Monday, February 27, 2017

TRẦN CÔNG NHUNG * ĐỔI ĐỜI

TRẦN CÔNG NHUNG * ĐỔI ĐỜI

ĐỔI ĐỜI

Trần Công Nhung(Trích Thăng Trầm của tác giả in 2004)

Thông thường, đổi thay là mong mỏi có một tình trạng khá hơn. Cách mạng là làm thay đổi, phá bỏ cái tệ hại xấu xa, tiến lên cái tốt đẹp hơn. Sau năm 75 toàn Miền Nam, mọi giai tầng xã hội bị đảo lộn vị thế hình thái một cách nhanh không tưởng. Người ta gọi đó là sự Ðổi Ðời.

 Từ một công chức xuống công nhân, từ một bác sĩ thành anh chạy xe thồ, từ một cô giáo trở thành chị bán hàng rong, v.v. Sự đổi đời đã khiến mọi người ngẩn ngơ lo sợ, rồi tìm cách trốn sự đổi đời... thà chết với cuộc đời cũ còn hơn. Vì không chấp nhận sự đổi đời nên bao nhiêu người đã vào tù. Có người bị tù 1 lần, người 2 lần, có người vào tù ra khám như cơm bữa. Tôi cũng lãnh một lần tù.

Ngay đêm hẹn gặp với anh chủ ghe để tìm cách tránh cảnh đổi đời, tôi đã bị bắt đưa thẳng vào Trung Tâm Thẩm Vấn Nha Trang, nói nôm là nhà tù chấp cung. "Ðồng bọn" với tôi có gia đình Vĩnh Phát, Hòa Lạc, Mỹ Hưng… hết thảy chừng 30 người lớn bé. Họ toàn nhà buôn có tiếng ở thành phố Nha Trang, riêng tôi là giáo chức. Ðêm đó đúng là đêm kinh hoàng. Lúc lùa chúng tôi lên xe, một công an xô đẩy chúng tôi như thú vật và bảo: "Nhớ thành thật khai báo để sống thêm vài năm nữa".

Tôi bị nhốt vào xà lim số 2 chung với một can phạm giết người. Tôi không tưởng tượng được cuộc đời lại có giây phút tối tăm đến vậy. Không những thân xác ê ẩm thảm hại mà tinh thần cũng tê liệt đông cứng. Tôi nằm bất động suốt đêm, đến chiều hôm sau mới nghe tiếng người bạn tù:

-    Ráng ăn chút cơm đi. Ðã vào đây là phải cố sống chờ ngày ra.
Thêm một thứ âm thanh văng vẳng không rõ lắm:
-   Cọc, cọc... chú mới vào tên gì, tội gì?
-   Có ăn uống nói năng gì đâu mà biết.
-   Bình tĩnh chú ơi, nếu tội chú rõ ràng thì mau ra lắm.
Tôi suy nghĩ một lúc rồi cho người tù chung phòng biết trường hợp của mình.

Lát sau lại nghe tiếng gõ cọc cọc phía vách bên kia:
-   Khuyên chú ấy ăn uống cho có sức.
-   Vượt biển, nhà giáo.
-  Tưởng gì chớ vượt biển họ hỏi cung xong là cho ra phòng chung (nhiều người). Phòng của chú trước đây giáo sư Trần Văn Tây nằm, Tỉnh Trưởng Lý Bá Phẩm cũng đã ở đó.
Nghe tên Trần Văn Tây tự nhiên tôi thấy tinh thần tỉnh lại. Trần Văn Tây cùng dạy chung trường. Ðây đâu phải dành riêng cho mình. Tôi hỏi vọng sang người tù bên kia vách:
-   Ông Tây nằm đây bao lâu?
-   Chưa đầy tháng, tội chú cao lắm một tháng thôi.
-   Sao anh biết?
-   Ðã ở đây trên gần cả năm, ai ra vào, lâu mau cháu biết hết. Vượt biển chỉ chờ chấp cung xong là cho đi lao động.

Tôi nghĩ bụng, tay này sao rành quá vậy, hay là cò mồi để khai thác tù?
-    Anh tên gì? Sao nằm lâu vậy?
-    Thiên, nghi "giụt" lựu đạn giết cán bộ.
-    Sao nghi anh? Sao nhốt lâu?
-    Cháu là Thủy Quân Lục Chiến, năm ngoái trong Cam Ranh có vụ "giụt" lựu đạn giết cán bộ xã, công an điều tra, lính ngụy nên nghi, họ bắt cháu tại ga Nha Trang.

-   Gia đình biết không?
-   Không.
-   Trời đất! Sao không cho biết?
-   Thêm lo chớ được gì? Chừng nào thả thì thả?
-   Sao lâu vậy?
-   Không nhận tội, nhốt hoài. 
-   Vậy nhận mà ra.
-   Khùng sao chú, không làm mà nhận?

Tôi nghĩ, anh này rất khí khái, đáng mến. Tôi bắt chước gõ vào vách 3 cái:
-   Bao nhiêu tuổi?
-   Hăm lăm.
-   Nói lớn không sợ công an?
-   Giờ này làm gì có công an?
-   Sao biết?
-   Bốn giờ họ ăn cơm, đi chơi, đánh banh cả rồi. Chú dạy trường nào?
-   Võ Tánh.
-   Ði chưa mà bị bắt?
-   Chưa, mới ra bãi.
-   Lường gạt hay bị lộ.
-   Lường gạt.
-   Nhẹ, tháng là cùng.

Không ngờ qua câu chuyện tôi nhanh chóng lấy lại tinh thần, tôi bắt đầu ăn. Ăn ngon lành. Một vắt cơm, một tô canh rau muống lẫn mấy con cá liệt bằng ngón tay, chỉ một nhoáng là sạch bách. Tôi dùng đầu giây nịt, gạch lên vách đánh dấu mỗi ngày qua, một gạch, 2 gạch, 3 gạch....

Người tù chung xà lim cho tôi biết anh đã dùng rựa chém chết một cán bộ xã, vì tên này lợi dụng thế lực ve vãn vợ anh. Theo tôi, anh không phải loại người hung ác, nhưng lắm khi bị thách thức quá đáng, người ta cũng dễ cuồng trí. Mấy hôm sau anh chuyển đi nơi khác.

Còn một mình tôi, Thiên càng nói chuyện nhiều hơn. Tuy không thấy mặt mũi nhau nhưng qua tiếng nói, tôi hình dung anh là một thanh niên lanh lợi, có tinh thần hào hiệp nghĩa khí. Mỗi ngày, sau tiếng kẻng tan sở buổi chiều là Thiên rủ tôi "đi uống cà phê". Anh biết hầu hết các quán cà phê ở Nha Trang.

 Từ Chiều Tím góc Bà Triệu và Yersin, đến cà phê Lá Ða Xóm Mới, hương vị mỗi nơi như thế nào, không khí mỗi chỗ ra làm sao, Thiên mô tả rành mạch. Nhờ vậy, tôi bớt buồn lo và dần dà nhận ra vận số của mình phải thế. Ông Ân Quang đã nói trong Tử Vi của tôi từ năm 72 rằng rồi tôi sẽ thay đổi nghề nghiệp. Ðúng thật, nghề đi dạy thành nghề đi tù.

Hơn tháng nay, ngày nào tôi cũng bị dẫn lên phòng chấp pháp để khai cung. Mỗi khi nghe tiếng giày lộp cộp, tiếng chùm chì khóa leng keng là người cứ muốn nổi da gà. Cảnh nhà tù trong tác phẩm Chín Tầng Ðịa Ngục của nhà văn Liên Sô cũng y hệt như vậy, cũng những âm thanh nghe lạnh người.

Khai cung, tôi chẳng có gì để dấu nhưng họ không tin, họ quyết tôi đã đi nước ngoài, có nhận vàng của nước ngoài để làm gián điệp (chuyện không tưởng), bởi không, sao tôi có nhiều máy ảnh có những bằng nhiếp ảnh ngoại quốc. 
-   Anh khai thật thì được khoan hồng.
-   Thưa cán bộ tôi đã thành thật khai.
-   Anh đã đi nước ngoài mấy lần, và những nước nào?
-   Dạ chưa hề được đi nước nào cả.
-   Sao anh có bằng cấp nước ngoài?
-   Ðó chỉ là những bằng nhiếp ảnh, tôi gởi ảnh đi dự thi, họ cấp. Trong miền Nam không thiếu gì người như vậy.
-   Ai cấp tiền bạc cho anh?
-   Tôi chỉ dạy học, lãnh lương.
-   Lương anh bao nhiêu mà anh sắm nhiều máy móc thế, nói láo. 
-  Thời Mỹ đồ đó bán đầy chợ trời rẻ như cho, Nha Trang chỉ mình tôi chơi ảnh nên tha hồ mua.
Anh cán bộ làm thinh. Cứ vậy mà ngày nào tôi cũng phải trả lời chừng ấy chuyện. Phải công nhận anh chấp pháp rất kiên nhẫn. Anh có khuôn mặt choắt như mặt chuột, tái xanh, hàm răng khít rịt khi nói. Lúc đầu tôi rất ghét phải đối diện với anh, về sau thấy dễ chịu. Ít ra có anh tôi cũng được ra ngoài hít thở khí trời, được thấy những đám mây bay qua, được nhìn mấy con chim sẻ nhảy tung tăng. Dần dà tôi thấy anh có phần mến tôi. Anh không to tiếng, trong lối tra hỏi có vẻ hiểu biết hơn. Tôi chợt nghĩ ra một cách....
-   Tôi khuyên anh khai thật đi.
-   Cán bộ bảo tôi khai thật cái gì, tôi đã khai hết rồi.
-   Anh nhận vàng của nước nào? Ði những nước nào? Làm việc cho nước nào?
-   Tôi đã nói hết sự thật, nếu cán bộ không tin, xin hỏi nhà văn Võ Hồng, tôi là giáo viên trường ổng. Tôi sống ở đây bao nhiêu năm làm gì ổng đều biết.

Không ngờ nhờ câu trả lời đơn giản thế mà chỉ một tuần sau tôi được ra khỏi cát-sô ở chung với nhiều người (1). Tôi không nhớ ngày, ấy là một ngày đẹp trời, có tiếng kêu: “Trần Công Nhung dọn hết tư trang ra ngoài”. Cửa cát sô mở, người công an lạnh lùng nhìn tôi: “Ði”. Tôi vội vàng làm theo như máy, chẳng biết đi đâu, lành hay dữ. Tôi theo anh bộ đội vòng qua một khu nhà dài, anh mở cửa phòng số 10, đẩy tôi vào. Lúc cánh cửa vừa đóng là bao nhiêu người tù trong phòng ùa về phía tôi, hỏi thăm tin tức.

 Họ cứ tưởng tôi là người mới toanh từ ngoài vào cho nên ai cũng muốn biết những tin tức thời sự. Những câu hỏi để lộ tâm trạng mong chờ một thế cờ. Nhưng thấy không có gì mới lạ nên ai nấy giãn ra, chỉ còn hai người ngồi lại với tôi: ông Nguyễn Ðức Giang (Chách sở Giáo Dục), Trần Minh Thanh (giáo viên). Thanh đã nhanh nhẹn làm một tô mì khô đãi tôi: Bánh tráng sống bẻ vụn, rưới nước mềm, cho cám gạo vào rồi trộn đều với xì dầu. Tôi không ngờ tô mì chế biến đơn giản mà ngon. Sau 3 hôm ra nhà tù chung, tôi được gọi  đi lao động. Nhốt trong tù mà được đi lao động là một phúc lớn. Ra ngoài như được về với tự do, được hít thở thoải mái, được ăn no hơn... Cho nên ai cũng ước đi lao động.

Người cán bộ đến nhận tôi đi làm không mặc sắc phục công an. Anh ăn mặc như nhân viên dân chính. Trông anh hiền lành và còn trẻ. Ðối diện trại giam, bên kia đường là Ty Công An. Lúc đưa tôi băng qua đường, người cán bộ nói:
-   Chú xui xẻo, đi được thì sướng, cháu đã đi nước ngoài cháu biết.
Tôi ngạc nhiên, và nghi anh "thả bong bóng" khai thác gì đây. Tôi im lặng. Anh lại tiếp:

-   Hôm bắt chú có cháu. Những tài liệu của chú ở Ty chiếu mấy đêm để nghiên cứu. Chú chuẩn bị tư tưởng chớ lâu đó.
Tôi nghĩ anh này có thể thực tâm, vì đã xem qua tài liệu của tôi và hiểu tôi phần nào. Tuy nhiên tôi vẫn yên lặng thăm dò, lòng bàng hoàng nghĩ đến những ngày sắp tới. Công việc anh giao tôi là kẻ một biểu ngữ: "Tiếp nhận lẵng hoa bác Tôn" (Tôn Ðức Thắng).

Trong lúc tôi lay hoay làm thì người cán bộ lại nói nhỏ:
-   Chú muốn nhắn gì về cho thím thì lát nữa viết ít chữ cháu đem về cho.
Tôi nhìn anh tin tưởng và thầm cảm ơn. Tôi nói:
-   Nếu cán bộ giúp đuợc thì tôi vô cùng biết ơn.
Ðến trưa anh cho tôi miếng giấy, sẵn cây bút chì kẻ bảng tôi ngoáy mấy hàng tin cho nhà tôi. Anh lại bảo:
-   Chú muốn thăm gia đình, cháu sẽ nói thím đứng chỗ nhà đợi, lúc đi làm, qua đường chú sẽ thấy.

