CÓ
AI
TẬN
MẮT
TRÔNG
THẤY
ĐỨC
MẸ
HIỆN
RA
TẠI
LA-VANG
I/
"NGÔI CHÙA THÀNH NHÀ CHÚA"
TRONG
HOÀN-CẢNH
NÀO?
A)
TÀI-LIỆU:
Trong bài “Tinh-Thần
La Vang” đăng trên báo “Thằng
Mõ”, số 832 ra ngày 28-3-98,
tác-giả Trần Văn
Trí viết:
Vào đầu thế-kỷ 19, tiếng đồn
về Đức Bà linh thiêng lan rộng khắp nơi.
Trong những năm đầu 1820-1840, các
người Công
Giáo thuộc các làng Ba Trừ, Cổ
Thành và Thạch
Hãn có
chung nhau xây
một
ngôi chùa ngay tại nơi Đức
Mẹ hiện ra, gọi là
chùa Ba Làng. Nhưng
sau đó họ bàn tính lại với nhau và đồng
thuận rằng Đức Bà hiện ra là “bên giáo”, nên
họ đã nhường ngôi chùa lại cho bên Công Giáo và
các gia-đình Công Giáo tu sửa “ngôi chùa
thành nhà Chúa” (Lm Hồng Phúc: Đức
Mẹ La-Vang, tr.
35).
B)
NHẬN XÉT:
1- Ta hãy
tìm hiểu
xem “ngôi chùa đã trở thành nhà Chúa” trong
tình-hình nào.
Báo “Thằng
Mõ”, số 852 ra ngày
15-8-98, có đăng bài “Sự-Kiện La
Vang: Trang Sử Tử-Đạo” của
tác-giả Nguyễn
Văn Thông, trong đó có đoạn:
Giám-mục Tabert
ghi lại rằng, giáo-hội Miền Nam, khi vua Minh
Mạng ra chỉ-dụ cấm đạo,
đã có hàng
trăm giáo-hữu bị bắt giam tù, bị tra-tấn và
bị án lưu-đày hoặc xử-tử...
a. Trong năm
1832, Chỉ-huy-trưởng đoàn quân hộ-vệ cho vua
Minh Mạng là Tống
Viết Bường cùng với những sĩ-quan và
binh-sĩ cấp dưới bị bó-buộc
ký giấy
xuất-giáo. Ông Bường và
12 người không chịu
ký. Họ bị truyền
phải mang gông và đánh
đòn... Đầu roi
chì quất xuống xé thịt văng ra... Trước
cực-hình dã-man ấy, sáu binh-sĩ không chịu nổi...
Ông Bường và sáu người khác
chịu tù ngục và tra-tấn cho tới cùng rồi
bị mang đi chém đầu vào tối ngày 23-10-1833
ở Thợ Đúc, Huế
(Bùi Đức Sinh: Giáo-Hội
Công Giáo ở VN, tập III, trg 46-47).
b. Ngày 8-9-1835, giáo-sĩ
Marchand bị bắt tại
Gia Định,
bị đóng cũi như một con vật mang về
Huế cùng với Lê Văn Viên 7
tuổi, con của Lê Văn Khôi...
Giáo-sĩ bị khép tội cùng với Lê
Văn Khôi làm loạn chống lại triều-đình
Minh Mạng...
Lí-hình liền
lấy kìm trong
lò lửa kẹp mạnh vào hông giáo-sĩ,
thịt cháy xèo bốc khói... Ngài và ba người
bị khép tội đồng-lõa cùng với em Viên
phải án lăng-trì. Họ bị lột hết
quần áo, bị trói vào cáng điệu đến pháp-trường
ở nhà thờ họ Thợ Đúc...
Lí-hình lấy
kìm kẹp từng miếng thịt lôi ra cho
một lí-hình
khác cầm dao phay cắt miếng thịt
ấy. Chúng bắt đầu bằng việc cắt
dương-vật của người tử-tội trước,
rồi đến hai miếng thịt vú, hai miếng
bả vai, cắt hai tay, hai bên đùi rồi hai bắp
vế... cho đến khi
còn lại bộ xương
dính những sợi thịt đỏ
lòm. Sau đó
lí-hình chặt đầu vị giáo-sĩ... tháo giây trói cho xác
ngã sấp xuống đất, lấy búa chặt thành
bốn khúc theo bề ngang rồi bổ mỗi khúc làm
đôi theo bề dọc... Đầu của giáo-sĩ
Marchand được mang đi các
tỉnh treo ở chợ, sau đó bỏ vào cối mà xay
(Phan Phát Huờn: Louvet:
La Cochinchine Religieuse, QII, trg. 92) và nhiều, nhiều
vụ khác.
2- Thời-kỳ
1820-1840 mà
tác-giả Trần Văn Trí kể trên, rơi đúng vào
chính triều-đại Minh Mạng, giai-đoạn bách-hại
Ky Tô Giáo khắc-nghiệt như thế. Và sử-gia
Trần Trọng Kim đã viết trong “Việt Nam
Sử-Lược”: “Lúc bấy giờ không phải là
một mình vua Thánh Tổ ghét đạo mà thôi,
phần
nhiều những quan-lại cũng đều một
ý cả cho nên sự cấm đạo lại càng nghiệt
thêm.” Lê Văn Khôi và đồng-đảng
hùng
mạnh đến độ
chiếm được 6
tỉnh Miệt
Trong chỉ trong một tháng, và
cố-thủ thành
Gia-Định
suốt 3 năm trời,
ở tận miền Nam xa vời; thế mà Minh Mạng cũng
đã dẹp tan và trừng-trị
được, khủng-khiếp như
trên. Vậy
thì một nhóm giáo-dân Ky Tô Giáo
tay không,
ẩn trốn cách kinh-đô và ảnh-hưởng của
nhà vua chỉ trong 60 cây số
(Huế
- Quảng-Trị), làm sao không
bị phát-hiện*1,
mà còn công-khai tu sửa ngôi chùa thành nhà Chúa,
trong khi các
cuộc giết đạo vẫn
còn tiếp-diễn thêm
40-60 năm nữa
(cho đến khi Pháp đến, vào
thập-niên
1880)?
*CHÚ-THÍCH 1a:
Lưu
ý: “Tiếng
đồn về Đức Bà linh thiêng
lan rộng
khắp nơi”, và dân La Vang (gồm cả người
không-Công-Giáo)
thì sống bằng nghề đốn củi đem bán cho
cả các làng (không
Công Giáo) bên ngoài La Vang.
*CHÚ-THÍCH 1b:
Giám-mục Tabert
viết về các sự việc xảy ra trong khoảng 1820-1840 trong một nước Việt Nam đã được
thống-nhất từ hơn
hai mươi năm trước
(Gia Long lên ngôi từ năm 1802) mà vẫn mô-tả đó là
Miền Nam (lúc
còn sông Gianh của thời Trịnh Nguyễn
phân-tranh).
Tabert
lại còn không nhớ địa-danh
Phường Đúc
mà gọi nó là
Thợ Đúc.
Làm sao tin được bài
viết của Gm
này?
3- Nếu Đức
Mẹ thực-sự hiện ra tại La Vang năm 1798,
tại sao giáo-dân phải đợi cho đến
22-42
năm sau (1820-1840) mới nghe tiếng đồn, mới xây
ngôi chùa, rồi sau mới bàn với nhau rằng Bà
linh-thiêng*2 hiện ra là “bên*3
giáo”?
Hơn nữa, chính họ là
“dân Ky Tô Giáo từ 3 làng Ba Trừ,
Cổ Thành và
Thạch Hãn”
đã xây
ngôi chùa ấy, tại sao họ
không nói hẳn
ra (đại-khái: "đến nay
thì chúng ta
đã có thể chính-thức công-nhận nó là nhà
Chúa, vì Bà hiện ra đích-thực là Đức Mẹ
Maria"), và báo
cho bên không-Công-Giáo biết như thế"), chứ cần
gì phải chờ
về sau mới
bàn (giữa dân Công Giáo)
với nhau rằng
Bà ấy là của
"bên Công Giáo"?
