nhưng đường phố quen thuộc ấy thường không vang một âm thanh gì hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Hôm nay phố đông người hơn và lòng tôi thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo hiểm hy sinh chứ không chuẩn bị để lại quay về làm bài hát. Thật khó nghĩ tới nghệ thuật lúc này. Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé gái nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc. Không phải cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt  và quay đi. Đêm ấy về gác tôi viết được nét nhạc đầu bài Tiến Quân Ca.

Những ngày ấy, Ph.D. sống chung với tôi. Thỉnh thoảng anh về Hải Phòng và mang tiền bán tín phiếu do các cơ sở gửi lên. Quần chúng ủng hộ Việt Minh ngày càng nhiều. Các báo chí gửi về các cơ sở như "Cờ Giải Phóng" và "Cứu Quốc"cũng tăng thêm số lượng. Tất cả đã chất đầy mặt bàn tôi. Những tin đấu tranh ở các tỉnh được phản ảnh đầy đủ trên báo chí. Tin chiến khu được mở rộng. Tin về các đội du kích thành lập. Rồi những tặng phẩm gửi tôi có thêm cả máy ảnh, ống viễn kính, cả những bì gạo. Mỗi vật tiếp nhận càng cho thấy sự phát triển lớn mạnh thêm của phong trào quần chúng đô thị và nông thôn. Những cột báo không đăng hết được danh sách những người ủng hộ Mặt trận.
Tôi thường nhìn Ph. D. mỗi lần anh đóng gói đi xa và lắng nghe tiếng còi tàu ngoài ga Hàng Cỏ để chờ một chuyến tàu đêm. Dưới ngọn đèn dầu, bộ mặt ngăm ngăm đen của anh chỉ thấy ánh lên đôi mắt sâu và trầm lặng. Anh rất tôn trọng những phút tôi ngồi vào bàn với tập bản thảo và chờ đợi âm thanh của từng câu nhạc được nhắc đi nhắc lại. Anh là người chứng kiến sự ra đời của bài Tiến Quân Ca.
Ngày nay tôi vẫn không sao nhớ nổi, dù nhớ đủ mọi kỷ niệm, rằng mình đã soạn nhạc bằng phương tiện nào, một cây đàn ghi-ta, một măng-đô-lin hay một băng-giô. Cũng không nhớ tôi đã mượn đàn của ai và ở đâu. Có thể bài "Tiến quân ca" đã soạn trên một chiếc ghi-ta Ha-oai chăng? Bởi vì tôi đã quen sáng tác trên cây đàn này những năm trước đây.

 
Tôi đã gặp lại đồng chí Vũ Quý. Anh là người vẫn theo dõi những hoạt động nghệ thuật của tôi từ mấy năm qua, và thường khuyến khích tôi sáng tác những bài hát yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca, Tiếng rừng, và một số ca khúc khác. Chúng tôi gặp nhau trước ga Hàng Cỏ. Chúng tôi vào một hiệu ăn. Ở đây quyết định một cuộc đời mới của tôi. Câu chuyện giữa chúng tôi thật hết sức đơn giản.
- Văn có thể thoát ly hoạt động được chưa?
- Được.
- Ngày mai Văn bắt đầu nhận công tác và nhận phụ cấp hàng tháng.
Ngày hôm sau anh đưa tôi lại nhà một đồng chí thợ giày ở đầu ngõ chợ Khâm Thiên để ăn cơm tháng và cho quyết định công tác. Đây là lần đầu tiên chấm dứt cuộc sống lang thang của tôi.
Vũ Quý đến tìm tôi và giao công tác:
- Hiện nay trên chiến khu thiếu bài hát, phải dùng những điệu hướng đạo. Khoá quân chính kháng Nhật sắp mở, anh hãy soạn một bài hát cho quân đội cách mạng chúng ta.
Phải làm như thế nào đây? Chiều hôm ấy tôi đi dọc theo đường phố ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen, tôi cố tìm một cái gì để nói. Tìm một âm thanh đầu tiên. Những đường phố quen thuộc ấy thường không vang một âm thanh gì hơn những tiếng nghe buồn bã hàng ngày. Hôm nay phố đông người hơn và lòng tôi thấy vui hơn. Tôi đang chờ nhận một khẩu súng và được tham gia vào đội vũ trang. Tôi đang chuẩn bị một hành động gì có thể là mạo hiểm hy sinh chứ không chuẩn bị để lại quay về làm bài hát. Thật khó nghĩ tới nghệ thuật lúc này. Tôi đi mãi tới lúc đèn các phố bật sáng. Bên một gốc cây, bóng mấy người đói khổ trần truồng, loang trên mặt hồ lạnh. Họ đang đun một thứ gì, trong một cái ống bơ sữa bò. Ngọn lửa tím sẫm bập bùng trong những hốc mắt. Có một đứa bé gái. Nó khoảng lên ba. Tôi ngờ ngợ như gặp lại cháu tôi. Đôi mắt nó giống như mắt con mèo con. Cháu bé không có mảnh vải che thân. Nó ngồi ở xa nhìn mấy người lớn sưởi lửa. Hình như nó không phải con cái số người đó. Hình như nó là đứa trẻ bị lạc cũng không phải là cháu tôi. Nó đã chết thật rồi. Có thể nó đã nằm trong đám người chết đói dọc đường Nam Định - Hải Phòng. Tôi bỗng trào nước mắt,  và quay đi. Đêm ấy về căn gác tôi đã viết được nét nhạc đầu tiên của bài Tiến quân ca.
