Saturday, August 21, 2010

PHẠM HỮU TRÁC * DI TẢN & VƯỢT BIÊN





Di Tản và Vượt Biên, Vàng Máu và Nước Mắt



Viet. NO, 23/4/05
Phạm Hữu Trác





"Trong 2 năm qua, nhất là từ tháng 9 năm 1978, làn sóng người tị nạn từ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa VN mới được thống nhất gần đây, tràn ngập các trại tị nạn Ðông Nam Ạ Hàng trăm ngàn người VN khác, đã bị các viên chức chính quyền Hà Nội bắt buộc ra đi trên những chiếc tàu không thể đi biển được,...



... và đã biến mất trên Biển Ðông đầy bất trắc. Ở một số bờ biển Thái Lan, các ngư dân đã phải quay tàu về đất liền khi kinh hoàng chứng kiến một phần thi thể của người vượt biển vướng vào lưới.



Vì sao quá nhiều người liều mạng bỏ trốn khỏi VN? Ta có thể tìm thấy câu trả lời khá dễ dàng trong các chính sách hậu chiến đã được áp dụng mà một cựu đảng viên CS Bắc Việt tóm tắt như sau: " tiêu diệt các thế lực thù nghịch: trừng trị những kẻ bù nhìn, đánh bại giới tư bản, đánh đuổi người Trung Hoa"



Dưới đây, dựa vào những cuộc phỏng vấn người tỵ nạn, là những dữ kiện đầy kinh hoàng về tội ác của Hà nội 'liquid Auschwitz' có thể sánh được với sự khủng khiếp của Hitler trong việc diệt chủng dân Do Thái.


( by Anthony Paul - Why they flee their homeland - Reader's Digest December 1979 )



"Hiện tượng thuyền nhân đã phản ảnh được những sự đau khổ của những người phải trốn chạy khỏi quê hương mình vì lý do này hay lý do khác. Họ không phải chỉ kín đáo đi từ bên này sang bên kia biên giới, chờ đợi cơ hội quay về khi mọi chuyện đã trở lại bình thường hay theo ý họ mong muốn. Họ ra đi, không hề biết trước mình sẽ đi đâu, đến đâu, không có viễn ảnh hồi hương, và chịu rủi ro bị chết đuối, hay chết vì tật bệnh, vì hải tặc ngoài khơi. Họ hầu như không biết số phận mình sẽ ra sao. Bất kể ra đi vì ý định riêng, vì là nạn nhân của những biến cố lịch sử, hay vì sự hà khắc do bất đồng trong những quan điểm chính trị, những thuyền nhân này đang phải đang tâm cắt bỏ những ràng buộc với quê hương và đồng bào nơi chôn nhau cắt rốn của họ."


( by Bruce Grant - The boat people: An Agé Investigation )



" Những thuyền nhân đơn thuần chỉ có ác cảm với những biện pháp kiểm soát áp đặt của chính quyền, mối ác cảm đã mãnh liệt đến độ họ phải đi đến một quyết định thật khác thường. Họ là những người, ngay cả trong những giấc mơ hoang đường nhất trước năm 1975, cũng không bao giờ muốn rời bỏ VN. Trớ trêu thay, lịch sử đã đảo lộn, đã thay đổi cuộc đời họ, vượt xa sức họ tưởng tượng, đến mức họ phải quyết định bỏ lại sau lưng tất cả những người và những gì yêu quý, chấp nhận liều mạng sống của mình cũng như chấp nhận mọi nỗi kinh hoàng của một tương lai bất định, để rời khỏi VN.



