Nghe kể chuyện vượt biển, vượt biên
|
Rất nhiều trong số 46 chuyện kể là hoàn cảnh khốn cùng của những tàu vượt biển gặp nạn: lạc đường, chết khát, bị hải tặc cướp, hãm hiếp, có khi cả chục lần.
Câu chuyện của một con tàu ra đi từ vùng Cái Sắn, Rạch Giá vào tháng Ba năm 1977 có lẽ hãi hùng hơn cả. Tàu bị hải tặc cướp, hãm hiếp.
Khi bị tấn công lần thứ nhì, đám thanh niên nhất quyết chống lại và 62 thuyền nhân đã bị chúng giết, chỉ còn một người sống sót vì bị những xác chết khác đè lên.
Cảnh người thuyền nhân duy nhất giữa đống xác người đầy máu tựa như cảnh phóng viên Cam Bốt Dith Pran lội bùn giữa những cánh đồng chết chóc đầy xương và sọ người trên đường trốn chạy bàn tay Khờ Me Ðỏ trong phim "Killing Field", hay cảnh phi công Mỹ rớt máy bay, trên đường trốn thoát đã đi lạc vào một vũng lầy ngổn ngang xác người ở Bosnia-Kosovo trong phim "Behind Enemy Lines".
Có những con thuyền lạc đường, cạn thức ăn, nước uống nên người đã phải ăn thịt người để sống, mẹ phải cắt vú mình lấy máu cho con bú kẻo không đứa bé chết khát. Nhiều người đã chết vì đói khát, người thoi thóp sống lo thủy táng người chết và chỉ còn biết cầu xin người đã chết phù hộ. Có khi những điều khấn xin được đáp lại bằng những cơn mưa hoặc được tàu lớn cứu vớt.
Tháng Bảy năm 1979 có một tàu vượt biển bị bão đánh vỡ ra từng mảng, 350 người chỉ còn 14 sống sót và đã có một hài nhi ra đời giữa lòng biển khơi trong khi người mẹ, tuổi chừng 30, đang bám víu lấy mạng sống trên một chiếc bè trôi nổi mà người đỡ đẻ lại là một nam học sinh ở tuổi 17. Câu chuyện vượt biển này tưởng như kết thúc ở bến bờ tự do, nhưng 14 người sống sót lại được tàu đánh cá của Việt Nam vớt, đưa trở về điểm khởi hành. Không biết số mạng của đứa bé trai sinh giữa lòng biển khơi giờ đây ra sao? Còn sống, năm nay em đã 26 tuổi.Bia tưởng niệm những người đã chết trên đường vượt biên dựng trong nghĩa trang trại tị nạn Galang, Indonesia, 1986. (ảnh Bùi Văn Phú)"Bia tưởng niệm những người đã chết trên đường vượt biên dựng trong nghĩa trang trại tị nạn Galang, Indonesia
Trên biển có khi tưởng như tìm được sinh lộ thì lại đi vào cõi chết. Như chuyện của anh Sáu Hoàng, cựu sĩ quan hải quân.
Sau nhiều ngày mất phương hướng vì tàu hỏng máy, thấy một bình nhựa trôi trên biển nên anh nhảy xuống vớt với hy vọng tìm được nhãn hiệu hay một dấu chỉ nào để biết tàu đang trôi dạt nơi đâu, có gần bờ bến không.
Dưới nước anh Hoàng nắm được bình, nhưng con tàu bỗng trôi nhanh khiến anh bơi đuổi không kịp. Nhiều người trên tàu ném hết mọi thứ có thể nổi để anh bám vào, nhưng chẳng cứu anh được. Con tàu hỏng máy đã bỏ anh lại.
Trong một chuyện kể khác, cũng là trường hợp tàu hư, lạc đường vào năm 198.
Sau nhiều ngày đói khát, tàu trôi dạt đến gần một đảo hoang, bốn thanh niên nhảy xuống bơi vào tìm xem có sự sống, thức ăn hay không. Khi họ bơi trở ra thì con tàu lại cứ trôi xa đảo, bỏ lại bốn thanh niên.
May mắn thoát hiểm nguy trên biển, đến được đất liền nhưng cũng chẳng có cơ hội định cư. Ðó là câu chuyện về chị Nguyệt một mình đến được trại, ở lâu vì không có diện định cư nên phải bán mình nuôi thân, nuôi gia đình còn ở Việt Nam. Chị mua hương bán phấn với lính Thái, mang thai, xấu hổ quá chị tự tử.
Cuộc sống trong trại tị nạn chỉ tạm bợ nhưng cũng nhiều buồn vui. Một thiếu nữ được tàu Mỹ vớt, chăm lo mọi thứ từ đồ ăn thức uống, quần áo được giặt bằng máy nên cô lạc mất chiếc nịt ngực. Khi chuyển vào trại, ra đường không có nịt ngực, thường bị nhiều chàng thanh niên dòm ngó, chọc ghẹo khiến cô luôn e thẹn và cảm thấy sự thiếu vắng một vật đã thường mang trên người như là mất mát, thiếu thốn một cái gì thân thương lắm.
Khi làn sóng người vượt biển lên cao, chính phủ các nước Ðông Nam Á có lệnh không cho ngư dân của họ cứu vớt thuyền nhân. Nhiều tàu bè quốc tế cũng đã làm ngơ trước tín hiệu SOS của thuyền gặp nạn. Nhưng không phải tất cả thuyền trưởng đều quay mặt đi.
Có những câu chuyện thuyền trưởng tàu Phi Luật Tân, tàu Nhật, tàu Mỹ vì lương tâm đã cứu vớt nhiều người vượt biển được kể lại. Ngay cả khi hải tặc Thái Lan tạo kinh hoàng cũng có những ngư dân Thái cứu người vượt biển, đem họ vào bến bờ bình an.
Có người thương binh một chân, là cựu đai úy trong quân đội Thái, đã nhỏ nước mắt khi nhìn thấy một em bé Việt Nam chỉ còn da bọc xương trên tay người mẹ đang đi tìm sữa. Ông đã cho bà 20 đồng baht để bà ra chợ mua sữa cho đứa bé.
Hai thập niên trước, thảm trạng của thuyền nhân đã được ghi lại trong tập tài liệu Hải Tặc Trong Vịnh Thái Lan do nhà văn Nhật Tiến và ký giả Dương Phục kể.
Hai mươi năm sau, những câu chuyện đi tìm tự do được kể lại trong "Chuyện Kể Hành Trình Biển Ðông" bởi nhiều nhân chứng. Ðây không phải là một tác phẩm văn chương mà là một chứng liệu lịch sử.
Nhiều trong số 46 bài viết là tự truyện của những tác giả không phải là người cầm bút chuyên nghiệp hay có tài năng văn chương. Họ kể lại bằng lối văn mộc mạc, chân thành. Ðó là những câu chuyện có thực, rất thực.
Trong thế kỷ vừa qua thế giới đã chứng kiến nhiều vụ giết người tập thể: lò hơi ngạt giết người Do Thái trong các trại tập trung; Khờ Me Ðỏ tàn sát người Cam Bốt; dân bộ lạc ở Rwanda, Châu Phi giết nhau; diệt chủng ở Bosnia-Kosovo. Ở những nơi này ngày nay còn nhiều chứng tích để lại như một nhắc nhở cho nhân loại.
Nhưng hàng trăm ngàn thuyền nhân đã bỏ mình, thân xác họ chìm sâu trong lòng biển cả. Còn chăng là một số hình ảnh của Cao Ủy Tị Nạn ghi lại những xác người, màu đỏ đen, da dính vào xương, nằm phơi trên đồi san hô giữa biển cả.
"Hành Trình Biển Ðông" chỉ là một phần nhỏ của thảm trạng thuyền nhân vì còn nhiều những con tàu khác đã chìm sâu trong lòng đại dương mang theo tất cả, không để lại dấu vết, không còn ai sống sót mà kể lại.
Ngoài chuyện kể, giờ cũng cần có một bảo tàng viện để lưu lại chứng tích của một giai đoạn gian nan của những người vượt biên.
Đăng Trần, Orange County
Bản thân tôi là thuyền-nhân và được tàu Cap Anamour (51/703) vớt & được đem tới trại tỵ nạn Palawan, Philippines (October 1981). Lúc bấy giờ, tôi chỉ được hơn 15 tuổi và có tên trong danh sách “nghĩa vụ quân sự/lao động” (vì là thành phần co cha, chú là sĩ-quan VNCH).
Như bao mọi người Mẹ VN khác, Mẹ tôi đã đau xót, cắn răng đưa nấm-ruột của Bà đi tìm Tự-Do. Ôi, đau đớn thay cho câu “ca-dao” thời bâ’y giờ: "Một là con nuôi má, hai là má nuôi con, ba là con nuôi cá". Mặc dầu đã gần 25 năm qua, những kỷ niệm hãi hùng về những ngày vượt biển vẫn còn ám ảnh trong tâm khãm (kết quả là cho đến nay, tôi sợ nước và từ chối tất cả những chuyến đi “cruise” do gia-đình và bè bạn tổ chức).
Tôi cũng đã bật khóc khi đọc lại cuốn tự truyện “Hành Trình Biển Ðông” của nhiều nhân chứng. Trong đó có một tác giả đã kể lại sự hy-sinh của người em gái (trong lúc đắm tàu) để cho cô được sống, để rồi cuối cùng chính bản thân cô phải trả giá cho sự sống này. Có chua xót nào hơn nỗi chua xót này. Cám ơn Ngụy Vũ, người đã có công gom góp và ấn bản tập sách này để cho thế giới và thế hệ con em chúng ta hiểu và trân quí hai chữ Tự Do.
Trần Minh
Tôi đã đọc và nghe các cuộc hành trình vượt biển. Những chuyện thật khủng khiếp. Thật là tội nghiệp. Tôi nghe kể có những đứa bé sau khi trải qua sự khủng khiếp bị hải tặc nó câm luôn cả tuần không thốt ra một lời nào.
Trên đường đi khi chưa ra biển bị bể mánh chạy tán loạn gặp mấy tên dẫn đường rừng cầm những cây mã tấu sáng quắc lăm lăm đe doạ kẻ nào không có tiền đưa thì ở lại trong rừng còn người nào có tiền đưa cho chúng chúng mới dẫn đường quay trở về không thì cũng bỏ xác nơi rừng sâu núi thẳm.
Thế nhưng xét cho kỹ kẻ phải ở lại không phải là họ không can đảm không khao khát tự do mà là vì những lý do khác. Ví dụ như không có vàng thì làm sao vượt biên? Không yêu ai đó thì làm sao mà nhắm mắt lấy để được ai đó trả tiền cho đi.? Và kẻ ở lại để đối đầu với cuộc sống ngoi lên từ những nhẫn nhục đau khổ cũng là những người vô cùng can đảm.
Rất tiếc tôi không có thì giờ để viết tiếp câu truyện của tôi, nơi ấy tôi sẽ nói lên thân phận của những con người như thế!
Nguyễn Nhân, Texas
Tôi là thuyền nhân đến trại Palawan, Bataan Phi luật tân. Tôi đã trải qua, tai nghe, mắt thấy những cảnh tượng hãi hùng đó. Tôi cũng đã từng đấu tranh, vận động chống hồi hương thuyền nhân. Khi đọc những dòng trên, tôi đã mũi lòng, rỡn tóc gáy và nhớ lại cuộc hành trình 25 năm trước như in trong tâm khảm cứ như là mới xảy ra hôm qua.
Tâm Đức, Đức
Tôi rất cảm thông với các vị thuyền nhân, ai đã trải qua thân phận của những thuyền nhân mới cảm thông được.
Đài BBC có thể biên tập lại ý kiến của quí vị và không bảo đảm tất cả thư đều được đăng.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/regionalnews/story/2005/04/050411_journey.shtml
Hai lần vượt tù "cải tạo" sau 30-04-1975
Ngày lễ Thanh Minh là ngày vượt biên! Chúng tôi xuống ghe tại bến Ninh Kiều Cần Thơ, rồi chạy ra cửa biển Tranh Đề, được chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG- 0660 đón lên ghe và khởi hành ra cửa biển, nhưng khi vừa ra tới cửa biển chiếc ghe lại leo lên cồn cát, tất cả trên ghe là 59 người kể cả lớn nhỏ, đều nhốn nháo lên, vì trên ghe có người đã vượt biên 9 lần 10 lượt mà vẫn không thoát, lần nầy ghe lại mắc cạn, nên mọi người đều lo sợ.
Tôi đứng ra kêu gọi tất cả hãy bình tĩnh, và tổ chức lại, chia ra nhiều tổ, mỗi tổ 2 người, bắt đầu xuống nước tính từ ghe chia ra tổ nào đi theo hướng nấy và khi nào tìm được chỗ nước sâu tới ngực thì kêu lên. Tất cả đều làm theo lời của tôi, một lúc sau ở hướng bên trái kêu lên có chỗ sâu, tất cả đều cùng xúm lại đẩy ghe về hướng đó, ghe lại khởi hành, nhưng ghe chạy chỉ được chừng vài trăm thước thì máy bơm nước từ trong ra ngoài bị bể. Tôi liền tổ chức chia thành 3 toán thay phiên nhau tát nước trong ghe ra ngoài. Tôi chọn 3 người lớn tuổi làm trưởng toán có trách nhiệm sắp đặt thay phiên nhau.
Tôi nghi ngờ anh tài công nầy, tôi lên phòng lái hỏi anh tài công : "Anh chở theo bao nhiêu lít dầu ?"
Tài công trả lời : "400 lít".
Tôi hỏi :" Ghe nầy chạy bao nhiêu cây số giờ ?"
Tài công : "không biết!"
Tôi hỏi: "Bây giờ anh đang chạy đi đâu ?"
Tài công : "Cứ chạy rồi sáng vô Hòn Khoai tính lại"
Tôi biết tên tài công nầy có mưu đồ, tôi tức giận thét lớn lên :
"Anh rời khỏi phòng lái ngay, kể từ bây giờ tôi lái chiếc ghe nầy!"
Tôi vào phòng lái, lấy hướng 180 độ trên la bàn là hướng giữa Côn Sơn và Hòn Khoai mà lái đi suốt đêm cho đến 7 giờ sáng. Tôi nhìn về hướng bên trái ghe thấy dạng núi Côn Sơn, biết là đúng hướng rồi, tôi lái thêm ba giờ nữa để ghe ra tới hải phận quốc tế.
Tôi được các người trên ghe cho biết tên tài công không có ý định vượt biên, nên vợ con anh ta để lại Việt Nam. Còn ghe thì không có tu bổ hay sửa chữa chi hết, nên nước đã vào theo kẽ hở tróc chai rồi lại hư luôn máy bơm nước, còn máy cũng hư, chỉ còn máy tiến mà không có máy lùi. Trên ghe đi biển vượt biên mà không có hải đồ, chỉ vỏn vẹn một la bàn trong phòng lái mà thôi. Tôi đem tấm bản đồ giới thiệu đường hàng không của Mả Lai, tỷ lệ 1/40.triệu, nhìn vào bản đồ thấy nước Việt Nam bằng đầu ngón tay út, dùng bản đồ đó và địa bàn Bộ Binh,(Tôi đem theo tấm bản đồ và địa bàn nầy trong mình là dự tính vượt biên bằng đường bộ.) tôi đo và xoay theo hướng độ, tôi kẻ đường thẳng đến thị trấn Kotabaru,của Mã Lai, giáp biên giới của Thái Lan, là hướng 240 độ.
Tôi lái ghe đổi hướng trực chỉ.. chúng tôi đã đi 2 đêm 2 ngày, mỗi ngày tôi đều thay dầu vào lúc 4 giờ chiều, rồi lại đi tiếp. Bỗng thấy có chiếc tàu từ xa chạy cùng chiều , chiếc tàu chạy tốc độ rất nhanh khi đến gần chúng tôi mới biết là tàu đánh cá Thái Lan. Chiếc tàu vượt qua ghe rồi ngừng lại, ra dấu cho chúng tôi cập vào, vì ghe không có máy lùi, tôi kêu tất cả thanh niên khoảng gần 30 người đứng dàn hàng trên ghe để khi cập vào thì đỡ lại, và tôi lái góc 90 độ mũi ghe chỉa thẳng vào hông tàu của Thái Lan dự tính khi đến gần sẽ lấy mũi lại song song với tàu..
Nhưng tàu Thái Lan hoảng sợ vội vọt mạnh về phía trước, làm cho một tên thủy thủ Thái rớt xuống biển. Tôi vòng ghe lại vớt tên nầy lên, tên thủy thủ lên ghe chúng tôi mà có vẻ sợ sệt, chiếc tàu Thái Lan vòng lại và ra dấu thả tên Thái đó và ra dấu sẽ tiếp tế thực phẩm cho chúng tôi. Tôi ra dấu cho tên Thái Lan nhảy xuống lội về tàu, chúng tôi được tàu Thái câu bỏ xuống 2 bao gạo và 2 thùng bằng nylon chứa nước ngọt, (vì khi ghe bị mắc cạn chúng tôi đã đổ bớt nước ngọt đem theo để cho ghe được nhẹ bớt nên thiếu nước ngọt.) Sau đó tàu Thái Lan trở hướng chạy ngược lại, còn chúng tôi tiếp tục đi. Bà con trên ghe bàn tán, có lẻ tàu Thái Lan đó là hải tặc, nhưng khi thấy trên ghe đông thanh niên đứng dàn hàng nên chúng nó sợ chúng tôi cướp lại tàu của chúng nó nên chúng đành bỏ đi..?!
Đến chiều ngày hôm đó tôi họp với 3 anh trưởng toán lại và cho các anh biết là tình trạng chiếc ghe không còn an toàn nữa, vì chất chai trét đã bị tróc nước vô nhiều, hy vọng có tàu lớn đi ngang cứu giúp. Tất cả đều lo lắng..
Khoảng 6 giờ chiều, bổng thấy ánh sáng chớp lên thật xa, tôi xem kỷ biết là Hải Tiêu, tôi báo cho tất cả trên ghe hay tin đều vui mừng, tôi lái theo hướng Hải Tiêu cho tới 12 giờ đêm mới vào được tới cửa sông, khi tôi ủi ghe lên bờ vừa chạm cồn cát, chiếc ghe rã ra và chìm xuống nước, 59 người lớn và trẻ em trên ghe đều bồng bế nhau nhảy xuống biển, nước sâu tới cổ, và tất cả mọi người đều an toàn đến bến bờ đất nước Mã Lai..
Chiếc ghe đánh cá Kiên Giang mang số KG - 0660 đã làm tròn trách nhiệm của mình đưa người tới bến bờ TỰ DO và đã trở về với lòng Đại Dương ngàn đời.!.Còn Chúng ta ....những đứa con vì 2 chữ TỰ DO đã bỏ nước ra đi đang lang thang nơi đất lạ khắp năm châu.. Biết đến bao giờ những đứa con nầy mang 2 chữ TỰ DO về cho đất mẹ ?..!!
NN Lê Đình An
Mã Lai, Mùa thu 1978.
Ghi chú : Vào năm 1984, gia đinh tôi còn ở Thành phố Houston, tôi có gặp lại một anh sĩ quan bị tù chung ở Thành Ông Năm quận Hốc Môn (Nơi tôi vượt tù lần thứ nhứt). Anh nầy được thả ra sau 3 năm tù, và anh đã vượt biên bằng ghe đánh cá. Sau khi tay bắt mặt mừng, anh cho tôi biết tin tức về các anh em tù cải tạo, tôi hỏi về 2 anh Nguyễn Hoành và Hoàng Trinh. Anh thở dài và cho biết : ...Sau khi ở Trại Thành Ông Năm, bọn chúng đã chuyển tù nhân tất cả ra vùng U Minh rồi sau đó chuyển ra An Thới Phú Quốc, rồi chuyển về núi Thị Vải, 2 anh Nguyễn Hoành và Hoàng Trinh đã vượt trại tù ở chân núi Thị Vải Vũng Tàu và đã bị bắn chết cả 2 ở giữa vòng rào kẽm gai...!!
* * *
Vào tháng 5 - 2003 . Tôi được NN Nguyễn Đức Nguyên báo tin cho tôi biết có gặp anh Đặng Văn Sáu, sĩ quan bị học tập cải tạo qua Mỹ trong diện HO hiện anh đang làm an ninh khu vực (Security) của Ngân Hàng nơi NN Nguyên đang gởi tiền. Anh nầy biết Nguyên là NN nên hỏi Nguyên có biết anh Lê Đình An làm việc ở Phủ Tống Thống hay không ?.Nguyên trả lời Anh An là bạn cùng chung đơn vị Phủ Tổng Thống với tôi. Anh Sáu kể lại câu chuyện :
"Anh Lê Đình An và tôi ở tù chung trại Phản động K3. ở Gia Rây. Ngày anh An vượt trại với một người tên là Trần Quang, tất cả Trại tù anh em đều bàng hoàng kinh sợ vì xung quanh trại đều có mìn.. "- Anh Sáu ngưng lại một chút rồi kể tiếp- "thường ngày anh em thấy anh An vẫn bình thường không lộ vẻ gì khác, nhưng rồi anh lại dám vượt trại còn mang theo một người nữa đó là anh Quang".
Nguyên vẫn lắng tai nghe . Anh Sáu kể tiếp : "Sau khi anh An vượt trại, bọn cán bộ cho tất cả tù ngưng lao động để chờ bắt các anh trở lại, bọn cán bộ rất tức giận vì chúng không bắt lại được ..Sau đó khoảng chừng 4 tháng, chúng nó chuyển cả trại K.3 ra miền Bắc.và đưa vào trại Nam Hà (Hà Nam Ninh) Anh em ở đây chưa được bao lâu lại thấy cán bộ giải đến một người bị còng tréo tay sau lưng, thân hình gầy gò ốm yếu, khi giải đến gần anh em mới biết là anh Trần Quang . Anh Quang vì ở chung trại với tôi nên kể cho tôi nghe cuộc vượt tù với anh Lê Đình An, sau đó anh Quang vì bị bịnh sốt xuất huyết cho nên người quen của anh Quang phải đưa vào nhà thương điều trị ..vì vậy nên Quang bị lộ và bị bắt lại, rồi chúng nó giải giao lại cùng trại Nam Hà chung với toán chúng tôi...
Được vài tháng sau Quang tâm sự với tôi là sẽ tìm cách trốn nữa...Quả thật Quang đã tìm cách trốn bằng cách uống nhiều thuốc trị sốt rét nên bị vật vã , khi bọn cán bộ chở vào nhà thương thì Quang đã chết vì bị uống quá liều. Có lẽ Quang dự tính dùng phương pháp nầy để khi vào nhà thương, anh sẽ tìm cách thoát thân... Nhưng anh vĩnh viễn không còn cơ hội nữa...!!"
Vào ngày 03-01-2004. Tôi bất ngờ nhận được diện thoại của anh Đặng Văn Sáu, tôi rất vui mừng vì tôi đã cố liên lạc với anh mấy tháng mà không gặp .
Sau khi hàn huyên thăm hỏi , anh em chúng tôi cùng ôn lại, những nỗi tủi nhục đau buồn tù tội của chế độ Cộng Sản dã man tàn nhẫn trong thời gian bị bắt đi tù cải tạo. .. Anh Sáu cũng kể lại diễn tiến từ khi tôi và Trần Quang vượt trại cải tạo K.3 như kể ở phần trên...
Anh Đặng Văn Sáu được thả ra vào năm 1982. Anh lập gia đình vào năm 1983, khi có được một cháu, gia đình anh được qua Mỹ trong diện HO đợt 10, hiện đang sống tại California.
No comments:
Post a Comment