Giới thiệu "Les Sentiers de L'Exil " Tuyển tập thơ Pháp ngữ do Vũ Đức Trung sáng tác và chuyễn ngữ từ các bài thơ việt ngữ -
TinParis. Xin giới thiệu với quý đọc giả Ông Võ Đức Trung , một văn thi sĩ song ngữ ( việt-pháp) . Ông đã xuất bản các tuyển tập Thi Ca Việt Nam Hải Ngoại góp phần trong công tác đấu tranh chống Cộng Sản Việt Nam. Với tuyển tập " Les sentiers de l'Exil" ( Những nẻo đường lưu vong ) vừa mới xuất bản trong Tháng Tư đen 2009, ông đã cho những người bạn Pháp thấy rõ bộ mặt phi nhân của CSVN với những bài do chính ông sáng tác ( pháp ngữ ) hay những bài ông dịch từ các bài thơ ( việt ngữ ) của nhiều tác giả chọn lọc. Xin đọc phần giới thiệu cùng vài bài thơ pháp ngữ ở phần dưới đây
Anh chị em ơi Năm nay tôi gần bảy chục tuổi Bị tù vì yêu Tự Do. Tự Do. Tự Do. Tự Do. Đọc mãi trở thành vô nghĩa Sao lòng vẫn muốn hô to: Tự Do! Thiếu ăn người ta ngắc ngoải, Thiếu không khí người ta chết ngay Thiếu Tự Do người ta vẫn sống Nhưng đời ngựa kéo trâu cày. Anh chị em ơi, Đừng hỏi vì sao tôi gầy. Con mắt vẫn là cửa sổ Nhìn ra một hồn đắng cay. Cơm mỗi bữa đếm ăn từng hạt Mộng lớn đêm nào cũng gối đầu tay. Tôi vẫn có thể làm một con tắc kè đổi sắc Gần cây lá thì xanh Bò trên mặt đất lại đỏ Giống y như cỏ đuôi chó, gió chiều nào ngả theo chiều ấy. Cong lưng, uốn lưỡi Làm sao người ta gật đầu khen ngoan. Tôi cũng chẳng phải là giò hoa lan Chịu dãi dầu mưa gió để ngát hương thơm. Tôi chỉ là một người thích ăn cơm, Tôi chỉ là người thích mặc áo. Cơm áo tay mình làm ra Không quỳ không lạy người ta, Để áo cơm mình no ấm. Hạnh phúc không phải là người cúi hôn chân người để được cơm thừa áo thải. Tôi chỉ thích làm người già cả muốn ho lúc nào thì ho. Tôi không thích được mặc ấm Tôi không cần đến ăn no Tôi chỉ muốn một điều ai cũng muốn: Tự Do! Anh chị em ơi Tôi quả thật không hiểu vì sao Tôi muốn sống Sống cho ra sống. Còn giờ đây chỉ là tồn tại Chỉ là sống mà như chết chưa chôn mỗi ngày. Tuổi già Sức yếu Run chân tay Đi đứng không ngay nhưng tôi hiểu thế nào sự thẳng thắn. Tự Do! Ôi! Tự Do Là cái quyền không ai có quyền tướt đoạt Cần hơn hơi thở Cần hơn áo, cơm Không có nó, tôi chỉ là con vật. Anh chị em ơi, Tôi xin nói thật Đâu phải vì quá già, và gần chết mà tôi sinh ra liều chết, bất cần đời. Tôi yêu nhà tôi lắm Tự nhiên nước mắt rơi. Tôi thương nhà tôi quá Tuổi trời thì có. Nụ cười thì không. Tôi yêu căn phòng, ở đây nhà tôi thường nằm quay mặt vào vách khóc Rồi những tiếng khóc khác vang lên Người đàn bà giận hờn im bặt Nhường cho con cháu Khóc chào đời, Khóc nhớ người Khóc lìa đời Khóc xong lại cười Hiểu và thương Chúa đóng đinh vì người. Anh chị em ơi, Làm sao ta có thể trả lời Cho con cháu ngày mai Nếu hôm nay đây ta không muốn làm người. Về một câu hỏi hết sức giản dị: Sống để làm gì? Nếu chính lòng chúng ta, mỗi người Chưa biết làm gì để sống Sống cho ra một con người. Anh chị em thấy đó Tôi với họ như hai người đấu súng Sau khi bắn trượt, tôi không thể quay lại van xin kẻ thù Cái đất nước mà trong đó mỗi người không thể hiểu chỉ biết nhắm mắt tuân theo là đất nước tôi. Đất nước chúng ta vốn là cái nôi Mà những tấm lòng hòa thuận đều vui sống được. Thế tại sao anh chị em và tôi Không được sống. Khóc hay cười Câm hay nói Cũng phải đợi lệnh một người nhân danh cho tất cả. Anh chị em ơi Có anh bạn trẻ một hôm kể chuyện Về ông Ma-kia-en-a-viếc gì đó Nói khi ta chặt đầu người lìa khỏi cổ Chiếc đầu rơi xuống đất còn quay lại cám ơn mãi không thôi. Tôi ít học quá không kịp suy nghĩ, Lòng tôi bỗng đau như khi nghe tin con gái làm đĩ nuôi em Đã biết bao nhiêu người như thế nhỉ? Nhớ ơn ma quỷ đời đời. Anh chị em ơi, Im lặng lâu dần quá ra ngu Gần bảy chục năm tôi đã im lặng Lại cứ tưởng rằng im lặng là khinh bỉ Có biết đâu sợ hãi nên câm Vì cầu an tôi đã quay lưng với sự thật Làm ra vẻ đạo đức khinh đời cố che dấu bớt hèn nhát Giữa lúc người ta cố tình gieo Sương mù vào trí tuệ con người Đang bị cảnh túng thiếu Và nỗi cô đơn đè nén. Người ta trùm lên đám đông những mắc lưới rình rập của sự dốt nát Để mọi người sống trong sợ hãi phải phục tùng tội ác. Anh chị em ơi Tôi không đủ chữ nghĩa nên lá thư nào viết cho nhà tôi cũng ngắn Chỉ thế này thôi: "Mình hãy tin tôi Khi có thể ngồi được thì không nằm Khi có thể đứng được thì không ngồi Khi có thể đi được thì không đứng". Hãy đứng dậy Hãy tiến lên Anh chị em ơi Hãy nắm tay nhau cho chặt Những con người làm việc tốt không bao giờ muộn cả Nhưng phải kịp thời Hãy đi về phía mặt trời trái tim ta rực lửa bằng đôi cánh Niềm Tin. Anh chị em ơi Vấn đề không phải là can đảm mà trước hết ở những mục đích vì nó mà ta can đảm, Nếu mục đích không xứng đáng thì sự can đảm chỉ làm cho ta kinh ngạc Thay vì khâm phục. Khi ta yêu mọi người Mục đích tự nhiên cao quý Khi ta yêu cuộc đời Cao quý trở thành mục đích. Anh chị em ơi Có thể không bao giờ tôi mở Nhưng căn phòng của tôi phải có cửa sổ Có thể tôi không dùng Nhưng đời tôi phải có Tự Do Bắt đầu từ việc không để cho ai suy nghĩ giùm mình. Xin các anh các chị, các em thân yêu Nghe tôi nói một điều nữa thôi Chúng ta bực mình thấy ai lục soát đồ đạt của mình Có lẽ nào ta lại làm thinh Để người ta khám xét một thứ quí hơn đồ đạc? Đó là tâm hồn Đó là Tự Do Tự Do Ôi, Tự Do. Sao tôi lại khóc, Đâu phải vì củ sắn nướng chiều nay không kịp chín Mà lòng đói quá cứ bâng khuâng Như nỗi nhớ bè bạn Làm khổ tôi suốt buổi chiều nay. Lúc đi ngang qua vũng lội Nhìn xuống thấy bóng tóc mình mây trắng bay. Bỗng nhiên thấy ngứa ngáy chân tay Muốn bật dậy vùng lên ngọn sóng. Trong lòng không uống rượu mà say Phải nói cho con cháu biết Tự Do Hay là Chết Chết hay Tự Do Hết! Nguyễn .....
Kính dâng hương hồn Thân mẫu và Nhạc mẫu. Con như trong mơ, Nửa thực nửa hư Con không ngờ... Nay ngày sum hợp. Mười năm dài con âu lo nơm nớp: Vĩnh viễn không gặp lại Mẹ! Lúc con ra đi Mẹ buồn ũ rũ. Trời Việt Nam, quê hương con vần vũ. Đêm lên đường, đêm vĩnh biệt thiên thu? Con hấp tấp ôm Mẹ không một tiếng giã từ! Mẹ nức nở cúi mặt Con biết Mẹ đớn đau se thắt. Mẹ không nói nửa lời Lòng Mẹ tan nát Rối bời!!! Mẹ ấp úm trong đau thương hấp hối Con không rõ những gì Mẹ muốn nói. Nhưng giọng ấp úm lúc chia tay Con nhớ mãi ở những chặn đường đầy chông gay Suốt cả tháng ngày Con sống kiếp lưu đày cô lẻ. Con không dám thẳng nhìn mặt Mẹ Để ghi rõ dung nhan Mẹ lần cuối. Mẹ đứng đó như tượng đá đêm đông Mẹ đã chết trong lòng Khi dõi mắt theo con. Mẹ ơi! Ngày giã biệt, Tóc Mẹ đã ngã màu bông. Con mường tượng Mẹ sẽ gởi thân nơi đất Việt, Lúc lâm chung, Mẹ buồn tủi lẻ loi. Quê hương Mẹ tả tơi! Mẹ không bà con thân thiết Không con, không cháu thúc thích cạnh quan tài... Từ dạo ấy, con bình bồng xứ lạ Đời nổi trôi chưa thấy đâu cửa đâu nhà? Miền đất hứa, con cầu nguyện trong bão tố phong ba. Nay con đến mảnh đất dung thân Nhưng Mẹ ơi! Con đã khóc bao nhiêu lần? Kiếp ly hương, một chuỗi phũ phàng! Con chỉ thấy quê hương con là đẹp. Mùa đông mưa tuyết. Tuyết tan tự thuở nào Lòng con luôn buốt giá. Mùa thu tang chế qua mau Con nghe phảng phất trong đêm dài Lá vàng trăn trối bên tai. Bơ vơ tháng tháng ngày ngày. Nửa đêm thức giấc Hình ảnh Mẹ chập chờn Trên quê hương con thấp thoáng xa xa... Con nghe Mẹ hát nhạc bản hùng ca Con nghe Mẹ ru vỗ về theo nhịp võng Con nghe Mẹ ngâm bài thơ ca tụng núi sông Con thấy Mẹ vui buổi sáng ngập ánh nắng ửng hồng Mẹ cười đêm xuân đoàn tụ liên hoan. Mẹ ước mơ con tiến bước hiên ngang Mẹ cầu nguyện con mãi mãi yêu đời. Năm tháng dần trôi Con ngày khôn lớn. Mẹ ơi! Con thêm thấm thía ngỡ ngàng. Con thương Mẹ người đàn bà bạc phước! Bà Mẹ hiền luôn lội dòng nước ngược. Đầu mùa thu kháng chiến: "Sơn hà nguy biến"Mẹ chấp nhận hy sinh Tiễn Cha con ra đi diệt thù... Mẹ nào ngờ Hôm chia tay là ngày vĩnh biệt ngàn thu! Thuở ấy Mẹ còn quá trẻ Ba mươi xuân lẻ! Mẹ ơi! Bao nhiêu năm Mẹ lẻ bóng đường đời? Bao nhiêu năm Mẹ chôn tuổi xuân tươi Trong cuộc đời góa bụa? Mẹ tần tảo chấp cánh con bay đến bến trưởng thành. Thời gian! Bẽ bàng.. Cuộc vui chóng tàn Nỗi buồn miên man. 54 hòa bình, Mẹ nức nở dựng tháp thờ chồng! Mùa chống xâm lăng lịch sử Cha con đã hy sinh Giờ đầu bảo vệ sông núi ruộng đồng, Quê hương Việt Nam con muôn thuở. 75 bom đạn tạm ngừng nổ Mẹ chưa thấy hòa bình Mẹ chưa thấy dứt chiến chinh... Lần này Mẹ lại khóc con, Ngày thêm mỏi mòn. Đám con yêu của Mẹ Mỗi đứa mỗi nơi Tản lạc bốn phương trời! Mưa tuyết vẫn rơi Con ngập ngừng cố tìm Mẹ. Mẹ đã hiện rõ ràng, Sao con vẫn còn ngẩn ngơ Như tỉnh như mơ. Con phập phồng bối rối. Mười năm tròn cách biệt, Với Mẹ bao nhiêu thế kỷ nhớ nhung? Với con một chuỗi thảm cảnh hãi hùng! Nay sum hợp trùng phùng Con cố gắng không nhìn được Mẹ. Mẹ xác xơ như quê hương con xơ xác, Mẹ tàn tạ như quê hương con tan tác. Bỗng con giật mình. Mẹ từ đâu đến? Từ địa ngục trần gian? Hay từ đất nước con điêu tàn? Con vẫy tay gọi Mẹ Con quát to, thật to Mặc bao nhiêu kẻ tò mò: Mẹ! Mẹ! Mẹ ơi, Mẹ kiệt sức rồi Tám mươi ba tuổi chẳn da mồi tóc sương Mẹ còn lặn lội dặm trường Tìm con tản lạc bốn phương quê người. Con ôm chầm lấy Mẹ thương yêu Mẹ, con, câm lặng... Con miên tưởng ngày đoàn tụ Mẹ con sẽ nói thật nhiều Nhưng nào nói được bao nhiêu? Mẹ khe khẽ hỏi: - Ai đây? Nước mắt con đong đầy. Con để ý, Mẹ không quên, không lẩn. Tuổi Mẹ quá cao Như ngày nào Mẹ vẫn còn minh mẩn. Sao Mẹ gạn hỏi thêm: - Ai đây? Mẹ ơi! Mười năm ngăn cách đắng cay Con vẫn là con ngoan của Mẹ: "Việt Nam, máu đỏ, da vàng". Con hiểu Mẹ trăm mối ngổn ngang: Đám con Mẹ đồng hóa ngoại bang...?! Con vẫn còn trong vòng tay Mẹ. Còn đâu, đôi tay ngày xưa rắn rỏi? Mẹ tiếp hỏi: - Đây là đâu? - Nơi nào? Lòng con quặn đau: - Thưa Paris, đất Pháp, trời Âu. Mẹ trầm ngâm. Con biết Mẹ nhớ những tháng những năm Cả cuộc đời trên quê hương con gắn bó Có đồng thơm bát ngát lúa vàng Có sông Hậu dịu hiền lấp lánh đêm trăng Có tình láng giềng thật thà chất phác... Con hiểu Mẹ nhắc con: "Nước có nguồn, cây có cội". Mẹ ơi! Vỏn vẹn chỉ đôi câu thôi Sao con nghe nhức nhối cả một quảng đời! Thời gian khủng khiếp rụng rơi Mới ngày nào Mẹ đưa con vào đời Lật đật qua mau mười năm thập giá Gặp lại Mẹ lúc hoàng hôn bóng xế Mẹ vẫn tiếp dạy con những điều hay Nay con sống kiếp lưu đày Con kể gì vui cho Mẹ? Mẹ ơi! Sao Mẹ ít nói? Sao Mẹ ít cười? Con mường tượng như Mẹ đang trăn trối... Ngoài trời Mưa tuyết vẫn rơi. Mẹ ơi, dù Mẹ ít lời Đủ con vá lại mảnh đời rách bươm Mẹ ơi, nhìn Mẹ can trường Đủ con đi tiếp đoạn đường dở dang. Mẹ ngồi đây Mừng mừng tủi tủi Con chắc Mẹ thỏa lòng với giấc mơ cuối. Mẹ quá cảm xúc Nhưng Mẹ không khóc Nước mắt Mẹ đã cạn dòng? Hay Mẹ phập phồng: "Con nuôi Mẹ con tính tháng tính ngày?" Mẹ không khóc Lệ con lại rơi. Trường Sơn chót vót chộc trời Biển Đông lênh láng mênh mông Tình Mẹ không sao so sánh! Cả trăm vạn câu thơ hay Từ bao kỷ nguyên trước đến thế hệ này Tả sao cho hết một tấm lòng! Con nhìn Mẹ mờ dần, mờ dần... Trong đôi mắt con long lanh Con biết những ngày con gần Mẹ Chỉ là khoảnh khắc mong manh. Mẹ chầm chậm đứng lên Cố bước từng bước Như muốn tiến ra phía trước... Con vội đưa tay dìu lấy Mẹ Trời Paris buốt giá giữa mùa đông - Mẹ có lạnh lắm không? Mẹ âu yếm đáp: - Quá ấm trong lòng. Một sức mạnh thiên thần huyền dịu Rung chuyển từng đường gân sớ thịt con Con lần theo chân Mẹ Hồi nhớ thuở xa xưa Mẹ dìu con tập tểnh để nên người. Mẹ ơi! Đường con đi nay đầy chông gay tranh đấu Con thêm vững tin như thuở Mẹ ước ao Con hiên ngang mạnh tiến... Mẹ đến với con cả sức sống dâng trào. Mẹ mang ánh sáng Mẹ gieo niềm tin Mẹ thấp đuốc hy vọng Mẹ là trời rộng Mẹ là đại dương bao la đẹp xinh Mẹ là tất cả. Con thấy ló dạng bình minh Lòng con mở hội. Con lặng thinh... Nghe tim nổi trống lôi đình Nghe vai trĩu nặng khối tình Việt Nam. Võ Phước Hiếu Préface Lorsque l’on intitule un recueil de poèmes «Les Sentiers de l’Exil», le lecteur perçoit d’emblée la nostalgie qui en émane. Ce pourrait être une nostalgie figée scrutant, amère et peut-être même revancharde, quelques heures de gloire, quelques siècles de finesse, détruits et gâchés, détournés, voire anéantis à tout jamais. Cette nostalgie là s’encombre alors d’un bagage, le poids de la douleur: douleur de comprendre et de mesurer, en marge des possibilités d’action que le retour des choses offre pourtant parfois, à quel point le peuple ou les peuples, se retrouvent déracinés de leurs âmes, de leurs rêves, de leurs forces. Et cette nostalgie attend, rumine… Le recueil de poèmes que nous offre Monsieur VÕ Đức Trung surprendra le lecteur: la nostalgie qui le parcourt n’est pas celle que je viens d’évoquer. Elle est d’une autre nature; il s’agit ici de la nostalgie du possible. Elle s’ouvre comme un paysage grandiose et intime aux sensibilités de ceux qui écoutent et regardent, et qui ainsi faisant connaissent et les hommes, et leurs espoirs, et l’harmonie qui les autorise. A ceux qui ignorent cet alphabet de l’âme, elle le leur enseigne, doucement et bellement. La nostalgie du possible se souvient certes des monuments érigés puis détruits; mais son souvenir est, aussi paradoxalement que le conceptualise le cynique trop rapide, un écho de l’avenir. Ce rêve véhicule une forme de tendresse qui arme de sa plénitude; son souffle transporte et rappelle à l’homme sa place. Si Monsieur VÕ Đức Trung se sent exilé, qu’il sache que les poètes et les rêveurs, où qu’ils soient, le sont tous un peu, chacun à sa façon, chacun pour ses raisons. Et que l’espace qui les accueille, cette fraternité d’existants, est un jardin aux fruits multiples, sensibles et riches. Le lecteur, s’il sait lire et écouter, touchera lui aussi ce jardin en empruntant ces sentiers de l’Exil. Et l’exilé deviendra guide. Et la culture du possible, éternelle et sans frontières, offrira des dynamiques aux saveurs de défi parfois, aux saveurs généreuses toujours. Jean R. GUION
Ce poème est extrait de ma première plaquette poétique: Le Chemin Vers La Mer, publiée dans la Collection Présence Vietnamienne, sur les Presses de l’Imprimerie Béné à Nîmes en juin 1988 et préfacée par l’honorable poète Clovis SERGENT, Délégué Régionale de l’Association des Poètes et Artistes de France. A cette époque, après quelques années difficiles d’un exil volontaire comme rescapé des ‘boat people’, j’ ai trouvé dans les rimes, les rythmes, la musique… enfin dans les vers, une nouvelle plongée dans l’aventure poétique me permettant, le jour, de chasser les moments de nostalgie obsédante, quelquefois asphyxiante, et la nuit, de me bercer dans les merveilleux souvenirs inoubliables pour finir par m’endormir dans certains de mes songes malheureusement toujours déchirants. Aujourd’hui, plus de deux décennies s’étant écoulées jour après jour, je suis particulièrement heureux et honoré de reproduire dans ces premières pages, deux extraits dus à deux personnalités exceptionnelles, dont le talent et la réputation dépassent les frontières de l’Hexagone; auxquelles j’exprime de nouveau ma profonde et affectueuse gratitude: 1. l’un concernant la très significative Préface de Monsieur Clovis SERGENT, concrétisée au moment où j’avais besoin non seulement d’un geste d’encouragement en faveur de mes débuts hésitants en France, mais aussi d’un véritable soutien moral, levain de passions, de liberté et de vie jamais oublié et effacé de ma mémoire, 2. l’autre émanant d’une remarquable Note de Lecture de Madame Madeleine MOUGET, figure emblématique du domaine de critique littéraire dans les périodiques spécialisées de Poésie du Nord/Pas-de-Calais, avec qui j’ai entretenu, par la suite, d’excellentes relations amicales et dont les observations et jugements ont été publiés tardivement, en raison des circonstances involontaires de sa part, dans la Revue ‘France Vietnam Culture’ N° 6 d’aout 1993. «Il est des circonstances, dans la vie, qui amènent les poètes à trouver des accents qui les classent parmi les ‘ondes’ rares de leur temps. «Car le malheur qui s’abat sur des Êtres forcés de quitter leur pays d’origine, a, pour effet, de déclencher une foule de sensations que la Poésie peut rendre avec une force inégalée. «Mais, tous ne peuvent parler de leur calvaire aussi bien que fait VÕ Đức Trung, avec une remarquable élégance d’expression. «Il sait manier la langue avec une maîtrise parfaite, et la clarté qui se dégage de ses textes, nous permet une plongée dans un univers capable de réveiller certaines consciences assoupies. … «L’appel de VÕ Đức Trung sera entendu, non seulement par ses frères et sœurs, dont il parle dans la première partie du recueil, mais aussi, par tous les Êtres épris de la véritable Liberté, celle des consciences et des esprits…». (Préface – Clovis SERGENT) «La première partie de ce recueil est la version française de poèmes d’auteurs vietnamiens réunis par un rescapé des ‘boat people’: ‘Paroles du Vieux Prisonnier’. «Avec des mots simples comme des flammes, l’auteur lance des cris de douleur et des appels à la Liberté. «Ce déraciné évoque le pays natal avec nostalgie… et les souvenirs sont accompagnés d’images lumineuses: ‘Je vois les nuages blancs effleurent l’ombre de mes cheveux’. «Les interrogations sont lancinantes: ‘Pourquoi n’avons nous plus le droit d’y vivre?’. «De sages proverbes incitent au courage: ‘Quand on peut être debout, il ne faut pas s’asseoir’. «Mais aussi philosophie qui s’exprime dans les histoires émouvantes et amères et qui culmine héroïquement dans la fin: ‘La mort ou la Liberté. C’est tout’. … «Mais au fond des douleurs, ‘naissent la Foi et l’Espoir’… d’un retour au Vietnam ‘mythique’». (Note de Lecture – Madeleine MOUGET) Enfin, qu’il soit bienséant de joindre à ces lignes pathétiques, un doux regard compatissant d’Andrée BRISSONNET sur le ‘Chemin de la Mer’ qu’elle a lu avec attention et gentillesse particulières, ce qui m’a laissé et me laissera pour toujours un très agréable souvenir poétique: «Un beau titre ‘Le Chemin vers la Mer’ et ce bateau dont certains passagers ne sont pas arrivés au port. «L’élan douloureux d’un ‘Hymne à la Liberté’ est chanté, est crié dans chaque texte exprimant la détresse, la souffrance des corps et de l’esprit, forgés dans le martyr d’un peuple, traduit par l’un des leurs dans des strophes émouvantes. «Nous souhaitons que l’auteur retrouve sa Paix auréolée d’une ‘Nouvelles Lumière’». (Art et Poésie – Andrée BRISSONNET N° 132, octobre 1999, Page 73). ** «Ô Liberté! Que de crimes on commet en ton nom!». (Dernières paroles attribuées à Madame Roland). Chers frères et sœurs, J’ai à peine soixante-dix ans, cette année. J’ai été emprisonné par amour de la Liberté Liberté. Liberté. Liberté! En la lisant ainsi, elle a perdu tout son sens. Pourtant, j’aime bien crier d’une voix retentissante: Liberté! Quand on manque de nourriture, on vivote avec peine On meurt sur le champ quand on manque d’oxygène Quand on manque de Liberté, on continue à vivre encore Mais ce sera la vie du cheval qui tire la voiture du buffle, la charrue! Chers frères et sœurs, Ne me demandez pas pourquoi je suis si émacié Les yeux sont toujours considérés comme les fenêtres S’ouvrant à une âme pleine de rancœur et de tristesse. A chaque repas, on compte les grains de riz à avaler. La nuit, on s’émerveille dans les rêves superbes, la tête reposant sur les mains ensemble liées. Je peux me transformer à volonté en un caméléon changeant facilement de couleur. Près du feuillage, je deviendrai vert; Je serai rouge sur le sol rampant, Je ressemble à cette plante herbacée oscillant au moindre souffle de vent. La langue tordue, le dos courbé Je fais n’importe quoi pour qu’on me félicite d’être obéissant. Je ne suis pas non plus un pied d’orchidée S’exposant aux pluies et vents pour pouvoir étaler son parfum. Je ne suis qu’un homme aimant manger du riz, Je ne suis qu’un homme aimant s’habiller Le riz et les vêtements, je les ai produits de mes propres mains. Je ne m’agenouille jamais Ni ne fais de courbettes à personne Pour être vêtu et rassasié! Le bonheur n’est pas de se courber pour embrasser le pied des autres afin de se procurer du riz en excès ou des habits à s’en débarrasser. J’aime être un vieillard Qui tousse à n’importe quel moment, quand il voudra. Je n’aime pas être bien vêtu Je n’aime pas être rassasié. J’aime une seule chose que tout le monde a aimée: La Liberté! Chers frères et sœurs, Je ne sais pas, certes, pourquoi J’aime vivre, Vivre comme la vie se doit Tandis qu’à présent, ce n’est qu’exister! A présent, vivre n’est autre que mourir sans avoir chaque jour, le temps d’être enterré. La vieillesse, L’ennui de santé, Les pieds et bras tremblants, Pourtant, je sais ce qu’est la droiture! Liberté! Oh, la Liberté! C’est un droit dont personne ne peut s’emparer. Elle est plus nécessaire que le souffle journalier. Elle est plus nécessaire que les habits et le riz. Sans Elle, je me vois changé en animal. Chers frères et sœurs, Je jure de dire la vérité. Ce n’est pas parce que je suis âgé, Le caveau étant approché, Que je m’expose à la mort et me fiche de la vie. J’aime bien ma femme Du coup, j’ai les larmes aux yeux. Je l’aime tant! L’âge, elle l’a eu mais sans le moindre sourire. J’aime ma chambre où, souvent seule, ma femme se tourne vers le mur pour pleurer. Ainsi, les autres pleurs retentissent… Fâchée, Elle garde le silence complet Et laisse ses enfants et petits-enfants Pleurer pour la naissance Pour les souvenirs des proches Pour la mort. Après la mort, vient le rire. On comprend et se sent compatissant aux souffrances de Jésus Christ crucifié pour les hommes. Chers frères et sœurs, Comment pourrons-nous répondre A nos enfants et petits-enfants En ce qui concerne une question aussi simple: Si maintenant, nous ne voulons pas être des hommes. A quoi sert la vie? Si justement, chacun de nous aujourd’hui Ne sait pas comment faire pour vivre, Pour être digne d’un homme. Vous avez vu, frères et sœurs? J’étais avec eux comme des ennemis sortis d’un duel au pistolet. La cible ratée, Je ne peux pas retourner pour supplier mon rival. Cette partie de terre sur laquelle chacun ne peut plus comprendre chacun ne sait que fermer les yeux pour obéir C’est mon pays natal. Notre pays était bien le berceau Où les cœurs ivres d’entente pouvaient vivre dans la joie. Et pourquoi Vous, mes frères et sœurs et moi-même, Nous n’avons plus le droit d’y vivre? Rire ou pleurer, Se taire ou parler, Il faut attendre les ordres d’une seule personne au nom de tout. Chers frères et sœurs, Un jour, un jeune homme a raconté cette histoire: On disait Qu’une personne fut décapitée Et que sa tête, tombée par terre, continuait à se retourner pour remercier le bourreau, sans arrêt. Moins instruit, je ne suis pas en mesure d’y méditer, Je me sens soudain très mal comme en apprenant que pour nourrir ses frères et sœurs, ma fille s’est prostituée! Oh combien de femmes déjà dans la même situation? On se souvient, de siècles en siècles, de ces ‘bienfaits’ de démons. Chers frères et sœurs, Notre idiotie est de plus en plus raffermie, par le silence prolongé. Soixante-dix ans à peine sonnés, J’ai gardé le parfait silence. J’ai eu tort de penser que le silence est le mépris… Sait-on que la peur nous rend muets? Par le choix de la paix et de la facilité J’ai tourné, depuis, le dos à la vérité! J’ai fait semblant d’être vertueux, détestant la vie pour cacher un peu de lâcheté Au moment où l’on a semé dans l’homme, volontiers, Du brouillard dans l’intelligence et la perspicacité, Cet homme à présent dépourvu de tout Et torturé par la solitude! On a imposé au peuple les quadrillages vigoureux d’espionnage et d’ignorance Pour obliger tout le monde A se soumettre aux crimes, car on a vécu dans la peur permanente. Chers frères et sœurs, Les mots me manquent, ce qui fait que chaque lettre écrite à ma femme est souvent courte. Rien comme suit: «Compte sur moi Quand on peut s’asseoir, il ne faut pas s’allonger Quand on peut être debout, il ne faut pas s’asseoir Quand on peut marcher, il ne faut pas s’arrêter. Sois debout! Va de l’avant». Chers frères et sœurs, «Tenez nos mains ensemble, solidement. Pour les gens qui font de bonnes choses, rien n’est trop tard. Mais il faut les prendre à temps. Allez dans la direction du soleil Notre cœur est illuminé de mille feux Nous survolons grâce aux deux ailes de la foi». Chers frères et sœurs, La question n’est pas le courage Mais tout d’abord nos buts grâce auxquels nous avons le courage. Si le but est indigne, le courage nous surprend Au lieu de nous donner de l’estime. Quand on aime les autres Le but, par lui-même est sublime. Quand on aime la vie Cette sublimité devient notre but. Chers frères et sœurs, Peut-être, jamais je n’ai ouvert Pourtant, ma chambre doit avoir des fenêtres. Peut-être, je ne les ai pas utilisées Au contraire, ma vie a besoin de Liberté, A commencer par ne pas laisser les autres réfléchir à ma place. Nous sommes fâchés quand on fouille nos objets A plus forte raison, gardons-nous le silence complet Pour laisser les autres examiner quelque chose plus précieuse que nos objets? C’est notre âme! C’est la Liberté! Liberté. Oh la Liberté! Pourquoi je pleure? Ce n’est pas parce que la patate mise au feu ce soir, n’est pas encore cuite Alors que la faim extrême me torture Tout comme les souvenirs de mes amis en fuite Me rendent malheureux toute cette soirée! Sur le chemin, en passant au-dessus d’une flaque d’eau Je vois les nuages blancs effleurant l’ombre de mes cheveux. Subitement, je sens un besoin de secouer mes bras et pieds Et de me dresser pour soulever les vagues démesurées. Dans mon cœur, je me réjouis dans l’ivresse même sans prendre aucune goutte d’alcool. Il faut crier à nos enfants et petits-enfants pour qu’ils sachent: La Liberté Ou la Mort. La Mort ou la Liberté. C’est tout. 1988 Version française du poème ‘Người Tù Già Nói Chuyện’ de Nguyễn. ** |
Anh thắc mắc tại sao nhân loại mù lòa Chế bom neutron - nguyên tử - hỏa tiển tầm xa Tôi thắc mắc tại sao bầu trời là của chung tất cả chúng ta Mà tôi chỉ có một mảnh trời Vừa bằng bàn tay trên nóc thùng conex Đề nhãn hiệu USA hãy còn rõ nét Nhưng chiếc ổ khóa hôm nay chế tạo tại Liên Xô Tay tôi mang xiềng Nên tiếc rằng không thể giơ cao vui vẻ hô to: - Muôn năm tình hữu nghị Hoa Kỳ-Sô Viết. Hỡi người anh em Bên kia bờ đại dương cách biệt Hãy nghe tôi kể một chút niềm vui Chiếc thùng nhốt tôi ngày đêm tối thui Mà lạ lùng thay có một khe hở Ở một góc và chui vào một bông hoa xấu hổ Ôi vui sướng thay nhìn ngắm bông hoa Tâm trí tôi bỗng hớn hở sáng lòa. ** Chúng ta cùng một nỗi khổ đau Là quá thừa và quá thiếu Anh quá thừa tự do Nên nôn mữa vào cuộc đời Tôi quá thiếu tự do Nên muốn cuộc đời nôn mữa vào mình Để thấy mình quả thật đáng khinh Hơn một con chó đói. Anh được quyền tự do nói Anh nói về những gì? Về hòa bình - công lý - tư duy Ôi đẹp đẽ thay những điều anh nói Còn tôi, tôi chỉ luôn luôn tự hỏi Làm sao hôm nay tôi được củ khoai to Hơn người bạn cùng tù Là hạnh phúc lớn lao hơn ngàn lần đêm tân hôn hợp cẩn. ** Chúng ta có chung những điều mừng giận Tôi mừng nhận được thư nhà Nói con gái tôi đã vượt thoát ra Đến Thái Lan rơi vào tay hải tặc Tôi mừng nó một lần đớn đau ê chề thân xác Nhưng trăm năm thoát kiếp ngựa-người Tôi bỗng bật cười Mà lã chã rơi hai hàng nước mắt. Trong mùi cứt đái hôi tanh kinh khiếp Anh bạn ơi Bây giờ anh hẳn biết Tại sao chúng tôi không chết cho rồi Vì bông hoa là tặng phẩm của Trời Vẫn nở trong hôi tanh cứt đái Thì chúng tôi vẫn còn mãi mãi Vì chúng tôi - chúng ta - là sáng tạo nhiệm mầu Chế độ nào dù tàn bạo đến đâu Cũng chẳng thể tiêu diệt chúng ta Nhiệm mầu - sáng tạo. Tay tôi mang xiềng Mà hồn tôi cao ngạo Tôi không khinh bỉ kẻ thù (Vì cũng bằng thừa Đối với bọn thú-vật-đội-lốt-người Chơi trò cứu thế) Tôi khinh bỉ Con người cho mình là trí tuệ Thế giới cho mình là tự do Xuống đường gào to: Giải giới - Hòa bình - Thương yêu - Thượng đế Họ đòi thương yêu lũ sa tăng Tay phải cầm bông hồng Tay trái giấu sau lưng mũi dao ân huệ Cho thế giới gọi là tự do Cho con người gọi là trí tuệ Và bông hồng tươi đẹp kia Đủ cho đám tang thêm phần trọng thể. ** Tôi đói lã người rồi Anh bạn trí tuệ đáng yêu ơi Nhưng tôi không xin anh mẩu bánh mì Cũng chẳng xin anh một góc đồng đô la Mỹ Chỉ xin anh một giây suy nghĩ Đến một phần ba nhân loại đau thương Trong tay bầy ác quỷ Rồi hãy xuống đường Nói những điều chân thật "Chẳng lẽ điều chân thật lại không bao giờ Hiển hiện trong cõi thế mà Chúa đã chịu đóng đinh Để cứu chuộc hay sao?" Không có lẽ nào Không có lẽ nào vì đóa hoa trong tối tăm vẫn nở.
Chúng ta ngồi đây, trên mỏm đá này, mỗi chiều nhìn đại dương bát ngát Nhìn xác những con tàu rã mục trên nền cát vô tri Nhìn thân phận con người nổi trôi bềnh bồng như loài rong dại Chúng ta lìa bỏ quê hương, ôi Việt Nam bây giờ và mãi mãi Chẳng bao giờ thấy lại mảnh trời xưa Vì hận thù đã đẩy chúng ta đến đường cùng nghẽn lối Đã dìu đời chúng ta xuống vực thẳm giận hờn Và tủi nhục đã ném chúng ta vào đáy sâu địa ngục! Chúng ta ngồi đây, trên mỏm đá này, nhìn nhau không nói Biết nói gì, khi kỷ niệm cất cao tiếng gọi Khi hồn mình lưu lạc chân trời xa Khi tất cả không còn chi chờ đợi Khi mái tóc chúng ta không thể đổi màu lá mới Khi mắt nhìn mờ ảo dung nhan Chúng ta chẳng còn gì ngoài mảnh hình hài xô lệch Nhưng dù sao chúng ta vẫn có nhau Để chống đỡ với cuộc đời đầy đắng cay bất trắc. Chúng ta ngồi đây trên mỏm đá này, nhìn trời cao nước rộng Nhìn thời gian bập bềnh trên mỗi con nước đẩy đưa Điệp khúc vọng về từ muôn vàn Thế Kỷ Chúng ta đã sống, đã yêu, đã thắm nhuần đau khổ Và đã cười, đã khóc theo từng chuyện buồn vui Đã đánh đổi lương tâm trong những cuộc bán mua gian dối. Chúng ta ngồi đây, trên mỏm đá này, không thuộc về quê hương nước Việt Đã xa rồi, xa thật rồi, những hình bóng thân yêu Đã vĩnh viễn chia tay cùng phố phường quen thuộc Việt Nam đó, bàn chân nào nghiêng nghiêng lối bước Tà áo nào tha thiết phủ hoàng hôn Mưa đêm về có làm ướt môi hôn Và sương gió có đùa vui bờ vai nhỏ?... Chúng ta ngồi đây, trên mỏm đá này, ôm đầy nỗi nhớ Theo sóng triều dào dạt tấp vào bờ cát đìu hiu Từng nỗi buồn vui đã mất Chúng ta nhìn xác những con tàu phơi mình trên bãi vắng Như nhìn thấy bao nhiêu kiếp người trôi dạt, nằm lại nơi đây, trên ngọn đồi Vĩnh Biệt Chúng ta nắm tay nhau, những đường gân nổi lên xanh tím Hơi nóng truyền lan làm ấm chiều hoang đảo cô liêu!... Chúng ta ngồi đây, trên mỏm đá này, cho nhau hơi thở Cho nhau Niềm Tin để làm lại cuộc đời Cho hy vọng trên môi cười héo hắt Chúng ta xích lại gần nhau, khi nắng chiều xập xuống Khi không gian lắng đọng, mịt mùng sóng vỗ ngoài khơi Khi tất cả chìm vào vắng lặng Chúng ta chẳng còn nhìn rõ nhau Chỉ nghe tiếng gió thở dài trên sóng tóc Với nhịp tim ru nhẹ chẳng thành lời. Pulau Bidong 7-1982. Tạ Tỵ
Em hỏi tôi Có một nơi nào cỏ cây không muốn mọc Đất hiền hòa nhưng dân tộc lầm than Một nơi nào nhìn ra Biển Đông Có những đoàn người thí thân âm thầm vượt sóng Có phải không em Đâu phải ngẫu nhiên đồng hoang nhà trống Ngẫu nhiên nào hạnh phúc cũng phân ly Và nếu như thực tự hào dân tộc Thì làm sao người bỏ nước ra đi Khi cám ơn tự do Em đừng quên Còn vinh danh cho những người nằm xuống Bởi xương máu góp sôi lòng biển lớn Thành đồng nào cũng cuốn đổ thôi em Bởi từ đó hào quang làm thần thánh Việt Nam Việt Nam ngày mai không có cờ đỏ máu Rất lặng lẽ tiễn chồng đi "cải tạo" Bồi hồi đường về Người vợ ra chợ trời tần tảo nuôi con Chồng đi biệt tăm, ngóng đợi mỏi mòn Mấy đứa trẻ ốm nhom Suốt sáng lang thang Đêm quây quần bên nồi cơm độn mì ăn đỡ Không phải đất nước nào cũng đều giàu có Nhưng không ai muốn phá sản bao giờ Việt Nam tôi kể từ tháng Tư nhuộm đỏ Những công trình thành bức tử, bơ vơ! Người ta trả thù từng cành cây ngọn cỏ Đời sống con người hèn mọn, ngu ngơ Gạo rã mục phải chực chờ từng bữa Đầu óc quay điên trong khổ nhục tội đồ Đâu phải chỉ có sâu rầy làm hư ruộng rẫy Nhà máy ngưng im vì thiếu nhân tài Bởi chế độ cướp mất quyền tư hữu Mồ hôi này đổ xuống, để cho ai? Bắt bớ, tội tù, ngụy quyền, phản động "Kiểm thảo" ban ngày, đêm học "đảng quang vinh" Khi được biết "chỉ tiêu" nào cũng vượt Người học viên nhìn ra phố buồn tênh Không có điều luật nào bênh vực nghi can Chỉ có tù giam, tử hình, chung thân biệt xứ Những bản án có từ trước khi phiên xử Mấy buổi đăng đường làm "dân chủ" cho vui Buổi sáng, đứa bé gặm củ khoai Nghe thầy giảng bài về "đất nước ta giàu đẹp!" Giữa trưa đó thầy nhịn ăn, bụng lép Họp tổ để nhuần về "đảng anh minh" May mà nhờ có Mác - Lê Nin Cùng với "Bác" dẫn đường cho mình "làm chủ" Xã hội công bằng nhà nhà no đủ Hạnh phúc, tự do! Bên vỉa hè Người từ kinh tế mới trốn về trần truồng Ngồi trong xó tối co ro Nhìn buổi chiều xuống mau Nhìn bộ đồ rách bươm vừa lột ra giặt giũ Đứa con anh, đi trút món ăn thừa về trễ Con chị nó, mười sáu tuổi, đứng đường! Buổi tối, họp phường Viên chức chủ tịch ồn ào ca tụng "Bác sáng suốt, bác đã dạy và ta làm đúng!" Cán bộ xưng là nô bộc của nhân dân Nhưng hôm sau trời vừa bình minh Chị bán hàng rong bị đánh bằng báng súng! Tôi đã thấy: Rất ngậm ngùi xứ sở tôi sau ngày "giải phóng" Văn minh lùi dần, đời sống man di Đâu đến cần phiêu lưu vào Các bộ lạc châu Mỹ, châu Phi Mới thấy sức người phí phạm Việt Nam tôi, máu loang trên những kinh đào xám Máy móc nằm im, trâu trở lại đi cày Nghị quyết hô hào "sản xuất lớn" hôm nay Để xứng với tầm cao chủ nghĩa Nhưng trong nước thiếu đến từng cây kim, sợi chỉ Giấy trắng học trò, ngày càng đen như giấy than! Người kiến trúc băn khoăn Đồ án dở dang, bởi vì anh không vẽ được Người ta không cần anh tân trang Cho phố phường cao ốc Chỉ làm sao cho mọc kịp nhà tù Anh phải vẽ thế nào để sau đó chính anh vô Thật kín, thật đen, thật tuyệt vời chết chóc. Rất khó hình dung Những con bịnh tầm thường Bỗng dưng nằm đợi chết Y dược không còn Người thầy thuốc khoanh tay Thở dài! Những cái xác nối nhau được đưa ra từ phòng mổ. Có một con đường mênh mông đâu đó Con đường ngoằn ngoèo Trên bản vẽ trên cửa nhà thương Một lối đi cho nhà giáo, giảng đường Để hết xót xa
Buổi chiều nay, trời bâng khuâng xuống thấp Núi đồi xa phủ nhẹ lớp sa mù Giữa mùa xuân mà cứ ngỡ vào thu Gió khô lạnh mơn man tà áo mỏng Ta đang sống hay là ta đang mộng Ta đang cười hay đang khóc em ơi. Đã năm năm, ta cách biệt em rồi Thương tiếc quá ngày vui không trở lại Năm tháng phai đi, ta đâu trẻ mãi Để cùng tình yêu cất cánh bay cao Để hôn em trong hơi ấm ngọt ngào Để bấn loạn trong vòng tay quấn quýt Để ngây ngất trong hương thơm da thịt Dìu hồn ta đến cuối bến đam mê Đường hẹn xưa hoa phủ lối đi về Chân bước chậm cho tình yêu cất tiếng Ta, như một con thuyền không rời bến Buông mái chèo trong sóng mắt người yêu Chưa biệt ly, đã vội nhớ nhung nhiều Chưa xa cách, đã ghì tay níu chặt Mỗi lần gặp, mỗi lần soi gương mặt Trong hố sâu thăm thẳm của lòng nhau Vì tình yêu có muôn vạn phép mầu Ai biết được những gì đang đổi khác. Ta cứ muốn nằm im trong bóng mát Của tình em dào dạt sóng triều dâng Đôi mắt em là hai ngọn nến thần Đã thắp sáng đời ta bằng mộng ảo Dù trời nắng, trời mưa hay giông bão Dù cuộc đời có phiền muộn đắng cay Dù thân ta bị giam hãm tù đày Dù sấm sét, ta chẳng hề run sợ Ta vẫn gọi tên em cho đỡ nhớ Núi sông nào ngăn trở được tình ta? Dẫu mai sau cuộc sống có phai nhòa Tình vẫn đẹp theo màu hoa, sắc lá Ta yêu em, đâu có cần mặc cả Ta đâu cần đánh giá chữ yêu đương Vì tất cả em là một Thiên Đường Ta lạc bước giữa vườn hồng ân ái. Ta, kẻ lãng du mang hồn Do Thái Tìm được miền Đất Hứa mất từ lâu Buổi chiều nay đứng bên bức tượng sầu Ta cầu khẩn tự đáy sâu vọng cảm Em hỡi em, từ nơi xa có thấy Một chút gì vương vấn ở đầu môi Vì buồn đau, em chả muốn cất lời Xin thầm nhắc tên ta giữa vũng lầy trí nhớ. Rồi mai đây, cánh cửa tù phải mở Ta trở về và sẽ lại yêu em Ta trải đau thương trên cánh tay mềm Lại mơ mộng như thuở nào mới gặp Ta sẽ giữ em trong vòng tay rắn chắc Và dìu em đến tận cuối chân trời. Chiều tàn rồi, ta nhớ lắm em ơi!... Trại " Cải Tạo " Chiné, 1979. Tạ Tỵ
Buổi ấy xa rồi, tôi để lại sau tôi Thành phố tan hoang của thời điểm phục thù! Trận đánh bắt đầu cờ đỏ son dử dội Một dân tộc gập mình, nước mắt hận thiên thu! Buổi ấy xa rồi, tôi để lại sau tôi Bóng dáng khô cằn của giới chỉ huy hẹp lượng Lạnh lùng, bất động trên hành lang đỏ chói, Hình ảnh ngấm ngầm áp chế đến tang thương. Buổi ấy xa rồi, tôi để lại sau tôi Dãy người xếp hàng chờ những ngày bi thảm Những khuôn mặt nhăn nheo, đói lả buông trôi Và giấc mơ ray rứt, phảng phất khung trời ảm đạm. Buổi ấy xa rồi, tôi để lại sau tôi Một linh hồn mê sảng của giáo điều ấu trỉ! Những thực hành máy móc, những xảo trá mánh môi Những tượng đá hung tàn, phản lời cam kết, vô liêm sỉ! Buổi ấy xa rồi, tôi để lại sau tôi Những biên cương bờ cõi bị kẽm gai xiết phạt! Những khí giới đàn áp, thủ đoạn tuyệt vời Tội nghiệp dân tộc tôi bị bỏ quên trong một nước không luật pháp. Sarlat, mai 1992. Vân Nương Lê Ngọc Chấn.
Nhớ quá sông Meuse Chao ôi là nhớ Ngày anh về hoa nở rộ công viên, Đến với em một lần luyến thương muôn vạn thuở Chiều lưu vong ngun ngút hận vô biên! Vẫn chỗ cũ chờ anh... em nhé Cầu Fragnée sáng chiều hò hẹn Dấu yêu kiều, bẻn lẻn em đón anh, Sương mịt mù như áo cưới mỏng manh Ngăn đồi núi xung quanh không dòm ngó Cúi trên em Hai tay trần bỏ ngỏ Vòng thắt lưng nho nhỏ nép đôi bờ, Tình làm sao em bé bỏng sông Meuse! Bởi thương anh thân ở đậu ăn nhờ Em ủ anh khi đông về tuyết phủ Rồi thì thầm em nhắc từng tên những sông nguồn quê cũ Sóng lao xao vùng dậy mối duyên thơ... Sống một đời bên Tiền Hậu giang nước lũ Niềm thủy chung không đủ dập đam mê Tóc muối tiêu tuổi xế bóng đã cận kề Anh vẫn nói với em những lời tình tự. Bởi vì anh kẻ lưu đày biệt xứ Nhớ quê hương hùng cứ một phương Đông Bát ngát bao la sông Cửu, sông Hồng Đã mất rồi tất cả, em biết không? Tương tư qua em sông Cửu, sông Hồng Nơi sóng dạt trùng trùng vạn đại Nhìn lại bên nây trời Thì em ôi, em chỉ là em thơ dại Mà nơi đây em nung lại nỗi nhớ thương Ray rức ruột gan từ dạo lên đường lưu đày biền biệt... Rồi có thể Một đêm nào không nguôi nhớ tiếc Anh sẽ cùng em vĩnh viễn ủ cho nhau Một linh hồn vơ vất cạnh bờ lau... Mùa Xuân 1980 Phương Hà.
Vào buổi đầu ra đi Sống lưu vong trên đất Bỉ Tôi phục vụ chăm sóc ông cụ Frankel Tạm coi như là sinh kế Trốn Cộng sản nước ông khi họ cướp được chính quyền Và cụ bà vừa tạ thế đã hai năm Ông trở thành cô đơn, chới với. Có những buổi sớm sương rơi Những chiều tuyết đổ Ngồi bên cửa sổ Hai mái đầu bạc, đầu xanh Người phương Tây, người phương Đông Đồng cảnh ngộ Bên tách cà phê rĩ rã chuyện vui buồn. Ông nói ông bỏ nước ra đi Cách đây bốn mươi năm Hồi ông ba mươi tuổi Chỉ vì tự do đã mất Và ông là Người nên không chịu thấu Thứ chủ nghĩa dành cho chó cho trâu Nhớ nước thương quê hằng đêm ông khóc Nước mắt đổ vào giòng Donau Xuôi Budapest về tận bến nước sau nhà. Hai năm sau Ông chưa kịp về Đã phải gởi nắm xương tàn trên đất Bỉ Tôi lủi thủi theo sau quan tài đơn chiếc Tiễn đưa ông an nghỉ nghìn thu Tôi cảm thương ông Và thương cho số phận của mình, tương tự. Tôi đâu có ngờ Chỉ mấy năm sau đó Bức tường Bá Linh gục xuống Xô Viết, Đông Âu đổi chủ Kéo theo huyền thoại đỏ một thời. ** Giờ đây Hungary vắng bóng quân thù Thì cụ Frankel không còn nữa Tôi lặn lội qua Budapest Tìm tận nhà ông Như để thực hiện thay ông một chuyến "trở về". Thời gian không đặc miễn Nửa thế kỷ một thoáng mây bay Nhưng cảnh cũ đã đổi thay Tôi không tìm được ngôi nhà Có chiếc cổng sau trổ ra bên giòng Duna xanh biếc. Thẩn thờ tôi thả dọc cây cầu Nối liền Buda và Pest Rồi tôi dừng lại nửa chừng Đăm đăm nhìn xuống giòng sông Lấp lánh những giọt nước mắt của cụ Frankel Nhấp nháy như bảo cho tôi được biết Hồn cụ đã về Lãng đãng trên sông Nhịp nhàng lướt êm với nền nhạc valse bất hủ: Blue Danube. Le Beau Danube bleu... Tôi tiếp tục qua cầu Lòng bỗng thoáng vui Dầu cho cụ Frankel qui tiên không chờ đợi được Nhưng giờ đây mộng ước đã thành: Hungary đang đứng dậy... (Budapest, bên giòng sông Danube Hungary, Quốc Khánh 20/8/1995) Phương Hà. Postface Une fois refermé le fort beau Recueil de Poésie de Monsieur VÕ Đức Trung, l’on ne peut que crier son admiration et sa gratitude à celui qui, après tant d’épreuves, trouve encore la force et le talent de nous offrir ces chants inspirés. Ce Recueil – on l’aura remarqué – s’ouvre et se conclut sur le mot LIBERTE. L’auteur, revenu à la vie, respire avec émotion un souffle qui lui est comme rendu en sa splendeur après tant d’horreurs et d’images insoutenables. Lisons: «Quand une personne fut décapitée Sa tête tombée par terre continuait à se retourner pour remercier son bourreau sans arrêt». L’on frémit à de telles évocations, à cette idée atroce d’un supplicié remerciant son bourreau. L’on s’indigne devant ce que des assassins parmi les plus horribles qu’ait connus l’Histoire de tous les temps veulent nous faire admettre. Il faudrait non seulement leur pardonner mais encore les louer de leurs crimes! Atroce aberration. «Pour nourrir ses frères et sœurs, ma fille s’est prostituée!». Abominable renversement des valeurs de malades mentaux livrés à leurs démons, qui n’en font que mieux ressortir la noblesse d’âme de ceux qui furent leurs doux compatriotes. «Allez dans la direction du soleil Notre cœur est illuminé de mille feux!». Oui, cependant que les sinistres wagons à bestiaux emportent vers la Sibérie leur chargement humain de malheureux, il s’est trouvé un Poète pour chanter ici l’Espérance et chasser les miasmes de ces doctrinaires fous. Oui: «Notre idiotie est de plus en plus raffermie par le silence prolongé». Peu à peu le Poète ressuscite. Sans pouvoir oublier la rudesse des «Sentiers de l’Exil», il sait démanteler: «La Voie de Liaison Du (soi-disant) Socialisme». Merci à celui qui entretient avec une insigne pureté de Pensée et une telle abnégation, cette Revue excellente que nous aimons tous, «Văn Hóa». Merci, Mille fois Merci à celui dont le noble talent et l’âme généreuse ont su, en dépit de toutes les vicissitudes, élever un chant si pur et une si juste et si touchante harmonie en un Monde de folie. Voilà un ouvrage que nous relirons souvent en rêvant à la riche Culture d’un Pays ami si longtemps abandonné à la pires des barbaries. Jean SADYN La Grande Motte (France) Le 12 Mars 1999. Jean SADYN
Ecrit dans les heures de peines, de douleurs et de désespoir, à Kéramot sur les Iles d’Anambas au large de l’Indonésie, premier pays d’accueil de mon exil volontaire, alors que je venais de quitter le Vietnam sur un bateau de fortune, à destination d’une Terre Promise lointaine et sans lendemain, et publié successivement dans plusieurs revues dont Arts et Poésie de l’Association des Poètes et Artistes de France, Cercle Poétique des Réfugiés Vietnamiens, France-Vietnam Culture… ce poème a été aimablement repris par le Docteur-Orientaliste THÁI Văn Kiểm, Membre de l’Académie des Sciences d’Outre-Mer, dans son célèbre Allocution sur ‘La Libre Expression dans la Poésie Vietnamienne’, solennellement prononcée à la XVIIIème Biennale Internationale de Poésie, tenue au Palais de Congrès de Liège du 3 au 7 septembre 1992, sous le haut patronage de S.E La Reine FABIOLA de Belgique. En voici un extrait: «Par ailleurs, il convient de noter dans le cadre de la Grande Exode des Vietnamiens vers l’Outre-Mer, à la recherche d’une vie meilleure dans la Liberté et la Démocratie, qu’une littérature nouvelle est née depuis mai 1975 aux quatre coins du monde, avec l’apparition de nouveaux talents, aussi bien dans le domaine des Arts et des Lettres que dans celui des Sciences et Techniques. «Nous reconnaissons en eux une totale liberté d’expression dans de nombreux thèmes allant de la nostalgie du Pays Natal à la condamnation du régime communiste, en passant par la prospection culturelle et sentimentale des Pays-Hôtes dont l’hospitalité bienfaisante n’est plus à démontrer. « A titre d’exemple, nous aimerons bien mentionner ce poème tout à fait remarquable de Võ Đức Trung, membre du Cénacle Poétique du Ternois dans le Pas-de-Calais: Je Laisse Derrière Moi. «Mais nous sommes tout à fait surs, nous Vietnamiens, que cela n’est qu’une parenthèse ou, tout au plus, un accident de l’Histoire. Et nous reviendrons pour rebâtir notre Pays en plus beau au sein de la Nature afin que notre Peuple perdure au sein de l’Humanité. «Enfin, sachant pertinemment qu’il n’y a pas de Poésie sans Liberté, nous sommes persuadés que la Poésie vietnamienne dans sa libre expression saura trouver une place de choix dans l’Héritage Culturel des Peuples épris de Paix et de Liberté». Par la suite, Il a été, traduit en vietnamien par l’honorable poétesse Vân Nương Lê Ngọc Chấn sous le titre «Tôi Để Lại Sau Tôi» (4) et publié pour la première fois dans la Revue Văn Hóa (France-Vietnam Culture, N° 4 – décembre 1992 – Page 37). Madame Vân Nương, veuve de maître Lê Ngọc Chấn, homme politique, ex. Ministre de la Défense sous le gouvernement de Ngô Ðình Diệm, connue par son courage et sa position au regard de la Cause du Peuple vietnamien, est originaire de la région de Thanh Hóa (Vietnam Centre). De son vrai nom Trần Vân Chung et sous de multiples noms de plume comme Lê Ðông Phương, Viễn Phố... elle a commencé à s'initier à la poésie en 1946 et depuis n'a pas cessé de conquérir les lecteurs avisés par ses poèmes particulièrement regorgés d'émotion, d'amour et de liberté. Réfugiée en 1987 en France, exactement à Sarlat en Dordogne (France), elle continue à servir avec talent et engagement la Culture et la Communauté vietnamienne d'Outre-Mer, par son souffle créateur et par son inspiration poétique intarissables, nous laissant à découvrir chaque fois le charme de la nature et le prestige des traditions ancestrales, le tout imprégné de patriotisme à la fois exaltant et débordant. Je laisse cette fois, loin derrière moi La ville déserte en temps de représailles L’averse battante sur les drapeaux vermeils: Larmes blessantes d’un peuple se repliant sur soi! Je laisse cette fois, loin derrière moi Les silhouettes séniles des dirigeants bornés S’immobilisant, froides, sur les balcons pourprés: Image tacite d’oppression et d’effroi! Je laisse cette fois, loin derrière moi Les longues queues d’attente des journées sidérées, Les visages grimaçants, par la faim torturés Et les rêves mordants, feutrés de désarroi. Je laisse cette fois, loin derrière moi Une âme chloroformée de doctrines infantiles Des gestes machinaux, des ruses habiles, Des statues de marbre, démons contre la foi. Je laisse cette fois, loin derrière moi Des barbelés cernant nos côtes et frontières, Des armes réprimantes par la voie de misère: Pauvre peuple oublié dans un pays sans loi! Kéramot (Indonésie) 06/1979.
J’aime mettre côte à côte Un débris de béton du mur de la honte Erigé, impassible, vingt-huit ans durant par les despotes, Un bout de barbelés, rouillé par le sang et les pleurs Des prisonniers à perpétuité dans les goulags sibériens, Une mince tige de bambou moisi Piquet pointu, hérissé des prisons vietnamiennes, Un fil de fer terni, contorsionné en spirale Cernant les camps de réfugiés en Thaïlande et Malaisie, Un fragment de statues de Lénine, de Staline… destitués Déboulonnées à grands cris de colère à Prague, Budapest, Varsovie, Un morceau de carcasses de bateaux éventrés sur le littoral Ou de planches hasardeuses lâchées dans les tempêtes par les fuyards effrayés, Une douille d’A.K. servant à l’exécution sommaire des révoltés Auréolés sur la place Tien An Men, de bravoure et défi… ** Sur cette place d’honneur J’aime garder ancrés dans mon cœur Ces souvenirs ourlés de gloire De tant de gens du monde, morts pour leur idéal. Ces vivants éternels illuminent dans toutes les mémoires Ce mot divin que j’adore: Liberté! Nord de France Le 19 Mai 1994.
Ce texte est la traduction du poème en vietnamien titré "Chiều Nhớ" (3), composé en 1979 au Camp de Rééducation Chiné (Nord Vietnam), par le peintre-poète Tạ Tỵ, déporté par les communistes, en sa qualité d'officier supérieur de l'Armée du Sud Vietnam. Né en 1922 à Hanoï, il a passé presque toute sa vie dans le Sud. Mobilisé pour servir l'armée et la patrie en danger face à l'agression permanente des Vietnamiens du Nord, et parallèlement à ses activités militaires, il se distinguait dans la peinture, la poésie et la critique littéraire. Auteur de nombreux ouvrages riches en créativités dont "Dix Visages des Lettres et des Arts" (Mười Khuôn Mặt Văn Nghệ) qui faisait date, et signataire d'un grand nombre de tableaux qui lui donnaient un nom et une place de choix dans la peinture vietnamienne des dernières décennies, il a été malmené du Sud au Nord jusque dans les confins limitrophes de la Chine Populaire où il gardait intact un moral d'acier pour son retour certain. Réfugié aux États-Unis d'Amérique depuis avril 1983 comme rescapé des "boat people", il a publié ses mémoires "Du Fond de l'Enfer" (Ðáy Ðịa Ngục) qui ne sont autre que des témoignages vivants, bondés d'émotion et d'horreurs vis à vis du régime actuel. Le texte de cet artiste exceptionnel, est écrit dans des conditions exceptionnelles dont le côté humain me fait revenir dans la mémoire ces vers inoubliables de Molière (1622-1673): L'espoir, il est vrai, nous soulage Et nous berce un temps notre ennui. (Le Misanthrope) et d'Alfred de Musset (1810-1857): Le seul bien qui me reste au monde Est d'avoir quelquefois pleuré. (Tristesse - Oeuvres Complètes). Ce soir, mélancolique, le ciel descend très bas. Les montagnes et collines lointaines sont effleurées par un épais brouillard. Au cœur du printemps, je croirais être au début de l’automne languissante. Un vent froid et sec taquine les minces pans de robe flottant. Suis-je vraiment en vie ou en train de rêver? Ô chérie! Suis-je en train de rire ou de pleurer? Déjà, cinq ans durant, je t’ai quittée C’est dommage: jamais, ne reviennent jamais les jours de joie! Tandis que passent et s’effacent les années et les mois, Je ne suis plus éternellement dans la jeunesse Pour m’envoler avec l’amour dans l’allégresse Pour t’offrir jusqu’à l’exquisité, les baisers les plus enflammés Pour te serrer jusqu’au délire dans mes bras embarrassés Pour m’enivrer dans le parfum de ta chair exaltante Pour m’amener finalement au comble d’une passion transcendante. Sur les chemins des rendez-vous d’antan, les fleurs ont parsemé les retours et allers. Notre marche a été ralenti pour permettre à nos cœurs de s’exprimer. Moi, semblable à une barque qui n’a jamais quitté l’embarcadère Abandonnant la rame à sa guise, je l’ai laissée vaguer dans l’onde de tes yeux. J’ai pensé intensément à toi, même en n’ayant pas eu de moment d’adieu Et je t’ai embrassée très fort comme pour te garder, même si nous ne sommes jamais séparés. A chaque rencontre, nos visages, face-à -face, semblent miroiter Jusque dans le gouffre profond de notre cœur Car l’amour a tant de pouvoirs magiques, tant de mystères. Personne ne sait à présent les changements en train de se faire! J’aime toujours m’allonger, tranquille, dans l’ombre rafraîchissante De ton amour déferlant comme les vagues en marée montante. Tes yeux qui ressemblent à deux cierges sacrés Ont illuminé ma vie par de douces rêveries. Malgré le beau temps, les orages ou la pluie Malgré l’existence souvent minée d’amers soucis Malgré mon internement dans les camps concentrationnaires Malgré les foudres et tonnerres, je ne tremble jamais. Par ton nom et pour soulager mes peines, je t’appelle toujours Quels monts et fleuves peuvent faire obstacles à notre amour? Même si dans l’avenir, la vie s’effaçait Notre amour, à l’image des belles couleurs de feuilles et fleurs, resterait à jamais, parfait. Je t’aime sans faire de calcul, ni de marchandage Sans besoin non plus du vocable d’amour, ni d’évaluer le prix Parce que tout en toi est un vrai paradis, Un jardin de la béatitude où je m’égare dans l’extase charnel. Bohémien, j’emporte avec moi l’âme d’Israel A la découverte de la Terre Promise, perdue déjà depuis longtemps. Ce soir, debout ici, près de la muraille attendrissante Je prie, du profond de l’espoir et de l’attente. Dans le lointain, as-tu senti, ô chérie adorable Quelque chose laissant sur tes lèvres des empreintes agréables? Triste et bien marquée de douleurs, tu ne voudrais plus prendre ta voix Pour évoquer tout doucement mon nom dans la flaque encombrante de ta mémoire. Bientôt, forcément, la porte de prison s’ouvrira un jour Je recommencerai à t’aimer davantage dès mon retour. Sur ton bras tendre, j’étalerai tous mes maux et douleurs cumulés Je continuerai à rêver comme à l’époque de nos premières rencontres. Dans mes bras durs et solides, je te garderai pour toujours Afin de t’amener jusqu’aux confins de l’horizon… Déjà s’est incliné le soir, Ô chérie ! Combien je pense à toi! Tạ Tỵ "Camp de rééducation" Chiné 1979. |
No comments:
Post a Comment