Tôi cảm ơn nhiều lần và thật sự tin người công an có lòng tốt này. Hôm sau đi làm, lúc băng qua đường, nhà tôi và các cháu đứng sẵn trong nhà đợi. Bổng tôi nghe: "Phì Phì, Ba kia Phì, chạy ra mau" thằng bé 3 tuổi chạy về phía tôi, tôi ẳm cháu lên và nước mắt dàn giụa. Ngay lúc ấy người bộ đội trên bốt gác cao, lên đạn rắc rắc đồng thời quát: "Bỏ xuống, bỏ xuống". Tôi vội vàng để thằng bé xuống và lẳng lặng đi theo anh công an. Ngày kế tiếp, không ai đến gọi tôi đi làm nữa. Hai tuần sau, vào một buổi sáng sớm, cửa phòng mở, một anh công an đứng hô dõng dạc:
-   Những người có tên sau đây thu dọn tư trang ra xếp hàng ngoài sân:
-   Lê văn T, Nguyễn chí Ð, Trần B...
Tôi hồi hộp chờ tên mình. Ði đâu không cần biết, rời khỏi chỗ đang bị nhốt là mừng.
-  Phan Hòa L, Trần Minh Thanh, Trần Công Nhung...
Tuy vẫn là tù mà sao sung sướng thế, tưởng như vừa được xướng danh đậu Tú Tài. Chúng tôi ôm đồ ra ngồi ngoài sân, chung với số người đã kêu.

Những câu hỏi chuyền tai nhau:
-   Ði đâu?
-   Chuyển trại.
-   Trại nào?
-   Ai biết!
-   Như không.

"Ê không được nói chuyện", anh công an quát về phía có tiếng xầm xì. Lát sau lại có tin: "Ði A 30", "Ði Ðồng Găng". Chắc chắn là đi, nhưng đi đâu thì không ai biết. Cuối cùng đa số chúng tôi được gọi tên lần nữa để lên một xe tải. Toàn bộ đám vượt biên lên chung một xe. Lúc tấm bạt phía sau tủ xuống và ràng cẩn thận thì xe chuyển bánh. Tôi cố tìm một kẽ hở để nhìn ra ngoài. Ðịnh hướng xem đi đâu. Mấy phút sau chiếc xe đi ra hướng Bắc. Có người cả quyết đi A 30.

Bốn giờ chiều, chúng tôi được thả xuống một trại cải tạo giữa rừng núi xa lạ lạnh lẽo: Trại A 30, Tuy Hòa. Quang cảnh nhà tù bây giờ xa hẳn phố thị và khoảng khoát hơn. Nhà từng dãy, những người tù trong bộ đồng phục xanh đi lại thong thả, họ tò mò nhìn chúng tôi mà không dám đến gần. Chúng tôi được dẫn vào hội trường của trại để học bài học  đầu tiên: "Nếp sống văn minh trong tù". Tôi thật sự đổi nơi ăn chốn ở, đổi nếp sống, đổi cách suy nghĩ. Ðổi Ðời.

(1) Sau này anh Võ Hồng cho biết công an có đến điều tra và làm anh một phen hết hồn.


NGUYỄN THỊ NGỌC NHUNG * TRUYỆN VƯỢT BIỂN RÙNG RƠN

 

 TRUYỆN VƯỢT BIỂN RÙNG RƠN  
 NGUYỄN THỊ NGỌC NHUNG
 
Dưới đây là một truyện ngắn giá trị của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Nhung, mô tả những diễn biến rùng rợn của một chuyến vượt biên, trong đó tác giả là nạn nhân. Truyện được viết dưới dạng tự thuật, nên lôi cuốn từ đầu đến cuối, khiến người đọc vô cùng hồi hộp, như được sống lại những kỷ niệm hãi hùng của ngày xưa vượt biên.
Ghe chòng chành giữa dòng nước, tôi sợ hãi ngồi bám chặt mạn thuyền, mắt láo liên nhìn trời đêm sáng lờ mờ ánh trăng mười chín. Chúng tôi ngồi dồn đống trong khoang thuyền. Hai tên đàn ông to người chèo ghe gõ nhẹ trên mui báo hiệu đã đến nơi tạm an toàn, chúng tôi có thể cử động đôi chút. Người chèo mũi vén tấm lá che mui nhìn vào.

"Bây giờ mình phải đi bộ một khoảng, tui dẫn hai người một lần. Chia ra để khỏi lộ. Mấy người khác cứ ngồi đợi đến phiên, nhớ đừng nói chuyện lớn tiếng."

Hắn dẫn hai người đàn bà ngồi sát cửa mui đi trước. Cả đám ngồi đợi ẩn nhẫn. Tim tôi chưa hết hồi hộp đập thình thịch thể như bất cứ người nào ngồi gần cũng đều có thể nghe được nhịp ấy. Phong nắm tay tôi. Tay Phong đẫm mồ hôi và lạnh. Tôi phải ngồi bệt và khom lưng, hai đầu gối co **ng cằm, gọn lỏn trong lòng Phong. Khoang ghe quá chật cho mười người ngồi lèn nhau, phía ngoài còn tấn mấy buồng chuối mùi nhựa nồng chát. Bên trái tôi, cha mẹ Phong dúi sát nhau. Một bé trai độ bốn, năm tuổi, bị uống thuốc ngủ, nằm im lìm trong lòng cha nó. Bà vợ ngồi kế bên, chân trái đạp chân tôi nhưng hình như bà không biết và tôi cũng không thể dời chân đi nơi khác. Đành chịu. Người con gái ngồi kế có lẽ là em gái bà, mặc bà ba đen như gái quê, mặt từa tựa nét.

Khí trời đêm hơi lạnh nhưng bên trong khoang, nóng hầm hơi người. Hình như cái nóng hậm hực ấy tăng gấp bội vì trộn lẫn với nỗi căng thẳng bập bùng ngập ngụa không gian. Tôi lén nhìn đồng hồ giấu trong ngực áo. Khoảng 2g15 sáng. Tôi thì thầm nơi tai Phong "Hơn hai giờ sáng rồi anh." Phong gật nhẹ đầu. Người đàn ông chèo lái ngồi im như pho tượng. Đôi khi ánh mắt của hắn lấp lánh nhẹ dưới ánh trăng khi chớp. Cái mũi dài mang nét khoằm khiến mặt hắn lộ đầy vẻ gian ác nhưng nụ cười nở rộng với hàm răng thưa làm giảm bớt ấn tượng xấu nơi người đối diện. Hắn mặc áo bà ba đen, tay áo xắn quá cùi chỏ.

Người đàn ông đưa hai người đàn bà lội bộ băng qua hàng cây thấp trở lại. Hơi thở của hắn nóng hôi hổi phà ngay mặt tôi khi thò đầu vào khoang kêu người đàn ông ẵm đứa con ngủ mê mệt. Người chồng bò ra đằng lái, vác đứa bé trên vai như vác bị gạo mò mẫm bước lên bờ. Vấp phải vật gì trên bờ đất, ông chúi nhủi suýt té, tay cố giữ thằng bé, người lảo đảo bước quàng xiên lòm khòm rồi mới đứng thẳng lên được.

Tên đàn ông dẫn đường mặc áo sơ mi màu nâu đen, quần tây nhàu nát ống nhỏ túm hơi ngắn trên mắt cá, có chỗ sờn, đôi dép mỏng. Hắn ta tương đối trông được hơn người ngồi lái. Với nước da tái, môi thâm vì thuốc lá nhưng lại vẽ nên một nụ cười thật đẹp với lúm đồng tiền bên trái, kẽ răng đóng nhựa thuốc. Đôi mắt mí to với hàng mi rậm, duy có ánh mắt của hắn là không thẳng thắn, còn ngoài ra hắn dễ dàng lấy cảm tình của người xa lạ với giọng nói trầm và chậm.

Tôi và Phong chưa bao giờ gặp hai người đàn ông này. Chuyến đi này chúng tôi qua trung gian bởi người bạn thân giới thiệu. Người bạn đó đã đến Mã Lai an toàn, chính vì vậy mà tôi và Phong mới tin tưởng nơi người trung gian này. Hơn nữa, chuyến đi có cả gia đình người thân gì đó của người trung gian cùng đi, như vậy thì không có gì để chúng tôi lo ngại. Thường là chắc ăn, người trung gian mới dẫn gia đình đi sau khi đã mối lái nhiều lần có vàng có tiền làm của hoặc manh mối bắt đầu bị lộ. Ba mẹ Phong và tôi phải xuống Cần Thơ, giả đi thăm bà con. Tôi mặc hai bộ đồ trên người, giấu theo ít vàng và nữ trang. Phong mặc quần áo nhăn nhíu không ủi. Mẹ Phong thì mặc bà ba quần thâm. Ba Phong thì vận đồ rách, vá chùm vá **p mấy chỗ, chân mang dép rách quai cột nối bằng cọng kẽm. Tất nhiên là không dễ gì qua mắt người miệt quê đó nhưng hình như họ cảm thông (hay tội nghiệp) trước sự trá hình không mấy chỉnh nên tôi thường bắt gặp ánh mắt ái ngại nhìn mà không dám hỏi vài lần suốt đường đi.

Đến nơi, cả bốn được dẫn đến một căn nhà nằm dựa mé sông chờ đến tối mới xuống ghe nhỏ theo sông ra cửa biển nơi có ghe lớn đợi sẵn. Trong nhà có độ hơn mười người khác đợi sẵn khi chúng tôi đến rồi chia nhóm theo ghe. Tôi dặn Phong tìm cách đi chung với người trung gian, bảo đảm hơn. Phong gật nhưng gia đình người đó cả thảy là tám, thêm hai người thì vừa đủ cho một chuyến. Nhưng tôi lẫn Phong đều không muốn đi tẻ riêng thành ra đành phải chờ chuyến chót, mười người, hơn mười giờ tối.

Thoạt đầu, ngồi chen chúc trong khoang, tôi muốn ngộp thở với hơi người và mùi bùn non lẫn mùi nước đọng hôi hám nơi đáy ghe. Hai người chèo bắt chúng tôi khom lưng gần như nằm mọp xuống, tấn bên ngoài dằn bên trên, mấy buồng chuối xanh ngắt sau khi đậy bao bố tời dơ bẩn lên đầu mọi người. Đường đi may mắn yên tĩnh không có chuyện gì xảy ra tuy rất chậm và kéo dài như không bao giờ đến nơi.
Người đàn ông dẫn đường trở lại, kêu bà vợ và cô em gái của bà cùng đi. Tôi chợt ngửi phải mùi nồng tanh tưởi nơi áo hắn khi hắn nghiêng người khều vai bà vợ. Bỗng dưng tôi nghe lợm giọng không hiểu tại sao. Cái mùi thật lạ lùng. Bóng tối trong khoang không cho phép tôi nhìn rõ mặt hắn. Mùi tanh đến lạ. Hơi thở của hắn cũng nặng nề hơn. Tôi thì thào với Phong sau khi hắn đã đi.

"Anh có nghe mùi gì không?"
"Không. Mùi gì?"
"Có mùi tanh tanh kỳ lắm... "
Phong bâng quơ qua chuyện.

Mùi bùn đó mà."

Cũng khá lâu người đàn ông dẫn đường mới trở lại. Có thể hắn đi không lâu lắm nhưng khi chờ đợi thì năm ba phút dễ biến thành năm ba giờ. Chỉ còn bốn người trong khoang. Hai tên đàn ông bàn tính nho nhỏ trên bờ. Tôi bỗng nghe gai ốc nổi đầy người. Tôi nắm chặt tay Phong. Mồ hôi tươm ướt lưng. Người đàn ông đẹp trai kêu chúng tôi ra khỏi khoang. Hắn nói, giọng khoan thai.

"Bây giờ tui dẫn ông bà đi, hai người một. Để khỏi mất thì giờ, hai người đi với anh Ban, hai người đi với tui. Tụi tui đi hai đường nhưng đường nào cũng dẫn tới chỗ ghe lớn. Đi đông nhiều tiếng động dễ bị lộ. "

Rồi không đợi phản ứng của người nào hết, hắn hất hàm người mũi khoằm tên Ban, đẩy cha mẹ Phong về phía đó. Quay nhìn hai đứa tôi, hắn cười, hàm răng lởn nhởn dưới ánh trăng, bóng đen lúm đồng tiền nổi rõ trên má, rồi hắn quay lui bắt đầu đi về phía rừng cây thấp. Phong nắm tay tôi đi theo hắn. Rừng cây tối mờ dù là rừng thưa, bóng lá đen ngòm trên đường lồi lõm. Tôi vấp té loạng choạng nhiều lần, đi chậm hẳn lại.

Chợt một nhánh cây đập vào mặt đau điếng, tôi khựng lại, giằng tay khỏi tay Phong rồi đỡ nhánh cây cúi người lom khom. Bỗng dưng, tôi nghe thấy... không chắc mình nghe đúng, nhưng tứ chi chai cứng. Thứ âm thanh nhọn như tiếng mèo gào giữa khuya. Tim tôi đập nhịp cuồng. Tôi quờ quạng tìm tay Phong. Chàng đứng sát tôi, chợt tôi cảm thấy cả người mệt mỏi và thỏng dài. Người đàn ông dẫn đường quay nhìn hai đứa tôi. Bóng tối mờ nhưng tôi vẫn thấy được ánh mắt kỳ lạ của hắn. Bỗng nhiên nỗi sợ hãi ùa tới tràn ngập người tôi với sự im lặng kỳ lạ của người dẫn đường không thúc hối khi thấy chúng tôi khựng lại. Hắn không hề kêu chúng tôi nhanh bước. Thời gian đứng khựng và cả ba đứng im như chờ đợi phản ứng của nhau. Chợt Phong kéo ngược tay tôi chạy trở lại hướng vừa rời đi lúc nãy. Tôi chạy cuống cuồng theo tay kéo mù loà. Rừng cây như mê hồn trận, chúng tôi chạy bất kể mọi thứ.

Rồi cả hai cũng trở lại được bờ sông nơi ghe cặp bến. Người đàn ông tên Ban đang cúi khom lục lọi chi nơi bóng đen nằm im bên chân hắn. Tôi đứng sựng kêu không ra tiếng. Miệng lưỡi dính thành một khối nghèn nghẹn. Bóng đen dưới chân hắn là mẹ Phong, nửa trên loã thể, tư thế co quắp, mặt úp xuống bùn. Ban hình như cũng không ngờ sự có mặt của tôi và Phong. Hắn đờ người, tay còn cầm sợi dây chuyền vàng lòng thòng. Trong khoảnh khắc chúng tôi nhìn hắn, nhìn cái búa bửa củi vất bên chân. Tôi không thấy máu vì bóng đêm làm nhoè bẩn mọi thứ. Nỗi sợ hãi dâng lấp trí óc. Ý nghĩ lướt thật nhanh trong đầu. Tôi đã hiểu tại sao chúng muốn dẫn từng hai người một. Tôi sực nhớ đến người dẫn đường. Đầu óc hoảng sợ nhưng vẫn còn sáng suốt để nghe rõ tiếng chân chạy đuổi và tiếng la của hắn đâu đó "Ê Ban, coi chừng tụi nó chạy. Ban! Ban! Tụi nó chạy rồi!" Phong vụt chạy về chỗ neo ghe. Tôi chạy theo tay níu của Phong đến sát mé nước, chân vấp vật gì. Tôi ré lên như đạp phải giòi. Nhìn xuống, ba Phong nằm nửa người vùi dưới nước. Phong khựng lại vì tiếng la của tôi rồi đẩy tôi ra sông. Tôi sặc sục, nước mới ngang ngực. Phong hét vào tai tôi.

"Lội mau lên, lội ra giữa sông."

Tôi bơi hối hả, tay chân nặng chình chịch vì hai bộ đồ ướt nước. Tôi quay cuồng tứ phía, không rõ mình bơi về hướng nào mới đúng. Tiếng người la hét sau lưng nghe chói tai đến độ hãi hùng. Một tràng đạn bắn vãi quanh tôi và Phong. Chàng đè đầu tôi ngụp xuống nước. Không mấy lâu, tôi ngộp thở hất tay Phong trồi lên hớp không khí. Súng nổ liên hồi như sát mang tai. Tôi luýnh quýnh đập tay chân loạn xạ, chưa đầy mấy phút đã mệt lả. Tôi càng ráng trồi lên chừng nào thì lại càng chìm xuống nhanh chừng nấy. Tôi lặn hụp lên xuống như người sắp chết đuối. Có lẽ nhờ vậy mà tôi tránh được đạn bắn xối xả chung quanh. Phong khi lặn kéo tôi hụp xuống, khi nổi đẩy tôi trùi tới. Tôi bơi tới tấp với cảm tưởng mình nổi ì một chỗ. Đầu óc tôi rối loạn nhưng hình như vẫn tỉnh táo, rất tỉnh táo để thấy ánh trăng mờ trên cao, cây cối đứng im nơi bờ, bóng nước lấp lánh quanh mình, hơi thở hào hễn, cơn mệt muốn đứt hơi và mấy bóng đen trên bờ với loạt đạn dữ dội. Tôi bơi như máy, hơi thở dần ngắn với nước tuôn vào mũi mồm sặc sục. Biết mình không đủ sức, tôi thả ngửa để Phong vịn vai đẩy đi. Hình như chúng tôi đã ra được giữa sông. Tôi nhìn vào bờ, chỉ thấy dạng cái ghe, hai bóng đen tàn ác nhoè lẫn trong bóng đêm nhưng ánh lửa nháng với tiếng nổ vẫn hiện hữu. Tôi đạp chân phụ sức với Phong, mắt nhìn thẳng lên lòng đêm có trăng sao đầy đủ. Trời đất có đó nhưng hình như bịt tai im lặng trước hành động dã man. Tôi nhẩm cầu những đấng tối cao mà tôi có thể nghĩ đến trong nhịp tim hỗn loạn.

Tiếng súng bỗng im. Sự im lặng hãi hùng đè chụp lấy tôi. Tiếng đập nước vùng vẫy của chúng tôi bỗng trở thành tiếng động duy nhất rõ mồn một trong đêm. Tôi lật sấp người lại tiếp tục bơi, bờ bên kia vẫn còn xa thăm thẳm. Có bơi mới thấy con sông không nhỏ như tôi tưởng khi còn ngồi trên ghe. Phong nhìn lại rồi nói qua hơi thở đứt quãng.

"Tụi nó chèo theo... bơi lẹ... lên em... May ra mình... thoát."

Câu nói của Phong lại được đệm bằng tiếng súng nhưng rời rạc hơn lúc nãy. Tôi muốn bịt tai để đừng nghe thứ âm thanh dữ dằn chở đầy gai nhọn đâm thẳng tim óc. Tôi nhìn lui, không hiểu sao trong lúc bấn loạn, trí óc vẫn tiếp tục có lúc minh mẫn để thấu suốt những thứ không dính dáng gì hết, quanh mình. Chiếc ghe trôi lừ lừ ra giữa sông thật nhanh. Lửa đỏ loé quanh. Tôi nghe được tiếng giầm quậy nước lẫn với tiếng súng mỗi lúc thưa hơn. Tiếng lủm chủm của đạn rơi không còn nghe gần đâu đây nữa mà vạt xa xa về phía bờ bên phải. Phong kề tai thì thào.

"Tụi nó không thấy mình. Em bơi nhẹ dưới nước trôi lần vào bờ, đừng gây tiếng động mạnh. Khi tụi nó bắn thì mình bơi nhanh hơn một chút."

Đám lục bình nhẩn nha trôi đâu đó làm hai tên đàn ông lầm lẫn. Chúng la hét lẫn nhau.

"Mày bắn lục bình không hà, Ban! Ê. Đ.m. tụi nó trôi hướng này sao mày cứ bắn hướng đó hoài vậy? Đ.m. giết có hai đứa mà cũng không xong, biết làm gì ăn đây mậy?"

"Câm cái miệng của mày lại. Đứa nào để xẩy? Hả? Mẹ cha nó, tao bắn đúng chỗ, chắc tụi nó chìm rồi. Không tin thì thôi. Đ.m, bỏ cho rồi. Sống chết kệ mẹ tụi nó. Về cho xong, trời gần sáng rồi, làm cả đêm, mệt chết mẹ!"

Mọi thứ vụt im. Không có tiếng chèo lẫn tiếng chửi thề. Tay Phong nắm cứng vai tôi trong khoảnh khắc rồi buông. Tôi chúi đầu sát mặt nước, tay chân cố khuẫy thật nhẹ nhưng vẫn mang cảm tưởng nặng chịt lào xào khuyấy nước. Im lặng nặng như tấm màn sũng nước phủ đè lên tâm trí. Tim tôi đập rối rít, mạch máu nhảy theo nhịp tim hào hễn, tai tôi nghe được tiếng bình bịch của tim mình tưởng như ai cũng đều nghe ra. Chợt có người dúi chân tôi xuống. Tôi hơi giật mình khi chân đạp phải lớp sình mềm. Phong đứng, mặt ngửa chừa mũi thở, cả đầu dìm gần hết dưới nước. Tôi bắt chước Phong, đỡ mệt vì chân chạm đáy sông nhưng phải đổi chân chống vì lớp sình mềm khiến chân chuồi nghiêng không vững. Được một lát, tôi ngẩng nhìn vừa lúc bóng đen nơi ghe lên tiếng.

"Đằng kia kìa. Đó. Đ...đ... tụi nó vừa hụp xuống. Chỗ này nè. Mày bắn chỗ đó coi."

Phong nắm tay tôi kéo hụp xuống nước. Nghe được câu nói của người trên ghe nên tôi kịp chuẩn bị để hít một hơi không đến nỗi chịu ngộp lâu. Đạn bắn tung toé sát nơi tôi đứng. Phong dò dẫm bước đi dưới nước. Tôi bước theo mò mẫm, chân đạp sình loạng choạng nhằm nơi trũng sâu làm tôi hốt hoảng bíu chặt tay Phong. Miệng há ra bất ngờ khiến nước ùa vào mồm, tôi ngột ngạt trồi đầu lên thở. Trước mặt, đám lục bình kẹt nhánh cây chết dồn đống bên bờ. Tôi truồi sâu vào đám lá, chỗ nước cạn ngang bụng nên ngồi chồm hỗm dưới nước. Bóng ghe đi ngang thật rõ. Tiếng nói chuyện vang vang.

"Kệ mẹ tụi nó, về cho rồi. Mày cất đồ chưa?"

Giọng trầm khoan thai trả lời như không bị ảnh hưởng chi hết với hỗn loạn máu me vừa rồi.

Rồi, hỏi hoài! Xét hết mấy cái thây rồi. Trừ khi nào họ nuốt vô bụng thì tao chịu chớ... Ờ, hay là mình quay lại mổ mấy cái thây đàn bà. Tụi nó có khi nuốt hột xoàn..."

Giọng kia bẳn gắt hơn. "Sao hồi nãy hổng nói? Mẹ nó. Xì. Đ.m, gì cũng mày. Đợi xong rồi mới nói. Xẩy hết hai đứa... Gần sáng rồi, mổ miết gì nữa. Đ. m.."

Tiếng nói nhỏ dần theo dạng ghe loãng dần trong đêm tối. Phong đứng dậy, lần mò trượt lên trượt xuống với lớp sình nơi bờ rồi mò lên bờ đất. Tôi đạp sình nhão nhoẹt len chảy qua mấy kẽ chân, theo Phong lên chỗ có đất cứng. Bờ đất đầy rễ chằng chịt của thân cây chết, không rõ cây gì. Tôi lại vấp chân đau điếng nhưng cơn đau không đủ nồng độ để tôi nhận biết lâu hơn. Ngồi bệt xuống, tôi lần mò ngực áo tìm đồng hồ. Ánh lân tinh mờ ảo. 4g20 sáng. Tôi nói với Phong, hơi khựng lại khi nhận ra mình lạc giọng.
"Gần bốn rưỡi rồi anh. Giờ tính sao đây?"

Phong cởi áo vắt nước không trả lời. Tôi cởi bớt một bộ đồ bên ngoài cố vắt cho ráo rồi phơi đại trên mấy nhánh cây gần đó. Hơi lạnh thấm qua lần áo ướt còn lại trên người khiến tôi nổi ốc. Cả người tôi run từng cơn theo phản xạ cơ thể. Tôi ngồi bó gối, hai tay ôm chân co ro. Phong choàng tay qua vai tôi cho ấm. Hai đứa chúi vào nhau. Trí óc tôi dần dần tỉnh và tôi cố tránh không nghĩ đến những gì vừa xảy ra.

Rừng cây thưa thớt không một bóng nhà hay bóng đèn. Sao thật sáng và thật nhiều. Tiếng ếch nhái ễnh ương đâu đó nổi lên thật bình yên như không có chuyện gì xảy ra. Nước mắt tôi rơi chầm chậm nhiểu trên tay mới hay. Cơn sợ hãi lắng xuống, giờ chỉ còn lạc lõng khốn cùng sau cơn bão tàn khốc. Tôi mang cảm tưởng vừa rỗng không vừa đầy ắp đến độ muốn nôn. Không biết tôi nên nói gì, làm gì. Sau con giông tàn bạo, sực thấy mình không là gì cả, tay chân dư thừa, đầu óc đầy rẫy những hình ảnh chết chóc và cảm tưởng mình rất mỏng manh dễ bị xúc phạm thì lấp đầy cả người.

Giọt nước mắt đầu rơi xuống, khơi dậy trùng dương trong tôi. Tôi khóc ngon lành như chưa bao giờ được khóc. Trí óc lần mò trở lại xác người vấp phải nơi mé nước, sợi dây chuyền vàng đong đưa nơi tay gã đàn ông cúi mình trên cái xác trần. Hoá ra, tim tôi hụt nhịp, những người chung ghe đã chết. Tôi nhớ đứa bé trai ngủ mê vì thuốc. Cô gái trẻ thì thầm với tôi "Bồ em ở Texas. Ảnh hứa sẽ đón khi em tới đảo. Mấy năm rồi em chỉ đợi có dịp này. Tưởng sẽ không bao giờ gặp rồi chứ. " Giọng cười khẽ vui sướng đầy hy vọng của cô. Giờ thì thật là không bao giờ gặp. Tôi gục đầu ủ rũ với nước mắt. Phong ngồi im lặng lẽ. Chúng tôi đã gặp phải lũ cướp cạn tàn ác. Lũ cướp cùng màu da cùng tiếng nói với mình. Tôi thường nghe nói đến hải tặc Thái lan nhưng chưa nghe nói đến lũ cướp cùng màu da tiếng nói với mình. Giờ thì tôi hiểu, nạn nhân chết cả, lấy ai kể lại câu chuyện thương tâm nơi bờ sông vắng. Biết bao bờ sông vắng đã chứng kiến những cảnh tượng tương tự? Tôi lau nước mắt trên tay áo còn ẩm ướt, nằm lăn ra đất. Phong nằm theo, gối đầu tôi lên tay chàng. Tôi sờ soạng mặt Phong trong đêm tối mờ, ngón tay tôi ướt khi lướt ngang mắt. Tôi vùi mình trong lòng Phong, cảm kích và đau đớn vô vàn.


o O o


Bà ngoại Phong mất khoảng sau hai giờ sáng cùng ngày hôm ấy. Dì Sáu cho chúng tôi hay mấy ngày sau, khi hai đứa mò về đến nhà. Bà mất cùng ngày chúng tôi bị nạn. Lúc hai giờ, bà còn đòi dì Sáu rót cho tách trà. Sau đó, dì Sáu về giường của mình. Đến sáng thì bà đã chết cứng, hai chân thò ra ngoài như sửa soạn xuống giường, tay phải níu chặt thành giường, mắt mở hé.

Phong ngồi ôm đầu nghĩ ngợi. Chập sau Phong hỏi.

"Dì có chắc là sau hai giờ không?"

"Chắc. Dì cho ngoại uống nửa tách trà. Lúc để tách xuống bàn sực thấy đồng hồ gần hai giờ chớ dì có tính coi giờ đâu mà nhớ."

Dì Sáu là em út của mẹ Phong. Dì lớn tuổi nhưng không con. Chồng dì còn ở trại học tập nên dì không đi với chúng tôi, vả lại không ai trông nom bà ngoại, đã hơn bảy mươi lăm già yếu nhiều bệnh tật. Dì giống mẹ Phong nhiều nét nhưng khô khan cằn cỗi hơn. Mặt dì sưng húp vì khóc nhiều.

Lúc mở cửa thấy hai đứa tôi, dì oà khóc như trẻ nhỏ. Thấy trở về, hiểu ngay là không thoát, phần mới chôn mẹ một mình nên dì tủi thân. Đến khi biết cha mẹ Phong tử nạn, dì khóc thảm thiết hơn. Phong chỉ ngồi yên nhìn tôi và dì Sáu, mặt chàng chai cứng với giận dữ và oán hờn.
Tối hôm đó, Phong ngồi nơi giường ngoại, vụt nói một câu lạ.
"Mình thoát được là nhờ ngoại!"
Tôi nhìn Phong không hiểu. Dì Sáu hỏi.
"Sao? Con nói sao?"
Phong chậm rãi kể, mắt nhìn mông lung.

"Lúc Ngà giật tay con đứng lại, tự nhiên con thấy bà ngoại. Thấy như thế nào thì con không biết, chỉ biết là thấy mà trong người không hề thắc mắc tại sao. Bà ngoại xua xua tay nói. Chạy đi con, lội qua bên kia sông. Lẹ lên. Chạy đi con! Con nghe rõ ràng giọng thúc hối nóng lòng của Ngoại. Con đang hoang mang chưa biết làm gì thì lại nghe bà nói. Mẹ mày chết rồi. Chạy mau lên con ơi. Rồi như có gì ám, con lôi tay Ngà chạy về phía bờ sông theo lời Ngoại. "

Tôi nghe lạnh nơi sống lưng. Tôi đã không kéo tay Phong đứng lại vô cớ, rõ ràng có nhánh cây đập nơi mặt đau như trời giáng nên tôi đứng lại không suy nghĩ. Khi mặt trời lên, Phong nhìn và không thấy vết bầm hay trầy trụa nào trên mặt tôi cả. Điều này khiến tôi ngạc nhiên vì cái đau xé da thịt kia không thể nào không để lại dấu vết trên mặt. Còn tiếng gào, thứ tiếng đau đớn của một con thú bị nạn. Thứ âm thanh chỉ có thể tạo được bởi cơn đau tận cùng xương tuỷ. Phong đã không nghe tiếng gào nào hết khi giật tay tôi quay lui chạy ngược về hướng cũ. Không dám suy tưởng nhiều hơn, tôi chỉ giản dị cho rằng mẹ Phong đã tìm cách cứu chúng tôi bằng tiếng gào mà bà đã không kịp thoát thành tiếng. Tôi đã nghe được thứ âm thanh xé rách màn đêm chọc thẳng óc mình, đã ngửi được mùi máu trên áo kẻ giết người. Nếu không có nhánh cây quật mặt, tôi đã không dừng lại và đã tiếp tục ngoan ngoãn đi theo tên dẫn đường gian ác. Nếu không có tiếng gào, có lẽ tôi vẫn tiếp tục đi không chút ngờ vực. 
 
Tiếng gào và cái đau của nhánh cây quật mặt, cả hai đều thật, thật như nỗi hãi hùng của cuộc thảm sát ghê rợn nơi bờ sông vắng. Tôi đã cảm thấy được tất cả mọi thứ bằng mọi giác quan trên người. Có thể, nhánh cây làm tôi đau nhưng không để lại dấu vết, nhưng còn tiếng gào, tôi phải giải thích làm sao khi Phong không hề nghe có tiếng gào nào hết. Hai đứa tôi đã được báo động cùng một lúc bằng hai hình thức khác nhau. 
 
Và nhờ hành động vụt chạy bất thần khiến tên dẫn đường không kịp trở tay. Nếu không, nếu không... tôi vẫn thường tự hỏi, nếu không, nếu không, chuyện gì sẽ xảy ra và tôi sẽ làm gì nếu gã đàn ông không gờm tay với mình giả như tôi và Phong cùng rơi vào tình trạng sống chết dưới tay hắn? Đây là nỗi ám ảnh không biết đến khi nào tôi mới được quên dù đã yên ổn xứ người nhiều năm sau đó.
 


TIN TỨC THẾ GIỚI


Đại biểu Quốc hội, các ông tướng và Hồ Chí Minh

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-11-17

Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
000_Hkg10109834.jpg
Đại biểu Quốc hội xếp hàng vào lăng CT Hồ Chí Minh trước phiên họp Quốc Hội hôm 20/10/2014.
AFP photo


Năm hết tháng hết nhưng có lẽ những câu chuyện tiếu lâm về Quốc hội chưa bao giờ hết. Dư luận chưa hết bàng hoàng vì lời đề nghị của một vị Hòa thượng đại biểu quốc hội rằng quân đội Việt Nam phải mạnh như Bắc Triều Tiên, thì lại đến chuyện đại biểu Hoàng Hữu Phước bị cho là có triệu chứng tâm thần nhẹ. Thế cho nên có lời bàn rằng nếu muốn ứng cử đại biểu quốc hội thì nên có một cuộc kiểm tra sức khỏe tâm thần.
Blogger Hiệu Minh không đồng ý chuyện này:
Thiển nghĩ, đây là bình luận và giải pháp có hơi hướng về … tâm thần. Một người được nhân dân giao phó trọng trách, đại diện cho khu vực bầu cử, được MTTQ giới thiệu và đảng duyệt lý lịch, thì khó mà nói, người được chọn qua nhiều vòng sơ tuyển lại có vấn đề về sức khỏe.
Ngoài chuyện tâm thần ra thì trình độ để giải quyết những chuyện trọng đại của quốc gia ở nơi được gọi là có quyền lực cao nhất đất nước ra sao?
Quốc hội Việt Nam vốn có một cơ cấu giống như Mặt Trận Tổ quốc, một cơ cấu thường được gọi là cơ cấu mặt trận, tức là ai cũng có phần. Nhưng quyền lực thì lại nằm ở chổ khác! Nó nằm ở Trung ương đảng cộng sản Việt Nam, mà nơi chót vót là Bộ chính trị. Và trên thực tế, chính đảng cộng sản Việt Nam đề ra danh sách các ứng cử viên của quốc hội cho dân chúng đi bầu. Người Việt Nam gọi đó là cơ chế đảng cử dân bầu.
Có người thắc mắc là tại sao đảng quyết định mọi thứ thì cứ hãy quyết định, sao lại đặt ra quốc hội làm gì? Mà thành viên Quốc hội cũng là đảng viên đảng cộng sản? Tại sao lại có hai bộ phận, mỗi bộ phận có hàng trăm con người, rất là tốn kém. Blogger Kami là một trong những người có ý kiến như thế:
Quốc hội hiện nay ở Việt Nam không hề có một thực quyền gì, chứ không phải là cơ quan quyền lực cao nhất như Hiến pháp quy định.
- Blogger Kami
Quốc hội hiện nay ở Việt Nam không hề có một thực quyền gì, chứ không phải là cơ quan quyền lực cao nhất như Hiến pháp quy định. Sự có mặt của Quốc hôi ở Việt Nam thực ra có cũng thế mà không có thì cũng vẫn như vậy. Nó chỉ là bình phong, và phương tiện nhằm hợp pháp hóa các chủ trương chính sách của Đảng CSVN và là vật tô điểm cho bức tranh độc đảng toàn trị  ở Việt Nam. Mà ở đó tất cả mọi quyền hành điều khiển đất nước chỉ do một nhóm người nắm quyền lực chi phối.
Vậy thì ở Việt Nam, sao không để Đảng làm hết mọi việc, cần gì phải có Quốc hội cho tốn tiền thuế của dân?
Và thế là tiền thuế của dân được chi ra xuân thu nhị kỳ cho vài trăm đại biểu tập trung tại Hà nội, năm ngoái thì chuyện rau muống, năm nay thì chuyện đặt tên cho trẻ em. Câu chuyện quan trọng nhất liên quan đến việc tồn vong của quốc gia là sự dòm ngó của nước láng giềng phương Bắc thì rất ít khi nào được bàn đến trong tòa nhà Quốc hội mới tinh khôi vừa được đưa ra sử dụng trong năm nay.
Ngay lúc này đây, một địa điểm mệnh danh là yếu huyệt của nước Việt Nam là đèo Hải Vân đang được giao cho nhà thầu Trung Quốc xây dựng khu du lịch. Đây là một địa điểm mà khi có chiến tranh ai kiểm soát được nó thì sẽ chia nước Việt Nam ra làm đôi.
Cho đến giờ này cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa có ý kiến gì cả.
Họ đang bận tâm vì những chuyện khác.
Các ông tướng
Ông Phùng Quang Thanh, Đại tướng, Bộ trưởng Bộ quốc phòng, và cũng là đại biểu quốc hội đang tha thiết đề nghị Quốc hội Việt Nam chuẩn thuận việc thăng cấp tướng cho nhiều vị có liên quan đến quân đội, trong đó có những vị đang giảng dạy … chủ nghĩa Mác Lê nin.
Blogger Cánh Cò viết
Ông quên xin những điều cần thiết cho người lính là ngân sách để hiện đại hóa quân đội. Ông quên lính để nghĩ tới quan, tới tướng. Ông quên chuyện phòng thủ lãnh thổ mà đem chuyện Mác-Lê Nin ra xin xỏ. Ông làm như Mác-Lê Nin là vũ khí giết được kẻ thù và cố tình không thèm biết cái chủ thuyết ấy nó đã hôi ê từ lâu lắm rồi
Cây bút Thiên Điểu nhận xét:
Phong tướng làm gì khi mà biển đảo, chủ quyền quốc gia liên tục bị xâm hại nhưng không thấy một phát ngôn nào chính danh xứng đáng mặt một tướng lĩnh?
Nói cho công bằng thì các viên chức Việt Nam cao cấp của Chính phủ, kể cả của đảng cộng sản cũng rất tích cực tìm đến những nơi có thể nhờ vả, có thể mua vũ khí hiện đại là châu Âu, là Hoa Kỳ, là Nhật bản,… nhằm chống lại sự đe dọa từ Trung quốc trong một chiến lược gọi là đu dây của họ. Nhưng nếu thế thì lại trở về câu hỏi mà blogger kami đặt ra trong bài viết mới nhất của mình: Đặt ra Quốc hội làm gì cho tốn tiền?
... và Hồ Chí Minh
Ngoài những chuyện vui đùa liên quan tới quốc hội do đảng cộng sản đặt ra, đảng còn tốn nhiều tiền để phong thánh cho các vị tiền hiền của mình nữa, trong đó tốn kém nhất là số lượng tiền của dùng để đánh bóng tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập đảng.
000_Hkg10109836-400.jpg
Từ trái sang: Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch VN Trương Tấn Sang và Thủ tướng VN Nguyễn Tấn Dũng chụp trước lăng CT HCM hôm 20/10/2014. AFP photo

Blogger Hoàng Ngọc Tuấn đã làm một việc nghiên cứu tài liệu rất công phu để biết rằng Đảng cộng sản Việt Nam tung ra rất nhiều tiền để tạo dựng các bức tượng của ông Hồ Chí Minh ở nước ngoài.
Đảng Cộng Sản đã ra sức đánh bóng tên tuổi Hồ Chí Minh để lừa mị lòng tin của người dân Việt Nam bằng đủ trò dối trá. 
Họ liên tục vác những bức tượng Hồ Chí Minh ra nước ngoài tặng cho những địa phương nghèo đói và dốt nát (như quận Cerro Navia ở Chile, chẳng hạn), hay vác những bức tượng Hồ Chí Minh ra nước ngoài để chơi trò trao đổi chính trị và mua chuộc bằng kinh tế đối với những nước nghèo đói (như Cuba, chẳng hạn), rồi họ về nước chỉ thị cho hệ thống truyền thông Việt Nam tung ra hàng loạt tin láo khoét rằng “nhân dân” của nước nọ, nước kia trên thế giới đã tự ý dựng tượng đài Hồ Chí Minh để bày tỏ sự “thành kính và biết ơn đối với Bác Hồ”. 
Kỳ thực, chẳng có “nhân dân” nước nào mà “thành kính và biết ơn đối với Bác Hồ” cả. Thậm chí ở Cuba, một trong vài nước Cộng Sản còn sót lại trên thế giới, thì nhân dân ở đó chẳng những không cần biết Hồ Chí Minh là ai, mà còn bất bình rằng nhà cầm quyền Cuba đã vì những lợi lộc nhỏ nhặt cấp thời mà chấp nhận đặt bức tượng Hồ Chí Minh một cách thiếu thẩm mỹ và vô lối trên đất nước của họ, tại địa phương của họ, chẳng hề tham khảo ý kiến của nhân dân.
Đảng Cộng Sản đã ra sức đánh bóng tên tuổi Hồ Chí Minh để lừa mị lòng tin của người dân Việt Nam bằng đủ trò dối trá.
- Blogger Hoàng Ngọc Tuấn
Của đáng tội là với thời buổi thông tin điện tử, khi càng ra sức phong thánh cho ông Hồ Chí Minh thì thiên hạ lại ngày càng đàm tiếu. Từ chuyện ông có vợ, cho đến chuyện ông bị các nhân vật đàn em vô hiệu hóa. Từ chuyện ông ra lệnh xử tử ân nhân của mình là bà Nguyễn Thị Năm, cho đến chuyện có thể ông là một điệp viên Trung hoa giả dạng. Tất cả những lời đồn đoán hư hư thực thực đó cũng chính là kết quả truyền thông tô hồng của đảng cộng sản, cho ra một kết quả là người ta không tin những gì họ nói nữa mà lại thích nghe những lời đồn.
Những người điềm tĩnh hơn, như dịch giả Phạm Nguyên Trường thì nói với chúng tôi rằng, ông Hồ là một nhân vật lịch sử, nhưng phải xem là ông có công như thế nào, và từ khi ông lên cầm quyền thì có quá nhiều chết chóc. Còn nhà báo Huy Đức thì nói là đừng xem một nhà lãnh đạo có sức thu hút như thế nào mà hãy nhìn xem ông ta để ại di sản gì?
Đương nhiên những câu chuyện đàm tiếu về những đại biểu quốc hội Việt Nam, về những phát ngôn gây cười của họ cũng là di sản của ông Hồ Chí Minh vì đảng của ông cầm quyền từ hơn nửa thế kỷ nay chứ không ai khác.
Nhiều người nhận xét là sự suy yếu dần của trình độ đại biểu quốc hội, hay sự tham chức danh hảo của các vị tướng, suy cho cùng cũng là do sự tha hóa của quyền lực độc tôn.
Xin mượn lời blogger Hiệu Minh nhận định về cơ cấu đảng cử dân bầu, một di sản chính trị trọng đại của đảng sau mấy mươi năm cầm quyền, để kết thúc chương trình điểm blog của tuần này:
Vấn đề là xem ai tâm thần: người cử, người duyệt, người đi bầu hay người được bầu. “Quá trình tuyển chọn” mà tâm thần thì người được bầu dễ mắc thần kinh, dù trước đó anh ta là người bình thường vì cứ phải nói ngược những gì anh ta nghĩ, với thời gian cũng làm cho cho đầu óc không bình thường.
 http://www.rfa.org/vietnamese/programs/ReadingBlogs/congressmen-general-hcm-kh-11172014103522.html

Việt Nam nằm trong top 10 nước có du học sinh đông nhất ở Mỹ

Sinh viên quốc tế chiếm khoảng 4,2% tổng số sinh viên nhập học tại các trường đại học ở Mỹ.
Sinh viên quốc tế chiếm khoảng 4,2% tổng số sinh viên nhập học tại các trường đại học ở Mỹ.
Báo cáo hàng năm của Viện giáo dục quốc tế (IIE) và Bộ Ngoại giao Mỹ công bố cho biết Việt Nam vẫn nằm trong nhóm 10 nước có đông du học sinh ở Mỹ nhất, xếp ở vị trí thứ tám.
Tổng số sinh viên Việt Nam hiện đang theo học tại các trường của Mỹ trong năm 2014 là 16.579 người, tăng 3% so với 16.098 người năm 2013.
Số lượng sinh viên Trung Quốc theo học tại các trường đại học của Mỹ đã tăng 75% trong ba năm qua, lên gần 275.000 người trong năm học 2013-2014.

Báo cáo hàng năm của Viện Giáo dục Quốc tế cho biết sinh viên đến từ Trung Quốc chiếm số lượng đông đảo nhất trong số 886.052 du học sinh nước ngoài ở Mỹ vào năm ngoái, ở mức 31%. Ấn Độ đứng thứ hai, chiếm 12% tổng số và thứ ba là Hàn Quốc với 7,7%.
Theo bản báo cáo, sinh viên quốc tế chiếm khoảng 4,2% của tổng số sinh viên nhập học tại các trường đại học của Mỹ.
Các trường có nhiều sinh viên nước ngoài là Đại học New York, Đại học Nam California và Đại học Illinois tại Urbana-Champaign.
Nguồn: IIE, VOA
 http://www.voatiengviet.com/content/vietnam-nam-trong-top-ten-co-du-hoc-sinh-dong-nhat-o-my/2524469.html

NATO: Nga tăng cường lực lượng 'nghiêm trọng' ở Ukraine

Moscow mô tả các binh sĩ Nga chiến đấu bên cạnh các phần tử ly khai thân Nga là những người tình nguyện.
Moscow mô tả các binh sĩ Nga chiến đấu bên cạnh các phần tử ly khai thân Nga là những người tình nguyện.
Tổng Thư Ký NATO Jens Stoltenberg nói Nga đã thực hiện một hành động “nghiêm trọng” để tăng cường sức mạnh quân sự cả ở bên trong Ukraine và dọc theo biên giới chung với nước này, bằng cách triển khai quân đội và các thiết bị quân sự tiên tiến, kể cả các hệ thống phòng không.
Phát biểu tại Bruxelles hôm nay, ông Stoltenberg kêu gọi Moscow triệt thoái binh lính Nga và “góp phần để tìm một giải pháp hoà bình” tại Ukraine, nơi các thành phần ly khai thân Nga đã chiến đấu chống các lực lượng Ukraine tại đông bộ nước này.

Quân đội Ukraine hôm thứ Ba nói rằng có ít nhất 5 binh sĩ bị giết chết và 8 binh sĩ khác bị thương trong các cuộc giao tranh, tính từ hôm Chủ nhật.

Moscow liên tục bác bỏ tố cáo cho rằng họ trực tiếp hỗ trợ cuộc nổi dậy ở miền Đông Ukraine. Họ mô tả các binh sĩ Nga chiến đấu bên cạnh các phần tử ly khai thân Nga là những người tình nguyện.
Trong khi đó, Ngoại Trưởng Đức Frank-Walter Steinmeier kêu gọi tất cả các bên trong cuộc xung đột tuân thủ lệnh ngưng bắn tháng 9 giữa Kyiv và phe nổi dậy.

Tại London, Ngoại Trưởng Anh Philip Hammond nói Nga phải được liên tục nhắc nhở về những nghĩa vụ của họ trong hiệp định ngưng bắn.
 http://www.voatiengviet.com/content/nato-nga-tang-cuong-luc-luong-mot-cach-nghiem-trong-o-ukraine/2524700.html

Sinh viên Trung Quốc du học Mỹ tăng 75% trong ba năm

Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry (thứ ba từ phải sang) trò chuyện với một trong bốn em học sinh trong buổi lễ trở thành những công dân Trung Quốc đầu tiên được cấp visa Mỹ 10 năm tại đại sứ quán Hoa Kỳ ở Bắc Kinh, 12/11/2014.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry (thứ ba từ phải sang) trò chuyện với một trong bốn em học sinh trong buổi lễ trở thành những công dân Trung Quốc đầu tiên được cấp visa Mỹ 10 năm tại đại sứ quán Hoa Kỳ ở Bắc Kinh, 12/11/2014.
Số lượng sinh viên Trung Quốc theo học tại các trường đại học của Mỹ đã tăng 75 phần trăm trong ba năm qua, lên gần 275.000 người trong năm học 2013-2014.
Báo cáo hàng năm của Viện Giáo dục Quốc tế cho biết sinh viên đến từ Trung Quốc chiếm số lượng đông đảo nhất trong số 886.052 du học sinh nước ngoài ở Mỹ vào năm ngoái, ở mức 31 phần trăm. Ấn Độ đứng thứ hai, chiếm 12 phần trăm tổng số và thứ ba là Hàn Quốc với 7,7 phần trăm.
Việt Nam vẫn nằm trong nhóm 10 nước có đông du học sinh ở Mỹ nhất, xếp ở vị trí thứ tám với hơn 16.500 học sinh.
Các ngành Quản trị Kinh doanh, Kỹ thuật, Toán và Khoa học Máy tính là những ngành học phổ biến nhất với sinh viên quốc tế.
Các trường đại học ở Mỹ rất chú trọng thu hút sinh viên nước ngoài bởi vì họ mang lại sự đa dạng cho các trường và chi trả hoàn toàn học phí.
Theo bản báo cáo, sinh viên quốc tế chiếm khoảng 4,2 phần trăm của tổng số sinh viên nhập học tại các trường đại học của Mỹ. Các trường có nhiều sinh viên nước ngoài là Đại học New York, Đại học Nam California và Đại học Illinois tại Urbana-Champaign.
Cũng theo bản báo cáo, hơn một nửa số sinh viên Mỹ du học ở các nước châu Âu. Anh, Ý, Tây Ban Nha và Pháp là những điểm đến phổ biến nhất.
Nguồn: Bloomberg, IIE.org
http://www.voatiengviet.com/content/sinh-vien-trung-quoc-du-hoc-my-tang-75-phan-tram-trong-ba-nam/2524006.html 



Ấn Độ- Úc thắt chặt quan hệ quốc phòng


media 
Úc - Ấn Độ thắt chặt quan hệ. Ảnh ngày 18/11/2014Reuters
Một ngày sau khi Bắc Kinh và Canbera đạt thỏa thuận về tự do mậu dịch, Úc và Ấn Độ cam kết thắt chặt quan hệ trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh. Tiếp Thủ tướng Narendra Modi ông Tony Abbott cam kết hai bên tăng cương hợp tác trong nhiều lĩnh vực kinh tế.
Sau khi tham dự hội nghị thượng đỉnh G20, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi đã lưu lại thăm chính thức Úc. Trong chuyến thăm này, hai nước đã ký một loạt các hiệp định hợp tác song phương trên các lĩnh vực an ninh, kiểm soát buôn bán ma túy, bảo hiểm xã hội và du lịch.

Sau khi chứng kiến lễ ký các hiệp định hợp tác, Thủ tướng Modi khẳng định hợp tác Úc- Ấn là « quan hệ đối tác tự nhiên, xuất phát từ các giá trị, lợi ích và các vùng hàng hải chiến lược chung của chúng ta ».
Thủ tướng Ấn Độ nói thêm : « An ninh và quốc phòng là những lĩnh vực quan trọng trong mối quan hệ đối tác mới Úc-Ấn nhằm thúc đẩy hòa bình và ổn định trong khu vực, đấu tranh chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia ».

Đây là chuyến thăm Úc đầu tiên kể từ 28 năm nay của một thủ tướng Ấn Độ. Gần đây hai nước đã tỏ cho thấy nhiều dấu hiệu xích lại gần nhau. Hai tháng trước, nhân chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Úc Tony Abbott, hai nước đã ký thỏa thuận hợp tác hạt nhân dân sự. Thỏa thuận này cho phép New Dehli mua nguyên liệu uranium của Canbera.

Trong lĩnh vực kinh tế, Thủ tướng Ấn Độ bày tỏ mong muốn phát triển mạnh hơn nữa các hợp tác song phương sao cho các doanh nghiệp Ấn Độ có thể thâm nhập thị trường Úc dễ dàng hơn. Ông Modi nói hai nước còn có nhiều cơ hội mở rộng hợp tác trong mọi lĩnh vực như nông nghiệp, khai thác tài nguyên, năng lượng, tài chính, hạ tầng cơ sở và khoa học công nghệ.

Trước chuyến thăm của lãnh đạo Ấn Độ một hôm, Úc và Trung Quốc ngày 17/11/2014 thông báo đã đạt thỏa thuận tự do mậu dịch sau 9 năm thương lượng. Canbera hy vọng thỏa thuận ký với Bắc Kinh sẽ mở ra cho các doanh nghiệp Úc một thị trường rộng lớn với giá trị trao đổi hàng tỷ đô la mỗi năm.
Thủ tướng Úc mong muốn từ nay đến cuối năm cũng sẽ ký được thỏa thuận tương tự về tự do mậu dịch với New Delhi.
  http://vi.rfi.fr/141118-uc-ando/



Miến Điện : Aung San Suu Kyi không thể làmTổng thống


media 
Triển vọng trở thành Tổng thống Miến Điện của bà Aung San Suu Kyi thêm xa vời ? Ảnh ngày 31/10/201REUTERS/Aung Myin Yezaw
Cuối năm 2015, Miến Điện tổ chức bầu cử. Trong tiến trình đấu tranh thúc đẩy cải cách dân chủ, phe đối lập, với nòng cốt là Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ, đòi phải sửa đổi Hiến pháp, vốn được ban bố từ thời chế độ quân sự độc tài, để lãnh đạo đối lập, bà Aung San Suu Kyi, có thể trở thành Tổng thống. Các cuộc thương lượng đang diễn ra. RFI phỏng vấn ông Maël Raynaud nhà phân tích độc lập, chuyên gia về Miến Điện.
RFI : Xin chào ông Mael Raynaud. Một ủy ban sửa đổi Hiến pháp đã được thành lập. Ủy ban này phải có ý kiến về hai điều khoản chính gây vấn đề, đó là điều khoản ngăn cản bà Aung San Suu Kyi trở thành Tổng thống và điều khoản cho phép quân đội nắm quyền kiểm soát chính quyền. Vậy ủy ban này có cơ may tạo được một sự thay đổi nào đó hay không ? 

Maël Raynaud : Rất tiếc là không. Tôi xin thông báo một tin xấu mà tôi vừa nhận được. Tôi nói chuyện qua điện thoại với các đồng nghiệp ở Naypyidaw, thủ đô Miến Điện và được biết : Chính quyền đã ra quyết định và bà Aung San Suu Kyi sẽ không thể trở thành tổng thống Miến Điện.

Lần này, Quốc hội mà người ta gọi Pythu Hluttaw tại Miến Điện, sẽ không thay đổi quyết định. Tôi nghĩ là đã quá muộn. Giờ đây, vấn đề cần biết là đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ - NLD và bà Aung San Suu Kyi sẽ phản ứng như thế nào, liệu họ có quyết định tẩy chay cuộc bầu cử hay vẫn tham gia ? Có lẽ họ sẽ tham gia, nhưng lần này, bà Aung San Suu Kyi không thể trở thành Tổng thống.

RFI : Liệu có thể đạt được một thỏa hiệp trong những điều kiện như vậy hay không ?
Maël Raynaud : Đúng là từ nhiều tháng nay, bà Aung San Suu Kyi thảo luận, đặc biệt là với Chủ tịch Quốc hội, ông Shwe Mann và họ cố gắng cùng nhau tìm cách đạt được một sự dàn xếp nào đó, chỉ liên quan đến Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ. Nếu Liên đoàn thắng cử, và trường hợp này dường như chắc chắn sẽ xẩy ra trong cuộc bầu cử vào cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 2015, thì cần phải dàn xếp ra sao để đảng này có thể chia sẻ quyền lực với các đại diện của quân đội, hiện vẫn là lực lượng chính trị lớn nhất ở Miến Điện, trong lúc Chủ tịch Liên đoàn, bà Aung San Suu Kyi lại không nắm chức Tổng thống. Cần phải tìm được một sự cân bằng và các cuộc thương lượng đang diễn ra. Có nhiều lý do để nghĩ rằng bằng cách này hay cách khác, sẽ có một giải pháp.

RFI : Vậy bà Aung San Suu Kyi có thể chấp nhận chức vụ gì trong tân chính quyền Miến Điện ?
Maël Raynaud : Theo Hiến pháp 2008, có hai Phó Tổng thống và bà Aung San Suu Kyi có thể là một trong hai người này. Bà cũng có thể giữ chức Chủ tịch Quốc hội, thay thế ông Shwe Mann. Đây là hai chức vụ có nhiều khả năng nhất, và theo tôi, chắc chắn sẽ có một sự dàn xếp, thỏa hiệp.

RFI : Điều đó có nghĩa là bà Aung San Suu Kyi vẫn luôn luôn là chính khách dóng vai trò trung tâm trong phe đối lập. Ai có thể thay thế bà ?
Maël Raynaud : Chắc chắn bà Aung San Suu Kyi vẫn là nhân vật trung tâm trong phe đối lập và đương nhiên, đại đa số người dân Miến Điện mong muốn là bà Aung San Suu Kyi trở thành Tổng thống. Tiếc thay, mong muốn của họ không được đáp ứng.

Điều hiển nhiên là bà Aung San Suu Kyi vẫn là nhân vật chính trong phe đối lập Miến Điện. Vậy ai có thể thay thế bà ? Rất tiếc là không. Bản thân bà Aung San Suu Kyi cũng không có năng khiếu đào tạo người thay thế. Bà có vai trò trụ cột và bà duy trì vị trí này. Chắc chắn, đây cũng là một vấn đề đối với tương lại của Miến Điện.

RFI : Các cuộc xung đột với các cộng đồng thiểu số cũng đè nặng lên tương lai Miến Điện. Có một tiến trình tái lập hòa bình đang diễn ra. Mọi việc hiện nay đến đâu rồi ?
Maël Raynaud : Có hai điểm. Trước tiên - và đây là thông tin tốt đẹp – là nhìn chung, chính phủ, quân đội và các cộng đồng thiểu số thảo luận với nhau. Tại Miến Điện hiện nay, không còn có những cuộc xung đột giống như tình hình trong những năm 1970. Rất tiếc là thỉnh thoàng, đâu đó, vẫn diễn ra các cuộc đọ súng. Nhưng nhìn trong tổng thể, chiến sự đã ngưng.

Điểm thứ hai, liên quan đến sự thành công của tiến trình này. Người ta có thể nghi ngại một chút nào đó. Nhưng rõ ràng cả hai bên đều có những nỗ lực thực sự. Vấn đề là chính phủ ngay từ đầu đã quyết định cần tiến xa hơn là việc đạt được một thỏa thuận ngừng bắn đơn giản, bằng cách cố đạt được một hiệp định chính trị. Điều này rất khó thực hiện. Người ta sẽ thấy tiến trình này bị chệch choạng ra sao, nhưng vào lúc này, người ta có thể lạc quan bởi vì chiến sự đã ngưng và đồng thời, người ta cũng hơi bi quan một chút, bởi vì tiến trình này có vẻ không mang lại kết quả.

RFI : Từ khi lên cầm quyền, cách nay 18 tháng, ông Thein Sein đã đóng vai trò như một học sinh giỏi của phương Tây, thực hiện một loạt các cải cách, đến mức là Hoa Kỳ bãi bỏ trừng phạt. Giờ đây, khả năng hành động của ông ra sao ?
Maël Raynaud : Không chỉ Mỹ mà cả Liên Hiệp Châu Âu đều bãi bỏ trừng phạt. Điều thứ nhất mà tôi muốn nói là hãy chấm dứt kiểu nhìn nhận Miến Điện và Tổng thống Thein Sein như là những người tìm mọi cách để làm hài lòng phương Tây.

Miến Điện là một nước có 51 triệu dân và có những vấn đề chính trị nội bộ. Tổng thống Thein Sein phải nghĩ tới người dân, nghĩ tới quân đội đứng sau lưng ông và ông cũng phải nghĩ tới những nhân vật như bà Aung San Suu Kyi. Khi tôi nói, ông Thein Sein nghĩ tới những người này, không có nghĩa là ông nhất thiết đồng ý với họ, nhưng ông phải chú ý tới họ và mối quan tâm của ông còn hơn nhiều người ngoại quốc.

Ông Thein Sein vẫn có khả năng hành động để tiếp tục thực hiện các cải cách. Tiến trình cải cách sẽ còn kéo dài hơn một năm, bởi vì trong một năm nữa, ông có thể rời chức Tổng thống. Nhưng thực ra với mối quan hệ của ông với phương Tây, rất có thể là Miến Điện sẽ tiếp tục có quan hệ tốt đẹp với phương Tây, ít ra là cho tới sang năm.

RFI : Phải chăng Hoa Kỳ đã quá vội vã kỳ vọng vào tiến trình này, theo như nhận định của bà Aung San Suu Kyi ?
Maël Raynaud : Tôi hiểu điều bà Aung San Suu Kyi nói, bởi vì bà nghĩ như vậy và bà cũng có một sự tính toán chính trị nào đó. Nếu bà nói rằng chính phủ đã thực hiện tốt nhiệm vụ của mình thì bà sẽ không còn lập luận gì nữa để chống lại họ về chính trị trong các cuộc bầu cử sẽ diễn ra vào năm tới. Điều thứ hai, đối với Hoa Kỳ, tại một nước như Miến Điện, tiến trình chuyển đổi, cải cách rất phức tạp. Hoa Kỳ không có một sự lựa chọn nào khác là phải đi cùng, hỗ trợ tiến trình này.
Ông Mael Raynaud , chuyên gia về Miến Điện 18/11/2014 


LE QUANG VINH * LIỆT NỮ TƯỜNG VY

Chuyện người Liệt nữ “Nam tiến” làng Vĩnh Lộc: Đinh Kế Thị Tường Vi
(Xây dựng) - LTS: Chị Đinh Kế Thị Tường Vi - Làng Vĩnh Lộc, xã Quảng Lộc, huyện Quảng Trạch (tên mới là Thị xã Ba Đồn), tỉnh Quảng Bình; có lẽ là người phụ nữ trẻ nhất, đầu tiên của của quê hương Quảng Bình tham gia Quân đội nhân dân VN trong thời kỳ chống Pháp. Người con gái mới 16 tuổi, theo truyền thống Bà Trưng, Bà Triệu cùng Lời hiệu triệu cứu nước của Bác Hồ; chị đã "Tòng quân Nam tiến” đợt I, vào cuối năm 1946. Sau gần 5 năm chiến đấu trên mặt trận nóng bỏng và ác liệt nhất ở Thừa Thiên Huế - Chiến khu Ba Lòng (Phân khu Bình Trị Thiên), năm 1951 khi vừa tròn 20 tuổi, chị Tường Vi đã anh dũng hy sinh tại Phong Thu (Phong Điền), dâng trọn tuổi thanh xuân đẹp nhất trong cuộc đời cho non sông đất nước.

 

Nhân dịp Kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập QĐNDVN (22/12/1944 - 22/12/2014), TS trân trọng giới thiệu tấm gương của người Liệt nữ Đinh Kế Thị Tường Vi cùng bạn đọc qua bài viết “Chuyện người Liệt nữ “Nam tiến” làng Vĩnh Lộc Đinh Kế Thị Tường Vi” của Nhà báo Lê Quang Vinh.
Liệt Nữ Tường Vi
Trên Chiến khu Ba Lòng
Người con gái mà Đại tá Lê Phương nói đến trong Hồi ký “Trên Chiến khu Ba Lòng” (Tác phẩm mới công bố gần đây); bị giặc giết trong một trận càn, đó là chị Đinh Kế Thị Tường Vy, con gái cụ Đinh Kế Tác - Người làng Vĩnh Lôc, xã Quảng Lộc, thị xã Ba Đồn (tên cũ là huyện Quảng Trạch), tỉnh Quảng Bình:
“Tôi cảm phục người bạn gái cùng quê đã anh dũng chống lại bọn lính gian ác khi chúng toan hãm hiếp chị. Chị đã bị bắn chết trên bãi cát, với thân thể lõa lồ, tang thương”. Đoạn hồi ký kể về cuộc càn của giặc Pháp trên vùng rừng núi có tên Phong Thu, thuộc Phân khu Bình Trị Thiên năm 1951, được ông Lê Phương viết bằng cả trái tim yêu thương đồng chí đến nao lòng và hờn căm chất chứa bởi sự dã man của giặc khiến trời xanh cũng phải quặn đau. Hồi ký của người chiến sĩ “trong cuộc”, nóng bỏng đến ngày nay:
“Tôi nhớ đến mùa chiến dịch, cùng cán bộ cơ quan về xuôi đi chiến đấu. Lúc này, tôi không trực tiếp cầm súng nhưng không phải ở mãi sau trận tuyến. Chúng tôi phải “nhanh như điện”, chuyển tải những mệnh lệnh chiến đấu, những lời động viên của cấp trên, những tờ báo theo sau gót người chiến sĩ. Cùng ém quân phục kích đoàn xe lửa trên cầu Mỹ Chánh, đánh ở Liêm Công Tây, Liêm Công Đông. Chiến dịch Lê Lai, Phan Đình Phùng đều có mặt. Trong cuộc chiến đấu đó, tôi đã bị thương, nhỏ giọt máu đào cho Tổ quốc.Tôi nhớ trận địch lùng ở Phong Thu (huyện Phong Điền – Thừa Thiên), vì sơ hở mà của mất người hy sinh. Cả cơ quan bị bao vây như trong một cái túi. Trên Trời máy bay, sau lưng quân bộ, dưới sông ca nô.

Chúng tôi, những người lính văn phòng, không một tấc sắt để chống cự; chỉ kịp tiêu hao tài liệu, công văn. Mở đầu trận lùng, bọn giặc trên máy bay bắn bị thương đồng chí Dung nằm cách tôi một thước. Tiếng Dung gọi: “Phương ơi, tao bị thương rồi”! Trong tay không có một cuộn băng nào, phải mau chóng đưa Dung vào nấp trong bụi rồi xé áo băng bó cho bạn.

Tôi cảm phục người bạn gái cùng quê đã anh dũng chống lại bọn lính gian ác khi chúng toan hãm hiếp chị. Chị đã bị bắn chết trên bãi cát, với thân thể lõa lồ, tang thương. Tôi mến thương người chị gái nuôi quân (lâu ngày quên mất tên), lấy thân mình che đạn cho mẹ con một cháu bé. Chị hy sinh cách tôi không đầy một cánh tay.
Giờ phút nguy cấp, tiếng loa của giặc rõ dần, không còn cách nào khác là vứt hết đồ đạc, chôn tài liệu và bơi qua sông. Sông không rộng, nhưng nước chảy mạnh. Tôi cố lấy hết sức bơi sang đến bờ thì kiệt sức, nằm sóng sượt. Tiếng ca nô của địch ầm ầm, các đồng chí đều phải chạy, hướng thẳng lên rừng, sau lưng đạn bay như mưa.
Sau trận lùng ấy, mỗi người chỉ sót lại chiếc quần đùi mặc trên người, bụng thì đói, cắn răng thoát hiểm tìm về căn cứ. Các đơn vị bạn mở cuộc “lạc quyên” giúp đỡ chúng tôi, cùng nhường cơm xẻ áo. Chúng tôi lại bắt tay xây dựng nhà cửa. Lao động quần quật suốt ngày. Trận lụt năm 1951 phá hoại ghê gớm tài sản của đồng bào. Bình Trị Thiên đã nghèo lại nghèo thêm, đã khổ lại khổ thêm. Bao kho gạo dự trữ cho kháng chiến bị ngập.

 Gạo ngâm nước lụt lâu ngày phơi khô mốc ẩm, lên men. Nấu cơm lên thối đến nỗi cho chó chó chê, cho lợn lợn không ăn. Cơm nấu xong, xới ra trên lá môn quạt hết hơi đến nguội để bớt thối. Thế nhưng, mấy hôm đầu không ai ăn được. Cái đói giày vò, cái bụng bắt phải nuốt, công việc bắt phải ăn, nhắm mắt nhắm mũi mà đút vào mồm. Anh em ăn vào đi lỏng, ra toàn vỏ gạo (vì gạo chưa xát). Dần dần bụng chúng tôi cũng phải quen với loại cơm đáo để này và đành phải “làm bạn” với nó hàng tháng trời.
Ăn uống như thế, nên nhiều đồng chí đã “quỵ xuống” vì mệt nhọc, vì sốt rét... Gạo đã thiếu thuốc càng thiếu hơn. Lên cơn sốt rét thì đắp chăn mà run. Có được viên thuốc quinine vàng liền hoà ra hàng lít nước để chia nhau.
Trong gian nan mới thật thương nhau. Tình đồng chí xây bằng máu. Cứ mỗi lần đồng chí nào về xuôi lên mang theo được lon gạo nếp, không nỡ ăn một mình, mà mượn cái nồi to đổ thật nhiều nước, nấu cháo húp mỗi ngưòi một bát.
Gian khổ, đói rét không làm chúng tôi lung lay, lòng vẫn lạc quan tin tưởng. Những ngày ở chiến trường Bình Trị Thiên thực sự là “trường học” rèn luyện thử thách, đào tạo nên người chiến sĩ. Song cũng có những kẻ hèn nhát, tham sống sợ chết, dao động hoang mang, không chịu nổi đã đầu hàng giặc.”
Chị Đinh Kế Thị Tường Vi trong đoạn văn trích, được kể lại chân thực và vô cùng kiệm lời, nhưng đủ để hiển hiện lên hình ảnh chị là một nữ “Anh hùng Liệt sĩ” khá tiêu biểu: kiên trinh, bất khuất, hy sinh anh dũng đến giọt máu cuối cùng giữa bầy lang sói; chị quyết không thể cho chúng làm nhục nhằm giữ nguyên phẩm tiết của người con gái tuổi xanh, hiến dâng trọn vẹn cuộc sống tươi đẹp nhất cho Tổ quốc lúc lâm nguy.
Ngay sau khi trận càn xẩy ra tại Phong Thu 1951, tổ chức và đoàn thể hồi ấy cũng đã nắm rõ vì sao chị Tường Vi hy sinh. Nhiều vị lão thành tham gia kháng chiến chống Pháp cùng thời Đại tá Lê Phương và chị Tường Vi, hiện vẫn còn nhớ chi tiết về sự hy sinh của người nữ điệp báo này: Chị Đinh Kế Thị Tường Vy là người trực tiếp quản lý và sử dụng điện đài trong đơn vị, nên khi bị giặc vây chặt tứ phía, theo phản ứng nghiệp vụ của công tác (cơ yếu) mà chị đã được huấn luyện (người “đặc trách” điện đài), chị phải mau chóng hủy máy móc cùng mọi tài liệu liên quan (“Tôi nhớ trận địch lùng ở Phong Thu, vì sơ hở mà của mất người hy sinh. Cả cơ quan bị bao vây như trong một cái túi. Trên Trời máy bay, sau lưng quân bộ, dưới sông ca nô.

Chúng tôi - những người lính văn phòng - không một tấc sắt để chống cự; chỉ kịp tiêu hao tài liệu, công văn.”). Vào thời đó (1950 - 1951), phương tiện vô tuyến điện đài quân sự kết cấu còn khá cồng kềnh và rất nặng; vật liệu gần như 100% sắt thép có độ bền chắc cao...Bình thường, người có sức khỏe phá được cỗ điện đài loại này cũng rất khó. Vì thế thời gian để cho chị thực hiện xong nhiệm vụ đương nhiên bị kéo dài hơn so mọi chiến sĩ khác, khiến cơ hội phá vòng vây thoát địch là vô cùng ngặt nghèo.

Chị Tường Vi phải dồn mọi khả năng, sức lực để quyết phá hủy bằng được phương tiện thông tin chỉ huy chỉ trong mươi lăm phút nguy cấp. Đó là chiến công rất có ý nghĩa của công tác bảo mật trên chiến trường. Chiến công này thực sự đặc biệt so với sức lực của một người con gái bé nhỏ trong hoàn cảnh tính mạng “ngàn cân treo sợi tóc”. Do đó, chị Tường Vi bị sa vào tay giặc là điều cực kỳ khó tránh khỏi. Tuy nhiên, nhờ có chiến công của chị mà sau trận càn, mọi tài liệu bí mật của cơ quan Phân khu bộ Bình Trị Thiên đã không bị rơi vào tay giặc; thế trận trên toàn tuyến Chiến khu Thừa Thiên - Ba Lòng (Quảng Trị) - Tây Quảng Bình những ngày tiếp theo vẫn được giữ vững.
Là một phụ nữ rất đẹp, tuổi mới 20 – 21, căng phồng nhựa sống; bọn giặc như bầy quỷ dữ, không thể bỏ qua cơn khát thú tính cùng sự hung ác tột độ, chúng đã dùng sức mạnh tập thể cưỡng bức hãm hiếp chị. Chúng lột trần quần áo người con gái ngọc ngà, nhưng rõ ràng không thể nào thực hiện được sự đồi bại vì chị Tường Vi ngoan cường chống trả quyết liệt. Dầu biết sẽ chết, chị quả cảm bảo vệ đến cùng phẩm tiết của mình. Vì thế lũ quỷ cay cú cùng bản chất hung bạo, liền xả súng bắn chết người con gái trung dũng, kiên cường của quê hương Vĩnh Lộc chúng ta.
Theo hồi ký "Trên Chiến khu Ba Lòng" của ông Lê Phương, trận càn phục kích này của giặc Pháp, đơn vị ông hy sing mất 2 nữ đồng chí và 1 chiến sĩ nam bị thương. Rõ ràng gương hy sinh của “người bạn gái cùng quê”,“người chị gái nuôi quân lấy thân mình che đạn cho mẹ con một cháu bé” và của “đồng chí Dung” (bị thương) là vô cùng anh dũng, rất điển hình trong chiến tranh. Ở khía cạnh này, các anh chị đã chiến thắng cả đội quân hung hãn của giặc để hoàn thành sứ mạng của người chiến sĩ vệ quốc “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh!”.

Đoạn hồi ký của Đại tá Lê Phương (trích dẫn) ngắn gọn, hàm súc nhưng lột tả được hiện thực bi tráng về cái chết oanh liệt của hai nữ Liệt sĩ trong sự nghiệp cứu nước và cách mạng của nhân dân ta thời kỳ kháng chiến chống Pháp; khiến người đọc hôm nay phải quặn lòng vì quá xot xa...Chắc chắn hai chị sẽ còn sống mãi trong ký ức của nhiều thế hệ con cháu cũng như quê hương xứ sở. “Tôi mến thương người chị gái nuôi quân (lâu ngày quên mất tên), lấy thân mình che đạn cho mẹ con một cháu bé. Chị hy sinh cách tôi không đầy một cánh tay” - Càng đau đớn bội phần, vì Đại tá Lê Phương còn không thể nhớ lại nổi tên người nữ đồng chí ấy (chuyện xẩy ra từ năm 1951, hồi ký được viết năm 1959). Quá đau, quá thương cảm vì sự hy sinh mất mát đến tột cùng! Một Nữ Anh hùng “VÔ DANH”!
Lời kể của cựu Phó chủ nhiệm Việt Minh xã Vĩnh Trạch
Ông Đinh Duyệt, năm nay 95 tuổi – Cán bộ Tiền Khởi nghĩa, Huy hiệu 65 tuổi Đảng (2012), nguyên Chuyên viên Cao cấp công tác tại Toà án Nhân dân Tối cao; hiện nghỉ hưu tại quê nhà là thôn Vĩnh Lộc, xã Quảng Lộc, Thị xã Ba Đồn (huyện Quảng Trạch cũ), tỉnh Quảng Bình; khi được tiếp xúc Hồi ký "Trên chiến khu Ba Lòng" của em trai vợ mình (Bà Lê Thị Toán) là Đại tá Lê Phương, nguyên sĩ quan công tác tại Cục Chính trị Bộ tư lệnh Phòng không – Không quân (thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đến ngày nghỉ hưu), lòng bồi hồi xúc động nhớ lại: Chị Đinh Kế Thị Tường Vi có Thân phụ là cụ Đinh Kế Tác, tục danh “Xu Tác” - Một nhà thầu khoán (Sur veilzan) có tiếng thời Pháp thuộc; rất yêu nước và có nhiều công lao đóng góp đối với quê hương.

Cụ cùng nhà thấu khoán và là bạn thân quê ở làng bên Hoà Ninh (nay là xã Quảng Hoà, Thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình) tên là Đoàn Phiến, tục danh “Xu Phiến” cùng chung tiền của công sức xây dựng nên Trường tiểu học Élémenter Hoà Ninh cho con em mấy làng vùng Nam phủ Quảng Trạch thời đó: Hoà Ninh, Vĩnh Lộc, Phú Trịch, Vĩnh Phước, Minh Lệ, La Hà...có nơi học tập. Riêng với mảnh đất chôn rau cắt rốn là làng Vĩnh Lộc, cụ Đinh Kế Tác đã bỏ công của vật lực đắp xếp 2 con kè lớn bằng đá hộc lẫn đá sa thạch để ngăn luồng nước xiết chống xói lở giải đất ven sông làng Vĩnh Lộc, làng Phú Trịch (phía Rào Đơờng

 - Nguồn Nậy sông Gianh, nhánh chảy qua các làng Vĩnh Lộc, Cồn Sẻ và Văn Lôi). Hai con kè đá này sau gần cả trăm năm hiện vẫn còn y nguyên tác dụng (đắc dụng). Nếu chiến tranh Pháp - Việt không nổ ra, cụ đã hoàn thành tâm nguyện xây dựng một cây cầu cho cả 2 làng Vĩnh Lộc – Hoà Ninh liền bờ, vị trí định xây dựng gần lối bến sông cạnh nhà ông Đặng Phụng, để đi ra đường “Kiệt Ngang” Hòa Ninh qua chợ Mới (Minh Lệ).
Ông Đinh Duyệt - cán bộ "Tiền Khởi nghĩa", năm nay 95 tuổi.
Chị Đinh Kế Thị Tường Vi là một cô nữ sinh hiếm hoi thời đó ở vùng quê nghèo Vĩnh Lộc, được bọ mạ (cha mẹ) gửi vào Kinh đô Huế cho ăn học và chị đã học thêm một nghề “thời thượng” lúc đó là đánh máy chữ cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt. Thế rồi cuối năm 1946, Pháp núp bóng quân Anh trở lại đánh chiếm Sài Gòn – Gia Định và cả Nam bộ. Hưởng ứng “Lời Hiệu triệu cứu nước” ngày 20 tháng 12 năm 1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh (đêm hôm trước 19/12/1946, chiến sự bùng nổ - mở đầu Ngày “Toàn quốc kháng chiến”), chỉ trong 2 tháng cuối năm 1946 - đầu năm 1947, nhân dân Thẻ Làng (chỉ riêng Giáp Đông) đã có 3 đợt nam nữ thanh niên xung phong “Nam tiến” để cùng quân dân Nam Bộ đánh giặc.