Bài hát đã làm trong không biết bao nhiêu ngày tại căn gác hẹp số 45 phố Nguyễn Thượng Hiền bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà hai tầng, mấy lùm cây và một màu trời xám. Ở đấy thường vọng lên những tiếng xe bò chở xác người chết đói đi về phía Khâm Thiên. Ở đấy hàng đêm mất ngủ vì gió mùa luồn vào từng khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một anh viên chức nghèo khổ thiếu ăn dưới nhà vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đấy tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời. Ở đấy có những tiếng đập cửa, những tiếng gọi đêm không người đáp lại.
Tin từ Nam Định lên cho biết mẹ tôi và các em đã về quê và đang bị đói. Họ đang tìm mọi cách để sống qua ngày như mọi người đang chờ một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, của các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ nhiều hôm. Tất cả đang chờ tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào, tôi chỉ biết đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những con đường ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ theo thói quen tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta trong khóa quân chính đầu tiên ấy, để biết họ hát như thế nào. Ở đây tôi đang nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị cho họ có thể hát được
Đoàn quân Việt Minh đi
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa
Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh của núi rừng. Nhịp điệu ngân dài của bài hát mở đầu cho tiếng cồng vang vọng.
Đoàn quân Việt Minh đi
Sao vàng phấp phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than
Không, không phải chỉ có những học sinh khóa quân chính kháng Nhật đang hành quân, không phải chỉ có những đoàn chiến sĩ áo chàm đang dồn bước, mà cả một đất nước đang chuyển mình.
Tên bài hát và lời ca của nó là một sự tiếp tục từ Thăng Long hành khúc ca:
"Cùng tiến bước về phương Thăng Long thành cao đứng"
hay trong Đống Đa:
"Tiến quân hành khúc ca
Thét vang rừng núi xa..."
Lời trên đã rút ngắn thành tên bài Tiến quân ca và tiếng thét ấy ở đoạn cao trào của bài hát:
"Tiến lên! Cùng thét lên!"
"Chí trai là đây nơi ước nguyền"
Trên mặt bàn chỗ tôi lam việc, tờ "Cờ giải phóng" đăng những tin tức đầu tiên về những trận chiến thắng ở Võ Nhai.
Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều mây và nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm, đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận Việt Minh xem sao?
Tôi không kịp trả lời, chỉ nhìn thấy đôi mắt của Thi thật lạc quan và tin tưởng. Sau này Thi làm xong bài "Diệt phát xít" trước tôi. Bài "Chiến sĩ Việt Nam" của tôi và bài "Diệt phát xít" của Nguyễn Đình Thi ngày ấy không có dịp in trên tờ báo do chúng tôi cùng phụ trách.
Bài hát đã làm trong thời gian không biết bao nhiêu ngày, tại căn gác hẹp số 45 Nguyễn Thượng Hiền, bên một cái cửa sổ nhìn sang căn nhà hai tầng, mấy làn cây và một màn trời xám. Ở đây thường vọng lên những tiếng xe bò chở xác người chết đói về phía Khâm Thiên. Ở đây hàng đêm, mất ngủ vì gió mùa luồn vào tung khe cửa, vì tiếng đánh chửi nhau của một gia đình anh viên chức nghèo khổ, thiếu ăn, vọng qua những khe sàn gác hở. Ở đây tôi hiểu thêm nhiều chuyện đời. Ở đây đêm đêm có những tiếng gõ cửa, những tiếng gọi đêm không người đáp lại.
Tin từ Nam Định lên, cho biết mẹ tôi và các em đã về quê và đang đói. Họ đang phải tìm mọi cách để sống qua ngày, như mọi người đang chờ đợi một cái chết thật chậm, tự ăn mình như ngọn nến. Tiếng kêu cứu của mẹ tôi, các em, các cháu tôi vọng cả căn gác, cả giấc ngủ chiều hôm. Tất cả đang chờ đợi tôi tìm cách giúp đỡ. Tôi chưa được cầm một khẩu súng, chưa được gia nhập đội vũ trang nào. Tôi chỉ đang làm một bài hát. Tôi chưa được biết chiến khu, chỉ biết những con đường phố Ga, đường Hàng Bông, đường Bờ Hồ, theo thói quen tôi đi. Tôi chưa gặp các chiến sĩ cách mạng của chúng ta, trong khóa quân chính đầu tiên ấy, và biết họ hát như thế nào. Ở đây tôi đang nghĩ cách viết một bài hát thật giản dị, cho họ có thể hát được
Đoàn quân Việt Nam đi
chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…
Và ngọn cờ đỏ sao vàng bay giữa màu xanh của núi rừng. Nhịp điệu ngân dài của bài hát mở đầu cho tiếng cồng vang vọng.
Đoàn quân Việt Nam đi
Sao vàng phất phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than…
Không, không phải chỉ có những học sinh khóa quân chính kháng Nhật đang hành quân, không phải chỉ có những đoàn chiến sĩ áo chàm đang dồn bước. Mà cả một đất nước đang chuyển mình.
Tên bài hát và lời ca của nó là một sự tiếp tục từ Thăng Long hành khúc ca:
"Cùng tiến bước về phương Thăng Long thành cao đứng"
- Hay trong Đống Đa:
"Tiến quân hành khúc ca
Thét vang lừng núi xa..."
Lời trên đã rút ngắn thành tên bài Tiến quân ca và tiếng thét ấy ở đoạn cao trào của bài hát:
"Tiến lên! Cùng thét lên!"
"Trí trai là đây nơi ước nguyền"
Trên mặt bàn chỗ tôi lam việc, tờ "Cờ giải phóng" đăng những tin tức đầu tiên về những trận chiến thắng ở Võ Nhai.
Trước mắt tôi mảnh trời xám và lùm cây của Hà Nội không còn nữa. Tôi đang sống ở một khu rừng nào đó trên kia, trên Việt Bắc. Có nhiều may và nhiều hy vọng.
Và bài hát đã xong. Tôi nhớ lại nụ cười thật hài lòng của đồng chí Vũ Quý. Da mặt anh đen xạm. Đôi mắt và nụ cười của anh lấp lánh. Tôi nhớ lại nụ cười hồn nhiên của đồng chí Nguyễn Đình Thi, khi xướng âm lần đầu tiên nhạc điệu bài hát đó. Thi nói với tôi:
- Văn ạ, chúng mình thử mỗi người làm một bài về Mặt trận Việt Minh xem sao?
Tôi không kịp trả lời, chỉ nhìn thấy đôi mắt của Thi thật lạc quan và tin tưởng. Sau này Thi làm xong bài "Diệt phát xít" trước tôi. Bài "Chiến sĩ Việt Nam" của tôi và bài "Diệt phát xít" của Nguyễn Đình Thi ngày ấy không có dịp in trên tờ báo do chúng tôi cùng phụ trách.
Tháng 11-1944, tôi tự tay viết bài Tiến quân ca lên đá in, trong trang văn nghệ đầu tiên của tờ báo Độc Lập, còn giữ lại nét chữ viết của một anh thợ mới vào nghề.
Một tháng sau khi báo phát hành, tôi từ cơ quan ấn loát trở về Hà Nội. Qua một đường phố nhỏ (bây giờ là đường Mai Hắc Đế) tôi chợt nghe tiếng đàn măng-đô-lin, từ một căn gác vọng xuống. Có người đang tập Tiến quân ca. Tôi dừng lại và tự nhiên thấy xúc động. Một xúc động đến với tôi hơn tất cả những tác phẩm, tôi đã được ra mắt, ở các rạp hát trước đây. Tôi nhận ra được vài chỗ nhịp điệu còn chưa hoàn chỉnh. Nhưng bài hát đã in ra rồi. Bài hát đã được phổ biến. Có thể những người cùng khổ, mà tôi đã gặp trên bước đường cùng khổ của tôi, lúc này đang cầm súng và đang hát.


Ngày 17 tháng tám 1945, tôi đến dự cuộc mít-tinh của công chức Hà Nội. Lá cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài "Tiến quân ca" đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên vang theo những đoạn sôi nổi. Ở những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng đã thay những băng vàng của chính phủ Trần Trọng Kim. Trong một lúc, nhưng tờ bướm in "Tiến quân ca" được phát cho từng người trong hàng ngũ các công chức dự mít-tinh.
Tôi đã đứng  lẫn vào đám đông quần chúng trước cửa nhà Hát Lớn. Tôi đã nghe giọng hát quen thuộc của bạn tôi, anh Ph.D. qua loa phóng thanh. Anh là người đã buông lá cờ đỏ sao vàng  trên kia và xuống cướp loa phóng thanh hát. Con người trầm lặng ấy đã có sức hát hấp dẫn hàng vạn quần chúng ngày hôm đó, cũng là người hát trước quần chúng lần đầu tiên, và cũng là một lần duy nhất.
Ngày 18 tháng tám 1945, đội thiếu niên tiền phong đến tìm tôi nhận nhiệm vụ mới. Tôi không biết giao việc gì cho các em lúc này khi chúng tôi không phải nhờ các em làm nhiệm vụ trinh sát như trước đây các em đã giúp chúng tôi hết sức thông minh và dũng cảm. Chúng ta sẽ bắt tay vào nhiệm vụ mới của cách mạng. Các em sẽ quay về với công việc học tập hàng ngày của các em. Lúc này... lúc này chúng ta hãy tập hát. Một dàn đồng ca được thành lập ngay trong Trụ sở Hướng đạo tại phố Hàng Trống, nơi chúng tôi thường sinh hoạt với các em. Tôi đã hướng dẫn các em học bài Tiến quân ca để ngày hôm sau làm lễ chào cờ.
Lúc ra về, một em bé khệ nệ ôm một gói khá to và nặng đến gặp tôi. Đó là một em làm việc quét dọn ở nhà in Lê Văn Tân. Tôi ngạc nhiên nhìn em mở bọc giấy ra trước mắt các đội viên: một gói truyền đơn mà em đã từng đêm trốn lại buồng máy, tự xếp chữ và in lấy được vài trăm tờ theo một khẩu hiệu em đã được xem trên báo Cứu Quốc ngày gần khởi nghĩa. Tôi chợt nhìn đôi mắt đầy tự hào của em. Đôi mắt em đẹp quá! Tôi ngờ ngợ như đã nhìn thấy đôi mắt ấy từ bao giờ. Đôi mắt của những đứa trẻ bị lạc!

 
Tới lúc cần hành động, tôi lại bị ốm nặng, và phải đưa những vũ khí mà tôi giữ cho một đồng chí khác. Ngày 17-8-1945, tôi cố gắng đến dự một cuộc mít tinh của công chức Hà Nội. Ngọn cờ đỏ sao vàng được thả từ bao lơn nhà hát lớn xuống. Bài Tiến quân ca đã nổ như một trái bom. Nước mắt tôi trào ra. Chung quanh tôi, hàng ngàn giọng hát cất lên, vang theo những đoạn sôi nổi. Những cánh tay áo mọi người, những băng cờ đỏ sao vàng, đã thay những băng vàng bẩn thỉu của chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim.
Ngày 19 tháng tám 1945, một cuộc mít-tinh lớn họp tại quảng trường Nhà hát lớn. Dàn đồng ca của Thiếu niên Tiền phong hát "Tiến quân ca" chào lá cờ đỏ sao vàng. Các bạn nhỏ này, ngày nay đã lớn tuổi rồi, có còn nhớ lại cái buổi sáng tháng tám nắng vàng rực rỡ ấy? Nhớ lại giọng hát của họ lẫn với giọng tôi vô cùng xúc động chào lá cờ cách mạng? Hàng chục ngàn giọng hát cất lên, thét lên tiếng thét căm thù vào mặt bọn đế quốc với sự hào hùng chiến thắng của cách mạng.
Bài "Tiến quân ca" đã là của dân tộc Việt Nam độc lập kể từ ngày hôm đó. Nay nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tiến lên thành nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bài "Tiến quân ca" hẳn còn vang vọng mãi tác dụng của nó như thuở nó ra đời trong buổi bình minh kỷ nguyên mới của lịch sử đất nước.
Văn Cao
(Sông Hương, số 26, tháng 7&8/1987, trang 1-5)
 http://vi.rfi.fr/tong-hop/20100411-nhan-van-giai-pham-phan-xiii-van-cao
Ngày 19-8-1945, một cuộc mít-tinh lớn, họp tại quảng trường Nhà hát lớn. Dàn đồng ca của Thiếu niên Tiền phong hát "Tiến quân ca", chào lá cờ đỏ sao vàng. Các bạn nhỏ này, ngày nay đã lớn tuổi rồi, có còn nhớ lại cái buổi sáng tháng Tám, nắng vàng rực rỡ ấy, nhớ lại giọng hát của họ lẫn với giọng tôi, vô cùng xúc động chào lá cờ cách mạng. Hàng chục ngàn giọng hát cất lên, thét lên tiếng thét căm thù bọn đế quốc, với sự hào hùng chiến thắng của cách mạng.
Bài "Tiến quân ca" đã là của dân tộc Việt Nam độc lập kể từ ngày hôm đó.

7-7-1976
Văn Cao, cuộc đời và tác phẩm - NXB Văn Học, 1996, trang 86-92



No comments: