Tôn Nữ Hỷ Khương
Ngai vàng chót vót năm đời
trước/Tiếng ngọc bâng khuâng một kiếp này,
hai câu thơ Vũ Hoàng Chương đề tặng
đã hé lộ thân phận của Tôn Nữ Hỷ
Khương. Xét theo trực hệ, bà là thế hệ
thứ năm liên tiếp, kể từ vua Minh Mạng, mà
con cháu cùng làm thơ, cùng nổi tiếng, dẫu mức
độ có khác nhau. Một trường hợp hy hữu
trong lịch sử triều Nguyễn.
Cô út trong Thi đàn Quỳnh Dao, được mệnh
danh là “Quỳnh Dao chi bảo” nhờ giọng ngâm mà thi
sĩ họ Vũ đã ví như “tiếng ngọc”,
sẽ bước sang tuổi 73 vào tháng 7 này.
Cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi diễn ra tại
nhà riêng của bà, nơi thi hữu, bạn bè
thường nhắc đến với cái tên “Thùy
Khương trang” (ghép tên hai vợ chồng bà), nằm
khuất trong một con hẻm nhỏ, khá yên tĩnh trên
đường Lê Văn Sỹ, quận 3, TP.HCM.
Có lẽ nên gọi phòng khách của gia chủ là phòng
thơ. Bởi thơ nhiều vô kể. Thơ treo kín trên
tường, thơ in trên lịch, thơ phun lên
đĩa, thơ khắc lên đá, thơ tập
đặt trên bàn. Chưa hết. Những lúc cao hứng,
gia chủ còn cất giọng ngâm nga những bài thơ
của thân phụ là nhà thơ Ưng Bình Thúc Giạ
Thị, của thi hữu và của mình.
Trong suốt cuộc trò chuyện, nhà thơ nhắc
nhiều đến cảnh cũ người xưa, bắt
đầu từ dòng hồi ức về những ngày
cuối đời của người cha quá cố:
- Năm 1961, cha tôi bệnh nặng. Tôi vào Sài Gòn, gấp
rút in cho cha tôi một tập thơ Đời Thúc Giạ
để người kịp nhìn thấy trước lúc
nhắm mắt. Tiếc là nhà xuất bản in không
kịp, một phần vì kỹ thuật in ấn hồi
đó chưa được hiện đại như bây
giờ. Sau khi người qua đời, tôi quay lại
Sài Gòn làm việc tại dược phòng của một
người bà con là dược sư Phạm Doãn Điềm
(chị ruột bác sĩ Phạm Ngọc Thạch -
bộ trưởng y tế đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - PV),
đồng thời hoàn tất việc xuất bản
tập thơ cho cha tôi.
* Xuất thân “lá ngọc cành vàng”, không hiểu
quận chúa Tôn Nữ Hỷ Khương đã xoay xở
với công việc ở dược phòng như thế
nào?
- Công việc ở dược phòng thực ra cũng
chẳng có gì nặng nhọc. Nhiệm vụ chủ
yếu của tôi là làm thủ quỹ. Mang trong mình dòng máu
hoàng tộc nhưng từ thuở bé, tôi đã quen với
sinh hoạt đạm bạc. Cha tôi làm quan, phẩm hàm
Lễ bộ Thượng thư trí sự nhưng xem
chốn quan trường chỉ là “Hàng ghế dịch
lên năm bảy tấc/Thẻ bài thêm lớn một vài
ly”.
Cả đời sống thanh liêm nên khi cởi áo
triều phục, trả lại thẻ bài lui về vui
thú điền viên thì ông chẳng có gì thêm ngoài ngôi nhà
ở thôn Vĩ Dạ. Cùng lứa với ông, nhiều
người lúc về hưu thì có “ruộng thẳng cánh
cò bay, phố xá từng dãy”. Những năm đói, chúng
tôi cũng ăn cơm độn khoai, độn mì
như nhiều gia đình nghèo khó khác.
Sau này, cha tôi có vịnh một bài thơ để
cảm ơn ngôi nhà. Thơ rằng: “Đã mười
mấy năm trời về hưu ở với
ngươi/Nhờ ngươi chỗ thờ tự,
nhờ ngươi chỗ nghỉ ngơi/Nhờ
ngươi mới mạnh khỏe, nhờ ngươi
mới thảnh thơi/Vợ đau nằm có chỗ, con
ngồi học có nơi/Khi láng giềng qua lại, khi
bạn hữu tới lui/Khi câu thơ chải chuốt,
khi chén rượu đầy vơi/Tiếng chim reo
trước ngõ, cụm hoa nở ngoài cươi/ Yến
Tạ hưu Tần sau nỏ biết/Cảm ơn
ngươi phải vịnh đôi lời”.
* Được biết, ngôi nhà đó cũng
chính là nơi lui tới thường xuyên của các thi
sĩ trong Hương Bình Thi Xã mà phụ thân của bà là
chủ soái. Số phận của địa chỉ
văn hóa ấy bây giờ ra sao?
- Ngôi nhà đó vẫn còn, nhưng đã xuống cấp
lắm. Năm 1985, tôi về thăm nhà, đưa bát nhang
cha tôi lên chùa. Dịp đó, Mặt trận Tổ quốc
TP. Huế mời tôi nói chuyện về ông cụ. Họ
hứa sẽ có tiếng nói để bảo tồn
địa chỉ văn hóa đó. Năm 1997, Hội
Văn học Nghệ thuật và Hội Khoa học
Thừa Thiên - Huế tổ chức kỷ niệm 120
năm ngày sinh của cha tôi trên sông Hương cũng có
mời tôi về. Lãnh đạo TP. Huế hứa thêm
một lần nữa rằng sẽ đưa ngôi nhà vào
danh sách di tích văn hóa của Huế.
Sau đó, tôi còn có dịp gặp gỡ ông Nguyễn
Văn Mễ, nguyên Chủ tịch Ủy ban Nhân dân TP.
Huế tại nhà bà Điềm Phùng Thị. Ông Mễ nói
“tôi rất thương, rất kính trọng cụ Thúc
Giạ. Chị Hỷ Khương cứ yên tâm,
trước sau chúng tôi cũng lấy cái nhà để làm
nhà lưu niệm cho cụ”. Nghe vậy, tôi mừng
lắm. Tôi về bàn với vợ chồng chị tôi, anh
tôi thảo cái đơn xin hiến ngôi nhà cho nhà
nước. Nhà nước muốn sử dụng vào
mục đích gì cũng được, miễn là liên
quan đến văn hóa. Đơn đã tới nơi
từ lâu mà tôi chờ hoài không thấy hồi âm.
Đến giờ, hàng chục gia đình đã vào
dựng nhà, sống trong khu vườn của gia đình
tôi. Anh thấy không, sở dĩ bức hoành phi
(hướng về phía bàn thờ gia tiên) bị nám khói là
do người ta đun nấu trong nhà mình. Nhiều người
khuyên nên sơn lại nhưng tôi không muốn. Nó là
vật chứng cho một giai đoạn nhiều
biến động. Mà thôi, chuyện đời như áng
mây bay, càng nhắc càng buồn. Ngay cả thôn Vĩ Dạ
cũng không giữ được, huống chi ngôi nhà
của mình chỉ là một phần rất nhỏ trong
quần thể thôn Vĩ.
* Thân phụ của bà là một danh nhân văn
hóa ở Huế. Nối gót cha mình theo nghiệp thi phú
nhưng xem ra cụ Thúc Giạ là một cái bóng quá
lớn?
- Cha tôi là một cái bóng lớn đối với
nhiều người, nhiều thế hệ, chứ đâu
riêng gì mình. Được nép dưới bóng cụ là
phước báu. Khi đang học năm thứ tư
Trường Đồng Khánh, tôi bị bệnh nặng.
Bác sĩ nói tôi không đủ sức khỏe để
tiếp tục đến trường. Trong cái rủi
lại có cái may. Nhờ vậy mà tôi lại có dịp
gần gũi cha mình nhiều hơn. Những dịp thi
hữu ghé chơi, cha tôi lại kêu tôi ngâm thơ của
cha cho mọi người cùng nghe.
Với tôi, cha vừa là cha, vừa là thầy, vừa là
tri kỷ (Cha con ta là đôi tri kỷ/Chung bóng chung hình
giữa nước non - Ứng Bình Thúc Giạ Thị).
Nữ thi sĩ Mộng Tuyết nói rằng Hỷ
Khương có phước khi được cha mình xem
như tri kỷ. Cũng nhờ gần gũi ông cụ mà
tôi giữ lại được hết di cảo của
người. Tập Lộc Minh Đình Thi Thảo bằng
chữ Hán của ông cụ cũng vừa xuất bản
ở Mỹ.
* Sau hai tập Đợi Mùa Trăng
(1964), và Mộng Thanh Bình (1970), mãi đến năm
1999, tức là gần 30 năm sau, bà mới “tái xuất
giang hồ” với tập Còn gặp nhau. Đâu là
lý do khiến bà im lặng lâu đến vậy?
- Sau năm 1975, thơ tôi bị đưa vào danh sách
cấm. Cuộc chiến tranh đã đẩy dân tộc
chúng ta vào cảnh xót xa. Biết bao gia đình mà anh - em, cha
- con… đứng ở hai bên chiến tuyến. Mình nói
như vậy nhưng người ta đâu có chịu.
* Nhưng Ngai vàng chót vót năm đời
trước/Tiếng ngọc bâng khuâng một kiếp này,
thủ bút hai câu thơ trong bài Ngai vàng tiếng ngọc
của thi sĩ Vũ Hoàng Chương - một nhân
vật cũng có thơ bị cấm - đề tặng
từ năm 1964, vẫn được bà lưu giữ
đến tận bây giờ.
- Đúng vậy. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương
mất năm 1976. Đám ma ông cũng rất quạnh
quẽ. Ngoài quyến thuộc, tôi không nhớ chính xác
lắm, nhưng bằng hữu đi viếng hình như
chỉ trên dưới mươi người.
* Bà là một trong số “trên dưới
mươi người” đó?
- Có người nói Hỷ Khương nhỏ mà gan. Tôi
thì cho chuyện đó là lẽ bình thường. Không
lẽ vài bước chân đưa tiễn bằng
hữu về nơi an nghỉ cuối cùng cũng là mang
tội. Trước năm 1975, khi nhà thơ Phương
Đài, một hội viên của Trung tâm Văn bút
Việt Nam, bị chính quyền Sài Gòn bắt giam vì hoạt
động cách mạng, tôi cũng thường xuyên đi
thăm. Có điều, tôi không cắt nghĩa
được tại sao nhiều người vẫn e
dè ngay cả khi ông Chương đã là người thiên
cổ. Xã hội chi mà lạ rứa. Bây giờ, thơ
Vũ Hoàng Chương đã được phép in
lại. Giá như công lý đến sớm hơn.
* Trở lại với những tác phẩm
của bà. Nhiều người cho rằng bây giờ nhà
nhà làm thơ, người người làm thơ, ngành ngành
làm thơ... Nhận xét này có phần thậm xưng
nhưng việc bà in liên tiếp năm tập thơ trong
khoảng thời gian sáu năm (2001-2007) xem ra vẫn là
một cuộc chơi mạo hiểm?
- Tôi may mắn được Công ty Văn hóa Sáng
tạo Trí Việt (First News), Công ty Văn hóa Kỳ
Thư, Công ty Văn hóa Hương Trang in cho bốn
tập thơ liên tiếp (2004-2007). Thường tôi không
nhận tiền tác quyền mà chỉ lấy sách.
* Thực tế đã có những nơi,
những người in thơ của bà lên lịch,
hoặc khắc lên đá nhằm mục đích kinh doanh
dù chưa được sự đồng ý của bà,
thậm chí còn không đề tên tác giả. Với
những trường hợp vi phạm quyền sở
hữu trí tuệ như vậy, việc bà đòi tác
quyền là hoàn toàn chính đáng?
- Nó (chỉ phiến đá khắc hai câu thơ: Lợi
danh như bóng mây chìm nổi/Chỉ có tình thương
để lại đời ở chân tường)
được bày bán ở Hội chợ Xuân TP.HCM năm
2004. Lần đó, sau khi thắp nhang cho ni sư Trí
Hải ở chùa nhân lễ 49 ngày, trên đường
về, chúng tôi ghé vào gian hàng có bày những phiến đá
khắc những câu thơ của tôi, giá bán 200 USD mỗi
phiến.
Nhận ra tôi, chủ gian hàng cho biết đã chuẩn
bị sẵn một phiến đá, định bụng
sẽ mang tới biếu Hỷ Khương làm kỷ
niệm sau khi hội chợ bế mạc. Tôi chưa
kịp trả lời thì một người bạn
đi cùng đã nhanh nhảu: “Chúng tôi có sẵn xe,
phiền chị đem (nó) ra giùm”. Dọc đường
về, một người bạn tôi nói rằng chính vong
linh ni sư Trí Hải đã dẫn lối cho chúng tôi
đưa phiến đá về.
* Đành rằng lợi danh như bóng mây chìm
nổi. Chữ lợi vượt qua đã khó, huống
chi là chữ danh?
- Đúng là qua được vòng danh lợi không
dễ, nhưng cũng không vì danh lợi mà miễn
cưỡng, mà làm chuyện xấu xa. Năm 1993,
người anh kết nghĩa của tôi, giáo sư
tiến sĩ Trần Văn Khê, là một trong những
trí thức Việt kiều trong phái đoàn của
Tổng thống Pháp Francois Mitterrand sang thăm Việt Nam.
Kết thúc chuyến thăm, anh nhắn tôi lên để
anh chào từ biệt thì tôi đột ngột ngã
bệnh. Không ghé chào anh được, tôi làm bài thơ Còn
gặp nhau, nhờ người chuyển đến
anh, xem như thay lời đưa tiễn.
* Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, một
bằng hữu của bà, đã nhận xét rằng thơ
Hỷ Khương đã đi vào dân gian?
- Chính xác là trong đêm giao lưu thơ nhạc của
tôi tổ chức tại Nhạc viện TP.HCM năm 2007,
bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc có hỏi rằng
“thơ Hỷ Khương đã đi vào dân gian, Hỷ
Khương có vui không?”. “Đương nhiên là vui”, tôi
trả lời, “nhưng niềm vui này là do Trời
Phật ban cho, chứ chẳng phải mình tài, mình
giỏi”. Đấy là những lời tự đáy lòng
mình, chứ không phải mình màu mè, vờ khiêm tốn. Tài
năng cỡ cụ Nguyễn Du mà vẫn khiêm cung,
rằng có tài mà cậy chi tài, huống chi là đám hậu
sinh như mình.
Khi hoàn tất tập sách về tôi (Hành trình thơ
của một Công Tằng Tôn Nữ - PV), tác giả
Ninh Giang Thu Cúc có đề nghị mình tìm nhà tài trợ
để có kinh phí in sách. Việc này vượt quá
khả năng của mình. Đùng một cái, người
bạn bên Nhà xuất bản Văn hóa Sài Gòn điện
thoại cho tôi, cho biết ông giám đốc Công ty Văn
hóa Hương Trang sau khi nghe nhắc đến tập
sách đã nhận lời in liền, dù chưa biết
nội dung cuốn sách ra sao.
Sắp tới, Công ty Văn hóa Hương Trang còn in giúp
tôi cuốn Ngát hương kỷ niệm, tập
hợp những bài thơ mà thi hữu, độc
giả… tặng cho Hỷ Khương suốt mấy
chục năm qua. Nhờ Trời Phật độ nên
mình mới được như thế.
* Liệu rằng còn điều gì bà mong
ước mà Trời Phật chưa cho?
- Trời Phật cho đến đâu mình biết
tới đó. Biết đủ dầu không chi cũng
đủ/Nên lui đã có dịp thời lui (Thơ
Ưng Bình Thúc Giạ Thị - PV).
* Nhìn lại những tác phẩm đã xuất
bản, đâu là “đứa con tinh thần” bà đắc
ý nhất?
- Có lẽ là Còn gặp nhau. Bài này cũng
được nhiều người thích và thuộc.
* Hẳn rằng bà có được nghe
những phản hồi?
- Có những độc giả nói với tôi rằng
thơ Hỷ Khương nhẹ nhàng, vui tươi, làm
họ cảm thấy yêu đời. Nhưng cũng có
những người nói rằng nếu không sống, không
trải nghiệm, không vấp váp thì không viết
được như vậy. Gặp nhau phải vui là
bởi đời đã đủ thứ chuyện
rồi, tại sao còn chuốc thêm sầu khổ vào lòng.
Tất nhiên, cái sự gặp nhau ấy phải bắt nguồn
từ tình cảm chân tình, chứ không phải sự
hời hợt.
* Nghe nói bài này đã được ông Võ Tá Hân,
một nhạc sĩ đồng hương với bà,
phổ nhạc và đưa lên mạng Internet?
- Thực ra bài này đã được một số
người phổ trước ông Võ Tá Hân. Nhưng ông Hân
là người giữ nguyên toàn bộ phần lời nên
được nhiều người ưa thích. Cũng
nhờ các nhạc sĩ mà thơ của mình đến
được với nhiều người hơn.
* Bà có đọc các tác phẩm của
những nhà thơ thế hệ sau mình?
- Có chứ. Tôi đọc Trương Nam Hương,
Tôn Nữ Thu Thủy, Hồ Đắc Thiếu Anh…
Cũng là chỗ quen biết cả. Còn những nhà thơ
sau thế hệ này thì thú thực, tôi không hiểu họ
lắm.
* Bà quan niệm thế nào về thơ?
- Cũng như các loại hình nghệ thuật khác,
mục đích của thơ là làm đẹp cho cuộc
đời. Từ góc độ kỹ thuật, tôi
chuộng sự đơn giản. Càng mộc mạc bao
nhiêu càng dễ đi vào lòng người bấy nhiêu.
Cần nói thêm rằng đây là quan điểm cá nhân
của tôi, chứ không hề có ý phê bình ai. Xưa giờ,
tôi chưa dám phê bình ai.
* Đó là bản tính hay bởi e ngại làm
mất lòng người khác?
- Có một chuyện thế này. Ngày còn ở Huế,
gần nhà tôi có một phụ nữ bỏ chồng
đi lấy người khác. Đã có với nhau năm
mặt con, bên chồng lại là gia đình quyền quý…
nên việc cô kiên quyết ly hôn được xem là
chuyện tày đình, trở thành tâm điểm của
những lời bàn ra tán vô. Gia đình hắt hủi, người
đời chê trách. Tôi nghĩ rằng đó là số
mạng cô ấy phải gánh chịu. Có lẽ kiếp
trước cô ấy tạo nghiệp, nên kiếp này phải
chịu. Còn chuyện ngại làm người khác mất
lòng, tôi nghĩ mình không phải là trường hợp cá biệt.
* Bà tin vào tiền kiếp?
- Có niềm tin vào tiền kiếp sẽ khiến
người ta sống tử tế hơn, sẽ bớt
ghét ghen, sân hận, tranh giành, hơn thua (Hãy cho nhau -
PV). Cuộc đời mong manh lắm. Chuyện
đời như nước chảy hoa trôi nên còn gặp
nhau thì hãy cứ vui.
* Đến giờ, liệu còn điều gì
khiến bà day dứt?
- Về phần mình thì kể như xong, chẳng còn gì
phải tiếc nuối. Tuy nhiên, điều khiến tôi
buồn là tập Ưng Bình Thúc Giạ Thị toàn
tập (Nhà xuất bản Văn học ấn hành
năm 2008 - PV) của ông cụ không được
trọn vẹn, thiếu một bài trong di cảo chưa
từng công bố. Nếu có điều kiện, tôi
sẽ in lại tập thơ này.
* Xin cảm ơn về cuộc trò chuyện
này và chúc bà sớm hoàn thành tâm nguyện.
Theo THƯỢNG TÙNG
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần
Thơ Tôn Nữ Hỷ Khương
Họa sĩ Vũ Hối trình bày
Còn gặp nhau...
Còn gặp nhau thì hãy cứ vui
Chuyện đời như nước chảy hoa trôi,
Lợi danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ có tình thương để lại đời.
Lợi danh như bóng mây chìm nổi
Chỉ có tình thương để lại đời.
Còn gặp nhau thì hãy cứ thương
Tình người muôn thuở vẫn còn vương,
Chắt chiu một chút tình thương ấy
Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường.
Tình người muôn thuở vẫn còn vương,
Chắt chiu một chút tình thương ấy
Gửi khắp muôn phương vạn nẻo đường.
Còn gặp nhau thì hãy cứ chơi
Bao nhiêu thú vị ở trên đời,
Vui chơi trong ý tình cao nhã
Cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời
Bao nhiêu thú vị ở trên đời,
Vui chơi trong ý tình cao nhã
Cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời
Còn gặp nhau thì hãy cứ cười
Cho tình thêm thắm, ý thêm tươi
Cho hương thêm ngát, đời thêm vị
Cho đẹp lòng tất cả mọi người.
Cho tình thêm thắm, ý thêm tươi
Cho hương thêm ngát, đời thêm vị
Cho đẹp lòng tất cả mọi người.
Còn gặp nhau thì hãy cứ chào
Giữa miền đất rộng với trời cao,
Vui câu nhân nghĩa, tròn sau trước
Lấy chữ chân tình gửi tặng nhau.
Giữa miền đất rộng với trời cao,
Vui câu nhân nghĩa, tròn sau trước
Lấy chữ chân tình gửi tặng nhau.
Còn gặp nhau thì hãy cứ say
Say tình, say nghĩa bấy lâu nay
Say thơ, say nhạc, say bè bạn
Quên cả không gian lẫn tháng ngày.
Say tình, say nghĩa bấy lâu nay
Say thơ, say nhạc, say bè bạn
Quên cả không gian lẫn tháng ngày.
Còn gặp nhau thì hãy cứ đi
Đi tìm chân lý - lẽ huyền vi
An nhiên tự tại - lòng thanh thản
Đời sống tâm linh thật diệu kỳ.
Đi tìm chân lý - lẽ huyền vi
An nhiên tự tại - lòng thanh thản
Đời sống tâm linh thật diệu kỳ.
Chữ Tâm
Sống trên đời gắng giữ trọn chữ Tâm
Và nhất niệm báo ân - đừng báo oán.
Và nhất niệm báo ân - đừng báo oán.
No comments:
Post a Comment