Đợt “Nam tiến” đầu tiên, có 4 anh chị em, trong đó có chị Đinh Kế Thị Tường Vi. (Thẻ Làng: tục danh; tên chữ là “Thị Lang” có từ thời Nhà hậu Lê, đời sau đổi thành: làng “Vĩnh Khang”, rồi “Vĩnh Lộc”. Riêng Làng Vĩnh Lộc phía Bắc sông Hoà Ninh goị là “Giáp Đông”, không bao gồm “Xóm Vụng”; một phần làng Vĩnh Lộc ở phía Nam sông Hoà Ninh, goị là “Giáp Đoài”).
Ông Đinh Duyệt nhớ lại như in, hình ảnh cô em gái nhỏ nhắn, tóc dài, nước da trắng nõn nà nhưng bặm trợn khi lên vị trí diễn giả để tranh luận với đám thanh niên cũng đang hừng hực khí thế “Nam tiến”. Khi mấy cán bộ Việt Minh thấy rõ mồn một chị Tường Vi là cô gái còn quá nhỏ tuổi (chị là bạn học với anh Lê Phương - sinh năm 1932, so các anh cùng đăng ký “Nam tiến” đợt I này ít hơn ngót chục tuổi), thân hình lại "liễu yếu đào tơ", dứt khoát không tiếp nhận và để chị kê khai lý lịch cũng như viết quyết tâm bày tỏ nguyện vọng lên đường ...; chị Đinh Kế Thị Tường Vi liền “nhảy phốc” lên cướp lời mọi người, với giọng vô cùng dõng dạc, dứt khoát:

“Ông cha ta đã dạy rồi, giặc đến nhà, đàn bà cũng phải đánh. Tui (tôi) tuy là “đàn bà con gái” nhỏ tuổi, nhỏ người nhưng ăn thua là ở cái tinh thần đánh giặc cứu nước chứ không phải vì con gái hay tuổi nhỏ, người nhỏ mà bỏ qua”. Thế là không ai còn cản được chị Đinh Kế Thị Tường Vi lên đường “Nam tiến” cùng 3 trai làng khác là anh Đinh Xuân Dật (tên trong Bằng Tổ quốc ghi công: Liệt sĩ Đinh Thụy Sơn), Nguyễn Đăng Khoa và Đinh Như San.

Chị Đinh Kế Thị Tường Vi, hai anh Đinh Xuân Dật và Đinh Như San hy sinh trong những năm đầu và giữa cuộc kháng chiến chống Pháp; còn anh Nguyễn Đăng Khoa (sinh năm Quý Hợi – 1923) may mắn sống sót, tiếp tục chiến đấu suốt gần 30 năm trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp - Mỹ và xây dựng quân đội sau Hoà Bình và đất nước thống nhất, là sĩ quan với cấp bậc “Thiếu tá”. Cụ qua đời cách đây 17 năm (27/11/Đinh Sửu - 1997) khi đã về nghỉ hưu nhiều năm tại quê nhà.
Buổi đăng ký cho thanh niên lên đường “Nam tiến” đợt đầu tiên này diễn ra tại đình làng Vĩnh Lộc (ngôi đình giữa cánh đồng, đã bị triệt phá sau Cải cách ruộng đất mấy năm). Thời điểm này, Cụ Nghè Cơ Nguyễn Bá Ky là Chủ nhiệm Việt Minh xã Vĩnh Trạch (xã Quảng Lộc sau này); ông Đinh Duyệt (cháu gọi Cụ Nghè là “Cậu ruột”) – Cấp Phó của Cụ. Hai cậu cháu chính là hai cán bộ Việt Minh nòng cốt, cao nhất tổ chức các cuộc lên đường “Nam tiến” trên quê hương mình.
Anh Đinh Như San có người anh ruột là Đinh Như Hằng, tham gia lực lượng vũ trang tại địa phương và cũng hy sinh anh dũng trong trận chống càn đầu tiên của quân Pháp vào phía Nam Quảng Trạch đầu năm 1947. Hai anh em Đinh Như Hằng và Đinh Như San là con trai cụ Đinh Thị Vặt - tục danh “Giang Ưa”. Cụ là O ruột (cô ruột) của ông Đinh Duyệt. Hiện địa phương đang làm các thủ tục để đề nghị Chủ tịch nước Truy tặng Danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng” cho cụ Giang Ưa.
Mối lương duyên ngày lên đường và bức hình còn lại
Thạc sĩ Nguyễn Bá Sinh, nguyên Phó giám đốc “Công ty Tư vấn – Đầu tư xây dựng Giao thông - Công chính Hà Nội”, con thứ 5 của cụ Nghè Cơ Nguyễn Bá Ky (như đã nói, cụ Nghè Cơ Nguyễn Bá Ky chính là cậu ruột của ông Đinh Duyệt), khi đọc hồi ký “Trên Chiến khu Ba Lòng”, đã chia sẻ những tư liệu rất quý về mối tình đầu và bức ảnh “duy nhất còn lại” mà gia đình đang thờ phụng người nữ anh hùng liệt sĩ này:
“Những ngày sau CM tháng 8, chị Đinh Kế Thị Tường Vy là một nữ sinh trung học; đã tham gia hoạt động phụ nữ cùng chị gái tôi là Nguyễn Thi Ngọc Lan. Chị Nguyễn Thi Ngọc Lan sau này trở thành vợ của người cán bộ Việt Minh - Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên (Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng).
Dạo đó, chị Đinh Kế Thị Tường Vy hay sang nhà tôi ở "bên Xóm" (một phần làng Vĩnh Lộc phía Nam sông Hoà Ninh, người xưa goị là “giáp Đoài”) để cùng chị Lan trù tính công tác đoàn thể. Dáng người chị Tường Vi thanh mảnh, xinh xắn; nước da trắng trẻo, mái tóc tha thướt tôn vẻ đẹp dịu hiền như người con gái xứ Huế.
Ông Nguyễn Văn Phầu và Thạc sĩ Nguyễn Bá Sinh
Tôi có người chú họ tên là Nguyễn Văn Phầu, sinh năm 1925, học trường Khải Định - Huế. Chú tôi vào “Vệ quốc đoàn” năm 1949; sau đó được điều ra Việt Bắc học “Trường Sĩ quan Lục quân”; rồi được giữ lại làm cán bộ “huấn luyện”. Đến năm 1959, với quân hàm “trung úy”, chú chuyển ngành sang công tác tại Bộ Lao động (nay là Bộ Lao động – Thương binh & Xã hội). Tại đây, ông tiếp tục học lên Đại học Giao thông – Vận tải (chuyên ngành “Cơ khí ô tô”), làm việc suốt mấy chục năm ở Bộ. Trước khi nghỉ hưu, ông là Vụ trưởng “Vụ Định mức & Tổ chức Lao động”.
Ông Nguyễn Văn Phầu, sinh năm 1925, nay đã 90 tuổi.
Chú Phầu tôi cùng làng với chị Đinh Kế Thị Tường Vy nên hai người biết nhau từ tấm bé và khi còn lứa truổi "học sinh", đã rất mến rồi đâm lòng yêu thương chị. Có lẽ do “Duyên Trời” (Thiên duyên) nên hai người dễ dàng có "hẹn ước". Ôông mệ (ông bà) tôi đã có “cơi trầu”, “chai rượu” sang thưa với Ôông mệ bên nhà chị xin được kết giao “thông gia”. Nhưng rồi, còn đâu ! Kháng chiến bùng nổ. Sau khi mặt trân Huế vỡ, quân Pháp đánh lan ra Quảng Trị, Quảng Bình. Khói lửa ngút trời. Những chàng trai cô gái làng tôi như anh Lê Phương, chị Tường Vy, chúPhầu tôi... rời làng lên đường đi chiến đấu. Lúc chia tay, chị Tường Vy tặng chú tôi một tấm ảnh nhỏ (cỡ 3x4 cm ảnh snows ) làm kỷ niệm – như lời "hẹn ước trăm năm" của đôi trai gái.
Chị được tổ chức điều vào Phân khu Bình Trị Thiên làm công tác điện đài (mật mã); còn chú Phầu tôi ra Bắc học Trường sỹ quan lục quân. Rồi một hôm từ Việt Bắc, chú Phầu tôi nhận được tin sét đánh: Trong một trận càn của giặc, chị Tường Vy đã lọt vào tay giặc và anh dũng hy sinh như lời kể của anh Lê Phương trong hồi ký “Trên chiến khu Ba lòng”. Từ đó, bức hình chị Tường Vi đối với chú Phầu tôi là “chứng nhân” của mối tình nồng thắm “thuở ban đầu” và cả quê hương yêu dấu trong ba lô người chiến sỹ trên mỗi bước hành quân suốt cả chiều dài hai cuộc kháng chiến đánh Pháp và đánh Mỹ.
Nhiều năm sau khi đất nước đã hòa bình, anh trai chị là ông Đinh Kế Nhậm đã dày công tìm kiếm được hài cốt chị Tường Vy tại Phong Thu, Phong Điền – Thừa Thiên Huế, đưa về an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ quê nhà. Thời điểm này, chú Phầu tôi cũng đã ở tuổi tám mươi, mái tóc bạc phơ, chân đi chầm chậm về thăm quê.

Trước đó, tại Thủ đô Hà Nội, chú tôi thuê hiệu ảnh chụp lại tấm hình của người yêu cũ vô vàn yêu dấu – Di ảnh còn lại duy nhất của chị Tường Vi năm xưa, rồi phóng to lên thành ảnh thờ. Chính trong dịp về quê này, ông đem bức hình đã phóng trao lại cho gia đình chị Tường Vi. Trong giây phút xúc động ngập tràn, ông Đinh Kế Nhậm đón nhận hình em mà gần như “chết lặng” vì quá bất ngờ và đau đớn sau mấy chục năm mới lại được nhìn thấy khuôn mặt người em. Hai anh em liền đặt bức chân dung lên bàn thờ gia tiên thắp hương cho chị rồi cùng con cháu ra nghĩa trang liệt sĩ xã Quảng Lộc, tìm đến bên mộ người yêu - người đồng chí.

Trước nấm mộ có ngôi sao quân hiệu nhỏ nhoi như hiển hiện trái tim người chiến sĩ và dòng tên qúa đỗi thân thương, tất cả đám người ai ai cũng nhói buốt tâm can với hàng hàng nước mắt tuôn trào đẫm má. Cuộc “đoàn viên” đặc biệt ấy, với những bông hoa cúng trắng muốt trong làn khói hương bay não nùng, chú Phầu tôi như khuỵu xuống, bất giác trong tâm linh cảm thấy câu thơ Kiều mà mấy trăm năm trước Thi hào Nguyễn Du đã viết gần như để dành riêng cho mình và người yêu hôm nay:“Minh dương đôi ngả cách rồi, Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên”…”.
Anh trai trưởng trong gia đình chị Đinh Kế Thị Tường Vi - Đinh Kế Nhậm, tiếp bước người em gái vào "Vệ quốc đoàn" năm 1947. Năm 1954, được “phục viên” về quê Vĩnh Lộc tham gia công tác tại địa phương. Rồi ông trở thành cán bộ của Ngành Ngân hàng, công tác suốt mấy chục năm liền trong cuộc kháng chiến chống Mỹ - cứu nước và sau này khi đất nước thống nhất, tại các địa phương tỉnh Quảng Bình.

Những năm tháng về quê Vĩnh Lộc nghỉ chế độ hưu trí, ông cùng ông Đinh Duyệt, hai người bạn từ thời trẻ thơ, lại hăng hái tham gia tích cực công tác xã hội; đóng góp nhiều công sức cùng con em xây dựng “Nông thôn mới” quê nhà như gương sáng và sự hy sinh của cha và em gái. Ông Đinh Kế Nhậm qua đời năm 2005, thọ 78 tuổi.
Ông bà Đinh Kế Nhậm có 7 người con. Tất cả đều được học hành chu đáo và trưởng thành. Trong đó người con trai cả Đinh Vĩnh Hiền, bộ đội kháng chiến chống Mỹ - cứu nước, tham gia đánh bọn Pol Pot xâm lấn biên giới Tây – Nam và giải phóng nhân dân Cam Pu Chia khỏi họa diệt chủng; Thạc sĩ chuyên ngành Ngân hàng Đinh Quang Hiếu – Tỉnh ủy viên, Giám đốc Ngân hàng Nhà nước tỉnh Quảng Bình... Một đại gia đình suốt mấy đời có công với nước và ngày nay con cháu chắt đang tiếp bước truyền thống cha ông, sống gương mẫu phấn đấu cống hiến nhiều hơn nữa xây dựng quê hương.
23 giờ 13’ ngày 17/11/2014

No comments: