Sao Hôm, Sao Mai
VƯƠNG MỘNG LONG
Giữa tháng Tư 1974, một trận đánh vô cùng ác liệt và đẫm máu đã xảy ra bên
dòng suối Mé (Ia Mé), cách Pleiku 30 cây số về hướng Tây Nam. Trong hai
ngày 14 & 15 tháng Tư 1974, Tiểu đoàn 82 /BĐQ/QLVNCH bị hai Trung
đoàn 48/SĐ320 & 64/SĐ320/CSBV xa luân chiến, tấn công bằng chiến
thuật biển người. Sau những cơn mưa pháo là những đợt xung phong. Cuối
cùng, địch đã dùng tới thủ pháo chứa hơi ngạt để dứt điểm. Trưa 15 tháng
Tư 1974 Cộng Quân tràn ngập căn cứ hỏa lực 711.
Dù bị đánh văng ra khỏi căn cứ, Tiểu đoàn 82/BĐQ vẫn không bỏ chạy khỏi
vùng. Gần hai trăm chiến sĩ bị thương nặng, nhẹ đã từ chối tản thương,
họ đã đâu lưng cùng
nhau bám đất, chờ tiếp tế đạn để phản công. Rồi hai ngày sau, với sự hỗ
trợ của một tiểu đoàn bộ binh, Tiểu đoàn 82/ BĐQ trừ (-) đã trở lại trận
địa để đánh một cú hồi mã cực kỳ dũng mãnh. Dạ chiến là sở trường của
Biệt Động Quân Plei-Me, vì thế, chỉ sau hai đêm, lực lượng Cộng Sản bám
trụ đã bị đánh bật ra khỏi vị trí cố thủ. Chiến dịch kết thúc với tổn
thất nặng nề của cả đôi bên, ta và địch. Thiệt hại phía ta là trên 50
quân tử trận. Thiệt hại phía địch là trên 200 quân bị giết (trong đó có
một thượng tá). Từ đó, căn cứ hỏa lực 711 được gọi kèm thêm cái tên “Đồi
Thịt Bằm”. Trận chiến qua nhanh như mưa bóng mây, nhưng mãnh liệt như
một cơn dông mùa hè.
Địch
thủ của tôi, những người chỉ huy tác chiến của Sư đoàn 320/ Điện-Biên,
cũng là những tay dày dạn kinh nghiệm trận mạc. Họ rất tinh khôn, và
không kém can trường,
liều lĩnh. Trong thời gian này, có một mẫu điện đàm của địch lọt vào
đài kiểm thính của ta, trong đó, chính ủy Sư-Đoàn 320/Điện-Biên, đã cảnh
giác các đơn vị dưới quyền, “Phải tránh né tối đa mọi đụng độ trực tiếp
với thằng Hai Nâu”. Phòng 7 giải mã, cho tôi biết địch gọi TĐ82/BĐQ là
“Thằng Hai Nâu”.
Một ngày, giữa tháng Sáu 1974, trong khi tôi cùng hai đại đội đang lục
soát vùng Nam núi Chư Gô thì được thông báo cái điện thứ nhì, “Thằng Hai Nâu
đang hoạt động dã ngoại, phải khẩn trương bôn tập, đánh tiêu hao nó…”
điện văn này của Bộ Tư Lệnh SĐ320/CSBV ra lệnh cho Trung đoàn 48/SĐ320.
Sáng sớm hôm sau, từ đỉnh núi cao, qua ống
nhòm, tôi thấy rõ những vệt cỏ tranh trên những ngọn đồi hướng Bắc Chư
Gô rạp xuống như những luống
cày. Hình như trong đêm, cả trăm người đã đạp trên cỏ để tiến về suối Lé
(Ia Glaé). Suối Lé chạy dài từ Đông Bắc xuống Tây Nam, sát chân núi
Chư-Gô. Con suối này cắt ngang trục tiến trên phóng đồ hành quân của
tôi.
Tôi ra lệnh cho Đại úy Quách cơ Bình (k22 A) đang là tiểu đoàn phó
giữ trại, đóng chặt cổng rào, nội bất xuất, ngoại bất nhập. Suốt ngày
hôm đó, tôi đã dội hàng trăm quả cối 4.2
(106 ly) và đại bác 105 ly trên những hàng cây gai xanh bên bờ con suối.
Quân dã ngoại của tôi ém trong
núi, không lửa khói, chịu đói. Rồi trong đêm, lợi dụng bóng tối, im
lặng vô tuyến, theo đường tắt, tôi rút êm.
Về tới cổng Nam trại Plei-Me tôi mới lên máy gọi chú Bình. Chỉ chừng
mười phút sau cú điện đàm giữa tôi và Đại úy Bình, thì từ biên giới
Miên, địch đã nã khoảng hai trăm
trái đại bác vào trại. Từ vài năm nay, hầu như tất cả điện đàm vô tuyến
của ta đều bị địch nghe trộm. Âm mưu của địch đã bị ta phát giác, cú
đánh tiêu hao không xảy ra. Hụt ăn, địch gỡ gạc! Vụ pháo kích gây cho
hai căn nhà tôle bị sập, và một binh nhì gốc Chợ Lớn bị tử thương.
Rồi tình hình lại yên…
Cuối tháng Sáu có tin mật báo, một cấp chỉ huy Cộng Sản chiều chiều cưỡi
ngựa, thám sát khu ngã ba làng Xổm (Plei Xôme). Làng Xổm nằm về hướng
Bắc, dưới chân ngọn núi lửa, cách Plei-Me chừng bảy cây số. Làng này đã
bị bỏ hoang từ lâu. Trên bản đồ hành quân, làng Xổm nằm sát ranh giới
hoạt động của Trung đoàn 42/ Bộ Binh trừ (-) và Tiểu đoàn 82/ Biệt động
Quân. Trung tá Nguyễn thanh Danh (k19 VB) trung đoàn phó Trung đoàn 42/
Bộ Binh đang chỉ huy cánh quân bộ binh. Tôi muốn đích thân giăng bẫy hạ
thằng Việt Cộng gộc này. Sợ khi đụng trận, bắn nhầm quân bạn, tôi muốn
anh Danh chia cho tôi thêm một cây số trách nhiệm về hướng Bắc.
Chuyện không thể nói trên vô tuyến, vì vậy tôi phải lái xe ra căn cứ 711 gặp
mặt Trung tá Danh.
Tại căn cứ hỏa lực 711, Trung tá Danh đi vắng, nhưng
may mắn, tôi đã gặp Đại tá Nguyễn hữu Thông (k16VB) trung đoàn trưởng
Trung đoàn 42 /SĐ22 Bộ Binh đang có mặt. Tiểu đoàn tôi nằm dưới quyền
giám sát hành quân của Niên trưởng Thông.Niên trưởng Thông hỏi:
- Danh nó về Pleiku, mai mới vô. Cần gì vậy em?
Đứng trước tấm bản đồ hành quân, tôi kể cho Niên trưởng Thông nghe tin tức
địch tôi vừa nhận được, và ý đồ hành động của tôi, rồi đề nghị:
- Niên trưởng nới thêm cho tôi một click về Bắc, để tôi dễ bề xoay trở.
Đại tá Thông đồng ý ngay:
- Okay, Làm đi! Chắc tên Vi-Xi này tới số nên mới gặp chú…Chuyến làm ăn dự trù này của tôi bị khựng lại vài ngày vì chú Quách cơ Bình (TĐ Phó) được lệnh thuyên chuyển về nguyên quán. Trong khi chờ một vị tiểu đoàn phó mới tới bổ sung, tôi đem Đại úy Bá, sĩ quan chỉ huy hậu cứ tiểu đoàn vào giữ đồn Plei-Me trong lúc tôi xuất trại. Toán viễn thám của Trung sĩ Nguyễn Chi và toán cận vệ của Hạ sĩ Nguyễn Ba sẽ tháp tùng tôi vào vùng. Lực lượng an ninh ban đầu để tôi thiết lập vị trí là Đại đội 1/82.
Khi tôi đã hoàn tất tổ chức địa thế, lực lượng này sẽ rút lui
theo đường tắt để về phòng thủ trại. Lực lượng trừ bị cho tôi là Đại đội
3/82 của Thiếu úy Phạm đại Việt, sẽ án binh trong khu suối đá, bốn cây
số hướng Tây Bắc Plei-Me. Tôi đã dự trù mọi phản ứng thích nghi nếu có
bất cứ trục trặc nào xảy ra bất ngờ. Trừ sáu người đi theo tôi trong
chuyến làm ăn này, những quân nhân còn lại trong đơn vị hoàn toàn không
biết thầy trò tôi đi đâu. Trên tần số, không ai được phép đả động tới
việc tôi xuất trại.
Tôi chọn “Vùng làm ăn” trên đoạn đường xe be cách ngã ba Tỉnh lộ 6C làng
Xổm chừng một trăm mét. Hai bên bìa rừng của đoạn đường này không bị
khai quang như hai bên lề Tỉnh lộ 6C. Cây rừng chen chúc nhau, lau lách
um tùm, khu này rất thuận lợi cho một cuộc bố quân phục kích. Mờ sáng
hai quả Claymore đã gài xong. Hướng nổ của hai quả mìn đánh chéo nhau
thành hình chữ “W”. Bụi lau nơi mô đất giữa đường là điểm mốc. Hai lằn
đạn chì của Claymore sẽ giao nhau chỗ này. Tử địa chỉ dài chừng năm chục
mét thôi, nhưng con mồi nào lọt vào tử địa là coi như Diêm Vương đã
gọi.
Ngày thứ nhứt trôi qua, vô sự. Ngày thứ nhì trôi qua, vô sự. Ngày
thứ ba, vào lúc mặt trời đứng bóng giữa đỉnh đầu… Binh nhứt Y Huynh nói
nhỏ vào tai tôi:
- Thiếu tá! Có tiếng xe!
- Tao có nghe gì đâu?
Tôi quay sang hỏi chú Chi:
- Ê! Chi! Có nghe tiếng gì không?
Trung sĩ Chi nghiêng tai lắng nghe một lúc, rồi lắc đầu:
- Dạ không. Em không nghe gì cả!…
Lúc sau, thằng Y Huynh vừa giựt vạt áo tôi, vừa càu nhàu:
- Em nghe rõ có tiếng máy xe mà ông thiếu tá! Đó! Đó! Nghe rõ chưa?
- Ừ! Tai thằng này thính thiệt. Có tiếng xe xa lắm…
Rừng già xanh rì trải dài mênh mông. Trong gió, từ hướng Tây, phía làng Gà
(PLei Bon Ga) có tiếng xe rồ máy. Tôi leo lên một ụ đất cao ngỏng cổ
quan sát. Từ xa, từng cụm khói xe phun lên khỏi đọt cây.
Chim rừng hoảng
hốt vụt lên không mỗi khi đoàn xe sắp tới gần nơi chúng kiếm ăn. Đoàn
cơ giới đang tiến về phía chúng tôi, tiếng động cơ rõ dần, gằn từng cơn,
như tiếng xe tank, ít nhứt cũng cỡ năm bảy chiếc.
Tôi ghé tai chú Chi
và chú Ba ra lệnh:
- Chuẩn bị đánh tank! Đánh gục chiếc đầu. Xong là rút liền!
Chúng tôi cấp tốc chuyển địa bàn phục kích về hướng đầu con dốc ngược trên
đoạn đường xẻ ngang một ngọn đồi nhỏ. Con đường độc đạo chạy giữa hai bờ
đất cao bốn, năm thước.
Bảy Biệt Động Quân, bố trí trên bìa đường, dòm
xuống. Tôi tin tưởng rằng, với hai ống M72 và hơn chục quả lựu đạn vừa
miểng, vừa lân tinh, thế nào tụi tôi cũng “thịt” được một chiếc tank đi
ngù ngờ dưới kia (!) Chúng tôi nín thở, nép mình trong cỏ, đợi chờ…
Tiếng động cơ đã gầm gừ dưới chân dốc. “Ỉm! Ỉm!…ì…ì…ì. ..Ỉm!…” đoàn xe
rồ máy lấy đà leo lên. Thời nhảy toán trong Plei-Trap Valley (1972) tôi
đã có dịp nghe tank địch chạy sát bên mình vài lần. Ngoài tiếng động cơ
gằn từng cơn, tank di chuyển còn gây tiếng “két! két!” của xích sắt khi
móc xích bám vào guồng quay.
Lần này, chiếc tank đang tiến tới không gây
ra tiếng “két! két!”.
Cành lá rung rinh, mặt đất cũng rung rinh khi chiếc chiến xa đầu tiên tiến
lên đỉnh dốc. Vòm tre xanh đầu dốc đang bị chẻ đôi bởi chiếc cần cẩu
trên xe đang di chuyển. Thì ra đó chỉ là một chiếc xe be! Cái cần cẩu
sơn đỏ của nó cao hơn ngọn tre, nhô lên không. Tôi vội nắm sợi dây ba
chạc của chú Chi, ra dấu cho chú đừng phóng viên M72 đi. Dưới đường,
chiếc xe be thứ nhứt rồ máy liên tục để lấy đà, kéo chiếc thứ nhì sau
lưng.
Vì phải kéo một sức nặng gấp đôi, nên động cơ xe gầm rú dữ dội.
Mới nghe, ngỡ tiếng máy xe tank. Chúng tôi thở phào, nhẹ nhõm. Thoáng
chốc, đoàn xe be năm chiếc theo nhau qua con dốc. Chú Ba lầm bầm:
- Đồ phá thối!
Thấy công việc làm ăn không thuận lợi, tôi cho lệnh cuốn gói. Theo đường
tắt, chúng tôi rút về tiền đồn Bắc của trại. Khoảng bốn giờ chiều, toán
canh gác báo động xa trên Tỉnh lộ 6C cách trại hai cây số báo cáo có
mười hai người dân khai thác lâm sản xin vào trại tá túc vì xe be của họ
bị hư không thể chạy về Pleiku.
Tôi cho lệnh toán an ninh giữ họ tại
chỗ chờ tôi xuống tiếp xúc với họ. Đám dân khai thác gỗ này gồm một phụ
nữ, một chú bé và mười đàn ông. Người thiếu phụ tuổi trên dưới ba mươi,
nhan sắc dễ coi. Mặt chị ta có một vết chàm trên má. Chị khai là chủ hai
chiếc xe be, một chiếc bị Việt Cộng bắn cháy đầu máy, phải kéo. Qua
đoạn đường đèo ngã ba làng Xổm thì chiếc xe kéo bị “lột dên” không tiếp
tục được. Họ biết đường vào Plei-Me dễ đi hơn đường ra căn cứ 711 nên
xin vào tá túc.
Tôi cho phép đoàn người làm rừng này vào đồn, tạm trú
qua đêm trong Câu Lạc Bộ tiểu đoàn.
- Tôi là người quen của Trung tá Danh… bà chủ xe be khoe với tôi.
- Tại sao xe của bà bị Việt-Cộng bắn? Bộ bà không đóng thuế cho Cộng Sản à?
Hai tuần nay họ ra lệnh cấm xe be vào khu vực quanh Ia-Drang. Vi phạm
lệnh cấm là họ bắn.Tụi tui không rõ lệnh này, nên họ bắn bể két nước
chiếc xe đi đầu. Tha cho những chiếc chạy sau, rồi đuổi chúng tôi về.
- A ra thế!
Tôi hỏi chuyện những người thợ rừng về tin tức địch, nhưng họ cũng không
biết gì hơn. Tôi vào máy, gọi Trung tá Danh, báo cho anh biết tin tức
người quen của anh đang tá túc trong trại Plei-Me, sáng mai đoàn xe của
họ sẽ dắt dìu nhau về qua căn cứ 711.
Ngày kế tiếp. Mặt trời lặng lẽ nghiêng từ từ xuống rặng Chư Prong sát biên giới Việt
Miên. “Oách! Oách! Oách!… Quàng! Quàng! Quạc! …ụt! ụt! ụt!…” đàn chim
khách rời cành, vụt bay lên không. Hướng Tây, tiếng chim rộ từng chập.
Chúng tôi nín thở.
“K’rọc! …K’rọc! …”
“Hừm! …Hừm!…”
Có người đang đi tới! Nhưng tiếng động phát ra nghe lạ quá! Con cóc
Claymore trên tay tôi đã sẵn sàng. Tiếng “K’rọc!… K’rọc!…” -”Hừm!…
Hừm!…” gần hơn, tiếp đó là lạo xạo bước chân dẫm trên lá khô. Một bóng
người ngả trên đường. Cái bóng dài dần tới gần điểm mốc, ranh giới của
tử địa. “K’rọc!… K’rọc!…” -”Hừm!… Hừm!…”
Trong nắng xế tà, một người đàn ông Thượng, cởi trần, đóng khố, vuông
khăn xéo quấn trên trán, miệng phì phà ống vố, đang vô tư bước trên
đường xe be. Tay phải anh ta giữ
chuôi con dao quắm vác trên vai. Mỗi khi nuốt xong một đợt khói thuốc,
anh chàng này lại hắng giọng, “Hừm!… Hừm!…” Còn tiếng “K’rọc!… K’rọc!…”
đều đều là do con dao ngắn trong bao tre trên mông anh ta, lắc lư theo
nhịp bước.
Anh dân Thượng đủng đỉnh đi qua tử địa. Bóng anh ta mất hút
chỗ khúc quanh nơi con đường mòn nhập vào Tỉnh lộ 6C. Núi rừng lại trở
về cảnh cũ, lạnh lùng, vắng lặng. Chớm bóng chiều. Muỗi rừng “O…o…o.. .”
sau gáy. Sợ địch đánh hơi nghi ngờ, dù nằm cuối gió, chúng tôi cũng
không dám xoa thuốc chống vắt, chống muỗi. Những con muỗi quái ác, thấy
con mồi không phản ứng tự vệ, nên châm chích trên da thịt chúng tôi một
cách thoải mái. Có con bị bội thực, ễnh bụng no máu, lăn kềnh ra bò,
không bay nổi. Chúng tôi cắn răng chịu đựng nỗi ngứa dày vò, không dám
gãi, không dám đuổi xua đàn muỗi đói.
Tôi xuống ga Hàng-Cỏ vào buổi chiều. Thành phố thật rộn rịp đông vui, đầy
người qua, kẻ lại. Loa phóng thanh trên cột điện bên đường và trên cổng
vào ga đang oang oang phát đi những bài hùng ca thời chiến tranh chống
Mỹ. Tôi bước vội qua đường, vì nhìn thấy bên phải con đường đâm thẳng
vào cổng ga có cái bảng hiệu một khách sạn bình dân. Tôi vừa đặt chân
trên lề phố bên kia, một người đàn ông lớn tuổi đã đứng chờ, dơ tay
ngoắc:- Tìm nhà trọ phải không?
- Phải…
Phòng ngủ quốc doanh bẩy nghìn một đêm, nước tắm giới hạn, khổ lắm! Về nhà tôi, năm nghìn một đêm, nước nôi thả cửa…
Tôi không tin lời người đàn ông này. Tôi vào phòng ngủ quốc doanh.
- Một người, bẩy nghìn một đêm, cứ thêm một người, tính thêm ba nghìn…
Tiếp viên phòng ngủ quốc doanh cho giá cả một cách dứt khoát. Tôi bước ra cửa, người đàn ông đứng tuổi đã chờ sẵn:
- Nhà tôi đây…
Rồi ông ta chỉ cho tôi cái sạp gỗ bên phải buồng ngủ:
Chú ngủ ở đây. Cái tủ đứng có năm ngăn, ngăn thứ nhất dành cho chú,
chìa khóa nằm trong ngăn tủ, đi đâu nhớ khóa ngăn của chú lại. Tắm giặt
thì ra đằng sau nhà, có mười phòng tắm, nước chảy cả ngày. Bên khách sạn
quốc doanh không có nước phông ten, tắm theo tiêu chuẩn, một thùng hai
chục lít. Bên này, chú tắm chán thì thôi…
Ông chủ dẫn tôi ra sau nhà, nơi đây có một dãy mười phòng tắm có vòi hoa
sen tươm tất sạch sẽ. Tôi thay bộ quần áo đi đường đầy bụi bặm chuẩn bị
đi giặt. Ông chủ nhà lại ra đi. Tôi tắm giặt xong, quay về buồng thì ông
chủ cũng trở lại, theo chân ông là một khách đàn bà. Cô ta sẽ nằm trên
cái sạp đối diện với tôi. Hộc tủ thứ nhì của chiếc tủ đứng thuộc quyền
cô ta. Một cái sạp, một ngăn tủ, tắm giặt thả giàn, năm nghìn một đêm,
rẻ chán! Ông chủ nhà ngủ trên cái sạp sát tường, cách đầu giường tôi và
đầu giường cô gái một lối đi rộng hai thước. Ba cái sạp kê thành hình
chữ
- Này! Chú em nhà ở đâu mà phải ngủ ghé, không về? Ông chủ nhà gợi chuyện.
- Hải-Dương
- Hải-Dương xe chạy cả đêm, sao không về?
- Tôi có việc phải ở Hà-Nội vài ngày…- Ừ hử! Vậy chứ chú em làm nghề gì? - Buôn bán làng nhàng, theo tầu, ngược Bắc, xuôi Nam…
- Có thường ghé Sàigòn không?
- Chuyến nào mà chẳng ghé…
- Ba, bốn năm nay anh không ghé Sàigòn, bây giờ chắc đông, vui lắm nhỉ?
- Vâng, đông lắm, vui lắm… vậy chứ bác đã ở Sàigòn hở? Bác làm gì trong đó?
- Tớ dậy học. Tớ dậy Đại-Học Khoa-Học…
- Ủa! Vậy ra bác là giáo sư…
- Tớ dậy đại học từ bẩy nhăm (1975) tới tám nhăm (1985). Tám nhăm thì tớ về hiu…
- Tám nhăm, bác còn trẻ, sao về hưu sớm thế?
Về vườn thì đúng hơn. Mới giải phóng, chúng nó cần mình. Sau… chúng nó
thải mình, cho họ hàng, bà con, anh em, con cái chúng nó thay mình, kiếm
ăn…
- Bác dạy môn gì trong thời gian đó? Chắc bác có bằng cao học, hay tiến sĩ?
Bằng cấp con khỉ mốc!Tớ đang học lớp ba, chưa thi Sơ-Học Yếu-Lược
(thời Tây) thì xảy ra cách mạng. Ba mươi năm theo Đảng, vốn liếng của tớ
chỉ có mớ lý thuyết Cộng-Sản thuộc nằm lòng. Giải phóng Miền Nam xong,
Đảng ủy yêu cầu tớ dậy Lý Thuyết Đảng cho học sinh đại học. Lúc đầu tớ
cũng khớp, không dám nhận. Sau đó tớ đánh liều. Mà quả thật, có ai biết
mình là thằng dốt đâu? Mười năm, nhờ ơn Đảng, tiếng nói của một thằng i
tờ rít như tớ tự nhiên có trọng lượng… học sinh nghe theo răm rắp…
Rồi sau đó ư? Tụi nhỏ du học Liên-Xô, Tiệp-Khắc trở về. Chúng nó thay
chân những tên i tờ như tớ… tớ về hiu, xin được căn hộ này để ở. Già
rồi, không ai thèm thuê mướn, tớ đành kiếm khách lỡ độ đường, cho họ trọ
qua đêm, kiếm cơm…
- Chắc cuộc sống của bác cũng khấm khá?
- Bữa no, bù bữa đói. Mưa thuận gió hòa thì có đồng ra, đồng vào. Giông
bão vài ngày, không có khách, là meo mỏ rồi. Sung sướng gì đâu em ơi!
Tôi trải cái bản đồ thành phố Hà-Nội trên sạp, dò tìm con phố Hàng Bài. Cô khách trọ cùng phòng tò mò rướn cổ sang theo dõi,
- Tìm cái gì đấy hở?…
- Phố Hàng Bài…
- Hơi xa đấy nhá! Cứ gọi xích lô là đến ngay! Tìm làm gì cho mệt xác!
- Chú em đi buôn đường Sàigòn, Hà-Nội mà không biết phố Hàng Bài ở đâu thì có ngày lớ ngớ đem hàng nộp cho dinh Thủ-Tướng…
Tôi đành nhỏ giọng, thú thật:
- Tôi là sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, cựu tù cải tạo. Tôi ra Hà-Nội để nộp đơn đi Mỹ…
Tôi cũng đã nghi như thế, khi nghe giọng nói của chú em không còn thuần
túy Hải-Dương. Chỉ vì tôi cũng là dân Hải-Dương. Trước chú, đã có đôi
người của chế độ Sàigòn cũ ghé đây, ngủ trọ, nộp đơn, chờ ngày ra đi. Mỹ
quốc là thiên đường cho những người sa cơ, lỡ vận. Đời chú như thế là
may mắn lắm rồi…
Ông giáo sư đại học về hưu thở dài:
- Con đường của chú đi, thấy sai mà đúng. Con đường của chúng tôi đi, thấy đúng lại sai…
Đêm xuống đã lâu, phố phường bớt người qua lại, nhưng trên đài phát thanh
Hà-Nội, Tô-Lan-Phương còn đang biểu diễn bài “Cô Gái Vót Chông”. Giọng
cô Ca Sĩ Nhân Dân cao vút, nhọn hoắt như những ngọn chông tre. Những
ngọn chông tre thời chống Mỹ, từ trên cột đèn và cổng nhà ga, theo nhau
tới tấp lao vào màng nhĩ khách bộ hành. Ông chủ nhà thắp ngọn đèn dầu
đặt trên nóc tủ. Ông tắt điện, căn phòng chợt tối. Cánh cửa gỗ khép lại,
cài then.
Gỗ cửa khá dày, những ngọn chông Tô-Lan-Phương bị chặn lại
ngoài hiên.
Sau mấy ngày ngồi gật gù trên xe lửa, tôi thấy cái sạp gỗ của nhà trọ êm ái
quá. Tôi nằm duỗi thẳng cẳng để cảm thấy xương cốt mình như đang mềm
đi, đang giãn ra. Từ giường bên kia, giọng cô gái trẻ bắt đầu, “Anh ở
đầu sông, em cuối sông…” Giọng cô ta không cao vút, không nhọn hoắt,
nhưng tôi chỉ nghe được câu đầu của bài ca, hai mi mắt tôi đã sụp xuống
rồi. Một đêm qua êm đềm, không mộng mị.
Mười giờ sáng hôm sau, tôi rời phố Hàng Bài khi vừa hoàn tất việc nộp hồ sơ
xin xuất cảnh. Một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang trên ba mươi sáu phố
phường Hà-Nội.
Ở đây chỉ có những con đường nhỏ hẹp như đường phố cổ
Hội-An trong Nam. Tiếng chuông xe điện “leng keng…leng keng…” làm cho
thành phố này già nua thêm. Mặt trời đứng bóng, nắng hanh, tôi tạt về
hướng hồ Hoàn-Kiếm. Xung quanh một gốc si cổ thụ, khách quây quần bên
những gánh quà vặt, chè, thạch, óc đậu, kem quay, bánh tôm, bún chả,
cháo lòng, thịt bò khô, khoai ngô nướng, nước chè tươi…
- Chè đỗ đen đi chú em…
- Cho tôi một bát.
Bà bán hàng đang múc chè vào bát, chợt ngừng tay, reo lên:
- Ông đại tá tới rồi, chè đỗ đen nhá?
Tôi giựt mình, “Chẳng lẽ bà này quen mình, gọi đùa mình là đại tá?”
Nhưng tôi lầm, bà bán chè vừa nói với một phu xích lô mới ngừng bên lề. Trả lời bà, một giọng đàn ông oang oang:
- Bát to đấy nhá! Để lấy sức cuốc một ngày.
Vâng, bát to. Mỗi ngày một bát chè to cho ông đại tá Điện-Biên, Tây-Nguyên lấy sức đánh… xích lô.
Ông phu xích lô ghé đít xuống chiếc ghế con, chiếc ghế quá nhỏ, so với cái
mông đồ sộ của ông. Đưa tay quẹt mồ hôi trên trán, người phu xe già than
thở:
- Hôm nay ế ẩm, từ sáng tới giờ chưa được cuốc nào. Chán bỏ xừ…
- Đại tá mua gạo tháng này chưa? Dạo này tem phiếu giá chui cao quá..
Nhà này ăn đong từng ngày. Tiền đâu mà mua tem, mua phiếu…
Mẹ kiếp! Hồi
xưa đánh Tây đánh Mỹ, nó cần mình. Bây giờ hòa bình, nó đuổi mình ra,
nó ăn cả, đồ chó má!
Thấy tôi trố mắt theo dõi câu chuyện đổi trao giữa hai người, bà bán chè giải thích:
Ông đại tá một đời theo Đảng. Anh hùng Điện-Biên, Tây-Nguyên đấy! Đáng nhẽ
ra, những người có công với tổ quốc, với cách mạng như ông phải được
chiếu cố đặc biệt mới đúng. Ai đời! Anh hùng quân đội nhân dân mà sáu
chục tuổi đầu còn phải đi đạp xích lô để kiếm sống thì quả là tội nghiệp
quá!
Người phu xe già thở dài:
- Chúng nó vắt chanh bỏ vỏ. Lớp chúng tớ hết thời rồi. Bây giờ, thân tớ ví như… một vì sao rụng.
Tôi giật mình, bốn tiếng “một vì sao rụng” hình như tôi đã nghe một lần ở đâu đó, lâu rồi…
Tôi vừa nhướng mắt quan sát, vừa moi trí nhớ, xem ông già này có nét gì quen không, thì bên bờ hồ có tiếng gọi:
Xích lô!
Người phu xe chống hai tay lên đùi lấy đà, nhổm dậy thật nhanh:
- Mai tôi giả tiền nhá! Có khách, không lẹ cẳng, thằng khác nẫng tay trên…
- Được mà! Khách quen, mai giả cũng được mà…
Tôi đang tính bắt chuyện với ông đại tá thì ông đã nhanh chân đẩy xe sang
bên kia đường rước khách. Tiếc rằng cuộc hội ngộ mười lăm năm trước
(tháng 5/1975) quá ngắn ngủi, tôi không nhớ rõ nét mặt của người khách
lạ đã tới căn lầu đúc trong hẻm TK9, phường Nguyễn cảnh Chân, Quận 2
thăm tôi, một tuần lễ sau ngày Sàigòn thất thủ.
Tôi cố ôn chuyện cũ
trong óc, gợi lại hình dáng năm xưa của ông thượng tá.
Ông thượng tá
Điện-Biên, anh hùng Quân-Đội Nhân-Dân Việt-Nam có đôi vai ngang, người
phu xe già… cũng có đôi vai ngang. Thêm vào đó, thân hình người phu xe
già cũng vạm vỡ, cao lớn, tiếng nói cũng oang oang, lơ lớ như ông thượng
tá con quan Lang xứ Cao-Bằng.
Khi chiếc xích lô lẫn trong dòng xe nườm nượp giữa thủ đô, tôi cũng đứng
dậy tiếp tục lang thang quanh bờ hồ. Suốt ngày hôm ấy, trong óc tôi cứ
lởn vởn hình ảnh người phu xe già, với câu than thở, “Bây giờ, thân tớ
ví như… một vì sao rụng”
Đêm thứ nhì, cũng là đêm cuối cùng trên đất Thăng-Long, tôi đứng bên này
đường, trong ánh điện mờ.
Bên kia đường là ga Hàng-Cỏ. Nơi này, bố tôi
đã đưa tiễn mẹ con tôi lên tàu hỏa xuôi Hải-Dương, ngày tôi tròn bốn
tuổi. Hôm ấy bố tôi bế tôi trên tay, tôi bập bẹ bài hát trẻ con đương
thời hay hát, “Ai yêu Bác hơn chúng em…”
Bố bịt mồm tôi lại:
- Con ơi! Đừng hát bài này, bài hát không hay… Con hãy hứa với Bố, con sẽ không hát bài này nữa nhá!
Mẹ tôi gạt nước mắt, bế tôi lên tàu. Đứng bên đường, cạnh chiếc xe đạp, bố
vẫy tay. Bố con tôi, từ đó, cho tới suốt đời tôi, không còn gặp nhau
nữa. Vì hai năm sau, bố tôi đã bị giết. Những người mê say “bài hát
không hay” đã giết bố tôi…
Mới đó, mà hơn bốn mươi năm qua! Đêm nay, trước ga Hàng-Cỏ, đứng bên cái
cột đèn, nơi ngày xưa bố tôi đã đứng vẫy tay, tôi gọi thầm trong nước
mắt:
- Bố ơi! Bố ơi!… Con nhớ Bố! Con thương Bố! Bố ơi!…
No comments:
Post a Comment