Ðiều gì đã xui khiến một người quyết định tương lai của đời mình mà lại không theo những lề lối thông thường? Ðể hiểu rõ lý do tại sao những thuyền nhân bỏ quê hương ra đi, chúng ta cần biết về những gì họ cảm thấy đã mất, những thứ họ đã thiết tha yêu quý. Ðể hiểu được những đau thương hôm nay, ta cần biết những gì đã xẩy ra trước đó. "


( by Lesleyanne Hawthorne - Refugee - The Vietnamese Experience )



" Những 'thuyền nhân', danh từ thế giới gán cho họ, thường phải chịu nhiều rủi ro lớn lao, từ rất lâu trước khi đặt được chân xuống tàu. Trong khi cố gắng tìm cách để thoát được công an và lính biên phòng, họ đã chấp nhận rủi ro bị bắn, hoặc nhẹ nhất là, bị bắt lại và bỏ tù. Những ai may mắn xuống được tàu phải ra đi trên các thuyền đánh cá mỏng manh đầy ắp người không thích hợp để đi vượt đại dương. Thường thường, họ nhắm hướng đi đến Thái Lan hoặc Mã Lai, nhưng lại cập bến ở đâu đó giữa Hồng Kông và Úc Ðại Lợị Biển cả cũng cướp đi một số người mà không ai biết được là bao nhiêu. Tuy vậy, cuối cùng thì câu chuyện về những người tị nạn Ðông Dương là câu chuyện về những người bị từ chối. Trước tiên và đau đớn nhất, họ bị chính quyền của chính nước họ khước từ. Họ cũng nhiều lần bị cự tuyệt bởi các quốc gia lân bang nơi họ đến xin tạm trú, và bị từ chối ít nhất là vào lúc đầu bởi các nước Tây Phương và Nhật Bản, những quốc gia duy nhất có khả năng và tấm lòng cứu vớt thuyền nhân. "


( by Barry Wain - The refused: The Agony of The Indochina Refugees )



" Chúng tôi cần gạo và thực phẩm. Trong những ngày này, chúng tôi không có tiền để mua thêm thức ăn. Chúng tôi không được phép có công việc làm. Nếu thực phẩm được phát trễ, chúng tôi chỉ việc nhịn đói. Chúng tôi có rất ít nước uống, vì đang là mùa khô. Tôi nghĩ nếu mọi chuyện không thay đổi, chúng tôi sẽ chết hết." Refugee: Thailand, 1978.


" Trong bệnh viện, một người đàn ông và đứa con trai đang khóc trên lán. Tàu họ đã đến đêm hôm trước, nhưng bị lật úp. Người vợ, người mẹ đã chết đuối."


( Delegates of 'Society of Friends': Malaysia, 1979 )



" Các lính tuần tra phát hiện có những bao ni-lông xoáy tròn trên mặt nước. Họ chuẩn bị tăng tốc độ vọt đi tiếp, thì khám phá ra rằng, các bao nhựa này đã được thổi phồng, căng lên, để chở hai em bé sơ sinh, dĩ nhiên là chưa biết bơi. Người mẹ đang ra sức đẩy chúng. Người cha đã không may chết đuối trước đó."


( Report: Mekong River Crossing, 1978 )


Người mẹ của một em trai 14 tuổi kể lại, tàu của cô bị hải tặc từ một tàu cào của Thái Lan nhảy sang. " Tôi biết bọn chúng sẽ làm gì ", cô vừa kể vừa khóc nức nở " Tôi van xin chúng đừng làm gì trước mặt con trai tôi. Vì thế, chúng đưa tôi vào cabin tàu, rồi 7 tên cưỡng hiếp tôi trong đó."


( Refugee : Malaysia, 1979 )



Anh Huỳnh Văn Trân, 34 tuổi, ngồi trên 1 băng ghế gỗ ở trại tị nạn Songkhla ở 1 bờ biển cực nam của Thái Lan, thuật lại câu chuyện của mình lần thứ ba. Anh ra đi trên một chiếc tàu gồm 62 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Họ may mắn gặp thời tiết và gió thuận lợi, và không bị rắc rối gì với máy tàu. Vào ngày thứ 5 trên biển, một chiếc tàu mã lực lớn dài 15 mét đến cặp sát mạn tàu anh. Có 12 người đàn ông trên thuyền, tất cả đều trang bị vũ khí đầy đủ. Trước hết, chúng ra lệnh cho hai người trong số phụ nữ sang tàu chúng. Một trong hai người này là vợ anh Huỳnh Văn Trân. Cô này bị ghì chặt xuống, súng trường kê sát thái dương, và bị ra lệnh không được kêu la. Cô bị chúng cưỡng hiếp.


Bọn hải tặc sau đó nhảy qua tàu tị nạn, cướp đi mọi thứ có giá trị, bắn một người đàn ông còn do dự khi chúng cướp. Sau đó chúng tăng tốc độ phóng đi với các món của cải chiếm được, nhưng thình lình quay ngoắt lạị. Vẫn giữ nguyên tốc độ tối đa, chúng nhắm thẳng vào tàu tị nạn và đâm mạnh. Chiếc tàu hải tặc đã lập đi lập lại hành động này trong khi nhóm người tị nạn đang hốt hoảng ngoi ngóp giữa biển khơi. Bọn cướp biển cố ý lái tàu cán qua vô số chiếc đầu đang nhấp nhô, có lẽ vì không muốn để sót lại nhân chứng nào. Khi vợ anh Trân còn đang chới với trên mặt nước, với đứa con trai mới lên 3 đang níu chặt cổ mẹ, cả hai đã bị tàu cán qua và chết đuối, 10 người trong số họ sống sót, sau đó được vớt lên và đưa tới Songkhla. Toàn thể thính giả đều nín lặng.


Ðó là một câu chuyện thương tâm hơn những chuyện khác, nhưng hẳn nhiên không phải là ngoại lệ, hiếm có.. Có rất nhiều tàu tị nạn đã bị hải tặc tấn công nhiều hơn một lần." ( UNHCR: 1979 )



Bao nhiêu thuyền nhân đã chết ngoài biển khơi? Không ai biết chắc cả. Nhiều người nói với chúng tôi rằng có lẽ 5% các tàu rời VN đã bị mất tích, nhưng nhiều người lại cho là có đến 70% tàu không hề đến được bờ.


( Delegates of 'Society of Friends': - Pulau Bidong, 1979 " Georgina Ashworth - The boat people and the road people )



Trong vài năm đầu những thuyền tỵ nạn còn được tiếp đón tử tế bởi dân chúng và chính phủ các nước láng giềng nhưng vì làn sóng tỵ nạn ngày càng nhiều nên những niềm nở ban đầu đã bị giảm xuống hoặc tệ hơn đã bị thay bằng thái độ xua đuổi như đã từng xẩy ra ở Thái Lan, Mã Lai. Tầu của người tỵ nạn, khi bị tầu hải quân Mã kéo trở ra hải phận quốc tế có một số đã bị chìm và làm chết oan một số người.


Do đó nếu như may mắn không bị bắt lại, thoát được gió bão, không hư máy dọc đường và không gặp hải tặc các thuyền nhân vẫn chưa chắc sẽ đến được các trại tạm cư. Ðó là chưa kể đến những khó khăn về đủ mọi phương tiện từ vệ sinh, y tế, nước uống, thực phẩm...nơi các trại tỵ nạn. Thật ra dùng chữ trại tỵ nạn cho lịch sự vậy thôi chứ vào thời điểm ấy không một quốc gia nào có thể lường được là con số người chạy CS, bỏ nước ra đi sẽ đông đến như vậy.


Do đó chẳng có quốc gia nào đã có những sửa soạn để có thể đón tiếp một số lượng người đến quá ào ạt và nhiều đến thế. Trại tỵ nạn đã là những kho xưởng, những trại lính, những chiếc phà cũ, những chiếc phao nổi, những hòn đảo san hô hoặc đảo hoang, nhỏ nằm chơ vơ giữa đại dương. Ðặt được chân trên đất là phải đi tìm cỏ, đốn cây để dựng lều để tạm trú tránh cái nóng ban ngày và cái lạnh ban đêm....Còn nhiều nhiều nữa, kể sao cho hết những cái khổ của kiếp lưu vong. Ðến năm 1988 vì quá mệt mỏi với số người tỵ nạn phải cưu mang trên hơn mười năm, Cao Ủy tỵ nạn và các quốc gia có trại tạm cư đã quyết định áp dụng hệ thống thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính trị của các thuyền nhân nếu họ đến sau ngày 16-6-1988. Quyết định này cũng đã gây ra khá nhiều thảm cảnh rất đáng thương như được kể lại dưới đây.



Sau đây là vài trích đoạn về những thảm cảnh đầy nước mắt đó:


" 0 giờ ngày 16-6-1988 mở đầu một định mệnh khác cho những người VN vượt biển đến Hồng Kông. Kể từ ngày này họ sẽ bị đối xử như những người nhập cảnh bất hợp pháp và phải chờ chính phủ thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính trị, trước khi được cứu xét cho đi định cư ở nước thứ ba. Thời điểm phủ nhận ý nghĩa ban đầu sự ra đi của người vượt biển.


Thời điểm đánh đổ mọi luận cứ sắp sẵn về quyền tỵ nạn, về quyền đi tìm chỗ trú, và đồng thời che dấu luôn sự bất lực của con người trước thảm cảnh của đồng loại, sự hấp hối của lương tri trước nỗi khổ của những cuộc khởi hành muộn. Như một tấm màng nhện giăng ra chận bắt những cuộc đời lưu lạc, thời điểm 16-6-1988 dựng nên những trại giam khổng lồ trên khắp thuộc địa Hồng Kông, ghi thêm một thảm cảnh thời đại."


( Lê Ðại Lãng - " Nước mắt trong tim " )



- " Ngày 20/5/1994, Lê Xuân Thọ, 28 tuổi, tự rạch bụng mình và tự thiêu. Anh sau đó đã chết vì phỏng nặng. Phạm Văn Châu, một cựu quân nhân VN, tự thiêu ở trại tị nạn Galang, Nam Dương ngày 26/4/1994. Hai ngày sau thì anh qua đời.



- Ngày 12/4/1992, Nguyễn Văn Quang, một hạ sĩ thuộc Liên đoàn 1 Không vận của Nam VN, đã treo cổ tự tử ở trại Galang, Nam Dương, sau khi bị khước từ tư cách tị nạn chính trị, và đơn kháng cáo của anh cũng bị bác. Anh mất đi để lại 1 góa phụ và 3 đứa bé mồ côi cha còn nhỏ dại.



- Ngày 30/8/1991, tại trại Galang, Nam Dương: cô Trịnh Kim Hương, 28 tuổi, tự thiêu sau khi bị phủ nhận tư cách tị nạn chính trị.



- Hoàng Thị Thu Cúc, 26 tuổi, một trong số vài người sống sót khi vượt biên khỏi VN. Cha cô là lãnh tụ của một chính đảng chống cộng và đã chết trong 'trại cải tạó của CS. Gia đình cô bị trục xuất khỏi nhà, tới một trại lao động cưỡng bách. Bản thân Cúc cũng bị đuổi khỏi trường vì 'lý lịch gia đình xấu.' Bất kể những sự kiện trên, cô vẫn bị khước từ quy chế tị nạn. Tháng12/1992, khi đơn kháng cáo của cô cũng bị bác bỏ, cô đã treo cổ tự tử, để lại bốn anh em trai ở trại Sikiew, Thái Lan.



- Vụ tự sát của Lâm Văn Hoàng, 22 tuổi, đã gây nên một cuộc biểu tình phản đối ở trại tị nạn Pulau Bidong, MãLai. Anh đã lao mình từ vách đá xuống biển, sau khi bị từ chối tư cách tị nạn chính trị vào tháng giêng năm 1991.



- Trần Văn Minh, cựu Trung úy, treo cổ tự tử ngày 10/10/1992. Ông được cấp quy chế tị nạn chính trị, nhưng người con trai Trần Minh Khôi, 18 tuổi, đã bị rớt 'thanh lọc'. Vì Khôi không có 3.000 đôla Mỹ mà các viên chức duyệt xét đòi hỏi, đơn kháng cáo của anh sau đó cũng bị bác.



- Ngày 8/12/1993, Trần Anh Dũng từ trần khi lên cơn suyễn, sau khi Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc (LHQ) đóng cửa trạm y tế duy nhất trong trại tị nạn.



- Tháng 2/1993, Lưu Thị Hồng Hạnh, một em gái 16 tuổi không người thân thích, đã tự thiêu sau khi Cao ủy tị nạn LHQ rút lại quy chế tị nạn của em.



- " Chị thương, hôm nay em đã bị từ chối tư cách tị nạn chính tri Rạng sáng mai, em sẽ treo cổ tự tử để thoát mọi đau khổ. Nhưng lúc nào em cũng sẽ ở bên cạnh chị để che chở cho chị và các cháu. ". (Thư tuyệt mệnh của anh Nguyễn Văn Hai, 27 tuổi, viết cho chị, vào buổi tối trước khi tự tử trong Trại cấm Whitehead, Hồng Kông, ngày 16/2/1990.)



- " Bản tường trình của luật sư đã khiến tôi phải sống trong lo sợ. Nó đã dần dần đẩy tôi vào chỗ chết." (Trịnh Anh Huy, 20 tuổi, tự thiêu ngay trước văn phòng của Cao ủy tị nạn LHQ ở Galang, Nam Dương, ngày 27/8/1992.)



- " Tôi chết đi không phải vì tuyệt vọng, mà vì tôi muốn đem lại niềm hy vọng và sự sống cho nhiều người khác." ( Vài hàng tuyệt mệnh của Nguyễn Ngọc Dũng, 25 tuổi. Ngày 3/5/1993, anh đã tự đâm vào tim và chết tức khắc trước văn phòng Cao ủy tị nạn LHQ tại trại Sungei Besi, Mã Lai. )".


Vietnamese Boat People - A cry to humanity.





HỒN BIỂN ĐÔNG


Việt Điểu Sào Nam



Ta tưởng quên ta hiện hữu
Quên cả dĩ vãng tương lai
Vì ngày mai đâu là ý nghĩa
Trong cõi mù tăm kiếp nào luân lạc
Ta lãng ơn cứu rỗi bụi trần
Thành phố ấy cao,
Những buổi chiều trời chợt thấp
Trên đồi Bellevue
Ngất ngưỡng ngàn thông réo rắt
Phím nhạc cung đàn ai kéo ngược dòng thiên sử
Gần hai mươi thế kỷ rạng ngời đông xưa
Nơi đây vắng hạc gầy kiêu sa đưa bước
Bên người trung cổ da ngựa bọc thây một thời
Hắn gỗ đá trong bộ giáp thép đeo mang kệch cỡm
Che kín trái tim, che cả muôn mặt cuộc đời
Chẳng ai nghe hắn nói một lời
Chẳng ai biết hắn cười hay khóc
" Hình như hắn cũng có một Quê Hương! ? "
" Hình như hắn cũng có một cõi tình đã chết! ? "
Thái Bình Dương một chiều ảm đạm
Cuối tháng chạp Mô.t-Chín-Bảy-Chín ngàn xưa
Trên chuyến thuyền SS0646-IA
Sao nỡ cưỡng sát hơn 80 mạng người
Hỡi loài Thái tặc man rợ!!!
Nhân danh đạo ngã từ bi,
Nhân danh Tự Do cướp giết hoan hỉ
Thôi thế âm thầm cười khóc Phật di
SongKhla! SongKhla!!! Sa-bai-đi khun Thai
Hai mươi sáu năm rồi vợ con ta đâu
29 tháng 12!!! đất đá cũng khổ đau
Hằng năm, 29 tháng 12
Đám giỗ biển trời mưa ngâu.....!!!......
29 tháng 12 đám giỗ biển trời mưa ngâu.....
Hằng năm 29 tháng 12 đám giỗ biển trời mưa ngâu.....



NV / Việt Điểu Sào Nam
30 năm độc thoại
July 14 - 2005




No comments: