Cha đã để sẵn nước sôi trong nhà tắm, dắt sẵn xe đạp ra ngoài sân. Làm xong hết những việc ấy, cha đi học bài.
Cha học cho đến lúc mẹ dậy. Học thơ, thơ từ cổ chí kim, của bất cứ ai, miễn đáng gọi là thơ, học kịch, học văn, học văn chương và học cả những gì dường như văn chương không bao giờ thèm đụng tới. Cho đến lúc gần bảy mươi, cha tôi vẫn là một học trò ngoan, bất chấp tuổi già mà len lỏi vào bất cứ góc nào của khu vườn văn hóa.
Khoảng bảy rưỡi, cha, mẹ ăn sáng. Rồi cha tôi ngồi vào bàn, cái bàn mà tôi học bây giờ, ngày ấy ít ai dám đến gần khi cha đang viết. Trên bàn đầy giấy và sách, lâu lâu bình mực quên không đậy đổ một lần, khi ấy loạn cả nhà. Không ngày nào cha không ngồi viết, cả khi gãy tay, bó bột, ngày trước, ngày sau đã nguệch ngoạc viết bằng tay trái.
Đôi lúc tôi thấy, nghề văn như một cái ách, người ta lúc nào cũng áy náy lo âu, sợ mình chưa đọc đủ, chưa viết đủ, chưa viết xong lại thấy bực bội như thể có điều gì oan trái trong lòng chưa nói ra hết được. Và tôi nghĩ, có lẽ cha tôi chọn cho mình một cái ách nặng. Cha luôn luôn tất bật, yêu hoa cỏ nhưng chưa bao giờ dám bỏ hàng giờ ra để ngồi uống trà thưởng hoa. Cha sợ những quán cà phê, nhìn chúng như nhìn những nấm mồ chôn thì giờ. Chỉ những đêm rằm, vườn nhà tôi đầy trăng, cha bảo: “Tắt đèn! Ra ngoài hè ngồi xem”. Chị em tôi theo ra, ngồi khen trăng được vài phút, cha lại quay sang bàn chuyện văn chương với mẹ, rồi tranh luận, có khi cãi cọ, quên cả trăng!
Cứ vậy, đầu óc của cha tôi không lúc nào thảnh thơi, đôi lúc tôi nghĩ, cha đã già rồi, đã có một vị trí ít ai dám mơ tới trong văn học rồi, sao cha không nghỉ ngơi một chút. Cha dạy chúng tôi: “Phải học, học không phải để vui, mà để không ai giết được mình!”.
Cha cũng muốn tôi học, tôi đã có gần một chục quyển vở chép tay của cha, ở bìa ghi rõ: “sách dạy cho Vàng Anh”, cha muốn hàng ngày đều có ít thì giờ để giảng cho tôi, nhưng tôi, vì đã không ý thức được những giờ học ấy quý như thế nào, tôi đã trốn bằng đủ mọi cớ, khi ấy, tôi chỉ thích làm thơ chứ không thích học thơ.
Chỉ khi cha tôi vào nằm bệnh viện, tôi biết cha bệnh nặng, khó
mà qua khỏi, mỗi chiều, sau khi đi học về, tôi vào thăm, cha luôn để
dành cho tôi bánh kẹo hoặc một quả cam, và tôi dù mệt đến mấy cũng đề
nghị cha giảng bài, không tiếp thu được bao nhiêu, nhưng tôi muốn cha
được an tâm.
Ở bệnh viện, cha tôi đã làm một phong bì to đựng các bài
học của tôi, giờ đây chép thành giấy rời, cuối mỗi bài đều ký: “Cha: Chế
Lan Viên”, và ghi: “Chợ Rẫy ngày? tháng? năm?” như đánh dấu từng chặng
của một cuộc chạy đua tàn khốc.
Thời khóa biểu của cha tôi cho một ngày thế nào cũng có giờ làm vườn. Thường vào khoảng mười giờ, khi viết lách, đọc sách đã mệt. Ra vườn, cha tôi đắp đất, làm cỏ như một nông dân, và cha tự hào về điều đó.
Vườn nhà tôi rộng đủ để mọi người
“thí nghiệm” trồng cây này, cây nọ, kết quả là cây cối mọc lung tung.
Một cây dừa mọc trên mô đất cao, nước quanh năm không với tới, những cây
mận, cây cam tranh giành nắng, xúm xít cạnh nhau.
Tuy vậy, tôi yêu khu
vườn, bởi vì nó là nơi thân thiết nhất của cha, mẹ tôi, bởi vì, ở đâu
trong vườn cũng có dấu tích của cha, những chậu phong lan cha tôi đem từ
rừng về, một cây ổi cha trồng riêng cho tôi gần giếng nước, bụi hương
nhu bên bờ ao cha trồng cho cả nhà gội đầu. Người ngoài ít ai biết rằng
cha tôi lại có thể làm những việc li ti như vậy, còn chúng tôi vì quá
quen với những việc li ti ấy nên lại thường không biết cha tôi có thể
làm được những việc lớn như thế nào.
Thỉnh thoảng, tôi đi theo cha đến các hội nghị hoặc các lớp học cha giảng thơ văn. Ở đấy, người ta dành cho cha ghế hàng đầu, rồi các cô, các chú đến chào, nhắc về vài bài viết, hay quyển sách mới của cha, tôi nghe và lần nào cũng lặp lại cái ý nghĩ: ?oTệ thật!
Mình chẳng biết gì về cha cả!. Khi ấy, tôi theo cha
chỉ để đi chơi, cũng không để ý cha tôi giảng bài gì, phát biểu điều gì,
chỉ để ý cha đã chải đầu chưa, cổ áo đã bẻ xuống chưa, có quên kính
không? Trong những chuyện này, cha nhất nhất nghe tôi.
Một lần khi tôi học lớp năm, theo cha xuống Cổ cò, người ta đón bằng một bữa tiệc, cha tôi uống rượu, thỉnh thoảng hỏi tôi: “Mặt cha đỏ chưa?”. Tôi bảo “Chưa”, mấy phút sau lại nghiêm mặt bảo cha: “Đỏ rồi! Cha đừng uống nữa!” Và cha tôi ngưng liền.
Cha tôi nóng tính, điều đó ai cũng nói. Ở nhà không ai dám đùa với cha, ngoài chị Thắm.
Chị là người duy nhất dám nhờ cha tôi dịch hộ bài học rồi ngang nhiên ngủ gật ngay bên cạnh. Chị Thắm cũng là người duy nhất biết nhổ tóc sâu và lấy ráy tai, và làm cũng tùy hứng, bất kể lúc đó cha tôi đang bận bịu đọc sách hay học bài.
Ra trường, chị đi thực tập một năm ở An Giang, lâu lâu mới về một lần, thời gian đó, tóc cha tôi bạc hẳn.
Tôi nhớ, khi chị đi được mấy ngày, một
buổi tối, người yêu chị đi thăm về, tả lại cho cha tôi nghe cái cảnh lạ
nước lạ cái của chị dưới quê, cha bảo: “tội nghiệp” Rồi hai người sụt
sịt khóc, khi ấy, hai mẹ con tôi thấy cha thật là ủy mị!
Rồi
cha tôi bệnh nặng, những tháng cuối cùng, cha chỉ nằm trong phòng, không
nói được, không biểu lộ tình cảm gì trên mặt, chỉ ngơ ngác nhìn trời
qua cửa sổ. Vậy mà, theo thói quen, thấy tờ báo nào ở cạnh cha cũng cầm
lên đọc, khi thấy mẹ tôi cầm quyển sách nào đi ngang cha cũng nhìn cho
được cái gáy sách, dù đã không hiểu được gì nữa.
Bạn của cha tôi đông lắm, họ đến thăm và ai cũng thấy rằng ông Trời sao thật tàn bạo, bắt một con người thông minh như cha phải sống như một đứa trẻ mới sinh. Tôi đi học về, vào giường ngồi chơi, nắm tay cha, gầy guộc, và khóc, có lần, cha tỉnh ra, nhìn tôi cau mày và cũng khóc theo. Sau đó ít ngày, cha mất.
Sau lễ hỏa táng, anh Định và tôi được giao nghi lễ cuối
cùng là đem tro của cha thả xuống sông. Tôi ngôi sau, ôm chặt cái túi
còn ấm nóng. Đây là cha tôi, ngày nào còn ôm tôi, đứa trẻ con ngủ gật
trên xe; đây là thầy giáo tôi? giờ thu lại trong hũ cốt và một bao tro.
Chúng tôi ra sông Sài Gòn, khi tro được thả xuống, tôi biết từ nay mình đã mồ côi cha, chỗ dựa lớn nhất đời tôi đã mất, và tôi sẽ phải học, như cha dạy: “Học không phải để vui, mà để không ai giết được mình!”. Học để thành người.
Chúng tôi ra sông Sài Gòn, khi tro được thả xuống, tôi biết từ nay mình đã mồ côi cha, chỗ dựa lớn nhất đời tôi đã mất, và tôi sẽ phải học, như cha dạy: “Học không phải để vui, mà để không ai giết được mình!”. Học để thành người.
No comments:
Post a Comment