Tuesday, August 10, 2010

NGHỆ THUẬT CẢI LƯƠNG


Soạn giả Nguyễn Phương và cuốn hồi ký Buồn Vui Ðời Nghệ Sĩ
2006-02-19

Thanh Quang, phóng viên đài RFA

Soạn giả Nguyễn Phương: “Cái đẹp của văn chương, cái quyến rũ của làn điệu cổ nhạc dân tộc, các câu chuyện tình vẹn thủy toàn chung của các vở tuồng đã nâng cao tâm hồn người nghệ sĩ để họ chấp nhận những lao khổ nhọc nhằn về phần mình mà được đi khắp các miền đất nước để gieo rắc những bông hoa tư tưởng đẹp, những điệu hát, câu hò đượm tình dân tộc”.

  • Bấm vào đây để nghe tiết mục này
  • Download story audio
Soạn giả Nguyễn Phương.

Thưa quý thính giả, vừa rồi là lời của ông Nguyễn Phương, soạn giả và là nghiên cứu cổ nhạc hàng đầu của Việt Nam. Hôm nay chúng tôi hân hạnh thông báo cùng quý vị là soạn giả Nguyễn Phương sắp sửa phụ trách dài lâu chương trình Cổ nhạc của Ban Việt Ngữ Đài ACTD.

Thưa quý vị, mặc dù soạn giả Nguyễn Phương không xa lạ đối với giới mến mộ cải lương, vọng cổ, nhưng hôm nay chúng tôi xin được phép giới thiệu đến quý vị về ông, qua những chi tiết liên quan tới giới ca kịch cải lương mà từ xưa tới giờ chưa có ký giả kịch trường nào, chưa có sách báo nào trong nước đề cập tới.

Những chi tiết đó – hay đúng hơn là những bước thăng trầm của đời nghệ sĩ – được mô tả sống động TRONG tác phẩm mới, có tính cách hồi ký và biên khảo, tựa đề “Buồn Vui Đời Nhgệ Sĩ” của soạn giả Nguyễn Phương.

Tiểu sử tác giả

Trước khi trình bày về cuốn “Buồn Vui Đời Nghệ Sĩ”, chúng tôi xin được giới thiệu vài nét về tiểu sử tác giả.

Nguyễn Phương tên thật là Nguyễn Văn Hoà, sanh ngày mùng Một tháng Bảy năm 1922 tại Mỹ Tho, cựu công chức phòng kỹ thuật Sở Bưu Điện Sàigòn. Ông chuyển sang hoạt động cải lương từ năm 1948 tới 1989, trước khi cùng gia đình tới định cư ở Canada cho đến giờ.

Cái đẹp của văn chương, cái quyến rũ của làn điệu cổ nhạc dân tộc, các câu chuyện tình vẹn thủy toàn chung của các vở tuồng đã nâng cao tâm hồn người nghệ sĩ để họ chấp nhận những lao khổ nhọc nhằn về phần mình mà được đi khắp các miền đất nước để gieo rắc những bông hoa tư tưởng đẹp, những điệu hát, câu hò đượm tình dân tộc.

Soạn giả Nguyễn Phương từng cộng tác với rất nhiều đoàn hát nổi tiếng, như Ánh Sáng, Tiếng Chuông, Việt Kịch Năm Châu, Kim Thoa, Thanh Minh, Thanh Minh Thanh Nga, Dạ Lý Hương; từng là Trưởng ban cải lương Ban Phương Nam Đài Phát Thanh Saigòn, Trưởng ban Kịch Phương Nam Đài Truyền hình ở Miền Nam Việt Nam hồi trước năm 1975.

Soạn giả Nguyễn Phương đã viết hơn 100 vỡ tuồng cải lương, kể cả Đôi Mắt Người Xưa, Ngã Rẽ Tâm Tình, Bọt Biển, Tình Xuân Muôn Tuổi, Hoa Đồng Cỏ Nội, Người Tình Của Biển, Chuyện Tình 17, Tiền Rừng Bạc Biển, Chén Trà Của Quỹ, Bóng Chim Tăm Cá…, ông còn soạn kịch cho các Ban Kịch Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Kịch Sống Túy Hồng, Chương trình Lúc Không Giờ, và viết các truyện phim như Triệu Phú Bất Đắc Dĩ, Con Ma Nhà Họ Hứa, Chàng Ngốc Gặp Hênh, Lẽ Sống Đời Tôi, Lệnh Bà Xã.

Hồi ký Buồn Vui Đời Nghệ Sĩ

Thưa quý vị, sau khi cuốn “Ngũ Đại Gia Của Sân Khấu Cải Lương” được xuất bản ở Montreal, Canada vào năm 2000, soạn giả Nguyễn Phương hồi mùa Hè năm 2005 này vừa ra mắt thêm một tác phẩm mới của ông mang tên “Buồn Vui Đời Nghệ Sĩ”. Mời quý vị nghe tác giả tâm sự về lý do ông biên soạn cuốn sách đó:

Soạn giả Nguyễn Phương: “Viết hồi ký Buồn Vui Đời Nghệ Sĩ, tôi ghi lại những kỷ niệm của một thời mà tôi lang thang trên bước đường nghệ thuật sân khấu. Trong những kỷ niệm đó, “tôi”, “cái tôi” chỉ là một phần cá thể rất nhỏ của tôi, hoà nhập với cả một tập thể nghệ sĩ để cùng làm chứng nhân của một thời điểm mà xã hội Việt Nam còn có ý khinh bạc đối với người nghệ sĩ, xem họ như những kẻ xướng ca vô loại.

Vì vậy, trong tập hồi ký này, chuyện của các bạn nghệ sĩ đồng nghiệp của tôi chiếm một số trang quan trọng, tôi là người chứng kiến và cũng là người cùng chung số phận, cùng chia sẻ với các bạn đó những nỗi vinh, nhục của nghề hát cải lương.”

Rồi sống ở xứ lạnh tình nồng Canada, nỗi nhung nhớ ngày càng nhiều tới những bạn nghệ sĩ cũ, tới những chuyện xưa, và nhất là ánh đèn sân khấu cải lương lại càng thôi thúc tác giả hoàn tất cuốn “Buồn Vui Đời Nghệ Sĩ”.

Gồm 24 truyện ngắn

Thưa quý vị, tác phẩm này gồm 24 truyện ngắn, có liên quan đến những tập tục địa phương, những mẫu chuyện vui về các nghệ sĩ như Hùng Cường, Bạch Tuyết, Hề Thanh Việt, Bà Năm Sa đéc, kép độc Trường Xuân, kép mùi Thanh Cao, hề Tám Củi, quái kiệt Ba Vân, hề Lập, các nữ nghệ sĩ Diệu Hiền, Hồng Nga, Phượng Mai, và về chính tác giả trong những trường hợp như đi coi mắt mà “hỏng cưới được vợ”, “người trồng cây si Gia Long”.

Người nghệ sĩ vẫn giữ được cái tâm bình thản để vượt qua, để tồn tại và để toàn tâm toàn ý cống hiến nghệ thuật ca hát, góp phần làm đẹp cho đời và làm vui lòng khán giả ái mộ.

Qua lời văn mượt mà, súc tích, dí dởm và bằng những kinh nghiệm sống thực, tác giả Nguyễn Phương đã trải dài trong tác phẩm những tình cảnh cùng nỗi niềm của nghệ sĩ theo bước đường lưu diễn trong thời quê hương ly loạn.

Tác phẩm mở đầu bằng truyện “Nghệ Sĩ Trên Các Nẻo Đường Lang Thang”. Trong bối cảnh “đã sang thu…trời chiều se lạnh, tối xuống mau”, chỉ cần “đôi mắt long lanh” của con sóc sau vườn, qua ánh nến vàng, cũng đủ làm tác giả nhớ vô cùng ánh mắt của những nữ diễn viên dưới ánh đèn sân khấu ngày nào, và rồi lập tức “bao kỷ niệm của các nghệ sĩ thân thương dưới vòm trời nghệ thuật”, kể cả kỷ niệm của đêm hát mà ông cùng vợ ông lúc xa xưa đó mới gặp và yêu nhau, đã dồn dập hiện về.

Nỗi niềm ray rức ấy đã làm sâu đậm thêm tính đa cảm của nghệ nhân, khiến tác giả khó quên được ánh mắt của cô Quyên – cô vợ hụt của ông ở Cao Lãnh với “đôi mắt sáng long lanh, chân mày cong lá liễu, môi đỏ như son, nước da trắng hồng và mịn như tơ nhung, có tiếng nói rất trong, êm dịu”.

Rồi tính đa cảm ấy cũng khiến ông, khi hãy còn độc thân, đã “trồng cây si Gia Long” - yêu một cô nữ sinh Gia Long đẹp, dịu hiền vốn là bạn học của người em họ, để rồi, theo lời tác giả, “hình ảnh tà áo dài trắng thước tha như cánh chim én mang mùa xuân lại cho lòng tôi là hình ảnh duy nhất đã theo tôi suốt mấy chục năm dài phiêu bạt giang hồ”.

Qua những truyện như “Những Tập Tục Lạ Đời”, “Đào Hát Biết Hóa Phép Thần Thông”, “Nghệ Sĩ Tám Vân Bị Quỹ Ám Trên Sân Khấu”…, tác giả đã chứng kiến một thời nhiễu nhương ly loạn khi giới cải lương vốn bị coi là “xướng ca vô loại” đã bị những lãnh chúa dịa phương dùng tôn giáo để hành hạ giới mà ông than là “ăn quán ngũ đình” này.

Tuy nhiên, theo soạn giả Nguyễn Phương: “Người nghệ sĩ vẫn giữ được cái tâm bình thản để vượt qua, để tồn tại và để toàn tâm toàn ý cống hiến nghệ thuật ca hát, góp phần làm đẹp cho đời và làm vui lòng khán giả ái mộ”.

Rồi truyện đường rừng làm tăng thêm sức thu hút của tác phẩm “Buồn Vui Đời Nghệ Sĩ”, khi một nhóm trong đoàn Thanh Minh-Thanh Nga, kể cả các soạn giả Nguyễn Phương, Hà Triều, Hoa Phượng, Kiên Giang Hà Huy Hà, đi tắm suối ở Tây Nguyên và phải trọ qua đêm trong một buôn bản vì mưa to. Giữa lúc nhậu nhẹt thâu đêm tại nhà ông chủ phum với những điệu tình ca Radhê buồn da diết, thì từng tràng tiếng hú của người rừng trổi lên giữa cơn mưa bão càng làm rùng rợn thêm cảnh rừng khuya âm u. Tuồng “Mưa Rừng” nổi tiếng của Hà Triều, Hoa Phượng được hình thành dựa trên bối cảnh tiếng hú rừng khuya này.

Cũng trong cảnh rợn người, “Chuyện Dị Đoan Trong Giới Nghệ Sĩ Cải Lưởng” cho thấy những bóng ma huyền bí đã khuấy phá đoàn Việt Kịch Năm Châu, và nhân “Ngày Xuân Nghệ Sĩ Đi Xem Bói”, bói quẻ Khổng Minh ở Lăng Ông Bà Chiểu đã linh ứng đối với cuộc đời của các soạn giả Nguyễn Phương, Kiên Giang và Hà Triều.

Ngòi bút dí dởm điêu luyện

Thưa quý vị, ngòi bút dí dởm điêu luyện của tác giả Nguyễn Phương cũng đem lại những đợt cười cho độc giả qua những truyện như “Trường Xuân Bị Phục Kích”, “Thanh Việt Đụng Độ Hùng Cường”, “Tám Vân Bị Quỹ Ám Trên Sân Khấu”…Nhưng thường thì đằng sau những nụ cười ấy là cả một nỗi niềm xót xa cho thân phận người nghệ sĩ.

Thận phận ấy trở nên rỏ nét hơn qua “Long Đong Kiếp Cầm Ca”, như tác giả mô tả và Gia Minh trình bày sau đây: “Người ngoài chỉ thấy khía cạnh cuộc sống tự do, phóng túng của họ, chớ ít ai biết được là cuộc đời giang hồ lảng tử của đào, kép hát đã phải chịu gian khổ…”

Hay trong “Cuộc Sống Sau Bức Màn Nhung”: “Khi cánh màn nhung khép lại, khi tuổi đời chồng chất, họ chỉ còn lại cho mình sự nghèo đói, cô đơn và sự quên lãng của người đời”.

Một điểm nổi bật trong tác phẩm “Buồn Vui Đời Nghệ Sĩ” là những câu hò đối đáp trên kênh rạch Miền Tây, qua những truyện như “Tao Ngộ Trên Sông”, “Trên Đường Phiêu Bạt, Chút Tình Lãng Mạn”. Chẳng hạn như , Hề Lòng của gánh Tiếng Chuông đã hò đáp lại một cô gái thương hồ, mà Thanh Quang xin phép thay giọng hò của Hề Lòng để hầu quý vị.

“Hò ơ…Đờn cò lên trục kêu vang, Qua còn thương bậu…bậu khoan có chồng. Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng Qua đây thương bậu…ờ…hơ…qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương…”

Và cô gái của sông nước Miền Tây ấy đã hò đáp lại, xin mời Trà Mi diễn tả giúp:

“Hò ơ…em thấy anh, em cũng muốn chào, Sợ rằng chị cả…ờ…, sợ rằng chị cả dắt dao trong mình !”

Thưa quý vị, cô gái dạn dĩ và có giọng hò quyến rũ ngày nào đó không ai khác hơn là nữ danh ca Kim Anh, từng vang bóng trên sân khấu Thanh Minh.

Kiến thức chuyên môn

Cuốn “Buồn Vui Đời Nghệ Sĩ” còn tiết lộ cho độc giả một số kiến thức chuyên môn của sân khấu cải lương, liên quan kỹ thuật bay, hóa phép trên sân khấu, cũng như nghệ thuật diễn xuất làm sao như thật, chẳng hạn như diễn tả cử chỉ, điệu bộ của người điên, của người ghiền ma túy.

Qua tác phẩm này, chúng ta cũng thấy sự khổ luyện kiên trì của các nghệ nhân, và nhất là cả một khung trời sân khấu cải lương của thời xa xưa với các ngôi sao Năm Châu, Phùng Há, Bà Năm Sa Đéc, Ba Du, Ngọc Sương, Năm Nam, Văn Ngân, Tám Cao…

Trong truyện cuối của tác phẩm là “Hát Chầu Lễ Hội Kỳ Yên” và một truyện trước đó “Người Trồng Cây Si Gia Long”, độc giả khó tránh khỏi xúc động và cảm kích trước lòng yêu nước của ông chấp sự ở Vũng Tàu và ông Chấp sự tại Cần Giờ, liên quan đến vận nước và lịch sử dân tộc.

Thưa quý vị, 24 truyện ngắn trong cuốn “Buồn Vui Đời Nghệ Sĩ” cho thấy nhờ một nguồn an ủi, khích lệ vô biên mà các nghệ sĩ tiếp tục theo đuổi nghiệp tổ, cho dù họ phải mang kiếp sống rày đây mai đó với một tương lai vô định – như kiếp phiêu lưu vô định của dề lục bình trôi dật dờ trên sông nước Miền Tây.

Tác giả Nguyễn Phương trình bày về nguồn an ủi, khích lệ ấy: “Trước hết và trên hết mọi sự, người nghệ sĩ đã sống với nhau bằng một tâm hồn chân thật, tương thân tương ái. Họ biết tôn sư trọng đạo. Họ tìm vui và chia vui với nhau trong câu ca, điệu hát, trong câu hò Đồng Tháp hay trong bài ca vọng cổ Bạc Liêu.

Cái đẹp của văn chương, cái quyến rũ của làn điệu cổ nhạc dân tộc, các câu chuyện tình vẹn thủy toàn chung của các vở tuồng đã nâng cao tâm hồn người nghệ sĩ để họ chấp nhận những lao khổ nhọc nhằn về phần mình mà được đi khắp các miền đất nước để gieo rắc những bông hoa tư tưởng đẹp, những điệu hát câu hò đượm tình tự dân tộc”.

Và trong lời bạt để chia sẻ “buồn vui đời nghê sĩ”, nhà văn Hồ Trường An từ Cổ Nguyệt Đường ở Pháp Quốc nhận xét: “‘Buồn Vui Đời Nghệ Sĩ’ là một tác phẩm thuần thấm tình người, tình nước, tình yêu nghệ thuật, ngoài những giai thoại lý thú lấp lánh ánh sáng lạc quan luôn cả những vận sự cười ra nước mắt”.

Thưa quý thính giả, chương trình Cổ Nhạc xin tạm dừng ở đây. Thanh Quang cảm ơn quý vị vừa theo dõi chương trình hôm nay, và cảm ơn tác giả Nguyễn Phương đã đóng góp tác phẩm mới của ông – cuốn “Buồn Vui Đời Nghệ Sĩ” - cho chương trình này.




Nghệ sĩ Hồ Quảng Minh Long
NGUYỄN PHƯƠNG

"Nguyễn Phương, Tám Vân - Nhị Kiều, Viễn Châu, Thanh Cao, Kiên Giang, Việt Hùng - Ngọc Nuôi, Hoàng Giang - Kim Giác, Thành Được, Út Bạch Lan, Ngọc Giàu, Lệ Thủy, Thu An - Ngọc Hương …vân… vân và rất nhiều bạn nghệ sĩ của chúng tôi, theo nghiệp sân khấu năm sáu chục năm liên tục, mặc dầu có nhiều khi bị đói kém, túng thiểu, khổ sở mọi bề, chúng tôi vẫn tìm vui được dưới ánh đèn sân khấu để mà sống và đeo đuổi theo nghiệp tổ cho đến ngày mỏn sức tàn hơi.

Có người cho là chúng tôi tin dị đoan, tin nơi phần số trời đã định. Có người lý giải theo tâm lý học là những nghệ sĩ lão thành chúng tôi đam mê nghệ thuật sân khấu, giống như nhạc sĩ mê tiếng đàn, thi sĩ mê thi thơ… Nhưng cũng có người lấy cuộc sống thực tế để mà suy luận thì rõ ràng trong cái thời điểm hành nghề của chúng tôi, có một lúc được gọi là thời vàng son của sân khấu, chúng tôi có một mức sống khá cao, tiền bản quyền tác phẩm được tính cả trăm ngàn đồng, nghệ sĩ có contrat cả triệu bạc và lương đêm cũng được tính một vài ngàn đồng một suất hát.

Những năm từ 1979 đến năm 1985, có nghệ sĩ chạy xuống tỉnh hát chui, được trả lương một suất hát vài chỉ vàng, có người được chia 10, 12, tới 15 phần trăm trên tổng số doanh thu của đêm hát đó.

Tuy nhiên cũng có khá nhiều nghệ sĩ khi mới bước chân vào nghề hát thì sinh hoạt sân khấu bắt đầu xuống dốc. Lương đêm của mỗi nghệ sĩ được tính « đồng giá tiền » cho những nghệ sĩ hạng A hoặc hạng B, đào kép chánh và những người quan trọng trong gánh hát được phân hạng A, những người khác đồng loạt được xếp vào hạng B. Nghệ sĩ không được ký contrat, không được mượn tiền trước.

Nói chung đời sống vật chất của nghệ sĩ cải lương trong thời điểm nầy thật là thiếu thốn, chỉ được hưởng tiếng khen ngoài miệng thôi. Vậy mà có người mê cải lương, lao đầu vào cuộc sống nghệ sĩ trong hoàn cảnh « có tiếng mà không có miếng ».

Thưa quý thính giả, nghệ sĩ Minh Long là một nghệ sĩ vượt qua được những khó khăn vì thời cuộc mà đến với nghệ thuật sân khấu và đã thành danh sau hơn hai mươi năm đeo đuổi theo nghề hát.

Nghệ sĩ Minh Long tên thật là Trịnh Minh Long, sanh năm 1955 tại Saigòn, cha mẹ là những thương buôn khá giả, trong gia đình không có ai là nghệ sĩ.

Minh Long học xong lớp 9 Trung học Phổ Thông trường Bồ Đề, sau Tết Mậu Thân 1968, trường học tạm đóng cửa, Minh Long xin cha mẹ cho em theo các lò cổ nhạc, học ca hát. Minh Long, Bình Trang, Tú Anh, Kiều Trang, Ngọc Hiếu và một số đông các em học viên khác dự lớp dạy ca diễn tại nhà của soạn giả Nguyễn Phương, nghệ sĩ Tám Vân dạy về diễn xuất, soạn giả Nguyễn Phương hướng dẫn đọc thoại và đài từ, nhạc sĩ Tám Lắm dạy ca bài bản cổ nhạc. Minh Long và Bình Trang học thêm phần ca vọng cổ với nhạc sĩ Văn Vĩ.

Cuối năm 1969, Minh Long, Bình Trang, Ngọc Hiếu được nghệ sĩ Tám Vân đưa gia nhập đoàn hát Dạ Minh Châu tức đoàn Thanh Minh Thanh Nga 2 của bà bầu Thơ, Tám Vân chịu trách nhiệm điều khiển đoàn hát thay cho bà Bầu Thơ. Chỉ vài tháng sau , Minh Long và Bình Trang đã thành công qua các vai chánh trong tuồng Hoa Mộc Lan, Bảy Mùa Mai Nở.

Rất tiếc là vì tình hình các tỉnh có giờ giới nghiêm ban đêm nên đoàn hát dù nghệ sĩ hát hay đến đâu thì cũng khó mà có số doanh thu cao với những suất hát ban ngày, đoàn Dạ Minh Châu đi lưu diễn các tỉnh miền Hậu Giang, chịu khó vào các thôn ấp xa xôi để hát nhưng rốt cuộc đoàn hát cũng phải giải tán vì thua lổ.

Năm 1971, nghệ sĩ Minh Long theo đoàn hát Ngân Giang của ông bầu kiêm nghệ sĩ Quang Nhiều đi lưu diễn các tỉnh miền Trung, Minh Long hát được nhiều vai trong các tuồng hát của đoàn Ngân Giang. Điều nầy rất quan trọng đối với một nghệ sĩ mới vào nghề hát như Minh Long vì đó là một cơ hội để cho Minh Long học hát qua các vai khác nhau, đồng thời qua nhiều suất diễn với các vai đa dạng, điều đó giúp cho Minh Long tự khẳng định mình là người có đủ khả năng phụ trách sân khấu, là giám đốc kỹ thuật, là đạo diễn.

Nhưng mùa hè đỏ lửa 72 lại đến, Minh Long bị bắt quân dịch, em đi lính bộ binh thuộc trung đoàn 8, sư đoàn 5 trú quân tại Lai Khê. Nghệ sĩ Minh Long nổi tiếng là một diễn viên tài danh, ở miền Trung được nhiều người biết tên biết mặt nên khi gia nhập sư đoàn 5, em được đưa về đơn vị Ban Văn Nghệ của Sư đoàn.

Năm 1975, Minh Long lại phải một lần nữa thay đổi công việc làm của mình. Vì Minh Long chỉ là lính quân dịch nên em đi học cải tạo ba ngày. Khi về Saigon thì em lại không được tiếp tục hát vì các đoàn hát của Saigon cũ bị giải thể, tất cả các nghệ sĩ phải chờ nhà nước tổ chức lại các đoàn hát tập thể. Đoàn cải lương Saigòn 1 được tổ chức đầu tiên, gồm những nghệ sĩ đàn anh đàn chị. Kế đó các đoàn cải lương Saigòn 2, Saigòn 3 thành lập, thành phần nghệ sĩ nhắm vào các nghệ sĩ nổi danh trong các thập niên 60, 70.

Minh Long thuộc về thế hệ đàn em nên qua ba đoàn cải lương vừa được thành lập thì Minh Long bị lọt sổ.

Nghệ sĩ Minh Long quyết đeo đuổi theo con đường đã chọn nên Minh Long cùng với nghệ sĩ Hoài Trúc Phương, Hồng Vũ đăng ký đi hát cho đoàn Tiền Giang ở tỉnh Mỹtho. Đoàn TIền Giang cũng không sống thọ nên Minh Long rời đoàn Tiền Giang để đi ra miền Trung, Đà Nẳng, gia nhập đoàn hát Bảo Toàn của nghệ sĩ kiêm bầu gánh Bảo Toàn. Khán giả miền Trung còn dành nhiều cảm tình cho kép Minh Long nên họ đến xem gánh hát Bảo Toàn đông đảo và khán giả rất thích Minh Long đóng vai chánh các tuồng Hoa Mộc Lan, Tìm Lại Cuộc Đời, Cây Sầu riêng trổ bông, Lâm Sanh Xuân NƯơng.

Năm 1978, nghệ sĩ Minh Long trở về Saigon, gia nhập đoàn cải lương tuồng cổ Minh Tơ. Đây là một dịp tốt cho Minh Long rèn luyện tay nghề về nghệ thuật hát tuồng cổ vì hai nghệ sĩ bậc thầy về nghệ thuật hát tuồng cổ là Minh Tơ và Thanh Tòng đứng ra tập tuồng, chỉ dạy cho nghệ sĩ toàn đoàn hát đúng theo phong cách tuồng cổ. Minh Long vốn có nhiều kinh nghiệm về diễn xuất, lại có trình độ học vấn nên tiếp thu nhanh chóng các bài học về điệu bộ hát Quảng, hát tuồng cổ và tuồng sử Việt Nam. Minh Long đã thủ diễn những vai chánh trong tuồng Thanh Gươm Nữ Tướng ( vai Trần Quang Diệu, nữ nghệ sĩ Bạch Lê trong vai Bùi Thị Xuân. Nghệ sĩ Minh Long cón thành công trong các tuồng Câu Thơ Yên Ngựa.

Năm 1982, nghệ sĩ Minh Long về hát cho đoàn tuồng cổ Huỳnh Long. Anh thành công qua các vai chánh tuồng Lá Chắn Biên Thùy, sau đổi tựa là Nữ Tướng Hồ Đề, hát cặp với nữ diễn viên tài danh Thanh Thế. Minh Long có những vai hát để đời trong tuồng Tấm Cám, Về Đất Kinh Châu, Tô Hiến Thành Xử Án, Mặt Trời Đêm Thế Kỷ, Xuân Về Trên Đỉnh Mã Phi, Mạnh Lệ Quân, Xử Án Phi Giao, Tứ Tử Đăng Khoa…

Nghệ sĩ Minh Long vững tay nghề về nghệ thuật hát tuồng cổ, được liệt kê vào hàng nghệ sĩ được chân truyền như các bạn Truờng Sơn, Bữu Truyện, Hữu Huệ, Châu Thanh Hoàng…

Năm 1985, Minh Long và nữ nghệ sĩ Bạch Nga yêu nhau. Bạch Nga là em gái của nữ nghệ sĩ Bạch Mai, con của bà Bảy Hương, Phó đoàn Huỳnh Long. Không hiểu vì gia đình không tán thành cuộc tình giữa Minh Long và Bạch Nga hay vì một chuyện trắc trở nào khác, khi đoàn hát Huỳnh Long hát tại rạp hát Thủ Đô Chợ Lớn, nữ nghệ sĩ Bạch Nga nhảy lầu quyên sinh. Người ta nói là nhờ có ông TỔ Cải Lương độ mạng cho nên cô Bạch Nga không chết mà chỉ mang thương tật ở chân suốt đời. Thế là hai gia đình chấp nhận cuộc hôn nhân nầy.

Giới nghệ sĩ rất cảm phục mối tình chung thủy và dám hy sinh cho nhau của Minh Long và Bạch Nga. Minh Long và Bạch Nga có được hai con. Con trai lớn tên Trịnh Minh Châu, tốt nghiệp Đại Học, hiện là trưởng phòng một cơ sở Kim Khí Điện Máy ở Saigon và cô con gái tên Trịnh Ngọc Bảo đang học Đại Học.

Nữ nghệ sĩ Bạch Nga từ khi bị thương tật, không xuất hiện trên sân khấu để hát như xưa nhưng cô đã có nghề may trang phục cho nghệ sĩ hát Hồ Quảng. Những bộ trang phục rất đẹp, thêu mắc gà hay dùng những tơ lụa Hồng Kông, màu sắc hài hòa, mẫu mã được cách điệu hóa rất đẹp. Khán giả mới xem qua tưởng là nghệ sĩ mặc y trang nhập cảng từ Hồng Kông hay Đài Loan.

Các nghệ sĩ Hải ngoại khi cần mua trang phục để hát các tuồng sử VIệt Nam, tuồng Tàu hay tuồng Hồ Quảng, họ về Việt Nam đều tìm đến hai chị em Bạch Nga và Kim Phượng để mua và họ luôn hài lòng vì hàng đẹp, mẩu mã sắc sảo và đúng theo tiêu chuẩn của sân khấu Hồ Quảng. Chỉ cần nói hát tuồng gì, cho nhân vật tuồng vai nam hay vai nữ, tên của nhân vật thì lập tức Bạch Nga và Kim Phượng cho xem những mẫu y trang đẹp nhứt để cho khách mua lựa chọn.

Thời sân khấu cải lương bị suy thoái, nghệ sĩ Minh Long đã cố gắng dựng lại bảng hiệu đoàn hát Saigon 1. Anh cũng đã tập hợp nghệ sĩ dựng vở Giang Sơn và Mỹ Nhân, mong vực dậy cải lương nhưng anh không thành công vì quá nhiều nguyên nhân đã kéo cải lương xuống dốc. Minh Long là người có thiện tâm thiện ý muốn vực dậy sân khấu cải lương nhưng anh không có đủ kinh phí nên khó mà thành công. Dẫu sao thì nghệ sĩ Minh Long cũng đã thể hiện được hết lòng hết sức hoạt động cho sân khấu cải lương ngay những lúc hoàn cảnh khó khăn nhất."

RFA

Đệ nhất danh ca vọng cổ Út Trà Ôn

Thanh Quang, phóng viên đài RFA

Thưa quý vị, cách đây hơn 50 năm, có một giọng ca vọng cổ chắc nhịp, đầy quốc hồn quốc túy, với làn hơi ngọt ngào, ấm, vang vọng, có sức truyền cảm mộc mạc, chân phương và đậm đà tình tự dân tộc, đã được Đài Phát thanh Pháp Á, và sau đó là hãng dĩa Asia, gởi đến giới mộ điệu từ Nam tới Bắc qua những bài vọng cổ như Thức Suốt Đêm Đông, Sầu Bạn Chung Tình, và nhất là bản Tôn Tẩn Giả Điên.

Thưa quý vị, vừa rồi là gịong ca của nghệ sĩ Út Trà Ôn qua một trích đọan của sáu câu vọng cổ Tôn Tẩn Giả Điên. (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)

Nghệ danh Út Trà Ôn là do Đài Pháp Á đặt cho ông Nguyễn Thành Út, tức Mười Út, sau khi ông rời quê nhà Miệt Vườn – theo chữ nghĩa của nhà văn Sơn Nam - ở quận Trà Ôn, tỉnh Cần Thơ lúc bấy giờ, để lên Sài gòn thi thố tài năng ở độ tuổi đôi mươi.

Xuất thân từ một gia đình làm nông

Được biết nghệ sĩ Út Trà Ôn xuất thân từ gia đình mấy đời làm ruộng, cha mẹ mất sớm khiến ông phải cày sâu cuốc bẩm ngay từ tuổi 13. Làn hơi ngọt ngào thiên phú của cậu Mười Út – tức Út Trà Ôn – đã giúp xóa tan nỗi cực nhọc của bạn bè trong làng quê, nhất là sau mỗi mùa gặt.

Giọng tốt đặc biệt ấy cũng được Ban Nhạc lễ trong làng chiếu cố, nhờ ông Út xướng danh cho các hương chức, hội tề nhân Hội cúng Kỳ Yên. Từ đó, các nhạc sư trong ban nhạc này dần dần dạy cho ông Út 20 bài bản tổ của Cổ nhạc, mở đường cho ông nổi danh trong giới đờn ca tài tử quận Trà Ôn, và rồi trôi dạt lên Sàigòn lập nghiệp.

Sọan giả lão thành Viễn Châu từng sáng tác hơn 50 tuồng cải lương nổi tiếng và trên 2000 bài vọng cổ ăn khách – đa số do Út Trà Ôn ca – có lần nhận xét, như Gia Minh trình bày sau đây:

Tôi nhớ như in ngày đầu tiên gặp anh Út, đó là một nghệ sĩ mộc mạc, sống rất khiêm tốn…Anh đã đi lên từ một nghệ sĩ nhà nông, có năng khiếu nhưng ca không ỷ vào đó mà bỏ bê tập luyện thêm về kỹ thuật biểu diễn.

“Tôi nhớ như in ngày đầu tiên gặp anh Út, đó là một nghệ sĩ mộc mạc, sống rất khiêm tốn…Anh đã đi lên từ một nghệ sĩ nhà nông, có năng khiếu nhưng ca không ỷ vào đó mà bỏ bê tập luyện thêm về kỹ thuật biểu diễn.

Dấu ấn anh để lại cho đời chính là phong cách ca cổ chân phương, chắc nhịp và nhiều vai diễn xuất sắc, khắc họa hình ảnh người nông dân như bản thân anh từ cuộc sống đời thường với tay lấm, chân bùn, đã bước lên thánh đường sân khấu”.

Nghệ sĩ Út Trà Ôn, khi còn sinh tiền, đã bày tỏ cảm kích về những bài vọng cổ của Viễn Châu đã giúp đưa ông lên đỉnh cao danh vọng: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)

Được biết khi đề cập tới thời vàng son của mình, danh ca Út Trà Ôn luôn nhắc tới bản vọng cổ Tình Anh Bán Chiếu của sọan giả Viễn Châu, được hãng dĩa Hồng Hoa phát hành hồi năm 1954, khiến tên tuổi Út Trà Ôn trở thành đệ nhất danh ca vọng cổ.

Trở thành đệ nhất danh ca vọng cổ

Sọan giả lão thành và hàng đầu trong nền cổ nhạc Việt Nam, ông Nguyễn Phương, nhận xét về giọng ca của nghệ sĩ Út Trà Ôn:

Giọng ca của Út Trà Ôn có hơi đồng trầm ấm, phong cách ca ngâm khoan thai, chững chặc…Giọng ca của Út Trà Ôn không chân phương quá, cũng không luyến lái kỹ thuật quá, nhưng từng lời từng chữ rõ ràng, truyền cảm. Út Trà Ôn được xem là bực thầy về cách sắp chữ, hành văn, câu nhiều chữ nghe vẫn hay, câu ít chữ kéo dài ra cũng rất duyên dáng.

"Giọng ca của Út Trà Ôn có hơi đồng trầm ấm, phong cách ca ngâm khoan thai, chững chặc…Giọng ca của Út Trà Ôn không chân phương quá, cũng không luyến lái kỹ thuật quá, nhưng từng lời từng chữ rõ ràng, truyền cảm. Út Trà Ôn được xem là bực thầy về cách sắp chữ, hành văn, câu nhiều chữ nghe vẫn hay, câu ít chữ kéo dài ra cũng rất duyên dáng."

Nói tới giọng ca Út Trà Ôn, chúng tôi nhớ tới từng tập nhỏ gồm sáu câu vọng cổ được bày bán hồi cuối thập niên 50, hay đầu thập niên 60, như Mồ Em Phượng, Gánh Nước Đêm Trăng…mà có lẽ chỉ có chỉ có giọng hát của đệ nhất danh ca Út Trà Ôn mới thật sự làm xúc động lòng người.

Qua những bài vọng cổ bất hủ, từ Tôn Tẩn Giả Điên, Thái Sư Văn Trọng, Trụ Vương Thiêu Mình, Viếng Tần Thủy Hòang, Nguyễn Trải Thụy Lộ Hận Tình, Tình Anh Bán Chiếu, Ông Lão Chèo Đò cho tới Gánh Chè Khuya, Thư Xuân Ngòai Chiến Tuyến…, giọng ca Út Trà Ôn vẫn mãi sâu đậm trong tâm hồn giới mến mộ.

Nghệ sĩ Út Trà Ôn cũng nổi tiếng qua các vai diễn trên sân khấu từ đầu thập niên 40 cho tới một thời gian ngắn sau năm 1975, từ vai Tôn Tẩn trong vở tuồng Bàng Quyên-Tôn Tẩn trên sân khấu Tân Thinh, vai Hòang Tử Thủy Tề của gánh Hề Lập, vai Thái Sư Văn Trọng trong tuồng Mổ Tim Tỷ Can và vai Trụ Vương trong vở Hỏa Thiêu Bá Lạc Đài trên sân khấu Tiến Hóa…

Cho tới các vai trên sân khấu Thanh Minh qua những tuồng Biên Thùy Nổi Sóng, Chiếc Lá Giữa Dòng của sọan giả Nguyễn Phương, tuồng Hồi Trống Vân Lâu, Núi Liểu Sông Bằng của Thiếu Linh, Đồ Bàn Di Hận của Lê Khanh, Tình Tráng Sĩ của Mộc Linh, và Thiên Thần Trên Thiết Mã của Ngọc Huyền Lan – cũng là lúc mà Út Trà Ôn được vinh danh Vua Vọng Cổ.

Riêng gánh Kim Thanh-Út Trà Ôn chỉ hoạt động khỏang 3 năm thì giải tán kể từ khi được thành lập hồi 1956.

Điểm đáng lưu ý là trong những vở tuồng cải lương ấy, đêm nào không có Vua vọng cổ Út Trà Ôn thì khán giả đòi trả vé.

Thưa quý vị, một thời gian ngắn sau năm 1975, nghệ sĩ Út Trà Ôn bắt đầu hướng về đạo pháp, đi ca trong những dịp cúng chùa, lễ Phật.

Vừa rồi là giọng ca Út Trà Ôn qua một trích đọan trong bản Thích Ca Tầm Đạo, khi Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta chứng kiến cảnh Sinh, Lão, Bệnh, Tử nên xuất gia tầm đạo để cứu rỗi chúng sinh khỏi cõi tạm phù sinh, vô thường. (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)

Thưa quý vị, vào ngày 13 tháng 8 năm 2001, vì tai biến mạch máu não, nghệ sĩ Út Trà Ôn đã về với cõi vĩnh hằng trong sự tiếc thương của ca trường, nhạc giới và những người mến mộ.

Ðệ nhất danh ca vọng cổ Út Trà Ôn (II)

Thanh Quang, phóng viên đài RFA

Thưa quý vị, cách đây đúng 4 năm, tức vào ngày 13 tháng Tám năm 2001, khi ở tuổi ngọai bát tuần, Đệ nhất danh ca kim Vua vọng cổ Út Trà Ôn đã vĩnh viễn rời khỏi ca trường nhạc giới và những người mến mộ, về với cõi Chân Phúc Vĩnh Hằng.

Hình bìa của DVD Cải Lương: Tuyệt Tình Ca.

Ngày giỗ vừa rồi của cố nghệ sĩ Út Trà Ôn đã diễn ra ở Sàigòn trong không khí thanh đạm gồm gia đình cùng một số nghệ sĩ thân hữu, như con gái út của ông, là ca sĩ Bích Phượng, cho biết: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)

Suốt đời cống hiến

Nghệ sĩ Út Trà Ôn suốt đời cống hiến cũng như bày tỏ nỗi đam mê, trân quý, gắn bó thiết tha với nghệ thuật sân khấu cải lương. Theo lời ca sĩ Bích Phượng, thì vào lúc cao niên, sức yếu, ông nhiều lần yêu cầu người nhà đưa đi phục vụ cho các chương trình văn nghệ từ thiện.

Đặc biệt là một khi hiện diện trên sân khấu – một trong những phương tiện từng góp phần đưa tên tuổi Út Trà Ôn lên hàng đệ nhất danh ca kim vua vọng cổ - ông như tỉnh táo lạ thường, giọng ca vẫn chắc nhịp và truyền cảm.

Ca sĩ Bích Phượng hồi tưởng về sự yêu nghề của cha mình: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)

Thưa quý vị, như chúng tôi đã trình bài trong chương trình tuần rồi, giọng hát chắc nhịp, ấm, vang vọng, ngọt ngào, đậm đà tình quê hương và đầy sức truyền cảm của nghệ sĩ Út Trà Ôn đã bắt đầu thu hút khán, thính giả qua các bản vọng cổ như Tôn Tẩn Giả Điên, Thái Sư Văn Trọng Giáng Thập Điều, và sau đó là Tình Anh Bán Chiếu, Ông Lão Chèo Đò, Sầu Vương Ý Nhạc…

Làn hôi thiên phú

Làn hơi thiên phú đó đã khiến nhiều Bầu gánh hát tranh nhau mời Út Trà Ôn cộng tác với các khỏan tiền hợp đồng kết sù vào lúc bấy giờ, như ông Nguyễn Phương, sọan giả lão thành và có công lớn trong nghệ thuật ca kịch, sân khấu cải lương, kể lại:

Một hiện tượng đặc biệt đối với nghệ sĩ là đêm nào không có vua vọng cổ Út Trà Ôn thì khán giả đòi trả vé. Và trong tuồng của mỗi đêm, ít nhất nghệ sĩ Út Trà Ôn cũng phải ba lần ca vô đầu câu vọng cổ.

“Cuối năm 1959, gánh hát Kim Thanh- Út Trà Ôn giải tán. Nghệ sĩ Út Trà Ôn trở về cộng tác với đòan Thanh Minh với số tiền contract kỷ lụt là một triệu 500 ngàn đồng và lương mỗi xuất hát là một ngàn năm trăm đồng.

Một hiện tượng đặc biệt đối với nghệ sĩ là đêm nào không có vua vọng cổ Út Trà Ôn thì khán giả đòi trả vé. Và trong tuồng của mỗi đêm, ít nhất nghệ sĩ Út Trà Ôn cũng phải ba lần ca vô đầu câu vọng cổ”.

Nhiều người hâm mộ

Nghệ sĩ Út Trà Ôn nổi tiếng qua các vai diễn trên sân khấu từ đầu thập niên 40 cho tới một thời gian ngắn sau năm 1975, từ vai Tôn Tẩn trong vở tuồng Bàng Quyên-Tôn Tẩn trên sân khấu Tân Thinh, vai Hòang Tử Thủy Tề của gánh Hề Lập, vai Thái Sư Văn Trọng trong tuồng Mổ Tim Tỷ Can và vai Trụ Vương trong vở Hỏa Thiêu Bá Lạc Đài trên sân khấu Tiến Hóa…

Cho tới các vai trên sân khấu Thanh Minh qua những tuồng Biên Thùy Nổi Sóng, Chiếc Lá Giữa Dòng của sọan giả Nguyễn Phương, tuồng Hồi Trống Vân Lâu, Núi Liểu Sông Bằng của Thiếu Linh, Đồ Bàn Di Hận của Lê Khanh, Tình Tráng Sĩ của Mộc Linh, và Thiên Thần Trên Thiết Mã của Ngọc Huyền Lan – cũng là lúc Út Trà Ôn được vinh danh Vua Vọng Cổ.

Và đặc biệt là trong tuồng xã hội Tuyệt Tình Ca – còn được biết dưới tên khác là Ông Cò Quận 9 – của sọan giả Hoa Phượng, nghệ sĩ Út Trà Ôn trong vai ông Cò Hương, sau 20 năm xa cách vì chiến tranh ly lọan, đã gặp lại người vợ nhỏ là bà Lan do Út Bạch Lan thủ diễn trong cảnh đầy thương tâm, nước mắt: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)

Quý vị vừa nghe một trích đọan trong vở Tuyệt Tình Ca – hay Ông Cò Quận 9. Ca sĩ Bích Phượng nhắc tới vai Ông Cò Quận 9 do cha mình thủ diễn.

Chương trình Cổ Nhạc xin dừng lại ở đây. Thanh Quang kính chào tạm biệt quý thính giả.

No comments: