Bí ẩn của "lỗ hổng thời gian"
Những năm gần đây, giới học giả chuyên nghiên cứu bí ẩn siêu nhiên ở châu Âu và Mỹ xôn xao bàn tán về các hiện tượng có liên quan đến "lỗ hổng thời gian" và sự mất tích - tái hiện một cách thần bí. Người ta cố gắng vận dụng mọi kiến thức để giải thích được những hiện tượng này.
Ngày 14/04/1912, con tàu thủy siêu cấp Titanic trong chuyến đi đầu tiên đã gặp nạn do va phải băng, khiến 1.500 người mất tích. Vậy mà vào giữa năm 1990 và 1991, tại khu vực gần núi băng Bắc Đại Tây Dương, người ta đã phát hiện và cứu sống hai nhân vật đã biến mất cùng con tàu Titanic gần 80 năm về trước.
Sự trở về của Wenni Kate
Ngày 24/09/1990, con tàu Foshogen đang đi trên vùng biển bắc Đại Tây Dương.
Thuyền trưởng Karl đột nhiên phát hiện một bóng người từ vách núi. Qua kính viễn vọng, ông nhìn rõ một phụ nữ đang dùng tay ra hiệu cấp cứu. Người phụ nữ này mặc trang phục quý tộc Anh thời kỳ đầu thế kỷ 20, toàn thân ướt sũng và rét run cầm cập. Khi được cứu lên tàu, trả lời câu hỏi của thủy thủ, cô nói: "Tôi tên là Wenni Kate, 29 tuổi, một hành khách trên con tàu Titanic. Khi tàu đắm, một con sóng lớn đánh giạt tôi lên núi băng này, thật may mắn là các ngài đã kịp cứu giúp". Nghe câu trả lời đó, mọi người đều cảm thấy hết sức kỳ lạ, không hiểu chuyện gì đã xảy ra và họ nghĩ rằng có lẽ do sốt cao, cô gái này đã nói nhảm.
Kate được đưa đến bệnh viện để kiểm tra. Sức khỏe của cô không có gì đáng ngại ngoài việc cô quá sợ hãi do bị lạc nhiều ngày, thần kinh cũng không có dấu hiệu rối loạn.
Các xét nghiệm về máu, tóc, cho thấy cô khoảng chừng 30 tuổi. Vậy là nảy sinh một vấn đề khó tin đến kinh người: chẳng lẽ Kate từ năm 1912 đến nay, trải qua gần 80 năm mà không hề già đi chút nào? Thẩm tra, đối chiếu với bản danh sách hành khách trên tàu Titanic, người ta nhận thấy mọi nội dung đều trùng khớp với những gì Kate đang nói. Trong khi mọi người đang tranh luận thì sự việc thứ hai xảy ra.
Sự trở về của thuyền trưởng Smith
Ngày 09/08/1991, một tổ khảo sát khoa học hải dương trong khi khảo sát tại khu vực phía tây nam cách một núi băng Bắc Đại Tây Dương chừng 387 km, đã phát hiện và cứu sống một người đàn ông 60 tuổi. Lúc đó người đàn ông này đang ngồi bình thản bên rìa nước. Ông ta mặc bộ quần áo màu trắng, khá gọn gàng, rít sâu điếu thuốc và rút điếu thứ hai, mắt nhìn về phía biển khơi, mặt lộ vẻ dạn dày sương gió. Không ai có thể nghĩ rằng đó chính là thuyền trưởng danh tiếng Smith của con tàu Titanic.
Nhà hải dương học nổi tiếng, tiến sĩ Marwen Iderlan, sau khi cứu được Smith đã phát biểu trước báo chí rằng không thể có sự việc nào đáng kinh ngạc hơn. Người đàn ông này không thể là tên lừa đảo, ông ta đích thực là thuyền trưởng của con tàu Titanic, người cuối cùng cùng với con tàu chìm xuống biển. Khó tin hơn nữa là Smith đến nay đã 140 tuổi nhưng trên thực tế mới chỉ là một ông già 60. Khi được cứu, ông một mực khẳng định rằng hôm đó là ngày 15/09/1912.
Sau khi được cứu, ông được đưa đến Viện tâm thần Oslo (Nauy) để chữa trị. Nhà tâm lý học Jale Halant đã tiến hành hàng loạt thử nghiệm và kết quả là Smith hoàn toàn bình thường. Ngày 18/09/1991, trong một đoạn tin vắn, Halant khẳng định người được cứu đích xác là thuyền trưởng Smith vì ngay việc đối chiếu vân tay cũng đã cho thấy điều đó.
Sự việc cần được giải thích rõ ràng. Một số cơ quan hải dương Âu - Mỹ cho rằng thuyền trưởng Smith và hành khách Kate đã bị rơi vào "hiện tượng mất tích - tái hiện xuyên thời gian". Theo đó, một số chuyên gia phán đoán có khả năng trên biển vẫn còn một số hành khách Titanic sống sót đang chờ được cứu giúp, vì trong lịch sử cũng đã có không ít trường hợp mất tích - tái hiện một cách thần bí.
Sự mất tích của 25 lính hải quân Mỹ
Theo hồ sơ của bộ hải quân Mỹ, trong chiến dịch Thái Bình Dương thời kỳ chiến tranh thế giới thứ 2, chiến hạm Indiana Bolis của Mỹ bị tàu ngầm của Nhật đánh chìm. Lúc đó, hải quân Mỹ đã thu được tín hiệu cấp cứu của 25 binh lính và sĩ quan rời khỏi chiến hạm bằng thuyền cứu hộ. Nhưng sau nhiều lần tìm kiếm, 25 quân nhân kia vẫn bặt vô âm tín. Cuối cùng, nhà chức trách đành phải tuyên bố họ đã mất tích. Nhưng một ngày tháng 07/1991, một đội thuyền đánh cá của Philippines trên hải phận Sibis,phía nam quần đảo Philippines, đột nhiên phát hiện một chiếc thuyền cứu sinh, trên thuyền có 25 binh lính đang trong tâm trạng hoảng loạn, dù cơ thể vẫn còn cường tráng.
Phát hiện này làm cho các nhà chức trách Mỹ vô cùng kinh ngạc. Điều khó hiểu hơn cả là chiến hạm Indiana Bolis bị đánh chìm từ năm 1945, và mãi 46 năm sau đó, người ta mới thấy họ, nhưng họ không hề thay đổi so với trước kia, thậm chí cả râu, tóc…cũng không dài thêm chút nào. 25 người một mực khẳng định họ chỉ lênh đênh trên biển một ngày đêm. 46 năm tương đương với một ngày, điều gì đã xảy ra?
Nhà thiên văn học, tiến sĩ Semesijians cho rằng, có khả năng họ đã bị rơi vào "lỗ hổng của thời gian", mấy chục năm sau mới xuất hiện trở lại và hoàn toàn không biết mình đang ở thời điểm nào.
Quan điểm của các học giả
Một số người cho rằng "lỗ hổng thời gian" thực chất là "thế giới phản vật chất" đang tồn tại trong vũ trụ. Họ dựa vào công thức tổng năng lượng vật chất của Einstein, theo đó tổng năng lượng vật chất có hai trị là chính và phụ. Vậy khi
trị phụ xuất hiện, chúng ta cần phải làm thế nào? Nhận thức nó ra sao? Một số học giả liền đưa nó vào mối liên hệ với "thế giới phản vật chất". Trước mắt, chúng ta mới hiểu biết được chưa đầy một nửa vũ trụ chúng ta đang sống, là phạm vi thế giới vật chất, còn nửa kia là một hệ thống tạo thành từ phản vật chất.
Hai bộ phận này tiếp cận với nhau dưới tác động qua lại của lực hấp dẫn. Khi tiếp cận đến một mức độ nhất định, tác dụng "đổ vỡ" do thế giới vật chất và phản vật chất sinh ra sẽ tạo ra một nguồn năng lượng vô cùng lớn, tạo thành một áp lực tách đôi hai hệ thống. Theo đó, có thể thấy rằng mất tích chính là hiện tượng phát sinh khi hai hệ thống vật chất và phản vật chất tiếp cận ở mức độ cao nhất, sinh ra năng lượng tạo nên áp lực phân tách. Khi hiện tượng "đổ vỡ" kết thúc, trường lực hấp dẫn trở lại trạng thái ban đầu, hiện tượng tái hiện xảy ra.
Trong cuộc tranh cãi giữa các nhà khoa học, nhiều giả thuyết khác cũng được đưa ra. Một trong số đó là thuyết Thời gian đứng lại. Thế giới vật chất sau khi tiến vào "lỗ hổng thời gian" đồng nghĩa với việc mất tích, và từ đó đi ra cũng có nghĩa là được tái hiện. Như vậy, "lỗ hổng thời gian" và trái đất không cùng một hệ thống, và thời gian trong "lỗ hổng" là tương đối tĩnh. Do đó dù có mất tích 3-5 hay vài chục năm đi nữa, người ta sẽ không có gì thay đổi so với lúc ban đầu.
Giả thuyết thứ hai được đưa ra là thuyết Thời gian ngược, cho rằng thời gian trong "lỗ hổng thời gian" là quay ngược so với bình thường. Người mất tích sau khi rơi vào đó có khả năng sẽ quay ngược về quá khứ. Tuy nhiên, khi thời gian quay ngược một lần nữa, người này lại được đưa trở về thời điểm họ bị mất tích, kết quả là xảy ra hiện tượng tái hiện thần bí.
Trong thuyết thứ ba Đóng cửa thời gian, "lỗ hổng thời gian" là hiện tượng tồn tại khách quan trong thế giới vật chất, không nhìn thấy và cũng không thể sờ thấy. Đối với thế giới vật chất mà con người đang tồn tại, nó vừa đóng lại vừa mở. Thỉnh thoảng khi nó mở ra một lần, kết quả là xuất hiện hiện tượng mất tích.
Mở thêm một lần nữa, người mất tích tái hiện.
Trước mắt, quanh vấn đề "lỗ hổng thời gian" vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa có một học thuyết nào có sức thuyết phục vì chưa đưa ra được những chứng cứ xác thực. Hiện tượng "mất tích - tái hiện" vẫn còn là bí ẩn đang chờ con người khám phá.
Theo Goldlight, để vào tương lai, có một cách đơn giản là chạy thật nhanh : vận tốc của bạn càng lớn, thì thời gian trôi qua càng chậm đối với bạn .
Nếu bạn chạy với vận tốc ánh sáng, thì thời gian ngừng trôi ! (chỉ đối với bạn thôi)
Khi bạn dừng lại, thì thế giới đã thay đổi đi quá nhiều để có thể nhận ra rồi. Bên ngoài thế giới đã trải qua mấy trăm ngàn năm, nhưng bạn mới chỉ chạy có vài phút ?
Một điều lý giải tại sao năng chạy bộ giúp ta... sống lâu.
-- Ánh sáng là bất tử. Cái này hiểu theo nghĩa đen hay nghĩa bóng cũng đều đúng. Tôi chỉ giải thích phần nghĩa đen. Đơn giản thôi, ở trên đã nói rằng khi chạy với vận tốc ánh sáng thì thời gian không trôi qua . Như vậy mọi ánh sáng vũ
trụ mà bạn thấy đều đã có từ thời khởi thủy của vũ trụ ,nay chúng vẫn vậy, không hề "già" đi .
-- Nếu bạn cứ đi liên tiếp về một hướng trong vũ trụ thì sớm muộn gì, bạn cũng sẽ quay trở lại điểm xuất phát. Giả sử Trái Đất đứng yên trong vũ trụ, tôi bay lên vũ trụ từ Bắc Cực thì sau một thời gian đủ dài, tôi sẽ xuất hiện ở Nam Cực .
Điều này thực ra mới chỉ là lý thuyết, chưa có ai kiểm chứng được nó. Và có thể là sẽ không bao giờ kiểm chứng được , bởi vì muốn kết thúc một hành trình
như vậy, bạn sẽ phải đi nhanh hơn ánh sáng, nếu không bạn sẽ không bao giờ kịp
về đích trước khi vũ trụ bị hủy diệt . Mà các quy luật vật lý thì không cho bất
cứ một cái gì đi nhanh hơn ánh sáng .
-- E=mc2 . Công thức này quen thuộc đúng không ? Số 2 ở đây là bình phương chứ
không phải nhân với 2 đâu.
E = Energy : năng lượng
m = Mass : khối lượng
c : vận tốc ánh sáng
Công thức này của Einstein, nó có nghĩa là năng lượng của một vật bằng khối
lượng của vật đó nhân với bình phương vận tốc ánh sáng .
Một con số khổng lồ đúng không ? Nhưng các bác đừng nghĩ là mình khỏe mạnh đến
vậy . Số năng lượng đó sẽ có, nếu như toàn bộ khối lượng vật chất chuyển hết
sang dạng năng lượng . Điều này đồng nghĩa với việc nếu muốn tung một chưởng với
bằng ấy năng lượng ra, các bác phải chịu mất hết khối lượng, hay nói cách khác :
tan biến vào hư vô .
Công thức này đã được chứng minh là đúng . Bằng chứng rõ ràng là quả bom
nguyên tử . Chỉ với vài gram Uranium, có thể tạo ra năng lượng hủy diệt cả một
thành phố .
-- Người ta thường nghĩ, không gian và thời gian là không liên quan gì đến
nhau, thực ra là sai . Các nhà khoa học đã chứng minh rằng thời gian và không
gian chỉ là một ,họ gọi cái thực thể ấy là : Không-thời gian .
Lấy một ví dụ đơn giản : tôi hẹn gặp bạn gái ở Ciao Cafe . Mặc dù cả hai đều
biết rõ địa chỉ và đến, nhưng chúng tôi không gặp nhau . Tại sao ? Đơn giản vì
tôi đến lúc 7h giờ sáng, còn bạn gái tôi đến lúc 3h chiều .
Từ ví dụ trên, chúng ta rút ra một điều mà thông thường chúng ta ít khi nghĩ
tới : 2 người muốn gặp nhau thì không chỉ phải ở cùng chỗ, mà còn phải cùng lúc
nữa . Thiếu một trong 2 điều kiện thì chắc chắn là không gặp được nhau (cẩn thận
khi hẹn bạn trai/gái)
- -Các bạn nghĩ rằng cái gì là thành phần cơ bản nhất tạo nên vật chất ?
Các phân tử ? Nếu tôi nói vậy, các bạn sẽ bảo sai . Vì ai cũng biết rằng một
phân tử được tạo thành từ nhiều nguyên tử .
Liệu nguyên tử đã là cuối cùng ? Chưa . Nguyên tử bao gồm hạt nhân và Electron
bay xung quanh nó . Trong hạt nhân thì có Proton và Neutron .
Hết chưa ạ ? Chưa .
Proton và Neutron được tạo thành từ những hạt gọi là Quark (thoát ra khỏi tiếng
Hy Lạp rồi ^_^) . Mà Quark thì có 6 loại lên lận : Quark u (up), Quark d (down)
,Quark s (strange) ,Quark c (Charmed), Quark b (bottom), Quark t (top) .
Vậy đó ,liệu các Quark có được tạo thành từ cái gì đó nhỏ hơn không ? Cái đó
thì hiện nay chúng ta chưa biết ?
Như vậy thì cuối cùng cái gì là viên gạch cơ bản nhất ? Hay là cứ nhỏ mãi như
vậy ? Có Trời mà biết được! Nhưng theo những nghiên cứu gần đây thì đã có bằng
chứng đáng tin cậy rằng những viên gạch nhỏ nhất ấy không phải là hình dạng hạt
như Proton hay Neutron, mà là hình dạng sợi dây!
Giấc mơ "đi ngược thời gian"
Đây không phải là chuyện giật gân, cũng không phải là viễn tưởng, bởi vì chúng
được xây dựng trên nền tảng lý thuyết sáng sủa và những kiểm nghiệm khoa học mới
nhất của GS Ronald Mallet, Đại học Connecticut, Mỹ. Ông cho rằng chúng ta có khả
năng đi ngược thời gian!
Mallet không đi theo cách tiếp cận của các nhà nghiên cứu máy thời gian khác,
cho rằng vũ trụ có những cấu trúc xoắn ốc, những "lỗ sâu đục" và chúng ta hầu
như không có khả năng xâm nhập, vì nó đòi hỏi một “năng lượng âm” rất lớn. Ông
cũng không theo quan điểm của nhà logic học Kurt Goedel, người đầu tiên khởi
xướng thuyết máy thời gian, cho rằng sự hiện hữu của một “vũ trụ quay” là điều
tất yếu. Hoàn toàn theo cách ngược lại, Mallet đã dựa trên những nền tảng vật lý
sáng sủa nhất: Thuyết không gian cong của Einstein và thuyết lượng tử ánh sáng.
Vùng trũng thời gian
Mỗi thiên thạch, khi chuyển động đều gây ra một trường hấp dẫn ảnh hưởng tới
không gian và thời gian xung quanh nó, ảnh hưởng này tỷ lệ thuận theo khối lượng
của thiên thạch. Trong những trường hợp nhất định, các "gợn sóng" trong không
gian gây ra bởi những chuyển động trên có thể làm thời gian bị uốn cong. Tương
tự như một viên sỏi đặt trên chiếc gối mềm, không-thời gian (hệ toạ độ 4 chiều,
trong đó thời gian là chiều thứ 4) cũng có những vùng trũng tương tự. Cũng theo
những tính toán lý thuyết thì, “bằng cách nào đó”, thời gian có thể bị làm trũng
đến mức nó không còn chạy thẳng nữa mà sẽ chạy theo vòng tròn.
Trước nay, các nhà khoa học đều nhất trí cho rằng trung tâm hấp dẫn chính là
trung tâm của không-thời gian bị bẻ cong, và họ dồn mọi nỗ lực nghiên cứu theo
hướng ấy. Mallett đi theo hướng khác. Ông nghiên cứu các thuộc tính của ánh sáng
theo thuyết tương đối rộng và thuyết lượng tử. Theo đó, ánh sáng thực ra không
có khối lượng, nhưng nó có thể bị bẻ cong khi đi qua một trường hấp dẫn cực lớn
và khi đó không gian cũng bị bẻ cong.
Năm ngoái, trong một bài đăng trên tạp chí khoa học New Scientist, Mallett đã chỉ ra rằng, tia laser khi chuyển động trên đường tròn sẽ sản sinh ra một trường xoáy xung quanh nó. Mới đây, ông lại giả định rằng những trường xoáy ánh sáng loại này đang giãn nở dần trong không-thời gian. Nhưng, để xảy ra một trường hợp đó thì theo tính toán lý thuyết, cần có một laser thứ hai. Khi nó chuyển động ngược chiều với tia laser thứ nhất, cường độ của nó cũng được tăng lên tương ứng. Khi đó không gian và thời gian sẽ hoán vị vai trò cho nhau và thời gian sẽ "quay" ở phía trong của vòng laser!
Theo đó, về mặt lý thuyết, loài người có thể tìm ngược về quá khứ của mình, ít nhất cũng về đến thời điểm mà vòng tròn được khép kín.
Ánh sáng chậm dần...
Một vấn đề cơ bản nhưng rất khó giải quyết, đó là: Khi bắt thời gian chạy vào
một vòng tròn, ta cần một năng lượng lớn khủng khiếp. Việc tạo ra nguồn năng
lượng này nằm ngoài khả năng của chúng ta hiện nay. Mallet đề nghị giải pháp
“hãm thời gian” để giảm đòi hỏi năng lượng.Theo định luật “nếu ánh sáng càng
chậm dần thì mức độ nhiễu loạn trong không-thời gian càng lớn” và nhiễu loạn này
sinh ra năng lượng hỗ trợ cho việc bẻ cong thời gian.
Mallet muốn dùng chiếc máy thời gian laser “hãm” ánh sáng làm cho nó chuyển động
chậm đến mức có thể. Cuối cùng, ông đã làm được một điều kỳ diệu: Hãm ánh sáng
từ tốc độ 300.000 km/s tới lúc nó dừng lại hoàn toàn! “Điều đó đã mở ra một vùng
trời mới mà chúng ta chưa bao giờ dám mơ tưởng đến”, Mallet nói.
Tuy nhiên, việc “hãm” tốc độ ánh sáng trên chỉ có thể thực hiện ở môi trường
nhiệt độ sát gần điểm không tuyệt đối (-273 độ C). Chính vì thế, nếu thử nghiệm
chế tạo máy thời gian của Mallet thành công thì chúng ta vẫn phải đối đầu với
một vấn đề hết sức nan giải: Làm thế nào để cơ thể con người có thể thích ứng
được với nhiệt độ “băng hà” ấy để “du hành” trong thời gian?
(Hiện nay, Mallett mới chỉ tiến hành những thực nghiệm nhỏ. Bước thứ nhất là đo những tác động của vòng quay laser vào một nguyên tử đơn).
No comments:
Post a Comment