Tóm lại,
tất cả chỉ thuần-túy là tin đồn, và không
có ai tận mắt trông thấy Đức Mẹ hiện
ra ở La
Vang!
*CHÚ-THÍCH 2: Bên
Phật-Giáo cũng có một Bà:
Đức Phật Bà Quán-Thế-Âm.
*CHÚ-THÍCH 3: Từ-ngữ “bên” cho thấy là có ít nhất 2 bên liên-can
trong hiện-vụ, và cách dùng chữ lương-thiện
như thế chứng-tỏ là bên không-Công-Giáo trước
đó cũng
đã có nhìn-nhận ngôi chùa là của bên Phật-Giáo
rồi.
II/
TRONG TRƯỜNG-HỢP NÀO
NGƯỜI
TA BẮT ÐẦU NGHE NÓI ÐẾN
VIỆC
ÐỨC MẸ HIỆN RA TẠI LA
VANG?
A)
TÀI-LIỆU:
Trong bài “Linh-Địa
La Vang” đăng trên báo “Mẹ Việt-Nam”, số 102
ra ngày 15-8-98, tác-giả
Nguyễn
Lý Tưởng viết:
1- Năm 1797, nhân khi
thủy-quân của Nguyễn Ánh tiến ra tận cửa
bể Tư Dung (cửa Tư Hiền) thuộc tỉnh
Thừa Thiên,
thì Lê Văn Lợi, một vị quan
của Tây Sơn đã đề-nghị vua ra lệnh
bắt hết người Công Giáo và các linh-mục,
lấy lý-do dân theo đạo ủng-hộ Nguyễn Phúc
Ánh... Vua Cảnh-Thịnh
đã ra mật-lệnh cho các
địa-phương hẹn đến tháng 5-1798 sẽ
bắt và giết tất cả giáo-dân cũng như
linh-mục, không để sót người nào... Đức
giám-mục Jean De Labartelle lúc đó đang trốn tránh
ở làng Di Luân (Quảng Trị)...
Tin đó được
loan truyền ra
trong giới Công Giáo và
dân theo đạo ở các làng Trí
Bưu, Thạch
Hãn, Hạnh Hoa
bèn
chạy vào miền núi
La Vang để ẩn núp. Và chính trong thời-gian đó
Đức Mẹ
đã hiện ra với họ.
2- Tương-truyền
Đức Mẹ
đã hiện ra tại gốc cây đạ
cổ-thụ. Dân làm nghề rừng thường đến
đó van vái, về sau họ nghe nói có một Bà linh thiêng
hiện ra tại đây nên họ
đã đắp
một cái nền dưới gốc cây đa gọi là
nền vọng và rào chung quanh. Khoảng đầu đời
Minh Mạng, 1820, dân ba làng Thạch
Hãn, Ba Trừ và Cổ
Thành chung nhau làm một ngôi miếu nơi đó,
về
sau họ nghe nói ngày xưa có một Bà bên đạo
hiện ra ở chỗ đó nên cả ba làng đồng
thuận nhường
chỗ đó lại cho dân bên đạo
Công Giáo. Giáo-dân thời đó
đã đem việc này
trình cho vị linh-mục ở xứ Trí Bưu (Cổ Vưu)
và cha xứ*4 đã
cho sửa-sang nơi đó thành một
nhà thờ bằng tranh. Đây là ngôi nhà thờ đầu
tiên tại La Vang.
3- Vua Đồng-Khánh
lên ngôi (1885, vào cuối
thế-kỷ 19), chủ-trương
tìm kiếm hòa-bình...
Cũng
trong thời-điểm này, cha xứ Trí Bưu (Cổ Vưu)
đã hỏi những giáo-hữu lớn tuổi trong giáo-xứ
khi đến giờ lâm-chung, chịu phép giải tội và
xức dầu thánh*5, rằng: “Con
phải thề nói
sự thật, con có
nghe cha mẹ, ông bà trước kia
nói gì về sự-tích Đức Mẹ hiện ra tại La
Vang không?” Tất cả những người đó đều
trả lời: “Có” và “chuyện xảy ra
đã gần 100 năm rồi.” Đức Mẹ
đã hiện
ra trước đó khoảng 100 năm. Bằng-chứng là năm 1886
(88 năm, sau năm 1798) Đức
Cha Caspar (Lộc) ở Huế
đã quyết-định xây
đền thờ kính Đức Mẹ hiện ra, theo cha
mẹ, ông bà kể lại, cách nay cả trăm năm,
(tức là vào cuối thế-kỷ 18, dưới thời Tây Sơn).
B)
NHẬN XÉT:
1-
Pigneau vừa là giám-mục
(cao-cấp trong giới truyền-giáo của đạo bị cấm) vừa là người Pháp (ngoại-quốc
cướp nước),
lại giúp kẻ thù là Nguyễn Phúc Ánh và
lãnh-đạo
các tín-đồ tại địa-phương; thế mà
vua Cảnh-Thịnh lại nhắm vào các
giáo-dân (là người chạy theo) trước
cả các kẻ cầm đầu? Ngoài ra, giám-mục Jean De
Labartelle có mặt tại làng Di Luân,
Quảng-Trị,
tỉnh của La Vang, thế mà
không hề viết
gì làm
chứng về vụ gọi là Đức Mẹ
hiện ra
ngay vào lúc đó (1798) tại
La Vang trong vùng hoạt-động của
mình.
2- Lạ-lùng hơn
nữa là ngay chính các giáo-dân từ 3 làng Trí Bưu (vâng,
Trí Bưu tức Cổ Vưu), Hạnh
Hoa và Thạch Hãn,
là những tín-đồ Ky Tô Giáo
đã chạy đến
tị-nạn tại La Vang và được kể là
đã thấy Đức Mẹ hiện
ra hứa che
chở họ ngay chính
vào lúc Đức Mẹ hiện ra (năm
1798),
thì lại không lập, dù chỉ là một cái bàn,
để thờ Đức Mẹ; mà phải chờ đến
hơn hai mươi năm về sau (1820-1840) để các
cư-dân thuộc nhiều tín-ngưỡng khác nhau
của 2 làng khác, Ba Trừ và Cổ Thành,
đến đó cùng với làng Thạch
Hãn của La Vang đứng ra làm một
ngôi chùa đặt tên là Chùa
Ba Làng (dù cho có bài
viết là ngôi miếu), để thờ một Bà mà
họ thấy là không phải Đức Bà của Ky Tô Giáo
(cho đến về sau
khi họ nghe nói rằng đó là
Đức Mẹ họ mới "nhường lại" cho bên
Công Giáo).
*CHÚ-THÍCH 4: Có đáng
tin không: dưới triều
Minh Mạng, khi sự cấm
đạo ngày càng
gắt-gao, hằng trăm giáo-dân
đã bị bắt, giết (kể cả giáo-sĩ Marchand
ở tít từ trong Gia Định), mà vẫn
còn có
một cha xứ hiện-diện bên ngoài vùng
ẩn-nấp La Vang, để các tín-đồ từ trong
đó ra tiếp-xúc và báo-cáo
tình-hình?
*CHÚ-THÍCH 5: Có đáng
tin không: khi có cha xứ Trí Bưu (gồm cả
La Vang, là
nơi ẩn-trú của giáo-dân từ 3 làng nói trên và
từ nhiều vùng khác nữa, thí-dụ “cách đó 60 cây
số” nghĩa là từ Huế) mà
cha xứ ấy không
nghe biết gì về
tin đồn truyền ra từ 1798
cho đến hơn
hai thập-niên về sau (1820-1840)
mới nghe về việc có Bà linh-thiêng hiện ra cách đó
chỉ
4 cây số, và dân đến báo là đã
“đồng thuận nhường chỗ đó lại
cho bên Công Giáo”?
3-
Giám-mục
Caspar
là người quyết-định xây đền thờ kính Đức Mẹ vào năm 1886
(sau khi thực-dân
Pháp đã đô-hộ Việt-Nam từ 1884),
tức là ông đã
hoàn-toàn tự-do trong
tình-hình mới (giáo-dân Ky Tô Giáo vươn
lên), nghiên-cứu kỹ-càng về biến-cố này; thế mà ông cũng không
hề lưu lại một
bút-tích nào (dù là báo-cáo chính-thức
gửi về Tòa
Thánh hay là nhật-ký
cá-nhân, thư riêng) về vụ Đức Mẹ hiện ra tại La Vang:
phải chăng
vì ông cũng thấy
vụ đó là không đáng
tin?
4- Người đọc
thấy ngay là cha xứ Trí Bưu đã
lợi-dụng
giờ phút lâm-chung của người già-cả,
muốn
“hồn được lên thiên-đường”,
mà
sợ
không được cha xứ cho lên, nên bắt
họ phải thề*6
là có nghe ông bà cha me trước kia
kể lại, chuyện
đã xưa gần trăm năm...
Chỉ cần có một tiếng “Có!” giản-dị,
không cần chi-tiết
gì cả. Tại sao việc này không
được thực-hiện trước năm 1885, khi mà
trước đó giáo-dân La Vang đã có thể công-khai
biến nhà chùa thành nhà Chúa (1820-1840), suốt 40-60 năm
qua? Và tại sao cha xứ không hỏi các giáo-dân
mạnh-khỏe trẻ-trung? Chắc-chắn
lý-do là vì “sáng-kiến”
này mới được nảy-sinh vào năm 1885 (Đồng-Khánh
lên ngôi), họ tính là
không còn ai đủ già để
biết và để
cãi lại sự việc cho là
xảy ra đã gần trăm năm.
*CHÚ-THÍCH 6: Cha xứ
bắt thề như thế là để căn-cứ vào
đó mà lập hồ-sơ về chuyện hiện ra, và
sở-dĩ thế là
vì từ 1798 đến
1885 (Đồng
Khánh thân-Pháp lên
ngôi) ròng-rã 87 năm, không
hề có một hồ-sơ tài-liệu nào cả về
chuyện Đức Mẹ Hiện Ra, dù cho sau này người
ta nói là hiện ra vào năm 1798, nhường ngôi chùa
lại cho bên Công Giáo vào khoảng 1820-1840. Và tại sao
lại không có một tài-liệu nào, khi mà ít nhất là
một bức thư của linh-mục Lôrensô Lâu
về việc viếng thăm Cổ Vưu (Trí Bưu)
đã được gửi về La Mã
từ thời 1691 (hơn
một trăm năm về trước), và khi mà
Tòa
Thánh Vatican đã
có thể
trực-tiếp giải-quyết chuyện nội-bộ La
Vang từ thời 1717-1739 (hơn
nừa thế-kỷ
về trước)?
Xin thưa:
là vì thật ra không hề có việc Đức Mẹ (của
Ky Tô Giáo) hiện ra tại La
Vang.
Vậy
thì Tòa
Thánh,
qua báo “L'Osservatore Romano”,
quả
đã thành-thật
và
thẳng-thắn khi xác-quyết rằng “Tiếc thay,
hiện nay không có một tài-liệu viết nào lưu-trữ
về các lần Đức Mẹ Hiện Ra Tại La Vang”.
Dù thế, họ vẫn chống-chế cho rằng các tài-liệu
ấy có lẽ đã
bị tiêu-hủy dưới thời Minh
Mạng, Tự Đức*7:
Họ giả-vờ coi như không
có ai có thể
gửi gì ra khỏi xứ Huế và nước
Việt Nam trong suốt
42 năm trường (từ
1798, đến 1840 là năm Minh Mạng
qua đời); họ đã
quên mất thời-gian 18 năm (1802-1819) dưới thời Gia
Long, mà
vì mang ơn người Pháp nên vua không
nặng vấn-đề cấm đạo; hơn nữa, họ
đã tảng-lờ
tình-trạng người
Pháp đô-hộ Việt Nam
hơn 60 năm (1884-1945) và
coi như
các phần-tử thực-dân Ky Tô Giáo này không biết
phụng-vụ Đức Mẹ ngay tại thuộc-địa
của mình,
nhất là sau khi
đã có những vụ
hiện ra tại Lourdes ở Pháp năm 1858 và tại Fatima
ở Bồ Đào Nha năm
1917!
5- Ta cũng gặp
được một óc tưởng-tượng khác
người: Trong khi các bài viết khác nói rằng mãi
đến 1820-1840 giáo-dân Ky Tô Giáo tại La Vang mới
nghe tiếng đồn về việc Đức Mẹ
hiện ra ngày xưa,
thì tác-giả Trần Văn Trí trong bài
“Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng
Mõ" số 832 lại viết: “Bỗng nhiên
(trong năm
1798) họ thấy
một bà đẹp-đẽ mặc áo choàng hiện ra
gần một cây đa đại-thụ, mà họ
nhận biết ngay là Đức Mẹ.”
Những “nhân-chứng”
ấy nhận biết
ngay tại chỗ
vào năm 1798 rằng đó chính là
Đức Mẹ, thế mà
giáo-dân phải đợi cho đến
22-42
năm sau (1820-1840) mới nghe tiếng đồn, mới
xây
ngôi chùa, mà cũng chưa bàn là Bà linh-thiêng thuộc về "bên
ta"; và trong lúc đó (1798) chính giám-mục Jean De Labartelle
có
mặt tại tỉnh địa-phương, thế mà không
có một chứng-tích nào, tài-liệu viết nào của ông
về
sự-kiện ấy được lưu hồ-sơ.
Chỉ nội một chi-tiết đó
đã đủ
để vô-hiệu-hóa tất cả các chi-tiết khác
về vụ
hiện ra.
Cũng như trong các bài viết khác, tất cả
chỉ là nghe nói, tiếng đồn, tương-truyền,
và mỗi lần lại mỗi khác nhau và mâu-thuẫn
nhau.
6- Ta lại
có thêm
một nguồn ngoại-sử
qúy-báu, không phải là
về Đức Mẹ mà là về Cây Đa:
linh-mục
Pierro Gheddo viết về sự-tích Đức Mẹ
hiện ra tại La Vang cũng như các sự ngược-đãi
Ky Tô Giáo tại Việt Nam,
đã đặt nhan đề
cho sách của
mình là “The Cross and the Bo-Tree” (Cây
Thập-Giá và Cây Bồ-Đề).
Lm Pierro Gheddo quả
đã thực-tế gọi hẳn
cây đại-thụ là
cây bồ-đề thay
vì cây đa. Cây Bồ Đề
thông-thường là cây của nhà chùa, của Đức Phật; và lẽ tất-nhiên
Đức Mẹ Maria
của Ky Tô Giáo không bao giờ muốn
đến gần,
nói gì dùng nó làm
điểm tiếp-cận để
xuất-hiện trước tín-đồ
của mình!
Dù sao, cây đa ở đây hẳn thuộc về bên
không-Công-Giáo, dù là hồi đó hay là bây giờ; và dân
La Vang đến đó cầu-nguyện là dân đa-tín,
tin thờ nhiều thần (kể cả ma quỷ, là
những hình bóng chập-chờn thỉnh-thoảng
hiện ra nơi các cây đa), rất lâu trước khi có
dân Ky Tô Giáo đến đó tị-nạn rồi sau
mới nghe tiếng đồn về Bà
linh-thiêng...
7-
Tác-giả Trần Văn Trí
trong “Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng
Mõ”,
số 832 ra ngày 28-3-98, viết: “Hội-Đồng Giám-Mục
Việt-Nam trong phiên họp ngày 13-4-61
đã cho đền
thờ Đức-Mẹ La Vang làm Đền Thờ Toàn-Quốc
Dâng Kính Trái Tim Vô-Nhiễm Đức Mẹ và nhận
Linh-Địa La Vang làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc.”
Báo “L'Osservatore Romano”
của Vatican
ra ngày 12/19-8-98
thì viết rằng
: “Trong bức thư chung ngày 8-8-61 của các giám-mục
Việt Nam, La Vang được chọn làm Trung-Tâm Thánh-Mẫu
Toàn-Quốc.”
Vậy là ngày 13-4-61 hay
ngày 8-8-61?).
*CHÚ-THÍCH 7: Họ nói là các bút-tích về vụ Đức Me hiện
ra có lẽ
đã được giữ trong hồ-sơ của nhà thờ Huế
và bị thiêu-hủy trong hai cuộc chiến địa-phương: vào năm 1833
dưới thời Minh
Mạng, và vào năm
1861
dưới thời Tự
Đức. Thật
ra, trong năm 1833
có việc triều-đình
dẹp loạn Nông
Văn Vân ở Lạng-Sơn
& Cao-Bằng
ngoài
Bắc, và loạn Lê
Văn Khôi ở Gia-Định
trong Nam;
và trong năm 1861
có quân Pháp và I Pha Nho đến đánh Quảng-Nam,
xúi Tạ Văn Phụng ra Bắc
dấy binh ở Quảng-Yên; nhưng
trong các thời-điểm ấy ở
kinh-đô Huế
thì vẫn bình
yên: làm sao mà hồ-sơ nhà thờ ở Huế bị thiêu-hủy
được. Huống nữa, hồ-sơ vụ này
không phải chỉ có ở Huế
mà thôi.
Chính tác-giả Nguyễn Văn Thông
đã viết: “Về các
sử-liệu liên-hệ, chúng ta có khá nhiều để
đối-chiếu...
với các sử-liệu như thư viết
tay, sổ-sách
ghi tên giáo-hữu..., những bản
phúc-trình
của
từng khu-vực truyền-giáo gởi về Bộ
Truyền-Giáo ở Roma, ở Paris, ở
các nhà
dòng Tên, dòng
Đa Minh... có chi-nhánh ở Macao,
Penang, Nhật, Phi Luật
Tân, Thái Lan..."
Và, như
tác-giả Nguyễn
Lý Tưởng
đã viết: “Lm Stanilas Nguyễn
Văn Ngọc
đã trích dẫn một đoạn
trong bức thư của Lm Lôrensô
Lâu, về việc viếng thăm Cổ Vưu (Trí
Bưu) ở vùng Dinh
Cát (Quảng
Trị) đề ngày 17-2-1691
gởi
về Roma”: Như thế
rõ-ràng là các báo-cáo
từ vùng Dinh
Cát (gồm có La
Vang) đã
được gởi về
thấu tận Roma từ hơn
một thế-kỷ (1691-1798) trước
khi có
vụ gọi là “Đức-Mẹ Hiện Ra Tại La
Vang. Lại nữa,
tác-giả Trần
Văn Trí cũng
đã viết: “Vài
Nét Lịch-Sử Về La-Vang:
1717-1739: xảy ra
một số xáo trộn mà
Tòa
Thánh phải trực-tiếp can-thiệp...”:
Như thế hiển-nhiên là, lần này nữa,
Tòa Thánh đã
nắm vững
tình-hình La Vang từ hơn nửa thế-kỷ
(1739-1798) trước vụ "hiện ra".
Do đó, tài-liệu viết về sự xuất-hiện
của Đức Mẹ tại La Vang,
nếu có,
thì phải đã
có tại Tòa Thánh Vatican ngót một thế-kỷ rưỡí, trước
cuộc chiến đầu tiên trong 2
cuộc chiến 1833 và 1861 mà báo L'Osservatore
Romano của
Tòa Thánh đổ lỗi là
có
lẽ
đã tiêu-hủy
hết hồ-sơ liên-quan.
8- Tóm lại, người
đọc có thể kết-luận rằng: trong ngót
một thế-kỷ rưỡi sau vụ
gọi là Đức Mẹ hiện ra (từ 1798 đến
1945), cả thực-dân Pháp lẫn
các chức-sắc Ky
Tô Giáo thuộc nhiều quốc-tịch
khác nhau đã rất lương-thiện,
vì họ không
hề chính-thức công-nhận (bằng
lời nói, chữ viết
lưu lại) mà chỉ
chiều
theo tương truyền
trong giới giáo-dân
địa-phương mà
thôi
về sự
"hiện ra" của Đức
Mẹ tại La
Vang, bởi lẽ chuyện đó là
vô căn-cứ,
không có người nào tận mắt trông thấy Đức Mẹ hiện
ra.
Và chỉ đến khi giáo-dân
Ngô
Đình Diệm
lên
làm thủ-tướng, rồi tổng-thống, của
Việt Nam Cộng-Hòa
(1954-1963)
thì chuyện hiện
ra mới được
làm to lớn lên
(nhưng
nay thì chính Tòa
Thánh Vatican đã phủ-nhận
rồi - xin xem
CHƯƠNG
VIII).
Rõ-ràng lập-trường
của Vatican
trong vụ
nhà
thờ
La
Vang
là chỉ dựa vào báo-cáo và
đề-nghị của
các thừa-sai
tại địa-phương,
mà giai-đoạn này
thì họ chịu hoàn-toàn ảnh-hưởng
của Tổng-thống
Ngô
Đình Diệm
và
Tổng Giám-Mục
Ngô Đình Thục của
Miền Nam Việt-Nam.
CHƯƠNG
VI:
LINH-MỤC
TRẦN HỮU THANH
&
TỔNG-GIÁM-MỤC
NGUYỄN VĂN THUẬN
NÓI
GÌ VỀ VỤ NÀY?
I/
TIỀN-ÐỀ:
Đức-Mẹ
Hiện Ra Tại La-Vang Vào Lúc Nào,
Trong
Hoàn-cảnh Nào?
A)
TÀI-LIỆU:
1- Theo L'Osservatore
Romano, “tháng 8-1798, triều-thần của vua
Cảnh-Thịnh (Tây-Sơn) ra lệnh đàn-áp Ky Tô Giáo.
Giáo-dân
cùng với gia-đình chạy trốn vào rừng La Vang...
Một hôm, Đức Mẹ hiện ra.”
2- Theo Nguyễn Lý Tưởng,
“vua Cảnh-Thịnh đã ra mật-lệnh cho các địa-phương
hẹn đến tháng 5-1798 sẽ bắt và giết
tất cả giáo-dân cũng như linh-mục, không
để sót người nào... Dân theo đạo ở các
làng Trí Bưu, Thạch Hãn,
Hạnh Hoa bèn chạy vào
miền núi vùng La Vang để ẩn núp. Chính trong
thời-gian đó, Đức Mẹ đã hiện ra
với họ.”
3- Theo Trần Văn
Trí, “năm 1798, đời Cảnh-Thịnh, giáo-dân
phải trốn tránh vì những lệnh bắt giáo-sĩ,
thu ảnh-tượng, rỡ nhà thờ, đàn áp giáo-dân...
là năm Đức Mẹ hiện ra ở La
Vang.”
B)
NHẬN XÉT:
Không kể một số
chi-tiết khác
nhau, ta hãy căn-cứ vào bài thuyết-giảng
của tổng-giám-mục Nguyễn Văn Thuận tại
Anaheim Convention Center (Nam California) hôm 22-2-98 “mỗi lần Đức
Mẹ hiện ra nơi nào là để báo trước
một biến-cố sắp-sửa xảy đến cho
nhân-loại” để hiểu
ý của ông rằng:
ĐỨC-MẸ
HIỆN RA TẠI
LA-VANG
VÀO THÁNG 8-1798
DƯỚI
TRIỀU VUA CẢNH-THỊNH
LÀ LÚC
GIÁO-DÂN
VIỆT NAM SẮP (CHƯA) BỊ ĐÀN-ÁP KHỐC-LIỆT.
Đó
là Chính-Đề.
II/
PHẢN-ÐỀ:
Quan-Điểm
Của Linh-Mục Trần Hữu Thanh
Báo “Mẹ Việt-Nam”, số 102 ra ngày 15-8-98, có
đăng bài “Thử Xác-Định Thời-Điểm
Và Hoàn-Cảnh Sự Việc Đức Mẹ Hiện Ra
Ở La Vang” của linh-mục Trần Hữu
Thanh, trong
đó có đoạn:
Ba anh em Tây Sơn
biết rõ Đức Giám-Mục Pigneau ủng-hộ
Nguyễn Phúc Ánh, hại mình; và các thừa-sai,
linh-mục bản-quốc đều ngả về phía
Nguyễn Phúc Ánh; nhưng chắc-chắn là vì chính-trị
cao, không muốn gây thêm thù, và giữ tình đoàn-kết
quốc-dân, họ không ngược-đãi các
thừa-sai, trái lại còn ban cho nhiều ân-huệ (CGDT,
tr. 18,19) và để người Công-Giáo tự-do.
Mặc dù có kể
ra hai vụ cấm đạo, nhưng Lm Trần Hữu
Thanh khẳng-định rằng các anh em Tây Sơn nói
chung, vua Cảnh-Thịnh nói riêng, và đặc-biệt là
cuộc bắt-bớ đạo vào năm 1798, thật ra
không có quá ác như nhiều người nghĩ.
Bài
viết của Trần Hữu Thanh chú-trọng nghiên-cứu
phân-tích thời-điểm và hoàn-cảnh của việc
Đức Mẹ Hiện Ra Tại La Vang.
I/
THỜI-ĐIỂM:
A)
TÀI-LIỆU:
Lm Trần Hữu
Thanh viết: “Việc bố ráp ở Huế xảy ra ngày
7-8-1798. Sắc-chỉ bắt đạo được ban-hành
10 ngày sau, là vào ngày 17-8-1798. Cơn bách-hại kéo dài
độ một tháng, là từ khoảng 17-8-1798 đến
17-9-1798.”
B)
NHẬN XÉT:
Dù đã bắt
đầu viết rằng “Đức Mẹ hiện ra ngày
tháng năm nào? Không sử-sách nào ghi chép
rõ!”
linh-mục Trần Hữu Thanh vẫn kết-luận: “Như
thế ta có thể xác-định việc Đức
Mẹ hiện ra tại La Vang là vào khoảng 17-8 đến
17-9-1798. Ta không thể xác-định chính-xác hơn ngày
giờ Đức Mẹ hiện ra, nhưng xác-định
được tháng năm và khung-cảnh Đức
Mẹ hiện ra...”
Thế là linh-mục
Thanh (mặc dù "không sử sách nào ghi
chép rõ") đã xác-định được cả
thời-điểm Đức
Mẹ hiện ra (trong lúc các nhân-vật khác không xác-định
được).
II/
HOÀN-CẢNH:
A)
TÀI-LIỆU:
1- Về La Vang dưới
thời chúa Trịnh (1774-1786), linh-mục Trần Hữu
Thanh viết:
Theo các thừa-sai
viết lại, các quan cao-cấp chúa Trịnh gởi vào là
người Công Giáo, ít ra là thân-Công-Giáo, nên suốt
thời-gian này không có việc bắt đạo (CGĐT
tr. 0 và tr. 62). Chỉ có một sắc-chỉ cấm đạo
ngày 3-12-1778. Nguyên-nhân có thể do các thanh-tra Đàng Ngoài
khiển-trách các quan-chức quá dung-dưỡng người
Công Giáo. Và cũng có thể vì sự việc một tàu
nước Anh đã vào buôn bán ở Cửa Hàn, đã
bắn phá các pháo-đài của quân-đội, nên chính-quyền
tức giận đã ra lệnh cấm đạo. Vì người
thời đó đồng-hóa mọi người Âu Châu
với Công Giáo. Cả hai nguyên-do cấm đạo
đều hời-hợt, chỉ hạn-chế trong vùng
vịnh Đà Nẵng, nơi xảy ra sự việc quân
Anh bắn phá vùng quanh thị-xã Huế, và chỉ
qua-loa
trong vài ngày (CGĐT tr. 63). Ngày 8-1-1779, một năm sau, cũng
có một chỉ-thỉ cấm đạo nữa. Nhưng
người ta không áp-dụng các hình phạt của
chỉ-thị, nên các giáo-hữu vẫn sinh-hoạt như
thường (sđd 64).
Như thế thì hai cuộc bách-hại
trên không có ảnh-hưởng đến tỉnh
Quảng Trị (Tỉnh của
La Vang).
2- Về cuộc
bắt đạo chủ-chốt tại La Vang năm
1798,
Lm Thanh viết:
Ngày 7-8-1798 giữa trưa,
4 toán lính đột-nhập vào 4 họ đạo ở
thành-phố Huế. Tại họ
Phường Đúc
đã bắt được linh-mục Emmanuel Nguyễn Văn
Triệu là linh-mục hoạt-động ở Đàng Ngoài
về quê thăm mẹ (bị bắt trong cuộc bố ráp
7-8-1798, bị hành-quyết ngày 17-9-1798), và: Mười ngày
sau cuộc bố ráp đó, vua Cảnh-Thịnh đã ban-hành
một sắc-chỉ truyền phá hủy tất cả các
nhà thờ, tất cả các nhà ở của các
linh-mục và bắt tất cả những ai có thể
bắt được. Cuộc bách-hại này xảy ra
dữ-dội. Phản-ứng của Cảnh Thịnh là
phản-ứng của con người dẫy chết, và
binh-sĩ của ông cũng thấy mình tận-số nên
hung-hăng đốt-phá cướp-bóc chém-giết.
Và:
Chắc việc tàn-sát
bắt-bớ rất hung-bạo.
Nhưng phải là cơn
bắt đạo đột-ngột và ngắn ngày.
Vì
đột-ngột nên người ta chỉ lo sao tránh
mặt quan, chứ chưa phải tìm nơi định-cư
tuyệt-đối an-toàn. Vì Cổ-Vưu
chỉ xa La Vang
độ 4 cây số, nghĩa là chỉ vào sâu trong
rừng độ 3 cây số... Và cơn bắt đạo
ngắn ngủi. Vì các sự việc
kể lại chỉ
xảy ra trong vài ba tuần, một tháng.
Không thấy nói
người Công Giáo chuyển vào sâu, đi nơi khác, hay
là cố-định cuộc sống, mà
như sau đó là
trở về lại cố-hương.
B)
NHẬN XÉT:
1- Về chính-quyền
họ Trịnh ở Dinh Cát thời-gian
1774-1786,
Trần Văn
Trí đã “ghi lại những nét chính yếu góp nhặt
từ các tài-liệu đã được phổ-biến
về Đức Mẹ La-Vang” và đã viết trong bài
“Tinh-Thần La Vang” đăng trên báo “Thằng Mõ”
số 832 như sau:
Đại-tướng
Ngô Cầu được bổ vào cai-trị từ Bình
Trị Thiên vào Nam. Từ 1778-79,
nhiều giáo-dân
bị giết, ruộng đất bị chiếm đoạt,
tài-sản bị tịch-thu...
Trần Văn Trí thì
dựa vào các tài-liệu "đã được
phổ-biến" mà viết rằng có nhiều giáo-dân
trong hạt Dinh Cát (Quảng-Trị),
bị giết, trong lúc
linh-mục Trần Hữu Thanh thì dựa vào các
thừa-sai mà viết rằng trong suốt thời-gian
họ Trịnh chiếm đóng (gồm cả Quảng
Trị) không có việc bắt đạo.
2- Về cuộc bách-hại
của vua Cảnh Thịnh, Nguyễn Lý Tưởng
viết: “Năm 1797, dưới triều vua Cảnh
Thịnh, nhân khi thủy-quân của Nguyễn Phúc Ánh ra
tận cửa bể Tư Dung (Tư Hiền) của
tỉnh Thừa Thiên, một vị quan đề-nghị
bắt hết người Công Giáo và các linh-mục. Vua
Cảnh-Thịnh im lặng không trả lời nhưng sau
đó đã ra mật-lệnh hẹn đến tháng 5-1798
sẽ bắt và giết tất cả giáo-dân cũng như
linh-mục không để sót người nào.”
Trần
Văn Trí viết: “Cảnh Thịnh bắt được
một lá thư của Nguyễn Ánh gửi cho Đức
Cha Gioan Labartelle, nên nghi-ngờ Công Giáo thông-đồng
với kẻ thù của mình. Ngày 7-8-1798, vua ra lệnh
tấn-công mấy họ đạo ở Phú Xuân và
cả vùng Cổ Vưu, Quảng Trị. Cha
Emmanuel
Triệu đã ra nạp mình với quân Tây Sơn và
bị tử-hình ngày 17-9-1798.”
Như thế tức
là biến-cố 1798 đã được vua
Cảnh
Thịnh dự tính trước từ năm
1797, nhất là
sau khi (theo Trần Văn Trí) “bắt được
bức thư của Nguyễn Phúc Ánh gửi giám-mục
De Labartelle” và (theo chính Lm Thanh) “Nguyễn Phúc Ánh đem
quân ra đánh Qui Nhơn và còn ra tận
Đà Nẵng, có
giám-mục Pigneau và hoàng-tử Cảnh tháp-tùng (theo
Nguyễn Lý Tưởng: thủy-quân của Ánh đã ra
tận cửa bể Tư Hiền của tỉnh
Thừa
Thiên), chính vì thế nên Cảnh Thịnh
và triều-đình
Huế phản-ứng mạnh.”
Trong lúc đó, theo linh-mục
Trần Hữu Thanh
thì: “Ta hãy
đối-chiếu với lịch-sử, Miền Trung nói
chung và Thừa-Thiên+Quảng-Trị nói riêng, trong
khoảng từ 1750 đến 1800 là
trên dưới 100 năm
đối với thời sau 1885 để
nhận ra cơn
cấm đạo nào có những tính-cách nói trên (nghiêm-ngặt,
ác-liệt, việc
tàn-sát bắt-bớ rất hung-bạo).”
Vì chỉ chọn
khoảng từ 1750 đến 1800, mà ông tính là trên dưới
100 năm, Lm Thanh đã kể ra vài vụ cấm đạo
khác để chứng-minh rằng vụ 17-8-1798
(trước
thời Hàm-Nghi 1884) là
“chắc rất hung-bạo”, nghĩa là
“đến
nỗi Đức Mẹ phải hiện đến với
giáo-dân để an-ủi họ.”
Đây là sự
tự mâu-thuẫn lớn nhất của linh-mục
Trần Hữu Thanh, ngoài sư mâu-thuẫn với các tác-giả
khác.
a. Đã viết
“một cơn bắt đạo nghiêm-ngặt”,
“chắc việc tàn-sát bắt-bớ rất hung bạo”,
“cơn bách-hại này xảy ra dữ-dội”, thế mà
linh-mục Thanh lại viết: “Nhưng phải là cơn
bắt đạo đột-ngột và ngắn ngày.”
Nguyễn Lý Tưởng viết: “Quan thượng-thư
Hồ Công Diệu đã báo tin đó cho Đức Giám-Mục
Jean De Labartelle lúc đó đang trốn tránh ở làng
Di Luân
(Loan), xa Huế chừng 90 cây số.
Tin đó được
loan truyền ra trong giới Công Giáo và dân theo đạo
ở các làng... bèn chạy vào miền núi vùng La Vang để
ẩn núp.”
Thế thì “đột-ngột” chỗ nào?
b. Còn về
“ngắn ngày” thì Lm
Thanh viết: “cơn bắt đạo
ngắn-ngủi, các sự việc kể lại chỉ
xảy ra trong vài ba tuần, một tháng. Không thấy nói
người Công Giáo chuyển vào sâu, đi nơi khác, hay
là cố-định cuộc sống, mà như sau đó là
trở về lại cố-hương,” và giải-thích:
“dân-chúng miền Trung vẫn trung-thành với các chúa
Nguyễn, và cho Tây Sơn là loạn-quân, nên họ không
sốt-sắng gì với lệnh bắt đạo này.
Chúng
ta lại thấy các người lương-dân
giao-tiếp với người Công Giáo tị-nạn cách
bình-thường, không dọa-nạt hay dò-xét để
tố-cáo họ, bắt họ nộp cho quan để
lấy thưởng.”
Vậy thì có gì là tính-cách “nghiêm-ngặt,
hung-bạo, dữ-dội” của biến-cố
này?
Linh-mục Trần
Hữu Thanh, vì muốn chứng-tỏ là Ky Tô Giáo tốt
đẹp, được lòng đồng-bào bên lương,
triều-đình Cảnh-Thịnh phi-nghĩa nên không
được dân tuân theo... nên đã làm phai loãng mất
hoàn-cảnh và ý-nghĩa thích-đáng của việc "Đức
Mẹ hiện ra".
*
Trở lại
với câu nói của giáo-hoàng John Paul II, rằng
Ky Tô Giáo
đã bị bách-hại trong suốt 300 năm truyền-giáo
tại Việt Nam, ta hãy làm cùng một việc với
linh-mục Trần Hữu Thanh, là “thử xác-định
thời-điểm và hoàn-cảnh” của mỗi
sự-việc để nhận ra cơn bắt đạo
nào trong 300 năm ấy là thật-sự ngặt-nghèo.
Theo Nguyễn Văn
Thông trong bài “Sự-Kiện La Vang: Trang Sử Tử-Đạo”
thì: “Vua Hàm-Nghi (1884-1885) khai-sinh phong-trào
Cần Vương.
Trong cả giáo-phận Tây Đàng Ngoài có 3 linh-mục, 25
chủng-sinh và thầy-giảng, và hàng trăm bổn-đạo
bị giết, 107 họ đạo bị phá hủy. Tại
Nghệ-An... đã có khoảng 4.500 bổn-đạo
bị giết và 300 họ đạo bị phá hủy.
Ở Bình-Chính, chúng đã đốt phá 59 họ đạo,
giết khoảng 600 người. Ở Thanh-Hóa, có đến
độ 100 họ đạo bị tàn-phá. Ở Hà-Tĩnh
có đến 6.000 giáo-dân chết vì giặc. Ở
Quảng-Ngãi, Cần-Vương giết 3 thừa-sai, đốt-phá
100 họ đạo, giết hơn 6.000 giáo-dân. Ở
Bình-Định
cũng 3 thừa-sai bị giết, 150 họ đạo
bị đốt phá. Giáo-phận Qui Nhơn có 24.298 giáo-dân,
bị Cần-Vương tàn-sát chỉ còn lại
khoảng 20.000 người. Làng Dương-Lộc bị tàn-sát
tập-thể, khoảng 4 linh-mục, 50 nữ-tu, và
khoảng 2.500 giáo-dân...”
Như
thế, so với những
thời-điểm và hoàn-cảnh này thì La Vang
(1798) đâu đã
thấm gì? Vậy là La Vang chưa phải là vụ bức-hại
giáo-dân khốc-liệt nhất tại Việt-Nam:
ĐỨC-MẸ
ĐÃ KHÔNG HIỆN RA (NẾU CÓ)
ĐỂ
AN-ỦI, CHE-CHỞ GIÁO-DÂN LÚC ĐÓ
MÀ
LÀ ĐỂ BÁO TRƯỚC NHỮNG HOÀN-CẢNH
BI-THIẾT
HƠN, SẼ XẢY SAU VỤ LA-VANG
Đó
là Phản-Đề (theo Linh-Mục Trần Hữu
Thanh):
CƠN
BẮT ĐẠO TẠI LA-VANG NĂM 1798
CHỈ
LÀ MỘT CUỘC BỐ RÁP NGẮN-NGỦI,
GIÁO-DÂN
SAU ĐÓ AN-TOÀN
TRỞ
VỀ LẠI CỐ-HƯƠNG
III/
TỔNG-HỢP-ÐỀ:
Tin
ai bây giờ?
Linh-mục Trần
Hữu Thanh là một nhân-vật Ky-Tô-Giáo quan-trọng
nổi bật từ thời Đệ-Nhất Cộng-Hòa
của Miền Nam. Ông được xem là "ngôn-sứ"
của “chủ-nghĩa nhân-vị” vốn là xương
sống của đời sống chính-trị và ý-thức-hệ
của cố tổng-thống Ngô Đình Diệm.
Ông là Giám-Đốc Trường
"Nhân-Vị", nơi mà
các viên-chức cao-cấp dưới thời Đệ-Nhất Cộng-Hòa đều phải
đến học.
Ðối với đa-số giáo-dân dưới thời Ðệ-Nhị Cộng-Hòa, ông
là linh-hồn của phong-trào và các nỗ-lực nhằm lật đổ tổng-thống
Nguyễn Văn Thiệu, nên lời ông nói và bài ông viết
có trọng-lượng hơn
các giáo-sĩ khác.
Ngoài ra, sau quốc-nạn 30-4-1975, tổng-giám-mục (sau này là hồng-y)
Nguyễn
Văn Thuận được xem như là cái phao tôn-giáo và chính-trị cho
một số
đông người đắm tàu.
Theo lời ông giảng thì Ðức Mẹ "hiện ra" tại
La Vang
(1798) không phải là để an-ủi hay che-chở cho các giáo-dân ngay
trong thời-điểm ấy, vì cuộc bắt đạo đã bắt đầu
rồi, họ đã chạy trốn vào La Vang rồi, và họ đã van vái hằng
ngày một thời-gian rồi, rồi Bà linh-thiêng mới hiện
ra (tham-chiếu "L'Osservatore
Romano" ngày 12-8-1998, Trần
Văn Trí trên "Thằng
Mõ" ngày 28-3-1998, Nguyễn
Lý Tưởng trên "Mẹ
Việt-Nam" ngày 15-8-1998, v.v...), mà là để báo trước một biến-cố (hẳn
là phong-trào Cần-Vương)
sắp-sửa xảy đến cho nhân-loại (giáo-dân Việt-Nam),
bắt đầu từ
khi vua Hàm-Nghi lên ngôi (1884-1885), tức
sẽ xảy đến trong hơn 86 năm về sau.
Xin để tùy mỗi người tự rút ra từ đó một Tổng-Hợp-Đề.
CHƯƠNG
VII:
TẢN-MẠN NGOÀI LỀ
LỜI
NÓI ĐẦU:
Qua 6 Phần trên, chúng
tôi
chỉ trích-dẫn các đoạn chủ-yếu trong những bài viết tiêu-biểu của các
nhân-vật tên-tuổi Ky-Tô-Giáo, Việt-Nam lẫn
ngoại-quốc.
Chính các tu-sĩ,
trí-thức, và văn-nghệ-sĩ
Ky-Tô-Giáo viết
ra, chứ không phải
do chúng tôi viết
ra. Chúng tôi
chỉ gom góp lại,
trích nêu những đoạn
quan-trọng và nổi
bật nhất, đối-chiếu
với nhau, để mọi
người có một
nhận-định chung,
hầu tìm ra Sự
Thật.
Chính họ cho thấy:
Tại
sao giáo-dân các làng Thạch
Hãn, Ba Trừ và
Cổ Thành, sau khi
cư-dân La Vang
đã cùng nhau van vái
Bà Linh-Thiêng
bên gốc cây đa
ròng-rã
hơn 20 năm
(1798-1820)
lại đã
cùng nhau xây chùa, còn gọi là
chùa Ba Làng (dù gọi là miếu
thì cũng không phải là đền
thờ Ky Tô Giáo) ngay tại La Vang,
là nơi mà họ (và cha mẹ họ) đã đến
tị-nạn Cảnh Thịnh
bắt đạo, và là nơi mà Đức Mẹ
sau đó mới được
đồn là đã hiện ra
để an-ủi che-chở họ trong cơn
giáo-nạn ấy?
Tại
sao Đức Mẹ được
đồn là đã hiện ra từ năm 1798, mà
mãi đến năm 1885,
tức 87 năm
sau, các cụ
sắp chết mới bị
bắt phải thề là đã có nghe
lời đồn như thế
(có
nghe
mới được
lên thiên-đàng)
để họ
buộc lòng phải trả lời là “có”?
Tại
sao,
trong lúc
các vụ hiện ra,
tại Lourdes
ở
Pháp
năm 1858 và
tại Fatima
ở
Bồ-Đào-Nha
năm 1917, đã
được
Tòa Thánh công-nhận
trong
vòng
từ 4 năm đến
13 năm thôi,
thì tiếng trả lời "Có" ấy đã
được ghi vào hồ-sơ rồi, mà Tòa Thánh
Vatican
phải đợi đến năm 1961 (hơn
160 năm, sau năm cho là có sự
"hiện ra"; ngót
140 năm,
sau năm giáo-dân nghe đồn về vụ
"hiện ra";
gần 80 năm, sau năm các cụ sắp chết bị
bắt phải thề là có nghe lời đồn),
nhất là sau
khi anh em Ngô Đình Diệm+Ngô Đình Thục đã
nắm trọn chính-quyền và giáo-quyền tại
Việt Nam rồi, mới xức dầu thánh và nâng
La Vang
lên hàng tiểu-vương-cung thánh-đường?
Tại
sao các giám-mục
tại Việt-Nam (nếu chỉ biết lo việc đạo;
nếu thật “công chính”, không làm công-cụ cho các
thế-lực chính-trị), mặc dù đã được
thoải-mái hoạt-động từ ngày thực-dân Pháp
đến đô-hộ Việt-Nam vào năm 1884
(tức 77 năm
trước đó), mà cũng
phải đợi đến thời
Đệ Nhất Cộng
Hòa (1961) mới nhận
nó là Trung-Tâm Thánh-Mẫu Toàn-Quốc?
Câu
trả lời đã được Tòa Thánh
Vatican
đưa ra, qua tuần-báo L'OSSERVATORE
ROMANO, là tiếng nói
chính-thức và có thẩm-quyền nhất của
Giáo-Hoàng và
giáo-triều
Ky-Tô-Giáo La Mã (xin xem
Phần VIII):
Hiện nay không có tài-liệu viết nào lưu-trữ
về các lần Đức Mẹ hiện ra tại La
Vang.
Thế thì tại sao Tòa Thánh lại nâng nhà thờ
La Vang lên hàng
Tiểu-Vưong-Cung Thánh-Đường?
Một trong các điều
răn của Đức Chúa Trời là không được làm chứng dối.
Phải chăng Đức Giáo Hoàng cũng đồng lõa với các nhân-vật kia để
làm chứng dối (tức chống Chúa=anti-Christ)?
Trong lúc chờ-đợi
Đức Giáo-Hoàng
John Paul II lên tiếng, như Ngài đã
từng nhìn-nhận những sai-lầm khác của Giáo-Hội
trong quá-khứ, chúng tôi xin trích đăng thêm vài ý-kiến ngoài
lề để rộng đường dư-luận:
I/
Ai Có Thẩm-Quyền Chỉ-Định Vị-Trí
Cho Đức
Mẹ Trên Thiên-Đường?
Báo “Chính-Nghĩa”
(554 S 9th St., San Jose, CA 95112, USA), số 439 ra ngày 12-9-98, có
đăng bài “Đức Mẹ La Vang Được Tôn
Vinh Giữa Lòng Giáo-Hội Hoa Kỳ” của linh-mục
Trần Quý Thiện và tiến-sĩ Trần An Bài, trong đó có đoạn:
Phần thánh-ca trong
đại-lễ này do một ca đoàn tổng-hợp...
đặt dưới sự điều-khiển của
Linh-Mục
Dao Kim và Sơ Mỹ-Hằng...
Và Người Nữ đã
được Thiên Chúa cất nhắc lên ngôi vị vô cùng
sang trọng như một Hoàng Hậu. Đó chính là Đức
Trinh Nữ Maria, Người đã hiện ra tại
La Vang
thuộc tỉnh Quảng Trị, Việt
Nam, cách đây
200 năm. Lm Dao Kim đã phổ nhạc vào bài Thánh
Vịnh số 45 “Hoàng Hậu Đứng Bên Hữu Đức
Vua...
Cứ theo Thánh-Kinh thì trên
thiên-đình có rất nhiều ngôi
vua:
Trước
hết, về vua:
theo các Sách, như Jeremiah
(10:10),
Zechariah
(14:9),
1 Timothy
(1:17),
Revelation
(19:16),
v.v..., thì Đức Giê-Hô-Va
là Đức Chúa Cha, là vua
chính.
Về
ngôi:
theo Sách Acts
(2:34),
thì có Đức Jesus
Christ là Đức
Chúa Con ngồi bên hữu của Đức Chúa Cha;
theo Sách Revelation
(3:21),
thì có Đức Thánh-Linh
cùng ngồi
với Đức Chúa Cha trên ngôi của Ngài.
Trong lúc đó, theo sách Matthew
(19:28)
thì Đức
Jesus
đã nói với tiên-tri
Peter:
“các ngươi là kẻ đã theo ta, cũng sẽ
ngồi trên 12
ngôi...”; theo
sách Revelation
(4:2,3,4)
thì tiên-tri John đã thấy có 24 trưởng lão mặc
áo trắng và đội mũ triều-thiên vàng ngồi
trên 24 ngôi
xung quanh ngôi của Đức Chúa Trời; và cũng theo
Sách Revelation
(3:21)
thì Đức Thánh
Linh có nói
rằng “Kẻ
nào thắng
(ý nói thắng Satan), ta sẽ cho ngồi
với ta trên ngôi,
như chính ta đã thắng và ngồi
với Cha ta trên ngôi của Ngài”.
Về
vị-thế
khi ngự trên ngôi: theo các
Sách Psalms
(29:10;
110:1),
Matthew
(19:28),
Acts
(2:34),
Revelation
(3:21;
4:2,3,4)
thì Đức Chúa
Con ngồi,
Đức Thánh
Linh ngồi, 12
sứ-đồ ngồi,
24 trưởng
lão ngồi, và
bất cứ
kẻ nào thắng
kẻ thù của Chúa cũng
sẽ ngồi
(trên ngôi của Chúa, xung quanh ngôi của
Chúa).
Tôi
không dám có ý-kiến về việc
Đức
Mẹ lên Thiên Đình, mà lại đứng
(chứ không được ngồi) bên
hữu của Đức
Giê-Su con
mình!
II/
Giáo-Hoàng John Paul II Đã Nói Gì
Về Đức Mẹ
Maria?
Đây là một
đoạn trích trong báo “The WatchTower”
(Tháp Canh) của
Giáo-Hội “Jehovah's Witnesses” (25 Columbia Heights, Brooklyn, NY 11201-2483, USA),
số phát-hành ngày 1-8-98:
Theo tờ báo của
Tòa Vatican L'Osservatore Romano, giáo-lý Công-Giáo về Sự Thăng-Thiên
phát-biểu: “Đức Trinh-Nữ Vô-Nhiễm Nguyên-Tội,
được gìn giữ khỏi mọi dấu vết
của tội-lỗi nguyên-thủy, được mang vào
sự vinh-hiển trên trời với cả xác lẫn
hồn, khi đời sống của bà trên đất
chấm dứt.” Báo này nói rằng giáo-lý này đã
khiến một số nhà thần-học Công Giáo cho
rằng Ma-Ri “không chết và được mang ngay vào
sự vinh-hiển trên trời từ đời sống trên
đất.”
Gần đây, Giáo
Hoàng Gioan Phao-Lồ II có quan-điểm khác về vấn-đề
này. Trong buổi Tổng Tiếp-Kiến tại Tòa
Vatican vào
ngày 25-6-1997, ông nói: “Tân Ước không nói gì về hoàn-cảnh
khi Ma-Ri chết. Sự-kiện này khiến ta cho rằng
đó là cái chết tự-nhiên, không có chi-tiết nào
đặc-biệt đáng đề-cập... Những ý-kiến
cho rằng bà không chết vì nguyên-nhân tự-nhiên dường
như vô căn-cứ.”
Lời phát-biểu
của Giáo-Hoàng Gioan Phao-Lồ để lộ
một
khiếm-khuyết nghiêm-trọng
trong giáo-điều
về sự Vô Nhiễm Nguyên Tội.
Nếu mẹ
của Chúa Giê-Su “được gìn giữ khỏi
mọi dấu vết của tội-lỗi nguyên-thủy”,
thì sao Ma-Ri lại chết vì “các nguyên-nhân tự-nhiên”,
là hậu-quả của tội-lỗi A Đam truyền
lại? (Rô-Ma 5:12).
Sở-dĩ có vấn-đề
thần-học nan-giải này là vì Giáo-Hội Công Giáo có
quan-điểm lệch-lạc về mẹ của Chúa Giê-Su.
Thảo nào mà đã có sự chia-rẽ và rối-rắm
trong Giáo-Hội Công Giáo về vấn-đề trên.
Tuy mô-tả Ma-Ri là
một người khiêm-nhường, trung-thành và ngoan-đạo,
Kinh Thánh không nâng cao các đức-tính này lên hàng “vô-nhiễm
nguyên-tội”
(Lu-Ca 1:38; Công-Vụ Các Sứ-Đồ
1:13, 14).
Kinh Thánh chỉ nói: “Mọi người đều
đã phạm tội, thiếu mất sự vinh-hiển
của Đức Chúa Trời” (Rô-Ma
3:23). Vâng, Ma-Ri
thừa-kế tội-lỗi và sự bất-toàn như
mọi người khác trong nhân-loại, và không có
mảy-may bằng-chứng nào cho thấy
Ma-Ri
chết vì
bất-cứ nguyên-nhân nào khác ngoài nguyên-nhân tự-nhiên
(xác còn dưới đất). (So-sánh 1 Giăng
1:8-10).
California,
Hoa-Kỳ, Mùa Thu 1998
ĐỨC CỐ
LÊ
Chú
Thích:
Xin mời quý vị xem tiếp Phần
VIII là phần cuối, giới thiệu bài báo
kết-luận về vấn-đề
Đức Mẹ La
Vang đăng trên tuần-báo L'Osservatore Romano
của
Giáo-Hoàng và giáo-triều
Vatican.
Tuần-báo
L'Osservatore Romano
Tất
cả các tin-tức và sự-kiện liên-quan đến Ðức Giáo-Hoàng.
Tuần-báo
này là tiếng nói chính-thức
của
Tòa Thánh Vatican
The
Catholic Review: L'Osservatore Romano
- Now you can be connected to all
papal news and events with a
subscription to L'OSSERVATORE ROMANO,
the official voice of the Holy See.
...
http://www.catholicreview.org/pages/lor/lor.htm
http://www.catholicreview.org/pages/lor/lor.htm
Now you can be connected to all papal news and events with a subscription to L'OSSERVATORE ROMANO, the official voice of the Holy See. L'OSSERVATORE ROMANO is the leading and most authoritative and comprehensive source for papal writings and activities. No other newspaper in the world delivers the messages of the Holy Father directly to you. |
Tuần-báo
này là xuất-xứ hàng đầu,
có
thẩm-quyền nhất và toàn-diện nhất,
của
các bài viết và hoạt-động của Ðức Giáo-Hoàng
Ðây
là trang 3
Ấn-bản
tiếng Anh của L'Osservatore Romano
số
32/33 (hai số gộp môt) tuần-lễ 12/19 August 1998
nhằm
vào thời-điểm kỷ-niệm 200 năm Đức Mẹ La Vang
vào
tháng 8 năm 1998
Chúng
tôi
đóng khung và phóng lớn đoạn văn liên-hệ
của
bài viết, để
quý vị đọc rõ đoạn văn nói trên
Unfortunately,
there is no written documentation of
these
apparitions: such documents were perhaps
kept
in the Hué church archives, which were
destroyed
during two local wars:
in
1833, under King Minh Mang,
and
in 1861 in the reign of King Tuduc.
Tiếc
thay, không có văn-bản tài-liệu nào
chứng-minh
cho các lần (Đức Me) hiện ra (tại La Vang):
các
tài-liệu ấy có
lẽ được
lưu trong văn-khố
của
nhà thờ ở Huế, và đã bị tiêu-hủy
trong
hai cuộc chiến tại địa-phưong:
vào
năm 1833 dưới triều Minh Mạng, và
vào
năm 1861 dưới triều Tự Đức.
và
xem thêm:
http://www.miraclehunter.com/marian_apparitions/statements/lavang_statement_01.html
Xin đọc bản Anh ngữ
Xin đọc bản Anh ngữ
The truth about
"
No comments:
Post a Comment